Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ CỦA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.37 KB, 10 trang )

CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ CỦA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
1. Khái niệm chế độ chính trị:
Thuật ngữ chính trị có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp "politika" có nghĩa là công việc
nhà nước, công việc xã hội. Chính trị cũng được hiểu là hoạt động trong quan hệ
giữa các giai cấp, các dân tộc, các nhà nước. Theo V.I Lênin, cái cơ bản nhất trong
tổ chức chính trị đó là tổ chức chính quyền Nhà nước. Điều đầu tiên trong lĩnh vực
chính trị là tham gia vào công việc nhà nước như thế nào; quy định hình thức,
nhiệm vụ phương hướng và nội dung hoạt động của Nhà nước ra sao. " Bất kỳ một
vấn đề nào cũng có thể trở thành vấn đề chính trị, nếu giải quyết vấn đề đó động
chạm đến quyền lợi giai cấp, chính quyền nhà nước vì vậy chính trị chính là vấn đề
thực hiện quyền lực nhà nước, quyền lực thuộc về ai và phục vụ, bảo vệ quyền lợi
cho ai, cho giai cấp nào, tầng lớp nào trong xã hội” ( V.I Lênin).
Theo tự điển Bách khoa Việt Nam, thuật ngữ "Chế độ chính trị" được hiểu là
nội dung phương thức tổ chức và hoạt động của tổ chức chính trị quốc gia mà trung
tâm là Nhà nước. Chế độ chính trị được cấu thành bởi sự kết hợp các yếu tố : chính
trị, kinh tế - xã hội, tư tưởng văn hóa, pháp luật. Chế độ chính trị được biểu hiện rõ
nét nhất trong mô hình tổ chức nhà nước, trong Hiến pháp của mỗi một nhà nước
quy định về nguồn gốc và tính chất của quyền lực, sự phân bổ và tổ chức các cơ
quan quyền lực nhà nước và mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực, về những
quan hệ của nhà nước với công dân, các đảng phái chính trị, các tổ chức xã hội
giữa các dân tộc trong nước và trên thế giới.
Nhưng nếu xem xét dưới góc độ là một chế định của luật Hiến pháp Việt Nam
thì chế độ chính trị là tổng thể các quy định của chương I, chương đầu tiên của bản
hiến văn, quy định những vấn đề có tính chất nguyên tắc chung làm nền tảng cho
mọi chương sau này. Đó là những quy định nói về bản chất nhà nước, nguồn gốc
nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng đối với mọi hoạt động của nhà nước và xã hội, và
những nguyên tắc cơ bản, tổ chức, hoạt động bộ máy nhà nước.
" Chế độ chính trị" dùng trong các Hiến pháp Việt Nam là thuật ngữ được khái
quát hóa cao tất cả các hoạt động chính trị của xã hội Việt Nam. Hoạt động chính trị



được thể hiện rất nhiều, nhưng chủ yếu vẫn là thông qua hoạt động của các bộ phận
cấu thành nhà nước Việt Nam.
Luật Hiến pháp là luật quy định hoạt động chính trị, tức là luật quy định chế độ
chính trị. Chế độ chính trị là đối tượng điều chỉnh quan trọng bậc nhất của Hiến
pháp. Mỗi một bản Hiến pháp xác định cho xã hội một chế độ chính trị tương ứng.
Khi thay đổi chính trị là cũng cần thay đổi Hiến pháp. Nếu chế độ chính trị không
thay đổi, mà thay đổi Hiến pháp, thì sự thay đổi đó chẳng qua là sự chỉnh lý sửa đổi
mà thôi.
Với tư cách là một chế định của ngành Luật Hiến pháp, chế độ chính trị bao
gồm tổng thể các quy phạm pháp luật được chứa đựng trong chương đầu tiên của
Hiến pháp. Các quy phạm này xác định:
+ Bản chất quyền lực Nhà nước, nguồn gốc quyền lực Nhà nước .
+ Hình thức tổ chức cấu trúc Nhà nước cũng như các nguyên tắc chính của việc tổ
chức Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
+ Chính thể và hệ thống chính trị.
2. Bản chất và nguồn gốc quyền lực của nhà nước Việt nam
Bản chất và nguồn gốc của quyền lực Nhà nước trong khoa học luật Hiến pháp
cũng đồng thời là bản chất, nguồn gốc của Nhà nước. Đây là một vấn đề cơ bản
nhất của Nhà nước cần phải được qui định trong Hiến pháp.
Kể từ khi có Nhà nước Việt Nam mới, từ cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà
nước Việt Nam luôn luôn thể hiện bản chất giai cấp vì nhân dân lao động của mình.
Bản chất của quyền lực Nhà nước của dân, do dân và vì dân, luôn được qui định
thành văn trong các Hiến pháp. Bản chất này luôn được qui định trang trọng trong
những điều đầu tiên của mỗi một bản hiến văn, và trở thành một trong những tiêu
chí cơ bản để khẳng định chính thể cộng hòa của mình.
Khái niệm Nhà nước thuộc về nhân dân trong luật Hiến pháp còn được sử dụng
đồng nghĩa với khái niệm quyền lực nhân dân, khái niệm này còn đồng nghĩa với
khái niệm dân chủ. Trong các Nhà nước quân chủ chuyên chế không thể có khái
niệm quyền lực nhân dân. Ở các Nhà nước đó quyền lực nằm trong tay Hoàng đế,

