Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.32 KB, 10 trang )


A. Đặt Vấn Đề.
Quốc hội Việt Nam là một cơ quan quan trọng trong hệ thống chính trị Việt Nam,
là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân Việt Nam và là cơ quan quyền lực Nhà
nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Vậy tại sao Quốc hội
lại là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất? Điều này đã được thể hiện như thế nào?
Đây không chỉ là vấn đề tìm hiểu của các nhà chính trị mà còn là một vấn đề cần sự
quan tâm của tất cả những người dân Việt Nam.
Là một sinh viên luật lại càng cần thiết phải tìm hiểu, trên quy mô của một bài tập
học kì em xin chọn đề tài “Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Với trình độ hiểu biết còn hạn chế bài
viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu xót, kính mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của thầy cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn
các thầy cô!.
B. Giải Quyết Vấn Đề.
I. Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước công hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam qua các bản Hiến pháp.
Trong bộ máy nhà nước ta, Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Theo hiến
pháp năm 1992, ở nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân (điều 2). Quyền lực nhà nước được xác định là thuộc về nhân
dân nhưng nhân dân không trực tiếp sử dụng quyền lực đó mà trao cho Quốc hội để
thay mặt mình sử dụng quyền lực nhà nước, chính vì vậy Quốc hội là cơ quan có
quyền lực cao nhất. Quyền lực của Quốc hội là quyền lực của nhân dân - những người
làm chủ đất nước trao cho, Quốc hội nhận quyền lực trực tiếp từ nhân dân. Hơn nữa,
nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc quyền
lực nhà nước là tập trung thống nhất, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do
đó Quốc hội chính là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân quyền lực nhà nước cao
nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyền lực tập trung vào quốc
hội, quốc hội giao quyền cho các cơ quan khác như chính phủ, tòa án nhân dân tối
cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao,…
Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội được Hiến pháp quy định. Trong


Hiến pháp năm 1946, điều 22 quy định “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao
nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”, thẩm quyền của Quốc hội được quy định
chung tại Điều 23 là “Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn
quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ
ký với nước ngoài”. Ngoài quy định chung tại Điều 23, nhiệm vụ và quyền hạn của
Nghị viện còn được thể hiện tại Điều 25 “Nghị viện không chỉ thay mặt cho địa
1

phương mình mà còn thay mặt cho toàn thể nhân dân”; Nghị viện nhân dân có quyền
bỏ phiếu bầu Chủ tịch nước tại Điều 45; bầu cử Thủ tướng và các bộ trưởng tại Điều
47 và chế độ trách nhiệm của Thủ trưởng, bộ trưởng trước Nghị viện nhân dân tại
Điều 54.
Hiến pháp năm 1959 khẳng định “Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao
nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Như vậy, so với Hiến pháp năm 1946,
Hiến pháp năm 1959 đã có bước phát triển mới qua việc khẳng định “Quốc hội là cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất; là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa”.
Hiến pháp năm 1980 tiếp tục khẳng định vị trí của Quốc hội là “cơ quan quyền lực
Nhà nước cao nhất” của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như Hiến pháp
năm 1959 đã quy định. So với hai bản Hiến pháp trước đây, điểm mới thứ nhất rất
quan trọng là lần đầu tiên, Hiến pháp năm 1980 quy định chức năng đại diện của
Quốc hội, theo đó “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân”. Đây chính
là căn cứ pháp lý quan trọng để cụ thể hóa chức năng đại diện của Quốc hội trong
Luật tổ chức Quốc hội năm 1981.
Điểm mới thứ hai là mở rộng phạm vi thẩm quyền của Quốc hội trong việc thực
hiện chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Theo Điều 82 của
Hiến pháp năm 1980, “Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và
đối ngoại, những mục tiêu phát triển kinh tế và văn hóa, những quy tắc chủ yếu về tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công
dân”. Như vậy, về mặt pháp lý, thẩm quyền của Quốc hội trong lĩnh vực này là rất

rộng và được quy định khá rõ ràng hơn so với Hiến pháp năm 1959.
Điểm mới thứ ba là lần đầu tiên, Hiến pháp năm 1980 đã xác định tính chất và đặc
điểm chức năng giám sát của Quốc hội là “giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động
của Nhà nước” Quy định này là căn cứ pháp lý quan trọng để phân định rõ hoạt động
giám sát của Quốc hội với các hình thức giám sát khác việc thi hành pháp luật ở nước
ta. Điểm mới này cũng gián tiếp khẳng định vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định vị trí của Quốc hội là cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội có ba chức năng cơ bản là lập pháp, quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của đất
nước. Điểm sửa đổi quan trọng trong Hiến pháp năm 1992 là bãi bỏ quy định Quốc
hội có thể định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết
của Hiến pháp năm 1980.
2

Đến năm 2001, Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung, trong đó có một số quy
định mới điều chỉnh nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội nhằm khẳng định vai trò của
Quốc hội trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Cụ thể là ở Điều
84 của Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10
quy định Quốc hội: “phân bổ ngân sách trung ương”; “quyết định chính sách tôn giáo
của Nhà nước”; “phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội
đồng quốc phòng và an ninh; bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ
do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn” và “phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ
tịch nước trực tiếp ký”.
Vai trò của Quốc hội còn được tăng cường trong việc xem xét và quyết định các
vấn đề về nhân sự cấp cao. Trước năm 2001, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm
1992 đều giao cho cơ quan thường trực của Quốc hội là Hội đồng Nhà nước, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội có quyền phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của

