Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH GIAI TẦNG NHƯ một yếu tố của BIẾN đổi xã hội và tác ĐỘNG của nó đến xã hội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.14 KB, 23 trang )

2

MỞ ĐẦU
Trong thế giới hiện đại, chúng ta đều biết rằng xã hội không bao giờ tĩnh tại, rằng
những biến đổi chinh trị, xã hội và văn hoá diễn ra thường xuyên. Một số biến đổi xã hội
mạnh mẽ nhất trong thế giới hiện đại lại diễn ra bởi sự xuất hiện của ô tô, của thuốc
kháng sinh, của vô tuyến truyền hình, của máy vi tính và gần đây nhất là của mạng
internet, với các yếu tố cấu thành những xã hội thông tin đang đến gần. Những biến đổi
xã hội cũng có thể diễn ra dưới tác động của các nhân tố môi trường và những chuyển
đổi quốc tế về lợi thế chính trị và kinh tế.
Các nhà xã hội học đã tiến hành nghiên cứu vấn đề biến đổi xã hội một cách rộng
khắp thông qua việc phân tích kỹ lưỡng các quá trình biến đổi đặc biệt. Các lý thuyết về
biến đổi xã hội hiện nay bao trùm một phổ rất rộng lớn các loại biến đổi từ ngắn hạn đến
dài hạn, từ quy mô lớn đến quy mô nhỏ, từ cấp độ toàn cầu đến cấp độ gia đình. Các nhà
xã hội học cũng quan tâm đến những biến đổi có tác động đến các chuẩn mực, các giá trị,
hành vi, ý nghĩa văn hoá và các quan hệ xã hội.
Ở nước ta, sau hơn 25 năm thực hiện đổi mới dưới sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng, cùng với những thành tựu to lớn về kinh tế – xã hội, xã hội Việt Nam cũng đã
diễn ra một quá trình biến đổi toàn diện vô cùng lớn lao cả ở tầm vĩ mô và vi mô, cả
về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… Tuy nhiên, cùng với những thành tựu to lớn
của công cuộc đổi mới, những biến đổi mạnh mẽ của xã hội thời gian qua cũng đang
đặt ra nhiều vấn đề, thách thức gay gắt. Đó là, sự mất cân đối về cơ cấu của nền kinh
tế, cơ cấu giai cấp, cơ cấu dân cư, cơ cấu ngành nghề…; sự phân hoá giữa thành thị và
nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa giàu và nghèo trong phát triển; sự bất
bình đẳng giữa các tầng lớp, các giới, các nhóm xã hội…; đặc biệt, sự phân hoá giàu
nghèo, sự phân tầng xã hội ngày càng trở nên gay gắt. Bên cạnh đó các giai tầng xã
hội mới như là một yếu tố của biến đổi xã hội.
Với ý nghĩa đó tôi chọn chủ đề tiểu luận : “ giai tầng như một yếu tố của biến
đổi xã hội và sự tác động của nó đến xã hội”.



3

NỘI DUNG
I. Biến đổi xã hội theo hướng hiện đại hoá và vai trò của các giai tầng mới
1. Những đặc điểm chung
Biến đổi xã hội theo hướng hiện đại hóa diễn ra khi một xã hội truyền thống
trải qua công nghiệp hóa. Người nông dân vượt ra ngoài phạm vi sản xuất tự cung tự
cấp để sản xuất ra những mặt hàng phục vụ trao đổi trên thị trường. Những công cụ
thô sơ và nghề thủ công truyền thống được thay thế bởi kỹ thuật công nghiệp hóa và
tri thức khoa học. Lao động chân tay cũng dần được thay thế bằng máy móc. Việc làm
ngày càng chuyên môn hóa, và nó cũng thường đòi hỏi sự đào tạo chuyên biệt. Thiết
chế giáo dục tách ra khỏi đời sống gia đình. Quá trình đô thị hóa diễn ra ở khắp nơi,
khiến thu hút các tầng lớp dân cư di cư vào thành phố, v.v… Tất cả những đặc điểm
gắn với biến đổi xã hội theo hướng hiện đại hóa ở trên là những đặc trưng quan trọng
của các xã hội hiện đại.
Peter Berger (1977) lưu ý bốn đặc điểm của hiện đại hoá:
Thứ nhất, đó là sự suy giảm của các cộng đồng truyền thống nhỏ. Berger cho
rằng đặc điểm của tính hiện đại là “sự suy yếu dần, nếu không nói là diệt vong, của
các cộng đồng cụ thể, cố kết tương đối trong đó con người tìm thấy sự đoàn kết và ý
nghĩa trong hầu hết chiều dài lịch sử” (1977:72). Hay như Parsons (1966) nhận xét,
phần lớn đời sống hiện đại được tiến hành trong các thể chế xã hội khác hẳn với gia
đình - bao gồm tôn giáo, hệ thống chính trị, kinh tế và hệ thống giáo dục.
Thứ hai, đó là sự mở rộng quyền lựa chọn của cá nhân. Trong xã hội tiền
công nghiệp truyền thống, con người thường xem đời sống được định hình bằng các
tác động ngoài sự kiểm soát của con người - thần thánh, ma quỷ hay chỉ đơn thuần là
số mệnh. Khi sức mạnh truyền thống giảm sút, con người trong xã hội hiện đại xem
đời sống của mình như một loạt các tuỳ chọn hay chọn lựa cá nhân, mà Berger mô tả
là quá trình cá nhân hoá.



4

Thứ ba là sự đa dạng hoá các khuôn mẫu niềm tin. Trong xã hội tiền công
nghiệp, niềm tin tôn giáo và các yếu tố truyền thống khác có khuynh hướng củng cố
sự tuân thủ của cá nhân. Nhưng hiện đại hoá đã thúc đẩy thế giới quan duy lý, khiến
cho các giá trị và tiêu chuẩn văn hoá không còn là bất biến. Hơn nữa, sự phát triển của
đô thị, của các tổ chức xã hôi phi chính thức, và sự hoà nhập các dòng di cư, v.v… tất
cả đều nuôi dưỡng trong xã hội hiện đại một sự đa dạng về niềm tin và hành vi vượt
quá những thực tiễn thông thường của xã hội truyền thống.
Thứ tư là sự định hướng tương lai. Trong các xã hội tiền công nghiệp, con
người hướng về quá khứ để tìm sự chỉ dẫn. Còn trong xã hội hiện đại, con người có
khuynh hướng nhìn về tương lai với hi vọng những đổi mới và khám phá mới sẽ làm
đời sống tốt hơn. Tính hiệu quả khuyến khích sự chấp nhận các khuôn mẫu xã hội
mới trong chừng mực sự đổi mới cho phép người ta dễ dàng đạt mục tiêu hơn. Vì thế
mà xã hội hiện đại sẵn sàng tán thành những biến đổi xã hội mà các xã hội tiền công
nghiệp truyền thống thường phản kháng.
Có thể thấy “tính mở” là một đặc trưng nổi bật của xã hội hiện đại, nó cho phép
các cá nhân có nhiều lựa chọn hơn. Địa vị cá nhân thường dựa trên phần thưởng và nỗ
lực cá nhân, chứ không phải dựa trên dòng dõi, gia đình. Trong xã hội đó, ưu thế về
nghề nghiệp được coi là một chỉ báo quan trọng của di động xã hội, là cơ sở để xác
định vị thế xã hội của một cá nhân. Một lý do quan trọng của di động nghề nghiệp là
công nghiệp hoá có khuynh hướng khuyến khích dòng nhập cư từ nông thôn vào
thành phố, tạo nên sự biến đổi trong cấu trúc nghề nghiệp, từ đó dẫn đến những biến
đổi trong cấu trúc phân tầng xã hội. Tiếp nữa, hệ thống chính trị thường gặp trong các
xã hội hiện đại hoá đều mở rộng quyền chính trị đến nhiều người hơn, khiến họ tham
gia tích cực hơn vào đời sống xã hội.