người được coi là thay trời, thay chúa trị vì nhân dân. Quyền lực Nhà nước luôn
luôn gắn liền với sự thần bí, với tôn giáo. Chủ quyền của quốc gia được coi như là


một thứ tài sản được nhà Vua chiếm hữu, sử dụng, định đoạt và được để lại cho con
cháu nhà vua theo nguyên tắc kế thừa.
Khi cách mạng dân chủ tư sản ra đời, giai cấp tư sản đã thay thế chính thể quân
chủ bằng chính thể cộng hòa; và để chống lại chế độ quân chủ chuyên chế, chế độ
phong kiến cổ hủ bằng các Hiến pháp của mình, giai cấp tư sản đã ghi nhận quyền
lực của nhân dân, chủ quyền của nhân dân. Việc quy định quyền lực nhân dân của
Nhà nước đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của tư tưởng dân chủ của nhân
loại.
Từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 2/9/1945 cho đến ngày
nay quyền lực thuộc về nhân dân bao giờ cũng là nguyên tắc quan trọng nhất trong
việc xây dựng chế độ chính trị của Nhà nước ta. Quyền lực của nhân dân đó là bản
chất của Nhà nước dân chủ nói chung và của Nhà nước ta nói riêng. Điều 6, Hiến
pháp 1980; Điều 2 và Điều 6 trong Hiến pháp 1992 vẫn giữ nguyên nguyên tắc đó
trong đạo luật cơ bản của Nhà nước. Như vậy chúng ta thấy rằng tuy về hình thức
Nhà nước thay đổi về chính thể cộng hòa dân chủ nhân dân (Hiến pháp 1946, Hiến
pháp 1959) sang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và
Hiến pháp 1992 sửa đổi) nhưng bản chất quyền lực thuộc về nhân dân, nguyên tắc
quyền lực nhân dân chỉ hòan thiện thêm chứ không thay đổi.
Nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân (Điều 2 Hiến pháp 1992 sửa
đổi), có nghĩa là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân Việt Nam. Quyền lực
Nhà nước không thể thuộc về một một đẳng cấp, một tổ chức xã hội hay một nhóm
người nào. Quyền lực Nhà nước phải hoàn toàn thuộc về nhân dân lao động bao
gồm giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và những người lao
động khác mà nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân, trí thức. Nhân dân có
quyền tự do thể hiện ý chí của mình và thông qua các đại biểu của mình biến ý chí
đó thành ý chí Nhà nước, thành quy phạm pháp luật buộc mọi thành viên trong xã

hội phải thực hiện.
Hình thức chủ yếu thực hiện quyền lực nhân dân ở nước ta là hình thức dân chủ
đại diện. Đây là hình thức nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua các cơ
quan đại diện của mình, đó là Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp. Quốc hội là
cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra. Quốc hội là


cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất thay mặt cho nhân dân cả nước giải quyết
những công việc quan trọng nhất của đất nước. Như vậy thông qua Quốc hội - cơ
quan quyền lực Nhà nước cao nhất của mình, nhân dân thể hiện quyền làm chủ đất
nước.
Ngoài hình thức dân chủ đại diện nhân dân lao động còn thực hiện quyền lực
của mình dưới hình thức dân chủ trực tiếp. Đó là việc nhân dân trực tiếp tham gia
vào công việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận Hiến pháp và
pháp luật, trực tiếp thể hiện ý chí của mình, khi có trưng cầu dân ý. Nhân dân trực
tiếp bầu ra các đại biểu của mình vào các cơ quan quyền lực Nhà nước trung ương
và địa phương và có quyền bãi miễn các đại biểu đó khi họ tỏ ra xứng đáng với
danh hiệu đại biểu. Các đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội động Nhân dân phải báo
cáo công việc của mình trước cử tri.
Muốn bảo đảm nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân chúng ta phải coi trọng
cả hai hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Hai hình thức này bổ sung
cho nhau, xem nhẹ một hình thức nào cũng sẽ làm hạn chế quyền lực của nhân dân .
3. Hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Hệ thống chính trị nói chung là "một cơ cấu bao gồm nhà nước, các đảng phái,
các đoàn thể, các tổ chức chính trị tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ của pháp
luật hiện hành, được chế định theo tư tưởng giai cấp cầm quyền, nhằm tác động vào
các quá trình kinh tế - xã hội với mục đích duy trì và phát triển chế độ đó". Xuất
phát từ bản chất của chế độ chính trị và những điều kiện lịch sử cụ thể, hệ thống
chính trị của mỗi nước cũng có những đặc thù riêng. Hệ thống chính trị của nước ta
hình thành và phát triển trong quá trình đấu tranh cách mạng, chính thức ra đời từ

