Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế lý THUYẾT GIÁ TRỊ lạo ĐỘNG, sự PHÁT TRIỂN các TRƯỜNG PHÁI KINH tế CHÍNH TRỊ cổ điển ANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.43 KB, 9 trang )

THU HOẠCH LỊCH SỬ KINH TẾ

Chủ đề: LÝ THUYẾT GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG - SỰ PHÁT TRIỂN
TRONG CÁC TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ CHÍNH TRỊ CỔ ĐIỂN ANH


2

Lịch sử tư tưởng kinh tế là một dũng chảy liờn tục trong dũng chảy
tư tưởng nhân loại. Sự phát triển chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu đó kộo
theo sự ra đời của kinh tế chính trị tư sản cổ điển. Kinh tế chính trị tư sản
cổ điển ở Anh với nhiều lý thuyết kinh tế quan trọng: Lý thuyết giá trị
lao động; lý thuyết phân công lao động; lý thuyết tiền tệ, lý thuyết tư
bản; lý thuyết về tiền công, lợi nhuận địa tô; học thuyết tái sản xuất...
Chứa đứng những hạt nhân khoa học mà sau này được Mác và Ăngghen
kế thừa, phát triển lên đỉnh cao mới của khoa học kinh tế chính trị.
Tích lũy nguyên thủy tư bản đó thỳc đẩy chủ nghĩa tư bản ra đời và
phát triển nhanh chóng vượt khỏi giai đoạn hợp tác giản đơn. Cuối thế
kỷ XVII, công trường thủ công tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ ở
châu Âu, đặc biệt là ở nước Anh đó làm cho kết cấu kinh tế-xó hội thay
đổi mang tính chất bước ngoặt. sự phát triển của quan hệ sản xuất TBCN
đũi hỏi phải chấm dứt vai trũ thống trị của tư bản thương nghiệp để mở
đường cho tư bản công nghiệp và tư bản nông nghiệp phát triển. ở nước
Anh, sự phát triển mạnh mẽ của công trường thủ công đó làm cho
thương nghiệp mất dần vị trí lịch sử đặc biệt của nó là công cụ bóc lột
thuộc địa, phương tiện làm giàu. Giai cấp tư sản Anh sớm nhận thấy lợi
ích của họ trong sự phát triển của sản xuất; tích lũy tư bản kết thúc và
thay vào đó là tích lũy tư bản. Chủ nghĩa trọng thương kỡm hóm sự phỏt
triển của chủ nghĩa tư bản công nghiệp đó trở nờn lỗi thời, khụng cũn
đáp ứng yêu cầu của sản xuất. Nhiều vấn đề kinh tế của sản xuất đặt ra
vượt quá khả năng giải thích của chủ nghĩa trọng thương. Điều đó đũi


hỏi phải cú một học thuyết kinh tế mới dẫn đường. Học thuyết kinh tế
chính trị tư sản cổ điển Anh ra đời. Những đại biểu tiêu biểu cho học
thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh đó là: Wiliam Petty, AĐam
Smíth; Đavít Ricácđô. Lý thuyết giỏ trị lao động được các đại biểu kinh
tế chính trị tư sản cổ điển nghiên cứu và phát triển trở thành những vấn
đề chủ đạo trong học thuyết của mỡnh.
Lý thuyết giá trị lao động là một trong những lý thuyết kinh tế cơ
bản nhất của khoa học kinh tế chính trị. Lý thuyết giá trị lao động là cơ
sở, tiền đề để nghiên cứu các lý thuyết, khỏi niệm phạm trự của kinh tế
chớnh trị. Vỡ thế nghiờn cứu sõu sắc lý thuyết giỏ trị lao động không
những để hiểu sâu hơn học thuyết giá trị Mác xít mà cũn thấy rừ bước
ngoặt cách mạng trong học thuyết giá trị do Mác và Ăngghen tiến hành.