5


2. Sự xuất hiện các giai tầng như là biểu hiện của biến đổi xã hội
Phân công lao động ngày càng tăng là quy luật của tất cả các thực thể phức
hợp: các xã hội ngày càng gia tăng về số lượng và dày đặc các mối quan hệ giữa các
thành viên, điều này càng khiến sự tranh giành các nguồn lực khan hiếm trở nên trầm
trọng. Để giảm sự căng thẳng này người ta cần có sự chuyên môn hóa, và do đó dẫn
đến những mô hình xã hội ngày càng phân hóa xét trên bình diện phân công lao động.
Như vậy, những biến đổi cấu trúc diễn ra như là sự tái tổ chức lại nguồn lực, mà từ đó
nó kéo theo sự tái tổ chức vai trò. Và sự xuất hiện của các giai tầng bắt nguồn từ sự
phân hóa, hay phân tầng trong xã hội.
Các nhà lý thuyết chức năng coi phân tầng và bất bình đẳng như là những nét
thường trực tất yếu và không tránh khỏi của các xã hội loài người. Những nhà chức
năng luận nhấn mạnh rằng phân tầng có chức năng tích cực và đó là một nét nổi bật
của các xã hội loài người trong quá khứ và nó sẽ tiếp diễn như thế trong các xã hội
hiện đại. Họ quan tâm chủ yếu đến chức năng của phân tầng xã hội, đóng góp của nó
vào việc duy trì xã hội. Họ cho rằng bất bình đẳng thấm sâu vào các các vai trò của
bất kỳ xã hội nào vì một số vai trò quan trọng hơn và khó thực hiện hơn, và rằng để
đảm bảo những người đủ tiêu chuẩn sẽ giữ những vị trí quan trọng nhất, thì cần dành
cho vị trí ấy nhiều quyền lợi và ưu thế hơn các vị trí khác.
Cách tiếp cận tiến hóa cho rằng vì trong các xã hội loài người, văn hóa là
quá trình tích lũy dần dần, nên không ai có thể nắm vững toàn bộ nền văn hóa của
một nhóm, hay một xã hội. Từ đó dẫn đến sự chuyên môn hóa văn hóa, hay là sự
phân công lao động. Vì một số ngành chuyên môn sẽ được đánh giá cao hơn các
ngành khác nên nảy sinh bất bình đẳng, hay là sự phân tầng.
Khác với tiếp cận chức năng, tiếp cận xung đột coi phân tầng là một cấu trúc gây
chia rẽ hơn là liên kết. Họ cho rằng phân tầng là một cơ chế để một số người bóc lột
những người khác, chứ không phải là phương tiện thúc đẩy những mục tiêu tập thể. Họ


6


cho rằng, trong một xã hội, các cá nhân và nhóm luôn tìm cách lợi dụng vị trí của mình
nhằm trục lợi, do đó trong xã hội, sự phân tầng diễn ra gay gắt hơn rất nhiều so với
cách quan niệm của các nhà chức năng luận. Nói cách khác, hệ thống phân tầng của bất
kỳ xã hội nào đều là kết quả của xung đột và nhượng bộ giữa các nhóm cạnh tranh.
Theo Marx, sự phát triển của phân công lao động và sở hữu sẽ hình thành các
giai cấp khác nhau bên trong một xã hội: sự bất bình đẳng của các giai cấp này dựa
trên vị thế khác nhau của chúng trong quá trình sản xuất của xã hội, nhưng trước hết
là trên sự chiếm hữu hay không chiếm hữu các tư liệu sản xuất như nguyên liệu, máy
móc hay đất đai. Những đối kháng về mặt quyền lợi này sẽ thể hiện thành các cuộc
đấu tranh giai cấp. Khi bộ phận phụ thuộc càng nhận thức được những lợi ích tập thể
của họ và nghi ngờ tính hợp pháp trong việc phân phối nguồn lực thì họ càng dễ tham
gia vào những xung đột công khai chống lại bộ phận thống trị.
Tuy nhiên, lịch sử của chủ nghĩa tư bản hiện đại cho thấy cấu trúc tầng lớp
không phát triển trong một hình thức trật tự và chính xác như vậy. Giai cấp tư sản
kiểm soát mọi khía cạnh trong hệ thống sản xuất, còn giai cấp công nhân thì không
kiểm soát khía cạnh nào. Tuy nhiên, giữa hai giai cấp này, có những nhóm mà vị trí
của họ không rõ ràng - là những người quản lý và công nhân cổ trắng. Wright cho
rằng những người này ở vị trí giai cấp mang tính mâu thuẫn vì họ có khả năng ảnh
hưởng đến một số khía cạnh của sản xuất, nhưng không có quyền kiểm soát các khía
cạnh khác. Có những chứng cứ chắc chắn cho thấy rằng, rõ ràng quy mô của tầng lớp
trung lưu cũ - chủ cửa hiệu và thợ thủ công, đã giảm (Gagliani 1981; cf. Stein-metz
and Wright 1989), và một tầng lớp "trung lưu mới" những nhà quản lý, chuyên gia và
những người lao động trí óc đã phát triển để chiếm giữ những không gian còn bỏ
trống. Và đây cũng chính là tâm điểm lý luận của trường phái Tân Marxist trong quá
trình tìm kiếm sự khắc phục hạn chế lý thuyết xung đột của Marx. Trường phái này
bổ sung cho luận điểm của Marx khi nói về các quan hệ xã hội ở nơi làm việc, họ cho