cách mạng tháng Tám và ngày càng hoàn thiện.
Theo những qui định trong chương I, Hiến pháp năm 1992, hệ thống chính trị
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm: Đảng cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, Công đoàn, Hội nông dân , Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ. Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị-xã hội khác hoạt động trên cơ sở lấy giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản để thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
*Vị trí, vai trò của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong hệ thống chính trị


Lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển nhà nước ở nước ta cũng như các nước xã hội
chủ nghĩa đều gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản. Sự sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội ở Liên xô và các nước Đông Âu trước đây đã chỉ ra rằng: “Khi Đảng
của giai cấp công nhân bị mất quyền lãnh đạo nước, thì chính quyền cũng không
còn nằm trong tay nhân dân và chế độ xã hội thay đổi” (Trích văn kiện Đại hội
Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII). Vì thế, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng là
nhân tố quyết định việc giữ vững bản chất giai cấp của nhà nước.
Đảng cộng sản là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị nhưng Đảng là
hạt nhân của hệ thống đó. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới và xây dựng chủ
nghĩa xã hội, vị trí hạt nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị
lại càng thể hiện một cách rõ nét và đầy đủ. Đương nhiên để giữ được vị trí và vai
trò của mình, Đảng “phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường
xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực lãnh
đạo” (trích trang 22 - “Đảng cộng sản Việt Nam - Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội “ NXB. Sự thật - 1991). Trong lịch sử
Hiến pháp Việt Nam, vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ th
ống chính trị luôn được thể hiện trong các bản Hiến pháp. Tuy nhiên, cách thể hiện
có khác nhau:
Hiến pháp năm 1946 mặc dù thực tế cách mạng vẫn dưới sự lãnh đạo đạo của
Đảng, của giai cấp công nhân nhưng do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ chưa đề cập

công khai. Biểu hiện là chế định Chủ tịch nước thể hiện tập trung quyền lãnh đạo
của Đảng (Hồ Chủ Tịch là người sáng lập đồng thời là vị Chủ tịch đầu tiên). Ở đây
sự lãnh đạo của Đảng được đảm bảo bằng người đứng đầu Đảng đồng thời là người
đứng đầu bộ máy nhà nước; thông qua đó mà đường lối, chính sách và quan điểm
của Đảng được thực hiện và trở thành hiện thực trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước.
Hiến pháp năm 1959 đã thể hiện quyền lãnh đạo của Đảng một cách công khai
mặc dù chỉ trong Lời nói đầu: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam,
Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chủ tịch Hồ Chí Minh... Nhân dân
ta nhất định xây dựng thành công một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh...”


Hiến pháp năm 1980 đã thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng một cách cụ thể và
mạnh mẽ hơn (cả trong lời nói đầu và Điều 4 Hiến pháp). Lần đầu tiên, thuật ngữ
mới “Hiến pháp thể chế hóa đường lối của Đảng” được sử dụng.
Hiến pháp năm 1992 đã có cách thể hiện ngắn gọn hơn, chặt chẽ hơn đồng thời
cũng đúng mức hơn vai trò lãnh đạo của Đảng. Điều 4 ghi rõ: “Đảng cộng sản Việt
Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền
lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa
Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Về thực chất, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là lãnh đạo
chính trị mang tính định hướng, tạo điều kiện để Nhà nước và các tổ chức thành
viên của hệ thống chính trị có cơ sở để chủ động sáng tạo trong tổ chức và hoạt
động bằng những công cụ, phương pháp và biện pháp cụ thể cuả mình. Phương
pháp để thực hiện nhữngnhữngquyền lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là những
phương pháp dân chủ, giáo dục, thuyết phục và dựa vào uy tín, năng lực của các
Đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng.
So với các Đảng chính trị cầm quyền trong các nhà nước khác, vị trí, vai trò lãnh

đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và xã hội có những đặc trưng
riêng như: Quyền lãnh đạo của Đảng được ghi nhận trong Hiến pháp; cơ sở chính trị
xã hội của Đảng rất rộng rãi; sự lãnh đạo của Đảng được tất cả các tổ chức chính trị
xã hội thừa nhận; Đảng là đại biểu trung thành cho quyền lợi của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc... Vì vậy, những chủ trương và quan
điểm lớn của Đảng thường được mọi tầng lớp nhân dân quan tâm, tham gia góp ý
kiến từ khi soạn thảo và tích cực ủng hộ, tổ chức thực hiện trên thực tế.
Những năm vừa qua, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội đã có nhiều tiến bộ, tạo tiền đề cho việc kiện toàn và phát huy vai trò và hiệu lực
quản lý của Nhà nước, xây dựng và đổi mới hệ thống chính trị, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân. Tuy nhiên, sự lãnh đạo của Đảng vẫn chưa được tăng cường
đúng mức. Tình trạng Đảng viên làm thay, can thiệp sâu vào công việc thuộc chức
năng của Nhà nước vẫn còn tồn tại, chưa phát huy hết khả năng của các tổ chức
chính trị xã hội trong hệ thống chính trị và quyền làm chủ của nhân dân. Để khắc


phục khuyết điểm này, Đảng ta đã chủ trương và kiên quyết tự đổi mới và chấn
chỉnh, phát huy ở tầm cao hơn bản lĩnh và sức chiến đấu của Đảng đặc biệt là về
năng lực tổ chức, chỉ đạo thực hiện, vươn lên ngang tầm đòi hỏi đối với trách nhiệm
lãnh đạo đất nước trong giai đoạn mới.
*Nhà nước có vị trí trung tâm và vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị nước
ta.
Bởi vì quyền lực chính trị bao giờ cũng thể hiện tập trung ở quyền lực nhà nước,
tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị về căn bản luôn phải dựa trên cơ sở của
pháp luật do Nhà nước ban hành, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị phụ
thuộc rất nhiều vào sức mạnh và hiệu lực quản lý Nhà nước, Nhà nước là một bộ
phận hợp thành của hệ thống chính trị nhưng nó luôn đứng ở vị trí trung tâm của hệ
thống đó và giữ vai trò quan trọng, là công cụ để thực hiện quyền lực nhân dân, giữ
gìn trật tự kỷ cương và bảo đảm công bằng xã hội.
So với các tổ chức thành viên khác của hệ thống chính trị, Nhà nước có những

đặc điểm (cũng có thể gọi là ưu thế) sau đây:
+ Nhà nước là đại diện chính thức của toàn bộ dân cư, là tổ chức rộng lớn nhất
trong xã hội; Nhà nước quản lý tất cả mọi công dân và cư dân trong phạm vi lãnh
thổ của mình.
+ Nhà nước có chủ quyền tối cao trong lĩnh vực đối nội cũng như đối ngoại, có bộ
máy quyền lực và có sức mạnh để bảo đảm thực hiện quyền lực chính trị và bảo vệ
chế độ chính trị của nhà nước.
+ Nhà nước có pháp luật, công cụ có hiệu lực nhất để thiết lập trật tự k ỷ cương,
quản lý mọi mặt đời sống xã hội.
+ Nhà nước là chủ sở hữu lớn nhất trong xã hội, có đủ điều kiện và sức mạnh vật
chất để tổ chức và thực hiện quyền lực chính trị, quản lý đất nước và xã hội; đồng
thời Nhà nước còn có thể bảo trợ cho các tổ chức khác trong hệ thống chính trị để
thực hiện các hoạt động của mình.
Qua hơn 50 năm xây dựng v à phát triển, Nhà nước ta luôn giữ vị trí trung tâm
của hệ thống chính trị, phát huy vai trò lớn trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất
nước, là công cụ chủ yếu để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Nguyên
tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” đã được ghi nhận trong tất cả


bốn bản Hiến pháp, là cơ sở để tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước theo tư
tưởng Hồ Chí Minh:” Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân,
bao nhiêu quyền hạn đều của dân... quyền hành và lực lượng đều ở nhân dân”.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm và những thành tựu đã đạt được, Nhà nước
ta còn bộc lộ nhiều khuyết điểm và yếu kém như: Tổ chức bộ máy cồng kềnh; nạn
quan liêu, lãng phí, tham nhũng còn nghiêm trọng; việc thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ còn yếu; đội ngũ và trình độ cán bộ, công chức nhìn chung chưa
ngang tầm với nhiệm vụ... hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, chưa tạo đủ khuôn khổ
pháp lý cần thiết; việc thi hành pháp luật chưa nghiêm, kỷ luật, kỷ cương còn lỏng
lẻo. Để củng cố và kiện toàn bộ máy nhà nước ta cần phải thực hiện một số nhiệm
vụ quan trọng sau đây:

+ Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội trên hai bình diện căn bản là: Đẩy
mạnh hoạt động lập pháp của Quốc hội và tăng cường công tác giám sát của Quốc
hội.
+ Thực hiện việc cải cách nền hành chiïnh nhà nước trên ba hướng là: Cải cách thể
chế hành chính; chấn chỉnh tổ chức bộ máy và qui chế hoạt động của bộ máy hành
chính; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ngang tầm với nhiệm vụ.
+ Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.
+ Phát huy quyền làm chủ nhà nước của nhân dân.
+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.
*Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên:
Những tổ chức chính trị - xã hội hay đoàn thể quần chúng lớn, có ảnh hưởng sâu
rộng như Mặt trận Tổ quốc Việt nam, Công đoàn, Hội nông dân, Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt nam... là các bộ phận hợp thành
hệ thống chính trị.
Trong hệ thống chính trị nước ta, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên có
vai trò quan trọng. Điều 9 Hiến pháp ta qui định: Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức thành viên của nó là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận
phát huy đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong
nhân dân, giáo dục và động viên nhân dân đề cao ý thức làm chủ đất nước, ra sức
thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc.


Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động Việt nam tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
nam, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt nam, cùng với các cơ
quan nhà nước, công đoàn chăm lo đời sống và bảo đảm quyền lợi của công nhân
viên chức.
Hội nông dân Việt nam là tổ chức đoàn kết, giáo dục nâng cao ý thức và năng
lực làm chủ của nông dân nhằm hướng dẫn những người sản xuất nhỏ đi lên chủ
nghĩa xã hội. Hội nông dân Việt nam kiến nghị với nhà nước những vấn đề cần thiết

trong chính sách nông nghiệp, giúp đỡ nhà nước trong việc xây dựng pháp luật quản
lý nông nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân.
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức giáo dục và rèn luyện th ế hệ
trẻ, là đội hậu bị, là cánh tay đắc lực của Đảng, đồng thời cũng là nguồn cung cấp
cán bộ trẻ cho các cơ quan nhà nước và các tổ chức quần chúng.
Hội liên hiệp phụ nữ là tổ chức đoàn kết rộng rãi, động viên giáo dục các tầng lớp
phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng của mình với nam giới đồng thời nhận thức rõ vai
trò đặc biệt của phụ nữ trong việc làm mẹ và giáo dục các thế hệ thanh thiếu niên.
Trong hệ thống chính trị nước ta, Mặt trận Tổ quốc và các thành viên Mặt trận là cơ
sở chính trị của chính quyền nhân dân có những nhiệm vụ quan trọng sau đây:
+ Tham gia thành lập các cơ quan nhà nước
Điều 30 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Điều 26 Luật bầu cử Hội đồng nhân dân
đều qui định: Mặt trận tổ quốc Việt Nam chủ trì việc hiệp thương với các tổ chức xã
hội khác để giới thiệu người ra ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân. Đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức xã hội khác trong Mặt trận
là những thành viên trong các tổ chức bầu cử như Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử, Tổ
bầu cử...
+ Tham gia xây dựng pháp luật
Hiến pháp nước ta qui định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên của Mặt trận có quyền trình các dự án luật trước Quốc hội và trình các dự án
pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.
+ Tham gia quản lý nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà
nước


Hiến pháp qui định các tổ chức xã hội có quyền tham gia vào các công việc nhà
nước, tham gia quản lý nhà nước. Luật tổ chức Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Quốc
hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Toà án, Luật tổ chức Viện kiểm sát, Luật
tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cùng nhiều luật khác đều có qui
định về vấn đề này.

+ Tham gia tuyên truyền Hiến pháp và pháp luật, giáo dục công dân ý thức chấp
hành pháp luật, đấu tranh bào vệ pháp luật, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của
công dân.
Trong đời sống chính trị đất nước ta, Mặt trận và các tổ chức thành viên của
Mặt trận có vai trò rất quan trọng để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình,
tạo nên sức mạnh tổng hợp trong công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc
Việt nam xã hội chủ nghĩa.



×