3

William Petty: Cống hiến to lớn của ông là ở chỗ, ông là người đầu
tiên nêu ra nguyên lý giá trị lao động; nghĩa là, lao động là cơ sở, nguồn
gốc của giá trị hàng hoá. Trong tác phẩm “Bàn về thuế khoá và lệ phí”
(1662) ông đó đưa ra ba phạm trù về giá cả hàng hoá. Đó là giá cả tự nhiên,
giá cả nhân tạo, giá cả chính trị. Theo ông: giá cả tự nhiên là do lao động của
người sản xuất tạo ra, đó chính là giá trị của hàng hoá theo cách hiểu sau này
của Mác. Lượng của giá cả tự nhiên (hay lượng giá trị) tỷ lệ nghịch với năng
suất lao động khai thác bạc. Ông viết: “Nếu người ta có thể khai thác 1 ounce
bạc và đưa nó từ mỏ ở Peru về luân đôn với một thời gian chi phí ngang với
thời gian cần thiết để sản xuất ra 1 barrel lúa mỡ ở Anh, thỡ 1ounce bạc là giỏ
cả tự nhiờn của 1barrel lỳa mỡ. Nếu do tỡm ra được những mỏ mới giàu
quặng hơn, nên cùng một thời gian lao động đó, bây giờ khai thác được
2ounce bạc thỡ 2 ounce bạc là giỏ cả tự nhiờn của 1barrel lỳa mỡ. Như vậy,
ông đó xỏc định giá cả tự nhiên (giá trị) của hàng hoá bằng cách so sánh

lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá với lượng lao động hao phí để
tạo ra bạc hay vàng. Giá cả tự nhiên (giá trị) của hàng hoá là sự phản ánh giá
cả tự nhiên (giá trị) của tiền tệ (bạc vàng). Năng suất lao động của người sản
xuất hàng hoá ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hoá. Chính từ luận điểm
này mà ông đó vượt lên phái trọng thương chủ nghĩa và xứng đáng được thừa
nhận là người đầu tiên đặt nền móng cho học thuyết giá trị lao động.
Khi đưa ra phạm trù giá cả nhân tạo, Uyliam Pét ty coi giá cả nhân tạo là
giá trị thị trường của hàng hoá, nó thay đổi phụ thuộc vào giá cả tự nhiên và
quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường. Ông viết: "Tỷ lệ giữa lỳc mỡ và
bạc là giỏ cả nhõn tạo chứ khụng phải là giỏ cả tự nhiờn"
Là người đương thời của cách mạng tư sản và chiến tranh vệ quốc, được
chứng kiến những biến động thường xuyên của tỡnh hỡnh chớnh trị xó hội và
sự tác động của nó đến quá trỡnh sản xuất và sự phỏt triển của kinh tế xó hội,
Uyliam Pét ty đó phõn biệt giỏ cả tự nhiờn và giỏ cả chớnh trị của hàng hoỏ.
Theo ụng: Giá cả chính trị là một loại giá đặc biệt của giá cả tự nhiên. Nó
cũng là chi phí lao động để sản xuất ra hàng hoá, nhưng trong điều kiện chính
trị không thuận lợi như: Chiến tranh hay sự mất ổn định về chính trị, kinh tế
xó hội tỏc động xấu đến quá trỡnh sản xuất. Do đó, chi phí lao động trong giá
cả chính trị thường cao hơn do với chi phí lao động trong giá cả tự nhiên bỡnh
thường. Luận điểm về giá cả chính trị và việc phân biệt giá cả tự nhiên, tức
chi phí lao động trong điều kiện bỡnh thường với giá cả chính trị là lao động