7


rằng có nhiều nguồn lực trong xã hội có tác động “nhào nặn” quan hệ xã hội ở nơi
làm việc như “vốn về tổ chức”, “vốn về kỹ năng”.
Theo Marx, kinh tế tư bản dựa trên tích luỹ tư bản, và sở dĩ có tích luỹ tư bản là
nhờ tạo nên giá trị thặng dư và lợi nhuận trong quá trình sản xuất của nền kinh tế công
nghiệp dựa vào tư bản. Và người đứng ra góp vốn và tổ chức guồng máy sản xuất
chính là doanh nhân. Doanh nhân, theo Marx, là người đóng vai trò chủ chốt trong
việc phát triển của nền kinh tế tư bản, cũng như nhà tư bản là người tạo ra nền kinh tế
tư bản. Động lực thúc đẩy một người trở thành doanh nhân chính là lợi nhuận.
Khác với Marx, Dahrendorf tin tưởng rằng xung đột và bất đồng hiện diện
trong mỗi bộ phận của xã hội, giữa các nhóm ở mọi cấp độ xã hội khác nhau. Trong
khi Marx tập trung vào xung đột giữa các giai cấp phân định về mặt kinh tế, thì
Dahrendorf và những nhà lý luận xung đột khác mở rộng phạm vi mà họ nhìn thấy có
xung đột. Dân tộc và các nhóm dân tộc, đảng chính trị và nhóm tôn giáo cũng có xung
đột. Đó là những xung đột không mang tính giai cấp xã hội. Từ đó Dahrendorf cho
rằng xã hội biến đổi chính là sự biến đổi quan hệ quyền lực giữa các nhóm lợi ích.
Biến đổi xã hội được coi là sự phân bố lại quyền lực.
Max Weber cũng tin rằng quan điểm thuần túy kinh tế của Marx về phân tầng
không thể nắm bắt được những đặc điểm quan trọng nhất của các hệ thống phân tầng
công nghiệp hiện đại. Thực tế nước Đức cho thấy phân tầng xã hội có những chiều
cạnh khác. Từ đó Weber đưa ra một quan niệm ba chiều về phân tầng, là vị thế, đảng
phái và giai cấp. Vị thế trong lý thuyết của Weber là nói tới những khác biệt giữa các
nhóm xã hội về uy tín, nó biểu hiện qua phong cách sống của mỗi người. Tất cả
những biểu trưng của vị thế đều góp phần tạo nên vị thế xã hội của cá nhân trong mắt
người khác. Còn đảng phái là những nhóm người đặc biệt quan tâm đến việc gây ảnh
hưởng tới các chính sách và việc ra quyết định vì lợi ích của các thành viên của nó.
Trong một xã hội hiện đại, việc lập đảng phái là một khía cạnh quan trọng của quyền


8


lực, nó có thể ảnh hưởng tới sự phân tầng. Sự phân chia giai cấp, theo Weber, không
chỉ bắt nguồn từ sự kiểm soát hay không kiểm soát các tư liệu sản xuất, mà còn từ
những khác biệt kinh tế không liên quan trực tiếp đến tài sản. Những nguồn lực đó
bao gồm kỹ năng, bằng cấp, và chúng tác động mạnh đến loại công việc mà người ta
có thể kiếm được dựa trên những khác biệt kinh tế đó.
Chính những ý tưởng mà Marx và Weber phát triển trở thành cơ sở cho hầu hết
những phân tích xã hội học về giai cấp và phân tầng xã hội. Những hệ quả của phân
tầng xã hội dẫn đến việc hình thành những giai cấp/tầng lớp mới, trong đó người ta
ghi nhận sự phát triển mạnh của tầng lớp trung lưu.
Các nhà kinh tế học đã tổng hợp lại 6 đặc trưng của tầng lớp trung lưu: (1) Nền
tảng giáo dục của họ thường rất tốt (2) Họ có cơ sở kinh tế cơ bản và tri thức lập
nghiệp (3) Họ tương đối giàu có, chấp nhận phát triển kinh tế, có khả năng lôi kéo,
thường thì có thể đem đến cơ hội việc làm cho tầng lớp nghèo (5) Họ rất dễ trở thành
một lớp chuyên gia và tầng lớp có trình độ chuyên nghiệp (6) Họ có một phần tài sản
cố định. Những người ưu tú có trí tuệ, thu nhập cao, biết nhìn về tương lai, làm ra của
cải, phần lớn làm trong các ngành thương nghiệp, tiền tệ, chứng khoán, công nghệ
thông tin và nghệ thuật, v.v... trong số đó có các học giả, chuyên gia, luật sư, bác sỹ,
giám đốc doanh nghiệp, v.v...
3. Sự xuất hiện giai cấp trung lưu mới ở một số quốc gia trong quá trình
hiện đại hoá
Ở các nước tư bản phát triển, thông thường người ta phân biệt hai loại giai cấp
trung lưu: giai cấp trung lưu cũ và giai cấp trung lưu mới. Giai cấp trung lưu cũ chủ
yếu chỉ những nhà thầu khoán và chủ nông trại, còn giai cấp trung lưu mới là những
ông chủ và các chuyên gia, chẳng hạn như nhóm quản lý và chuyên gia.
Đối với nhiều thế hệ, hệ thống giai cấp Mỹ được ủng hộ bằng niềm tin cho
rằng giai cấp trung lưu đang tăng dần. Sự tăng trưởng nhanh chóng của các nghề


9


lao động trí óc sau Thế chiến II- lôi kéo hàng triệu người Mỹ ra khỏi các công việc
lao động chân tay và trồng trọt - củng cố nhận thức cho rằng nước Mỹ ngày càng
trở thành một xã hội của giai cấp trung lưu nhiều hơn (Kerckhoff, Camphell, &
Winfield – Laird, 1985). Cuộc cách mạng bàn giấy tượng trưng cho tính dễ thay
đổi trong cấu trúc xã hội khiến nhiều người Mỹ xem vị trí xã hội của mình cao hơn
vị trí xã hội do bố mẹ, ông bà mình nắm giữ. Kết quả chung là thay vì xem xã hội
bị chia rẽ sâu sắc giữa người giàu và người nghèo, nhiều người Mỹ xem xã hội của
mình phần lớn là giai cấp trung lưu (Edwards, 1979; Gagliani, 1981;
Wright&Martin, 1987).
Đánh giá quá trình công nghiệp hoá ở Liên Xô, Markku Kininen cho rằng nó
hàm chứa một mức tăng đột biến về “lao động trí óc” và “địa vị giai cấp trung
lưu”. Thao tác hoá của Markku Kininen về cấu trúc giai cấp được hình thành trên
những tiền đề về: nhóm nòng cốt của giai cấp trung lưu mới, bao gồm tất cả những
nhóm người có quyền tự quản về chuyên môn, khoa học- kỹ thuật, quản lý và hành
chính-quan liêu, bất kể vị trí quản lý của người đó là gì. Thêm vào đó, còn có cả
những người ở vị trí lãnh đạo các văn phòng. Ngược lại, những người làm công
việc chăm sóc, công nhân lành nghề và những người quản lý các doanh nghiệp nhỏ
cũng như những người thực thi các công việc văn phòng mang tính tự quản tạo
thành một vị trí giai cấp đối lập nằm giữa nhóm nòng cốt của giai cấp trung lưu và
giai cấp công nhân. (Kininen, 1987: 195)
Tại Hàn Quốc, một công trình nghiên cứu gần đây đã phân tích và chỉ ra một
nhóm xã hội mới, đóng vai trò như là một nhân tố xã hội chủ chốt quan trọng tạo
nên sức sống của xã hội dân sự Hàn Quốc hiện nay (Han Sang Jin, 2003). Đó là bộ
phận năng động nhất trong tầng lớp trung lưu mới của xã hội Hàn Quốc, những
người được sinh ra từ những năm 1960 trở lại đây, tức là đang ở độ tuổi 40 (so với
nhóm còn lại của tầng lớp trung lưu, thường ở độ tuổi 50 hoặc 60). Nhóm xã hội