Chính phủ và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội. Điều khoản sửa
đổi của Hiến pháp năm 1992 đã bãi bỏ thẩm quyền này của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội để bảo đảm Quốc hội là chủ thể duy nhất có quyền quyết định nhân sự cấp cao
của nhà nước. Trong Báo cáo trình Quốc hội về vấn đề này, Uỷ ban dự thảo sửa đổi,
bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 cho rằng đây là vấn đề quan trọng, phải
thuộc thẩm quyền của Quốc hội, không nên giao cho cơ quan khác thực hiện. Về mặt
thời gian, mỗi năm Quốc hội họp hai kỳ, thời gian giữa hai kỳ họp không dài. Do đó,
việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức những người giữ các chức danh này không
nhất thiết phải tiến hành trong thời gian Quốc hội không họp. Như vậy, việc bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ
tịch Quốc hội và các ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ,
Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê
chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; phê chuẩn đề nghị
của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh sau khi
Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi vào năm 2001 là hoàn toàn thuộc thẩm quyền của
Quốc hội, thể hiện tinh thần và mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Ngoài được thể hiện trong Hiến pháp ra nó còn được thể hiện trong Luật tổ chức
Quốc hội năm 2001. Cụ thể tại điều 1 của Luật tổ chức Quốc hội nêu rõ ‘‘Quốc hội là
cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam’’.
3

II. Những biểu hiện thể hiện Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của quốc hội.
Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội thay mặt nhân dân thực hiện
quyền lực Nhà nước thống nhất. Tính quyền lực nhà nước của Quốc hội thể hiện ở
thẩm quyền của Quốc hội và được cụ thể hoá thành các chức năng và nhiệm vụ,

quyền hạn cụ thể. Quốc hội vừa mang chủ quyền nhà nước vừa mang chủ quyền nhân
dân. Quốc hội nắm giữ quyền lực tối cao của nhà nước, thay mặt nhân dân thực hiện
quyền làm chủ.
Quốc hội nước ta có ba chức năng: lập hiến, lập pháp; quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Các chức năng trên của Quốc hội được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ và quyền hạn
của quốc hội.
1.1. Trong lĩnh vực lập hiến và lập pháp
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền thông qua Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp,
thông qua Luật và sửa đổi Luật. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, qui định
các vấn đề quan trọng nhất về quyền lực Nhà nước và cách thức tổ chức quyền lực
Nhà nước, về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chế độ văn hoá - xã hội, về cơ cấu tổ
chức bộ máy Nhà nước, về quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân… Hiến pháp và Luật thể hiện đường lối cơ bản và những chủ
trương lớn của Đảng đã được Nhà nước thể chế hoá và có hiệu lực thi hành trên toàn
lãnh thổ nước ta. Luật là văn bản có hiệu lực pháp lý cao sau Hiến pháp.
Các văn bản qui phạm pháp luật khác do các cơ quan nhà nước ban hành phải căn
cứ vào Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội và không được trái với tinh thần,
nội dung của Hiến pháp, Luật và Nghị quyết của Quốc hội.
1.2. Trong lĩnh vực quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, qui định những nguyên tắc chủ
yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động
của công dân.
Những vấn đề quan trọng của đất nước do Quốc hội quyết định gồm có:
Về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước ở trung ương: Quốc hội bầu,
miễn nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc
hội, thành lập Chính phủ, bầu Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định thành lập, bãi bỏ các bộ và các cơ quan ngang
4


bộ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương...
Về lĩnh vực kinh tế- ngân sách: Quốc hội quyết định kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân
sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương; chính sách dân tộc, chính sách tôn
giáo, quyết định đại xá;
Vấn đề chiến tranh và hoà bình, Quốc hội quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện
pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;
Về đối ngoại, Quốc hội phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế mà nước ta là
thành viên theo tờ trình của Chủ tịch nước.
1.3. Trong lĩnh vực giám sát tối cao của Quốc hội
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước
nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động của Nhà nước đúng pháp luật vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đối tượng giám sát của Quốc hội là
việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; hoạt động của các cơ quan
Nhà nước ở trung ương là Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Các cơ quan này
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Quốc hội hoạt động theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số. Các vấn đề
được Quốc hội quyết định đều phải được tập thể các đại biểu Quốc hội xem xét và chỉ
được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết đồng ý, trừ
trường hợp sửa đổi Hiến pháp là phải có hai phần ba tổng số đại biểu tán thành.
Hiến pháp năm 1992 quy định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, trong đó phải kể đến nguyên tắc tập trung dân chủ mà nội dung của nguyên tắc
này là quyền lực nhà nước phải được triển khai thống nhất, xuyên suốt... và quyền lực
đó phải chịu sự giám sát của nhân dân hay của các cơ quan đại diện.
Cụ thể hóa quy định Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động
của nhà nước, điều khoản sửa đổi của Hiến pháp năm 1992 quy định Uỷ ban thường
vụ Quốc hội chỉ có quyền trực tiếp hủy bỏ những văn bản trái với pháp lệnh, nghị

quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội còn những văn bản trái với Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội thì chỉ có quyền đình chỉ và trình lên Quốc hội xem xét việc
hủy bỏ trong kỳ họp gần nhất (Điều 91 khoản 5 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi,
bổ sung năm 2001). Chức năng giám sát tối cao của Quốc hội còn được quy định chi
tiết hơn trong Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội (2003), theo đó, quyền giám
sát tối cao của Quốc hội được thực hiện qua các cơ quan của Quốc hội và của đại
biểu Quốc hội.
5

×