4
chi phí trong điều kiện chính trị không thuận lợi Uyliam Pét ty là vấn đề có ý
nghĩa to lớn, ngày nay luận điểm đó vẫn cũn nguyờn giỏ trị. Uyliam Pột ty
cũng đặt vấn đề lao động giản đơn và lao động phức tạp khi cho rằng: "Sự
khác nhau của các loại lao động ở đây không có quan hệ gỡ cả, chỉ tuỳ thuộc
vào thời gian lao động. Ông đó so sỏnh cỏc loại lao động trong một thời gian
dài và lấy năng suất lao động trung bỡnh trong nhiều năm để loại trừ tỡnh

trạng ngẫu nhiờn.
Từ những thành tựu trên có thể khẳng định trong lịch sử kinh tế chính trị,
Uyliam Pét ty đặt nền móng cho giá trị lao động. Song đây mới chỉ là mầm
mống của lý luận giỏ trị, lý thuyết giá trị lao động của ông cũn chịu ảnh
hưởng nhiều của tư tưởng trọng thương chủ nghĩa. Ông chỉ thừa nhận lao
động khai thác bạc là nguồn gốc giá trị, cũn giỏ trị của cỏc loại hàng hoá khác
chỉ được xác định nhờ quá trỡnh trao đổi với bạc.
Uyliam Pét ty đưa ra luận điểm nổi tiếng: "Lao động là cha và là nhân tố
tích cực của của cải, cũn đất đai là mẹ của nó". Luận điểm đó là đúng nếu
xem của cải là những giá trị sử dụng nhưng do chưa phân biệt được giá trị và
giá trị sử dụng, nên cũng chính từ luận điểm này ông đó sai lầm khi xác định "
Lao động và đất đai là cơ sở tự nhiên của giá cả mọi vật phẩm", tức là lao
động và đất đai đều là nguồn gốc của giá trị. Ông đó tỡm thước đo thống nhất
của giá trị - thước đo chung đối với tự nhiên và lao động khi đưa ra luận điểm
"Thước đo thông thường của giá trị là thức ăn trung bỡnh hàng ngày của một
người lính, chứ không phải lao động hàng ngày của người đó". Ông đó xỏc
định giá trị của một chiếc nhà tranh ở Airơlan làm bằng "Số lượng những
khẩu phần hàng ngày mà những người xây dựng nhà đó tiờu dựng khi dựng
lờn chiếc nhà đó". Điều đó chứng tỏ ông chưa phân biệt được giá trị sử dụng
và giá trị trao đổi, chưa biết đến tính chất xó hội của giỏ trị, chưa phân biệt
được lao động cụ thể và lao động trừu tượng.

Ađam Smith A.Smíth có công lớn khi ông phân biệt được giá trị sử
dụng và giá trị trao đổi. Ông khẳng định giá trị sử dụng không quyết định giá
trị trao đổi và đó kịch liệt phờ phỏn lý luận về lợi ớch của Caliton và
Tuýecgụ, ông khẳng định ích lợi không có liên hệ gỡ tới giỏ trị trao đổi,
A.Smíth nói rằng - khụng khớ chẳng cú chỳt gỡ giỏ trị, mặc dù nó rất có ích.
A.Smíth đó nờu hai định nghĩa về giá trị hàng hoá; định nghĩa thứ nhất giá trị
là do hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá quyết định. Đây là khái niệm đúng