10


trẻ hơn này được tác giả Han Sang Jin gọi là nhóm “middling grassroots” với hàm
ý họ đang trong quá trình phát triển và rất gắn bó với “nhân dân”, khác với thế hệ
già hơn của tầng lớp trung lưu Hàn Quốc. Phân tích sâu hơn về nhóm xã hội này,
tác giả chỉ ra những đặc trưng khá lý thú về họ như sau. Thứ nhất, họ lớn lên và
trưởng thành trong môi trường chính trị những năm 1980, họ duy trì và chia sẻ một
bản sắc tập thể như là một lực lượng xã hội định hướng cải cách. Thứ hai, họ hiểu
bản than họ như là một bộ phận của “nhân dân” hoặc của “cơ sở” hơn là một bộ
phận của giới có quyền lực và ảnh hưởng. Thứ ba, họ có xu hướng nhịn nhận lịch
sử và xã hội với sự chú ý đặc biệt đến các quyền và phúc lợi của con người nói
chung hơn là chỉ nhằm vào lợi ích của một nhóm nhỏ của giới thượng lưu quyền
lực. Thứ tư, bằng nhãn quan xã hội rộng lớn của mình, họ có thể hiểu rõ hơn tình
trạng của các nhóm xã hội thiểu số như phụ nữ, lao động nước ngoài, người tàn tật,
người nghèo, tù nhân, người đồng tính, những người ly khai từ miền bắc và những
người xã hội chủ nghĩa. Họ cố gắng thu hút chứ không loại trừ những nhóm thiểu
số này. Thứ năm, họ có thể duy trì tinh thần chủ quyền quốc gia của họ, khác với
sự chấp nhận một thái độ phục tùng vào nhà nước quyền lực. Thứ sáu, họ ủng hộ
và tôn trọng những người lãnh đạo thà giữ vững nguyên tắc hơn là thỏa hiệp với
những nhượng bộ phi lý và không thể chấp nhận được. Thứ bảy, họ ưa chuộng
những cải cách cấu trúc tương ứng với những tiêu chuẩn toàn cầu hơn là theo đuổi
chủ nghĩa địa phương và thiên kiến dân tộc. Nói tóm lại, nhóm “middling
grassroots” này là những người tích cực nhất trong việc dẫn dắt và hỗ trợ các
phong trào dân chủ và cải cách xã hội ở Hàn Quốc.
Tại Trung Quốc, tác giả Lục Học Nghệ (2002) cho rằng xã hội Trung Quốc
đương đại có 10 giai tầng xã hội được phân tầng theo ba tiêu chí cơ bản là: nguồn
lực tổ chức (chính trị), nguồn lực kinh tế và nguồn lực văn hoá. Sự phân hoá thành
người giàu-người nghèo, tầng lớp có lợi thế-tầng lớp yếu thế, đều căn cứ ở việc họ
không có, hoặc có một, hai hay cả ba nguồn lực này với các mức độ khác nhau.


11


Nghiên cứu của tác giả này là một gợi ý rất quan trọng để các nhà nghiên cứu tiếp
tục thực hiện các phân tích của mình trên các lĩnh vực phân tầng xã hội và biến đổi
cơ cấu xã hội ở các nước đang phát triển.
Một công trình nghiên cứu khác về Trung Quốc gần đây (Peter Norlan, 2005)
đã cho thấy: từ giữa những năm 1990, sự phân tầng xã hội và mức độ bất bình đẳng
xã hội ở đô thị đã tăng lên đáng kể. Thu nhập của 10% số người nghèo nhất năm 1992
đã tăng lên 5,4 lần năm 2001. Người ta cũng bàn luận nhiều về sự gia tăng của “tầng
lớp trung lưu” mà ước tính đã chiếm tới gần 10% dân số đô thị. Vai trò của tầng lớp
này là rất đáng kể trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa xã hội Trung Quốc.
Cũng cần lưu ý tới những nguồn lực mà giai cấp trung lưu chiếm giữ và những
hình thức tổ chức “các quan hệ trong sản xuất”. Điều này dẫn đến một phát hiện rằng
“lao động trí óc” không phải là một khái niệm đơn giản, mà nó bao hàm nhiều loại
hình khác nhau trong đó có cả các dạng quyền lực, chiến lược và các quá trình lịch sử.
Một vai trò có tính quyết định trong phân tích các nguồn lực của giai cấp trung lưu
mới chính là tính chuyên nghiệp hoá. Thực ra điều đó hoàn toàn gắn với “tính tự trị
nghề nghiệp” vốn đặc trưng cho tất cả các loại hình lao động trí óc khác.
Sự phát triển hay mở rộng của giai cấp trung lưu, trong một số trường hợp, do nhận
diện giai cấp trở nên suy yếu hơn so với các xã hội truyền thống. Việc gắn mình vào một
giai cấp xã hội nào đó không được trợ giúp bởi mạng lưới truyền thống từ gia đình hay
dòng dõi. Nói một cách khác, ý thức giai cấp không được rõ ràng như trước đây.
Cho dù xã hội có trở nên hiện đại với tính mở tăng lên, cấu trúc tầng lớp có
thay đổi, phân tầng xã hội vẫn tồn tại dưới hình thức nào đó và nó là kết quả của quá
trình phân tách. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy hệ quả của những biến đổi trong cấu
trúc xã hội hiện đại có tính tích cực. Đó chính là vai trò của giai cấp trung lưu trong
việc thúc đẩy phát triển và tiến bộ xã hội.


12


Trong nền kinh tế thị trường, giai cấp trung lưu là lực lượng đóng thuế chủ yếu.
Điều kiện sống của về kinh tế của giai cấp này quy định hoạt động đầu tư của quốc
gia, tình trạng ngân sách nhà nước và việc thực hiện các chương trình xã hội, và quan
trọng hơn cả là nó quy định những tiến trình kinh tế xã hội nói chung.
Nhưng giai cấp trung lưu không chỉ được nhìn nhận như một lực lượng tạo sự
bình ổn. Nó còn là một người tiên phong về đạo đức và là một lực lượng then chốt
cho sự phát triển của một xã hội dân sự. Giai cấp này định hình các chuẩn mực đạo
đức của xã hội (theo nghĩa là hệ tư tưởng của nó) bởi giai cấp này chiếm ưu thế trong
hệ thống tư pháp, trong các tổ chức tôn giáo cũng như trong tổ chức chính trị. Nó còn
đảm nhận những chức năng đặc thù như: đảm bảo năng suất lao động cao, sáng tạo và
sắp xếp tri thức và thông tin; định hình cơ cấu tiêu dùng. Và cuối cùng nhưng không
kém phần quan trọng là giai cấp trung lưu với tư cách là một chỉnh thể được xem là
lực lượng khuếch trương tự do chính trị, dân chủ.
4. Sự xuất hiện của tầng lớp doanh nhân và vai trò của họ trong các xã hội
chuyển đổi.
Kh¸i niÖm doanh nh©n
Khái niệm về tầng lớp doanh nhân/giới nghiệp chủ đã được nhà kinh tế Joseph
Schumpeter phát triển. Đó là những người có khả năng lĩnh hội những phát minh kỹ
thuật và những phương pháp quản lý mới, cũng như ứng dụng chúng vào xí nghiệp
hoặc công việc kinh doanh của mình. Họ là những người có khả năng dự kiến được lợi
ích tiềm tàng do những đổi mới đem lại, đề xướng được nội dung đổi mới và sẵn sàng
thực hiện những việc mạo hiểm, mà sự nỗ lực có thể thất bại và dẫn tới thua thiệt. Họ
không nhất thiết phải là người quản lý của các công ty, tiến hành đổi mới hoặc là người
cung cấp vốn đầu tư (cho công ty đó). Họ là người cải cách, quản lý doanh nghiệp của
mình; hoặc là người bỏ vốn ra, có thể thuê người quản lý hoặc vay vốn từ ngân hàng.
Schumpeter cũng đặt câu hỏi về sự cần thiết của tầng lớp doanh nhân trong các nền


