Tải bản đầy đủ (.doc) (211 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH cơ cấu LAO ĐỘNG THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP hóa HIỆN đại hóa ở VÙNG ĐỒNG BẰNG bắc bộ nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.23 MB, 211 trang )

5

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đồng bằng Bắc Bộ là một vùng châu thổ rộng lớn ở miền Bắc nước
ta,được hình thành do phù sa của hai hệ thống sông Hồng và sông Thái
bình bồi đắp; đây cũng là nơi khai sinh ra nền văn minh sông Hồng rực rỡ
với cây lúa nước nổi tiếng. Trải qua các thời kỳ lịch sử, đến nay ĐBBB đã
vươn lên trở thành vùng lãnh thổ có vai trò rất quan trọng trong đời sống
kinh tế - xã hội của đất nước. Với những tiềm năng và thế mạnh của mình,
vùng không chỉ trở thành một trong hai vựa lúa chính của cả nước mà còn
có những đóng góp đáng kể vào giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của
nền kinh tế quốc dân.
Trong những năm qua, nhờ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, ĐBBB
nói chung và khu vực nông nghiệp, nông thôn của vùng nói riêng đã có sự
phát triển vượt bậc, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của vùng đã chuyển đổi
tích cực theo hướng: Giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp xây dựng và dịch vụ. Có thể nói, đây là sự chuyển biến rất đáng mừng, phù
hợp với xu hướng vận động có tính quy luật của quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động đã từng diễn ra ở các nước trên thế giới.
Tuy vậy, cho đến nay, tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động nông nghiệp, nông thôn của vùng vẫn còn diễn ra khá chậm. Điều này
được thể hiện không chỉ ở qui mô, tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề;
trình độ trang bị kỹ thuật - công nghệ; chất lượng của nguồn lao động... mà
còn ở cả trình độ tổ chức sản xuất và tổ chức lao động. Những yếu kém trên
trong thực tế đã trở thành các lực cản không nhỏ làm chậm quá trình tăng
trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Chính vì vậy, đẩy nhanh quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn của
vùng theo hướng CNH, HĐH để đáp ứng được những yêu cầu đặt ra trong



6
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm 2020 đã trở thành vấn
đề kinh tế rất bức xúc. Xuất phát từ thực tế đó, tác giả luận án đã quyết
định lựa chọn đề tài: "Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nước ta" làm đề
tài nghiên cứu, với hy vọng có thể góp thêm được tiếng nói của mình vào
việc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi nói trên của vùng ĐBBB trong thời
gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động cũng đã được các chuyên gia quan tâm nghiên cứu, trong đó
trước tiên phải kể tới công trình của một số tác giả sau đây:
- "Về cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ" - Viện Mác - Lênin, Nxb Thông
tin lý luận, Hà Nội, 1987.
- "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nền kinh tế quốc dân" - GS.TS Ngô Đình giao, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1994.
- "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển các ngành trọng
điểm, mũi nhọn ở Việt Nam" - PGS.TS Đỗ Hoài Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1996.
- "Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn nhằm tạo việc làm, sử
dụng hợp lý nguồn lao động vùng đồng bằng sông Hồng" - Luận án PTS
Khoa học Kinh tế, Trần Thị Tuyết, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 1996.
- "Chuyển dịch cơ cấu lao động ở một huyện vùng đồng bằng sông
Hồng" - Đại học Kinh tế quốc dân, Chủ nhiệm đề tài PGS.TS Phạm Đức
Thành, Hà Nội 1997.
- "Chuyển dịch cơ cấu lao động với tạo việc làm ở tỉnh Hà Tây
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa" - Đại học Kinh tế quốc dân,
Chủ nhiệm đề tài PGS.TS Phạm Đức Thành, Hà Nội 1998.