5
đắn về giá trị. A.Smíth cũn nờu định nghĩa thứ hai về giá trị của hàng hoá là do lao
động quyết định, mà lao động đó có thể mua bán, đổi lấy hàng hoá.
ở định nghĩa thứ nhất, A.Smíth tỏ ra là người đứng vững trên cơ sở lý
thuyết về giá trị lao động nhưng định nghĩa thứ hai lại bộc lộ sự lẫn lộn giữa
lao động sống và lao động quá khứ.
Khi bàn về các bộ phận cấu thành giá trị của hàng hoá, A.Smíth cho rằng
trong sản xuất tư bản chủ nghĩa, tiền lương, lợi nhuận và địa tô là ba nguồn
gốc đầu tiên của mọi thu nhập, cũng như của mọi giá trị trao đổi. A.Smíth coi
tiền lương, lợi nhuận và địa tô là nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập, đó là
quan điểm đúng đắn. Nhưng ông lại sai lầm khi coi các khoản thu nhập là
nguồn gốc đầu tiên của mọi giá trị trao đổi. Ông đó lẫn lộn vấn đề hỡnh thành
giỏ trị và vấn đề phân phối giá trị, ông xem thường tư bản bất biến (c), coi giá
trị chỉ có (v + m). A.Smíth đó biến cỏc bộ phận thu nhập từ giỏ trị thành
nguồn gốc của giá trị, tức là giá trị của hàng hoá do tiền lương, lợi nhuận địa
tô quyết định. A.Smíth giải thích luẩn quẩn rằng giá trị là do giá trị quyết
định. A.Smíth đó sai lầm cho rằng, trong xó hội trước chủ nghĩa tư bản, giá trị
do lao động quyết định cũn trong chủ nghĩa tư bản, giá trị do thu nhập quyết
định.
A.Smíth đó chỳ ý tới việc xỏc định lượng giá trị của hàng hoá, ông cho
rằng lao động là tiêu chuẩn để đo lường giá trị. Ông đề cập tới lao động giản đơn
và lao động phức tạp có ảnh hưởng khác nhau đến lượng giá trị của hàng hoá.
A.Smíth đó phõn biệt giỏ cả tự nhiờn với giỏ cả thị trường. Theo
A.Smíth giá cả tự nhiên là giá cả ngang với mức cần thiết để trả cho địa tô,
tiền công và lợi nhuận của tư bản theo các tỷ suất tự nhiên (mang tính khách
quan). Giá cả thị trường là giá bán thực tế của hàng hoá, chịu ảnh hưởng của
biến động cung cầu, của yếu tố độc quyền và chính sách của chính phủ, giá cả
tự nhiên là trung tâm, giá cả thị trường phải hướng về giá cả tự nhiên. Giá cả
tự nhiên cũng thay đổi cùng với tỷ suất tự nhiên của mỗi bộ phận cấu thành

nó. Khi giải thích về giá cả tự nhiên, A.Smíth chưa thấy được trong điều kiện
tư bản tự do cạnh tranh, giá cả tự nhiên được quy định bởi giá cả sản xuất.
Ông chưa chỉ ra được giá cả sản xuất gồm chi phí sản xuất của tư bản cộng
với lợi nhuận bỡnh quõn.
Cụng lao chủ yếu của A.Smớth về lý luận giỏ trị là đó phõn biệt được giá
trị sử dụng và giá trị trao đổi, hơn nữa ông đó cho rằng lao động là “thước đo


6
thực tế của giá trị”. Song ở ông vẫn cũn cú những sai lầm và hạn chế về lý luận
này.

Đavit Ricácđô: Học thuyết giá trị của Ricácđô mang tính khoa học
và khá hoàn chỉnh, nú chiếm một vị trớ trung tõm trong lý luận kinh tế
của ông. Ricácđô đó cú ý thức xem xột tất cả cỏc phạm trự kinh tế khác
trên cơ sở lý luận giỏ trị lao động.
Vấn đề này đó được Ri các đô trỡnh bày chủ yếu trong cuốn “Những
nguyờn lý của khoa kinh tế chớnh trị và thuế khúa”. ễng mở đầu sự nghiên
cứu giá trị bằng sự phê phán những luận điểm sai lầm của Ađam Smít trong
việc định nghĩa giá trị, đặc biệt ông đó bỏc bỏ hoàn toàn định nghĩa thứ hai
của Ađam Smít cho rằng: “Giá trị hàng hóa bằng lao động mua được”. Ri các
đô đó đưa ra định nghĩa: “giá trị hàng hóa, hay số lượng của một hàng hóa
nào khác mà hàng hóa đó trao đổi, là số lượng lao động tương đối cần thiết để
sản xuất ra hàng hóa đó quyết định, chứ không phải do khoản thưởng lớn hay
nhỏ cho lao động đó quyết định”.
Phê phán Ađam Smít, đồng thời Ri các đô cũng kế thừa phát triển những
tư tưởng khoa học của Ađam Smít. Ông đó phõn biệt một cỏch rừ ràng hai
thuộc tớnh của hàng húa là giỏ trị sử dụng và giỏ trị trao đổi và cho rằng:
“Tính hữu ích không phải là thước đo giá trị trao đổi, mà chỉ là điều kiện cần
thiết cho giá trị trao đổi”. Nếu một vật không có ích cho ai cả thỡ nú sẽ khụng