13


kinh tế công nghiệp phát triển cao độ, bởi trong các nền kinh tế đó, việc đổi mới có
khuynh hướng trở thành thông lệ. Mà đổi mới hiện nay không chỉ là đặc quyền của các
nước có nền kinh tế công nghiệp phát triển, đổi mới đã phát huy giá trị của nó ở tất cả
các quốc gia trên thế giới, kể cả các nước đang phát triển. Nhiệm vụ của các nước đang
phát triển là phải tìm kiếm vốn và những tài năng quản lý để đầu tư và khai thác nhà
máy mới. Và như vậy giới doanh nhân ở các nước đang phát triển có một vai trò nhất
định, tùy thuộc vào những ưu thế hay trở ngại mà từng xã hội đặt ra cho họ.
Khái niệm ‘doanh nhân’ cổ điển, chỉ những người chấp nhận mạo hiểm, bỏ
tiền bạc của mình ra kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận trên thương trường, thực ra
không còn thích dụng hoàn toàn với điều kiện hiện đại, khi chức năng quản trị và
điều hành doanh nghiệp đã được tách khỏi quyền sở hữu. Nhìn chung, thuật ngữ
‘doanh nhân’ hiện nay còn bao gồm cả đội ngũ các nhà quản trị chuyên nghiệp
trong khu vực các doanh nghiệp lớn, vì họ là những người thực tế hoạch định, tổ
chức, triển khai và điều hành hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đó.
Tại Trung Quốc, các tầng lớp mới, đặc biệt là tầng lớp chủ doanh nghiệp, có
vai trò quan trọng đối với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc.
Thứ nhất, nó thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng cường sức mạng tổng hợp của đất nước.
Thứ hai, nó làm giảm sức ép việc làm, duy trì ổn định xã hội. Thứ ba, nó đẩy nhanh
sự trưởng thành của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Thứ tư, nó đẩy nhanh
tiến trình hình ngành nghề hoá nông nghiệp và thành thị hoá nông thôn. Thứ năm, nó
đã có đóng góp lớn vào hệ thống phúc lợi xã hội quốc gia. Trên thực tế, tầng lớp xã
hội mới chính là chỗ dựa quan trọng của phát triển kinh tế Trung Quốc.
Doanh nhân là một tầng lớp xã hội mới, với vai trò là người khởi xướng các
công việc kinh doanh. Họ tổ chức việc làm ăn dưới các hình thức công ty hay xí
nghiệp hay tập đoàn, và họ cũng có thể đứng ở cương vị quản lý. Giải thích sự bành
trướng của kinh tế tư bản, Schumpeter đề cập đến doanh nhân như là nhân vật cốt cán


14


thúc đẩy nền kinh tế thị trường đi lên. Schumpeter cho rằng phát triển kinh tế (nhất là
ở các xã hội công nghiệp) là một quá trình không liên tục, gồm nhiều bước tiến chếch
nhau. Yếu tố chính thôi thúc kinh tế đi lên là sự phá vỡ có tính xây dựng, mà trong đó
doanh nhân là xúc tác chủ yếu. Trong khi doanh nhân theo khái niệm của Marx là
những người chỉ quan tâm đến lợi nhuận, thì đặc điểm của doanh nhân theo
Schumpeter là kẻ không chấp nhận sự sẵn có, không chấp nhận lối mòn, mà ngược
lại, luôn tìm kiếm ý tưởng mới, lề lối mới. Chính nhờ lối tư duy và hành động “khác
người” đó của doanh nhân mà họ chính là động lực của nền kinh tế, tạo ra những
bước đột phá trong nền kinh tế của một xã hội.
Giống như tình hình Trung Quốc, các tầng lớp xã hội mới ở Việt Nam đều là
sản phẩm của chính sách mở cửa, đặc biệt là tầng lớp chủ doanh nghiệp. Việc xây
dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại khiến cho một số công nhân viên chuyển sang các
ngành nghề khác; cải cách kết cấu chế độ sở hữu tạo điều kiện cho sự phát triển của
kinh tế tư nhân; và cải cách khoa học công nghệ, cải cách giáo dục đã làm cho lượng
lớn nhân viên kỹ thuật chuyên nghiệp lựa chọn nghề mới. Có thể nói sự ra đời của các
tầng lớp xã hội mới đã hình thành từng bước, lấy chính sách Đổi mới, mở cửa làm
thời cơ, lấy chính sách của Đảng làm hướng dẫn, lấy cơ chế thị trường làm động lực,
lấy dòng lưu động hợp lý làm biện pháp.
Có một số lý thuyết cố gắn giải thích về vai trò của tầng lớp doanh nhân trong
xã hội.
Khi coi doanh nhân đóng vai trò chủ yếu trong quá trình phát triển của tư bản
(Marx) và phát triển kinh tế (Schumpeter), lý thuyết kinh tế tân cổ điển đã phân tích
vai trò của tầng lớp này dựa trên các phân tích vi mô - lý thuyết về doanh nghiệp. Nhà
kinh tế học Harvey Leibenstein lại có một lối giải thích khác về vai trò của doanh
nhân. Ông chia doanh nhân thành hai loại. Một là loại quản lý thông thường, loại kia
là loại sáng tạo hiểu theo nghĩa của Schumpeter. Theo ông, doanh nhân là người “lấp


15


các khiếm khuyết”, hay kẽ hở của thị trường. Doanh nhân phải dùng óc sáng tạo và trí
tưởng tượng để bù vào các kẽ hở đó. Trong mọi nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế
chậm phát triển, doanh nhân thường thiếu các thông tin cần thiết để tính toán sắp đặt
công việc làm ăn. Nhưng đây không phải là vai trò độc nhất của doanh nhân. Họ còn
là người “lấp đầy các yếu tố sản xuất” (input-completing), trong trường hợp thị trường
thiếu các yếu tố sản xuất cần thiết hoặc tình trạng cung cầu của một yếu tố chưa rõ
ràng. Leibenstein cho rằng sự không hoàn hảo của thị trường là một yếu tố quan
trọng, nhưng không phải là yếu tố độc nhất để giải thích vai trò của doanh nhân.
Từ một góc nhìn khác, nhà tâm lý học xã hội David McClelland cho rằng, đối với
một số người, thành đạt quan trọng hơn tiền bạc. Doanh nhân có thể thuộc hạng người
này. Hay nói cách khác, tham vọng làm giàu chưa chắc là yếu tố duy nhất giải thích tại
sao một người thường lại muốn làm doanh nhân. Có nhiều bằng chứng cho thấy rằng đối
với một số người, làm doanh nhân là cốt để thoả mãn những thôi thúc muốn thành đạt.
II. Biến đổi xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới
1. Bối cảnh xã hội của thời kỳ Đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trong hơn 2 thập kỷ thực hiện đường lối Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lớn về kinh tế. Đồng thời trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước cũng đang trải qua những biến đổi mạnh
mẽ trong cơ cấu xã hội, trong hệ thống các giá trị, trên quy mô toàn xã hội và trong mỗi
lĩnh vực và hoạt động của các nhóm xã hội khác nhau. Bên cạnh đó, những tác nhân từ
bên ngoài như xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và khu vực cũng đã và đang tác
động đáng kể, chi phối chiều hướng và nhịp độ biến đổi xã hội của đất nước.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vấn đề nhận diện
và dự báo các xu hướng biến đổi xã hội của Việt Nam vẫn là một trong những
nhiệm vụ nghiên cứu của khoa học xã hội, đặc biệt, của xã hội học.
Trong điều kiện Việt nam, biến đổi xã hội bao hàm nhiều yếu tố: từ phát triển
xã hội, phát triển con người đến những thay đổi trong cơ cấu xã hội, trong hệ thống