7
...
Ngoài ra, còn có một số bài của các tác giả khác viết về vấn đề chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động đã được đăng tải trên tạp chí như:
- "Mấy vấn đề về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn vùng đồng bằng sông Hồng" - Bạch Hồng Việt, Tạp chí Nghiên cứu
kinh tế, 4/1996.
- "Những biện pháp tích cực nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ở đồng bằng sông Hồng" - Vũ Phạm Quyết Thắng, Tạp
chí Nghiên cứu kinh tế, 4/1996.
- "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Thực trạng 1996 - 1998,
triển vọng 1999 - 2000" - Nguyễn Lâm, Tạp chí Thông tin tài chính, 12/1998.
v.v...
Nhưng các công trình trên hoặc chỉ đi sâu xem xét riêng từng vấn
đề trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động; hoặc chỉ giới hạn lại
trong phạm vi nghiên cứu đã định, chưa có luận án Phó tiến sĩ hay Tiến sĩ
nào đi sâu nghiên cứu vấn đề chuyển đổi cơ cấu lao động trên cơ sở có sự
gắn kết chặt chẽ với quá trình phát triển của CNH, HĐH đã và đang diễn ra
ở vùng ĐBBB nước ta. Vì vậy, đây là một đề tài mới, không trùng với một
đề tài luận án Phó tiến sĩ hoặc Tiến sĩ nào đã bảo vệ trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận án: Làm rõ vị trí, vai trò, tiềm năng và thực trạng
quá trình CDCCLĐ theo hướng CNH, HĐH trong nông nghiệp, nông thôn
vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. Trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và
các giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh quá trình CDCCLĐ theo hướng CNH,
HĐH trong nông nghiệp, nông thôn của vùng thời gian tới.
Nhiệm vụ của luận án:



8
- Góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về CDCCKT và
CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với
CNH, HĐH.
- Làm rõ thực trạng quá trình CDCCLĐ theo hướng CNH, HĐH trong
nông nghiệp, nông thôn ĐBBB trên cơ sở có sự kết hợp với việc phân vùng
lãnh thổ theo đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội.
- Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình CDCCLĐ theo
hướng CNH, HĐH trong nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBBB nước ta thời
gian tới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận án được thực hiện trên cơ sở những luận điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, của kinh tế học về CDCCLĐ trong nông nghiệp, nông
thôn; các nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước có liên
quan đến nông nghiệp, nông thôn.
- Luận án đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; phương pháp phân tích
thống kê; phương pháp so sánh chuỗi số liệu theo thời gian; điều tra khảo sát
thực tế; lý luận cơ bản về khoa học phân bố và sử dụng nguồn lao động và
đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
- Nêu rõ những xu hướng vận động cơ bản của quá trình CDCCLĐ
theo hướng CNH, HĐH trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam.
- Phân tích thực trạng CDCCLĐ theo hướng CNH, HĐH trong nông
nghiệp, nông thôn ĐBBB trên cơ sở có sự kết hợp với việc phân vùng lãnh
thổ theo điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội.


9
- Đưa ra các quan điểm và phương hướng CDCCLĐ theo hướng

CNH, HĐH trong nông nghiệp, nông thôn ĐBBB trong thời gian tới.
- Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình CDCCLĐ theo
hướng CNH, HĐH trong nông nghiệp, nông thôn ĐBBB thời gian tới.
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là sự CDCCLĐ theo hướng
CNH, HĐH ở vùng ĐBBB, bao gồm 11 tỉnh thành phố là: Hà Nội, Hải Phòng,
Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Tây, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Nam Định,
Thái Bình và Ninh Bình.
- Phạm vi nghiên cứu của luận án chỉ dừng lại ở trong khu vực nông
nghiệp, nông thôn của vùng ĐBBB, bởi đây là địa bàn rộng, có quy mô dân số
lớn nhưng CCLĐ còn lạc hậu và chuyển dịch chậm.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
được kết cấu thành 3 chương, 10 tiết.


10

Chương 1
NHỮNG LUẬN CỨ KHOA HỌC CỦA QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA TRONG NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VIỆT NAM

1.1. VỊ TRÍ CỦA NÔNG THÔN VIỆT NAM TRONG CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẤT NƯỚC

Như lịch sử đã cho thấy, sau khi diễn ra cuộc cách mạng phân công
lao động xã hội lần thứ hai với nội dung cơ bản là: Tách thủ công ra khỏi
nông nghiệp thì thành thị đã ra đời. Kể từ mốc lịch sử trên, nền sản xuất xã
hội đã chính thức hình thành nên hai khu vực là: Kinh tế đô thị và kinh tế