cú giỏ trị trao đổi. Theo ông, giá trị trao đổi chịu ảnh hưởng của hai nhân tố:
số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra chúng và tính chất hiếm có của nó.
Những hàng hóa hiếm có, theo Ri các đô là những hàng hóa mà “giá trị
trao đổi của chúng không thể giảm xuống do lượng cung tăng lên”, những
hàng hóa này chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ bé trong tổng số hàng hóa của xó
hội. Nờn ụng cho rằng, khi nghiờn cứu giỏ trị trao đổi và những quy luật điều
tiết giá trị tương đối của các hàng hóa, người ta có thể chỉ lấy những hàng hóa
mà số lượng có thể được tăng lên bằng lao động của con người, và trong lĩnh
vực sản xuất ra chúng cạnh tranh không hạn chế.
Ri các đô kiên trỡ quan điểm lao động là nguồn gốc duy nhất của giá trị.
Đây là công lao to lớn của ông và ông luôn luôn đứng trên quan điểm này để
xây dựng toàn bộ hệ thống lý luận của mỡnh. ễng khẳng định rằng: hao phí
lao động để sản xuất ra các hàng hóa nhưng không phải chỉ có lao động trực
tiếp chi phí vào việc sản xuất ra các hàng hóa đó mà cũn cú cả lao động cần
thiết trước đó để sản xuất ra các công cụ, dụng cụ và nhà xưởng dùng vào


7
việc sản xuất ấy. Như vậy, ông đó thừa nhận trong cơ cấu giá trị hàng hóa
không thể loại trừ lao động quá khứ (c) mà giá trị hàng hóa bao gồm cả lao
động quá khứ và lao động sống (c + v + m), tiền công và lợi nhuận là những
yếu tố cấu thành giá trị hàng hóa, do lao động trực tiếp chi phí vào việc sản
xuất các hàng hóa đó tạo ra. Do đó, việc nâng cao tiền công chỉ ảnh hưởng
đến lợi nhuận của nhà tư bản, chứ không ảnh hưởng gỡ đến giá trị của các
hàng hóa. Ông cho rằng, sự khác nhau trong mức độ lâu bền của tư bản cố
định và sự khác nhau trong tỷ lệ giữa hai hỡnh thỏi của tư bản là một nguyên
nhân khác gây ra những thay đổi trong giá trị tương đối của các hàng hóa.
Ri các đô đó cú những lập luận sõu sắc về bản chất của giỏ trị khi phõn
biệt giỏ trị với của cải. ễng cho rằng giỏ trị khỏc xa với của cải, vỡ giỏ trị
“Khụng phụ thuộc vào tỡnh hỡnh cú nhiều của cải, mà phụ thuộc vào tỡnh