16


các giá trị, trong các khuôn mẫu hành vi, và những đặc trưng lối sống của các nhóm
xã hội khác nhau.
Nghiên cứu về biến đổi xã hội thường được nhìn nhận từ một số chiều cạnh
hoặc cách tiếp cận: cấu trúc – hành vi, vĩ mô - vi mô hoặc kết hợp các cách tiếp cận
này. Như vậy, nghiên cứu những biến đổi xã hội có thể được triển khai trên 2 trục
chính là: những biến đổi của cơ cấu xã hội và những biến đổi trong các khuôn mẫu
hành vi và lối sống của các nhóm xã hội.
Nghiên cứu để trả lời cho các câu hỏi về thực trạng và xu hướng biến đổi của
các nhóm xã hội quan trọng trong cơ cấu xã hội Việt Nam hiện nay là một loại
nghiên cứu cơ bản ở tầm vĩ mô, và cần phải tiến hành trong một thời gian dài mới
có thể trả lời cho vấn đề này một các khái quát. Tuy nhiên, trong điều kiện hạn chế
về thời gian và nguồn lực, việc tiến hành những nghiên cứu trong phạm vi từng
nhóm xã hội hay từng lĩnh vực riêng lẻ sẽ có thể cho những câu trả lời hẹp hơn về
các biến đổi xã hội đang diễn ra ở các nhóm xã hội hoặc các lĩnh vực được nghiên
cứu. Bằng cách đó, từng bước chúng ta sẽ nhận diện những biến đổi quan trọng của
xã hội Việt Nam trong quá trình đổi mới và phát triển, bao gồm cả tác động của
tăng trưởng, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển xã hội, phát triển con người, bảo
đảm công bằng xã hội.
Các nghiên cứu như vậy nếu được tiến hành một cách liên tục, mang tính lịch
đại thì sẽ có thể so sánh các kết quả tại những thời điểm khác nhau, thực sự cho thấy
những biến đổi xã hội vi mô và vĩ mô qua thời gian.
Trong thập niên 1990 đã có một số công trình nghiên cứu của khoa học xã hội
mở đầu cho hướng nghiên cứu về biến đổi xã hội, trong đó có những đề tài thuộc các
chương trình nghiên cứu cấp nhà nước, nhằm xây dựng luận cứ khoa học cho việc đổi
mới chính sách xã hội và phản ánh những đặc trưng và xu hướng biến đổi của cơ cấu
xã hội Việt Nam. Một số nghiên cứu khác đề cập tới chủ đề biến đổi xã hội trong
quan hệ với những biến đổi trong các lĩnh vực cụ thể như y tế, giáo dục, phát triển
nông thôn, phát triển đô thị,... Ngoài ra, các cuộc điều tra thống kê thường kỳ, có quy
mô toàn quốc trong những năm 1990 như LVSS 1993, 1998, Điều tra HGĐ đa mục



17

tiêu, Điều tra về thực trạng Giàu Nghèo ở Việt Nam, 1993-1995, TĐTDSNO 1999
của TCTK và nhiều báo cáo nghiên cứu của các tổ chức quốc tế (như NHTG, UNDP,
các tổ chức NGO) cũng đã phân tích và cung cấp nhiều thông tin, hiểu biết về chủ đề
biến đổi xã hội. Theo hướng này, cần tiếp tục khai thác các nguồn tư liệu hiện có để
bổ sung cho một cái nhìn toàn diện hơn về chủ đề biến đổi xã hội trong thập niên
1990, rút ra những bài học kinh nghiệm để triển khai các nghiên cứu tiếp tục trong
thời gian tới.
Nhiều nghiên cứu đó đưa ra nhận định chung là kinh tế thị trường càng phát
triển, sự phân hóa giàu nghèo cũng như mức độ phân tầng xã hội có xu hướng diễn ra
mạnh mẽ hơn.
Kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập và sự phát triển rộng rãi các loại hình
hoạt động sản xuất kinh doanh đó tạo ra nhiều cơ may, vận hội cho các cá nhân,
các nhóm hội phát triển vượt lên thành các nhóm giàu có, khá giả. Bên cạnh đó,
những cá nhân, nhóm xã hội nào không nắm bắt được các cơ hội cụ thể sẽ chỉ đạt
được mức sống trung binh, chậm chễ bị suy giảm và rơi vào nhóm có mức sống
nghèo đói. Những cá nhân, những nhóm xã hội có khả năng nắm bắt cơ may, biết
tận dụng và hội đủ các điều kiện do chính sách mở cửa tạo ra, kết hợp với khả
năng tính toán nhạy bén, đó tạo nên sức mạnh kinh tế làm thay đổi đáng kể điều
kiện sống của bản thân và góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển. Có
thể gọi đó là những nhóm xã hội vượt trội mà sự giàu có lên của họ có thể làm
doãng rộng khoảng cách giàu nghèo, nhưng cũng góp phần tạo ra động lực tăng
trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội.
Cùng với thời gian, các nhóm xã hội mới này được định hình, khẳng định vị
trí và vai trò của chúng trong cơ cấu kinh tế - xã hội. Mặc dù đây vẫn còn là một
nhóm thiểu số nhưng họ đã ít nhiều có ảnh hưởng đến sự thay đổi diện mạo xã hội.