nông thôn. Từ đó đến nay, mặc dù xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn phát
triển khác nhau, nhưng kinh tế nông thôn vẫn luôn đóng một vai trò quan
trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của các nước trên thế giới, nhất là đối
với các nước đang phát triển.
Riêng đối với nước ta, một quốc gia đang còn là một nước nông
nghiệp lạc hậu, với 79,8% lực lượng lao động xã hội làm nghề nông thì
nông thôn lại càng trở nên có vị trí quan trọng hơn bao giờ hết. Để thấy
được vị trí quan trọng của khu vực nông thôn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, trước hết cần hiểu rõ thế nào là nông thôn và nội hàm
của khái niệm quan trọng này.
Có thể nói, cho đến nay các nhà nghiên cứu chưa thống nhất được
một định nghĩa cơ bản về nông thôn. Sở dĩ như vậy là do giữa họ chưa có
sự thống nhất với nhau trong việc lựa chọn tiêu chí cơ bản đại diện cho bộ
mặt của nông thôn. Để phản ánh được những đặc trưng cơ bản của nông
thôn, chúng tôi cho rằng định nghĩa của Lê Nghiêm về nông thôn là một
định nghĩa có thể đáp ứng được yêu cầu đó. Theo tác giả, nông thôn là


11
vùng có một cộng đồng dân cư sinh sống và làm việc, trong đó chủ yếu là
nông dân. ở đó có mật độ dân cư, kết cấu hạ tầng và trình độ phát triển sản
xuất hàng hóa cũng như khả năng tiếp cận thị trường thường thấp hơn so
với đô thị [50].
Như vậy, theo cách tiếp cận trên nếu đô thị là không gian cư trú
của cộng đồng người sống tập trung và hoạt động trong những khu vực
kinh tế phi nông nghiệp thì nông thôn lại là không gian sinh sống, làm
việc của cộng đồng dân cư với nghề nghiệp chủ yếu là nghề nông. Do
đó, sự khác nhau về nghề nghiệp sinh sống giữa đô thị và nông thôn
không chỉ phản ánh những khác biệt trong thói quen lao động, mà còn
cho biết cả sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa hai khu vực.
Vì có những điều kiện kinh tế, lịch sử riêng, nên nông thôn nói

chung có những đặc trưng cơ bản sau:
- Là vùng sinh sống và làm việc của một cộng đồng dân cư, trong
đó chủ yếu là nông dân. Ở góc độ dân số và lao động, đây chính là địa bàn
tập trung sinh sống của một bộ phận dân cư làm nghề nông.Vì vậy, ngoài
việc là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm và một số sản phẩm cần thiết
khác cho đời sống xã hội ra, nông thôn còn là nơi cung cấp lao động và đầu
vào cho công nghiệp, dịch vụ để các ngành này có điều kiện đầu tư trở lại
vào nông thôn hoặc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình.
- Là khu vực có kết cấu hạ tầng, trình độ phát triển sản xuất
hàng hóa và khả năng tiếp cận thị trường thấp hơn so với đô thị. Đặc
trưng này cho thấy, trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn nói
chung và trong các nước đang phát triển nói riêng, còn kém hơn so với đô
thị. Do đó, trong nông thôn thường tồn tại những mâu thuẫn phản ánh sự mất
cân đối giữa quy mô của dân số với khả năng đáp ứng nhu cầu về việc làm,
thu nhập từ các ngành nghề. Vì vậy, nếu không quan tâm đến đầu tư phát triển
nông nghiệp và kinh tế nông thôn thì những mâu thuẫn nói trên sẽ ngày càng


12
trở nên gay gắt hơn, làm phát sinh các nhân tố gây mất ổn định về kinh tế - xã
hội cho khu vực.
- Nông thôn cũng là nơi có đời sống, trình độ văn hóa và khoa
học - công nghệ thấp hơn đô thị. Thực tế cho thấy, do trình độ phát triển
kinh tế - xã hội nói chung của nông thôn thường thấp hơn so với đô thị, nên
đời sống vật chất, tinh thần của dân cư ở đây chưa theo kịp với mức sống
chung của xã hội. Chính vì vậy trình độ văn hóa cũng như khả năng tiếp
nhận, triển khai những thành tựu khoa học - công nghệ vào đời sống và
sản xuất ở nông thôn có nhiều hạn chế. Do có sự chênh lệch này nên dân
cư sinh sống ở nông thôn thường xuyên phải chịu tác động của lực hút
rất mạnh từ đô thị. Đây chính là nguyên nhân cơ bản của tình trạng di