hỡnh sản xuất khú khăn hay dễ dàng”. Lao động của một triệu người trong
các công xưởng bao giờ cũng sản xuất ra một giá trị giống nhau”, cũn đối với
của cải thỡ khụng phải như vậy. Sự tăng của cải và sự tăng giá trị không phải
là một, thước đo giá trị chưa “phải là thước đo của cải, vỡ của cải khụng phụ
thuộc vào giỏ trị”.
Khác với Ađam Smít tỡm một thước đo không thay đổi của giá trị, Ri
các đô trong cuốn “Những nguyên lý của Khoa kinh tế chớnh trị” cho rằng cả
vàng lẫn bất cứ một hàng hóa nào khác “Không bao giờ có thể là một thước
đo giá trị hoàn thiện cho tất cả mọi vật”, sự thay đổi trong giá cả hàng hóa là
hậu quả của những thay đổi trong giá trị của chúng, tức là sự thay đổi về
lượng lao động đó hao phớ để sản xuất ra hàng hóa, nhưng đó là lao động cần
thiết chứ không phải sự thay đổi hao phí lao động cá biệt. Theo ông nguyên
nhân của sự thay đổi giá trị tương đối của vàng là do tính chất dễ dàng tương
đối của việc khai thác vàng và sự giảm bớt số lao động cần thiết cho việc đó.
Ngay cả sự thay đổi giá trị tương đối của lúa mỡ cũng tựy theo số lượng lao
động cần thiết để thu hoạch, gặt hái... giảm xuống. Điều đó chứng tỏ Ri các
đô đó nhận thức được lượng giá trị hàng hóa không phải được quyết định bởi
hao phí lao động cá biệt mà là hao phí lao động đồng nhất của loài người
được quy định bởi năng suất lao động xó hội. ễng đó chứng minh một cỏch
kiệt xuất rằng giỏ cả hàng húa giảm xuống khi năng suất lao động tăng lên và
xét cho đến cùng thỡ tỷ lệ trao đổi của chúng gắn liền với việc phải bỏ ra bao
nhiêu lao động để sản xuất ra vật này hay vật kia. Ri các đô đó giải thớch
lượng lao động xó hội cần thiết quyết định lượng giá trị hàng hóa. Đây là một


8
bước tiến của ông, song ông lại cho rằng, lượng lao động xó hội cần thiết do
điều kiện sản xuất xấu nhất quyết định. Ông đó phõn biệt giỏ cả với giỏ trị và
đưa ra định nghĩa giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, cũn giỏ trị được
đo bằng số lượng lao động đó hao phớ để sản xuất ra hàng hóa. Giá cả hàng

hóa có thể lên, xuống không cùng chiều với giá trị. Cung và cầu chỉ ảnh
hưởng có tính nhất thời đến giá cả hàng hóa. Theo ông, “Xét đến cùng, giá cả
hàng hóa là do chi phí sản xuất điều tiết”. Việc giảm chi phí sản xuất sẽ làm
cho giá cả hạ xuống ngang với giá cả tự nhiên.
Ông giải thích giá cả tự nhiên “không phải là giá cả thông thường, mà là
giá cả cần thiết để thường xuyên thỏa món được lượng cầu” với một lợi nhuận
thông thường. Chính quan niệm về giá cả tự nhiên nêu trên, chứng tỏ Ri các
đô đó tiếp cận đến giá cả sản xuất - một hỡnh thỏi chuyển húa của giỏ trị
trong điều kiện tự do cạnh tranh, nhưng ông không phân biệt được giá trị và
giá cả sản xuất và lẫn lộn hai khái niệm đó. Ông đó khụng nhận thức được sự
phân phối lại giá trị thặng dư trong quá trỡnh thực hiện nó và việc quy luật giá
trị chuyển hóa thành quy luật giá cả sản xuất. Đa vít Ri các đô cũng đó đề cập
đến lao động phức tạp và lao động giản đơn, nhưng ông đó khụng lý giải được
việc quy lao động phức tạp thành lao động giản đơn trong quá trỡnh trao đổi
hàng hóa.
Học thuyết giá trị của Ri các đô là một cống hiến to lớn cho khoa Kinh tế
chính trị cổ điển. Song không phải ông không có những hạn chế khiếm
khuyết. Mặc dù đó biết được lao động tạo ra giá trị là một thứ lao động không
kể đến hỡnh thức cụ thể của nó, nhưng ông lại không biết được tính chất hai
mặt của lao động sản xuất hàng hóa, nên đó khụng chứng minh được sự
chuyển dịch giá trị tư bản bất biến vào sản phẩm mới diễn ra như thế nào. Do
chưa phân biệt được giá trị và giá cả sản xuất nên Đa vít Ri các đô cũn cú sự
lẫn lộn giữa quy luật giỏ trị với quy luật giỏ cả sản xuất. ễng chưa thấy được
mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị hàng hoá, coi giá trị là phạm trù vĩnh
viễn. Những hạn chế trong lý luận giá trị của ông đó được Mác khắc phục và
hoàn thiện.

Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh nói chung, lý thuyết giỏ trị lao
động của các nhà kinh tế cổ điển Anh nói riêng. Được bắt đầu từ nguyên
lý giá trị lao động của Petty, ông cũng là người đầu tiên trong lịch sử đặt

nền múng cho lý thuyết giỏ trị lao động. Hơn một trăm sau, Ađam Smith
dựa trên cơ sở lý thuyết giỏ trị lao động đó đưa ra và phát triển những


9

học thuyết của mỡnh đưa kinh tế chính trị vào hệ thống. Ricácđô là
người đó đứng vững trên cơ sở lý thuyết giỏ trị lao động đó kết cấu toàn
bộ khoa học kinh tế chớnh trị bằng một nguyờn lý thống nhất. Thời gian
lao động quyết định giá trị hàng hoá. Quá trỡnh nghiờn cứu lý thuyết giỏ
trị lao động, các ông đó cú sự kế thừa, phát triển những nhân tố khoa
học, hợp lý, đồng thời phê phán, gạt bỏ những nhân tố không khoa học,
tầm thường. Chính vỡ thế Ricỏcđô đó đạt đến đỉnh cao lý thuyết giá trị
lao động trong kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh. Những nhân tố khoa
học hợp lý là cơ sở, tiền đề trực tiếp mà C. Mác và Ăngnghen kế thừa có
phê phán và phát triển lên đỉnh cao mới của lý luận giỏ trị trong khoa
học kinh tế chớnh trị tiờn tiến. Tuy nhiờn bờn cạnh những nhõn tố khoa
học, lý thuyết giá trị lao động của cỏc ụng cũng cũn cú nhiều hạn chế.
Chỉ chỳ ý phõn tớch mặt lượng giá trị, ít chú ý đến mặt chất và hoàn
toàn khụng phõn tớch hỡnh thỏi giỏ trị. Đây là một nhược điểm chủ yếu
của kinh tế cổ điển, khuyết điểm này là do thiếu quan điểm lịch sử xem
xét các hàng hoá tiền tệ tư bản là hỡnh thỏi vĩnh viễn, các ông đó cú thế
giới quan mang tớnh duy vật, song phương pháp chủ yếu là mang tính 2
mặt, máy móc, siờu hỡnh; tuy nhiên các ông ít nhiều đó sử dụng thành
cụng phương pháp tự nhiên và phương pháp trừu tượng hoá trong nghiên
cứu. Về chính trị các ông đứng trên lập trường của chủ nghĩa tự do tư
sản. Song có thể khẳng định rằng kinh tế cổ điển nói chung, kinh tế cổ
điển Anh nói riêng có đóng góp to lớn trong khoa học kinh tế chính trị.
Trường phái kinh tế chính trị cổ điển khoa học được coi là một nguồn gốc
của chủ nghĩa Mác. Bản thân Ricácđô được C.Mác đánh giá cao và coi

Ricácđô là cha đẻ của kinh tế chính trị tư sản cổ điển.
Nghiên cứu lịch sử tư tưởng kinh tế nói chung, lý thuyết giá trị lao
động nói riờng cú ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Nú khụng những
nõng cao nhận thức, mà cũn là cơ sở để hiểu sâu sắc hơn học thuyết kinh
tế Mác xít. Đồng thời, thấy rừ bước ngoặt cách mạng trong học thuyết
giá trị do Mác và Ăngghen tiến hành.



×