18

2. Những biến đổi trong cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội
Tự do hoá kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa - đó là những tác nhân quan trọng thúc đẩy những biến đổi trong cấu trúc
xã hội, được thể hiện một cách điển hình trong hiện tượng phân tầng xã hội theo mức
sống của các nhóm dân cư. Hơn thế nữa, trong hiện tượng này còn chứa đựng và phản
ánh rất nhiều biến đổi xã hội khác.
Thực trạng phân tầng xã hội (PTXH), phân hoá giàu nghèo (PHGN) trong thời
kỳ Đổi mới thực ra không phải là một cái gì mới. Các nghiên cứu cho thấy: PTXH đã
từng tồn tại cả trong thời kỳ trước đổi mới. Quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung
bao cấp sang cơ chế thị trường chỉ tạo ra một môi trường kinh tế - xã hội quá độ đặc
thù, chứa đựng nhiều yếu tố tác động trực tiếp và gián tiếp khiến cho PTXH trở thành
bột phát trong thập niên đầu tiên của Đổi mới. Một số các yếu tố như vậy là: môi
trường pháp lý chưa được hoàn thiện tạo điều kiện cho sự liên kết quyền lực vì lợi ích
của các cá nhân hoặc nhóm đặc thù, những lợi thế so sánh, vị thế đặc biệt (độc quyền)
của một số ngành; tính năng động, sự chuẩn bị / sẵn sàng của các cá nhân, các nhóm
xã hội khác nhau khi bước vào kinh tế thị trường. Và nhiều yếu tố khác nữa. Các yếu
tố này quy định mức độ PTXH khác nhau không chỉ giữa các tầng lớp, nhóm xã hội,
giữa các vùng/ miền, các ngành mà cả trong từng bộ phận của cơ cấu xã hội.
Một số giả thuyết nghiên cứu khác cũng đã được đưa ra để có thể kiểm định
qua các nghiên cứu tiếp tục như:
♦ PTXH/BBĐ trong thời gian tới sẽ tiếp tục gia tăng nhưng với tốc độ chậm hơn
trước do những tốc độ tăng trưởng kinh tế bị chững lại.
♦ Trong lĩnh vực văn hoá xã hội, sự PTXH có thể kích thích hình thành một tầng
lớp vượt trội - tầng lớp trung lưu mới ở đô thị hay tầng lớp khá giả và năng
động nhất ở nông thôn, đóng vai trong tích cực (động lực ) cho tiến trình phát
triển sắp tới.
♦ Những chuyển đổi trong quá trình hoàn thiện môi trường pháp lý/ thể chế sẽ có

tác động tới các nhóm xã hội theo hướng hạn chế bớt quá trình phân tầng xã hội
đột biến như trong thập niên 1900.


19

♦ v.v....
Bên cạnh những xu hướng gia tăng sự PTXH, những cố gắng to lớn của nhà
nước Việt Nam nhằm giảm thiểu những khác biệt và phân hoá xã hội cũng đã được
ghi nhận qua thành tựu của các chính sách xã hội, đặc biệt là thành công của
chương trình XĐGN. Tỷ lệ nghèo chung giảm từ trên 70% vào năm 1990 xuống
còn 32% vào năm 2000 (giảm trên 1/2 tỷ lệ hộ nghèo đói so với năm 1990). Còn
theo chuẩn quốc gia cũ, các tỷ lệ tương ứng là 30% năm 1990 và 11% năm 2000
(giảm 2/3 tỷ lệ hộ nghèo so với năm 1990). (Cùng với tốc dộ tăng trưởng kinh tế
thời kỳ 1991-2000 đạt 7,5% / năm, Việt Nam đựơc biết đến như một tấm gương
xuất sắc về sự chuyển đổi thành công từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
nền kinh tế thị trường).
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá hiện nay, sự phát
triển của kinh tế thị trường theo xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập khu vực và quốc
tế (về kinh tế, văn hoá, xã hội) sẽ tiếp tục tác động tới các nhóm xã hội quan trọng,
theo cả hai chiều hướng tích cực, thúc đẩy tăng trưởng và tiêu cực làm gia tăng
các khác biệt và phân tầng xã hội. Vì vậy, nghiên cứu và phân tích các yếu tố của
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa có ảnh hưởng như thế nào tới sự phát triển
xã hội, tới những biến đổi của các giai tầng và các nhóm xã hội chủ yếu của xã hội
Việt Nam hiện nay vẫn đặc biệt có ý nghĩa. Từ cách tiếp cận xã hội học nên đặc
biệt quan tâm nghiên cứu sự xuất hiện các nhóm xã hội mới và các quan hệ xã hội
mới, các nhóm xã hội năng động nhất có khả năng góp phần tích cực vào xu thế
hội nhập và phát triển của đất nước.
Có thể chỉ ra nhiều nhóm xã hội mới như vậy đã xuất hiện với diện mạo ít
nhiều rõ nét. Bên cạnh đó là các các nhóm xã hội “cũ”, vốn có từ trước, song giờ đây

đã có những thay đổi căn bản trong những điều kiện mới. Vấn đề chỉ rõ vị trí và vai
trò của các nhóm xã hội mới này trong quá trình phát triển là rất có ý nghĩa trong lĩnh
vực quản lý. Chẳng hạn, giới doanh nhân (theo khu vực, theo ngành, theo độ tuổi,...);
giới trí thức, đặc biệt là trí thức khoa học kỹ thuật; công nhân kỹ thuật, tay nghề cao;
giới quản lý và đội ngũ công chức, vv….


20

Bên cạnh việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội
cũng là xuất phát điểm tạo ra những biến đổi đáng kể trong thực tiễn về mô hình
quản lý, trong nhận thức của người dân và giới quản lý. Những biến đổi xã hội theo
hướng này đã được nhận thức và nghiên cứu ở một mức độ nhất định. Quá trình
dân chủ hoá đời sống xã hội được phản ánh tập trung qua việc triển khai rộng khắp
việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Những tổng kết thực tiễn và nghiên cứu
đánh giá đã được tiến hành cho thấy những bước tiến theo hướng này. Bên cạnh
đó, trình độ dân trí, mức độ công khai, dư luận xã hội, sự đối thoại trực tiếp hoặc
thông qua đại diện, qua các phương tiện truyền thông đại chúng giữa người dân với
chính quyền các cấp đang cho thấy những chuyển biến đáng kể và cần có được tiếp
tục nghiên cứu sâu hơn.
Đây cũng là cơ sở thực tế làm chuyển biến nhận thức, quan niệm và thay đổi
dần các yếu tố của hệ giá trị cũ bằng các yếu tố của hệ giá trị mới, cập nhật với những
điều kiện mới.
III. Tác động của biến đổi xã hội
1. Tác động của biến đổi xã hội đến toàn xã hội.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện kinh tế thi trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa và hội nhập
quốc tế, nên kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc và đạt được những thành tưu to lớn.
Cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự hình thành nhiều thành phần kinh tế, cơ cấu

giai cấp – xã hội có nhiều biến động. Trong xã hội đã và đang xuất hiện nhiều giai tầng
xã hội; cơ cấu, tính chất, vị trí, mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội đã thay
đổi cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Biến đổi cơ cấu giai cấp – xã hội
ở nước ta hiện nay đặt ra nhiều nội dung mới cho công tác tư tưởng, lý luận để giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước.


21

Tuy nhiên, cùng với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, những biến
đổi mạnh mẽ của xã hội thời gian qua cũng đang đặt ra nhiều vấn đề, thách thức gay
gắt. Đó là, sự mất cân đối về cơ cấu của nền kinh tế, cơ cấu giai cấp, cơ cấu dân cư, cơ
cấu ngành nghề, cơ cấu dân tộc, tôn giáo…; sự phân hoá giữa thành thị và nông thôn,
giữa đồng bằng và miền núi, giữa giàu và nghèo trong phát triển; sự bất bình đẳng giữa
các tầng lớp, các giới, các nhóm xã hội…; đặc biệt, sự phân hoá giàu nghèo, sự phân
tầng xã hội ngày càng trở nên gay gắt. Bên cạnh đó là sự xuất hiện những vấn đề mới
như: dân số tăng, việc làm và di cư tự do; sự tăng nhanh của giai cấp công nhân và sự
giảm sút nguồn lực lao động ở nông thôn; các tệ nạn xã hội; sự bất bình đẳng giới và
nguy cơ khủng hoảng gia đình; sự thay đổi chuẩn mực đạo đức và lối sống ở lớp trẻ…
Những thành tựu của công cuộc đổi mới cũng như những vấn đề bức xúc đang đặt
ra hiện nay thực chất vừa là kết quả của sự biến đổi cơ cấu giai cấp - xã hội; đồng thời,
vừa là tác nhân thúc đẩy sự biến đổi mạnh mẽ hơn nữa cơ cấu giai cấp - xã hội. Cơ cấu
giai cấp - xã hội là một nhân tố luôn luôn biến đổi. Đó là do, trong quá trình vận động và
phát triển của các xã hội, những biến đổi ở mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội đều
tác động mạnh mẽ, thúc đẩy sự biến đổi của cơ cấu giai cấp - xã hội và đến lượt nó, sự
biến đổi cơ cấu giai cấp - xã hội lại tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên phương diện chính trị - xã hội là xây dựng cho được một kết cấu giai cấp
– xã hội trong đó liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức làm thành nền tảng xã hội. Nhưng trong nền kinh tế nhiều thành phần, với sự
đa dạng của các thành phần kinh tế và đi cùng với nó là sự đa dạng của các giai cấp,

tầng lớp, trong sự phát triển của nó sẽ phá vỡ kết cấu giai cấp – xã hội nền tảng của
chế độ xã hội chúng ta đang xây dựng, đặt ra những thánh thức cho việc giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự chệch hướng xã hội chủ nghĩa nằm trong quá trình
biến đổi tự phát của cơ cấu giai cấp – xã hội trong nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thi trường. Ở đây cần phải quán triệt sâu sắc không chỉ nhận thức


22

mà cả hành động với các chủ trương và chính sách cụ thể để thực hiện tư tưởng của
Đảng: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong sự đa dạng của cơ cấu giai cấp – xã hội, sự phân tâm xã hội về nhiều
phương diện tất yếu xảy đến, bởi mỗi giai tầng xã hội, ngoài lợi ích chung còn lợi ich
riêng, nhiều khi lợi ích này chi phối trực tiếp đến thái độ, hành vi chính trị, xã hội của
họ. Sự đa dạng về giai tầng xã hội làm xuất hiện trong xã hội sự đa dạng về tư tưởng
xã hội và sinh hoạt xã hội. Từ lợi ích kinh tế, với sự bảo đạm tư liệu sản xuất, với tỉ
trọng đáng kể đóng góp cho ngân sách có thể là cơ sở cho việc bung ra các tổ chức xã
hội – nghề nghiệp, tạo cơ sở về tổ chức cho các yêu sách về chính trị. Trong mỗi giai
tầng xã hội đang diễn ra quá trình phân hóa mạnh không chỉ phân hóa về kinh tế mà
còn có sự phân hóa trên các bình diện khác: văn hóa, xã hội, làm cho biến đổi cơ cấu
giai cấp – xã hội ở nước ta sẽ ngày càng phức tạp hơn và khó kiểm soát. Trong giai
cấp công nhân có công nhân làm thuê, công nhân góp vốn cổ phần, mở xưởng sản
xuất với quy mô và tính chất khác nhau... Trong giai cấp nông dân cũng có sự phân
hóa và đội ngũ trí thức đã xuất hiện phân hóa trên nhiều phương diện. Vì thế, trên
thực tế rất khó cho việc nhận diện chính xác, đầy đủ các đặc trưng xã hội của từng
giai tầng xã hội ở nước ta hiện nay. Nó đặt ra cho công tác tư tưởng, lý luận hai vấn
đề bức thiết: một là, phải nghiên cứu nắm bắt được thực trạng, dự báo xu hướng biến
đổi cơ cấu giai cấp – xã hội phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam; hai là, nghiên cứu đổi mới có hiệu quả về cả nội dung và hình thức công tác
tuyên truyền, giáo dục để khơi dậy, phát huy tinh thần yêu nước, xây dựng tinh thần

tự chủ dân tộc, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thời gian vưa qua, trong khi cơ cấu giai cấp – xã hội biến động mạnh những
biến đổi đó đã tác động cả tích cực và tiêu cực đến quá trình phát triển đất nước, cụ
thể trên các mặt: kinh tế, văn hoá, chính trị và xã hội.


23

Ở chiều tích cực: Về mặt kinh tế: sự biến đổi cơ cấu giai cấp - xã hội đó đã góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước, qua đó góp phần nâng cao đời sống
mọi mặt của đại đa số các tầng lớp nhân dân.
Về mặt chính trị, sự biến đổi cơ cấu giai cấp - xã hội (như tự do hoá các ngành
nghề, nhiều tầng lớp xã hội mới xuất hiện...) đã góp phần nâng cao địa vị cũng như ý
thức dân chủ của người dân. Như vậy, mô hình cơ cấu giai cấp - xã hội ở giai đoạn
mới này, về cơ bản, là có lợi cho sự ổn định xã hội và phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Về mặt văn hoá: Việc giao lưu ngày càng gia tăng giữa các tộc người trong
nước, cũng như giữa trong nước và nước ngoài, sự phục sinh của nhiều tín ngưỡng
dân gian, sự du nhập và nảy sinh nhiều tôn giáo mới... đang làm cho văn hoá Việt
Nam ngày thêm đa dạng và phong phú - mà đa dạng và phong phú chính là một
nguyên nhân không thể thiếu để phát triển.
Ở chiều tác động tiêu cực: Sự tác động tiêu cực của biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội ở giai đoạn này có nhiều, song có thể quy lại mấy biểu hiện cơ bản sau:
Biến đổi cơ cấu giai cấp - xã hội đang làm gia tăng sự bất bình đẳng của xã hội:
đó là bất bình đẳng giữa nông thôn và đô thị, giữa miền xuôi và miền núi, giữa người
có thu nhập cao và người thu nhập thấp, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.
Biến đổi cơ cấu giai cấp - xã hội đang làm gia tăng mâu thuẫn và xung đột - dù
mới ở mức độ cục bộ - song cũng đã tạo ra những nguy cơ tiềm ẩn đối với sự ổn định
và phát triển của xã hội: đó là mâu thuẫn giữa chủ và thợ, giữa thế hệ già và thế hệ trẻ,
giữa chủ đầu tư và những người nông dân mất đất, là xung đột giữa một số tổ chức
tôn giáo và chính quyền địa phương, giữa các bộ phận tộc người di dân tự do và cư

dân địa phương. Ngoài ra, trong cơ cấu giai cấp - xã hội mới xuất hiện các nhóm yếu
thế và dễ bị tổn thương, sự quá tải ở các khu công nghiệp và các thành phố lớn, sự


24

mất dần bản sắc ở không ít tộc người thiểu số, sự lai căng, mất gốc ở một số nhóm
người, nhất là ở thế hệ trẻ, v.v...
Rõ ràng, cả hai mặt tích cực và tiêu cực đã, đang và sẽ còn tồn tại trong quá
trình biến đổi cơ cấu giai cấp - xã hội ở nước ta. Thực trạng đó càng cho thấy nghiên
cứu lý luận và công tác tư tưởng trong quá trình biến đổi cơ cấu giai cấp – xã hội để
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, tạo ra sự đồng thuận trong xã hội, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân trở nên cấp thiết.



×