dân và lao động từ nông thôn ra đô thị, làm tăng thêm sự bất hợp lý trong
phân bố dân cư và lao động cũng như các vấn đề kinh tế - xã hội khác của
đất nước.
- Nông thôn là vùng lãnh thổ rộng lớn, có sự đa dạng về điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển. Điều này đòi hỏi
trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, cần có
sự lựa chọn hình thức tổ chức và phương pháp quản lý cho phù hợp để có
thể khai thác hết được tiềm năng còn đang ẩn dấu.
Đối với nước ta, nông thôn là một khu vực rộng lớn, là vùng sinh
sống và làm việc của gần 80% dân số cả nước, nên có vị trí rất quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đảng ta cũng
khẳng định: "Xây dựng nông thôn, đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn
lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài, là
cơ sở để ổn định tình hình kinh tế chính trị xã hội" [18].
Sở dĩ phải đặt nông thôn lên vị trí quan trọng như vậy là do các lý
do cơ bản sau đây:


13
Một là, nông thôn hiện nay là một khu vực kinh tế quan trọng của
đất nước, hàng năm đóng góp khoảng trên 30% tổng sản phẩm quốc nội
(GDP).
Hai là, với tỷ lệ chiếm tới gần 80% dân số cả nước, nông thôn là
nơi có nguồn nhân lực to lớn và là thị trường đầy tiềm năng đảm bảo cho
sự phát triển vững chắc của các ngành kinh tế quốc dân.
Ba là, nông thôn nước ta là nơi chứa đựng đa số trữ lượng các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, động thực vật của cả nước, nên có ảnh hưởng
lớn đến việc bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển đất nước.
Bốn là, với quy mô và kết cấu dân số đa dạng, nông thôn là nhân tố
cơ bản góp phần ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc

phòng của đất nước.
Nhận thức được vị trí quan trọng của nông thôn nên thời gian qua,
Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn,
thể hiện sự quan tâm sâu sắc của mình đến khu vực kinh tế này. Tuy vậy
cho đến nay, nông thôn nước ta về cơ bản vẫn đang còn ở trong tình trạng
lạc hậu so với nông thôn của nhiều quốc gia trên thế giới. Điều đó được thể
hiện qua các đặc điểm nổi bật sau:
- Cơ cấu kinh tế nông thôn còn mang nặng tính thuần nông. Đặc
điểm này được thể hiện khá rõ ở cả trong cơ cấu sản phẩm, tỷ trọng lao
động, cơ cấu đầu tư cho đến hình thức tổ chức sản xuất... Tính đến năm
1998, cơ cấu GDP của khu vực nông thôn như sau:
Nông nghiệp: 70,30%
Công nghiệp: 15,90%
Dịch vụ:

13,80% [42]


14
Các tỷ lệ trên cho thấy, tỷ trọng sản xuất công nghiệp và dịch vụ là
các ngành phản ánh quy mô, trình độ CNH, HĐH trong nông nghiệp, nông
thôn còn thấp. Mặt khác, cơ cấu kinh tế như trên cũng cho thấy trình độ
phát triển của bản thân ngành nông nghiệp nước ta hiện cũng đang còn ở
trong tình trạng lạc hậu và có tỷ suất hàng hóa nhỏ bé.
- Kết cấu hạ tầng và trình độ trang bị kỹ thuật còn yếu kém, chưa
đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của sản xuất và đời sống trong khu vực
kinh tế nông thôn. Đặc điểm này đã gây ảnh hưởng không nhỏ cho quá
trình tích tụ, tập trung tư liệu sản xuất và làm chậm quá trình CDCCKT,
CCLĐ nông nghiệp, nông thôn.
- Tỷ lệ gia tăng dân số còn ở mức độ khá cao, nên đã tạo ra áp lực

lớn về đời sống, việc làm lên khu vực kinh tế nông thôn và làm phức tạp
thêm tình hình kinh tế - xã hội cho khu vực này.
- Trình độ tổ chức, quản lý và chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ
cán bộ ở nông thôn còn hạn chế. Có thể nói, đây cũng là một trong những
nguyên nhân cơ bản làm chậm tiến trình phát triển kinh tế - xã hội ở nông
thôn thời gian qua.
Những đặc điểm trên đã cho thấy nông thôn nước ta hiện đang rất
cần sự quan tâm đầu tư của cả nước để có thể nhanh chóng phát triển và có
những đóng góp xứng đáng vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
1.2. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CƠ CẤU
LAO ĐỘNG TRONG NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN

1.2.1. Cơ cấu kinh tế nông thôn
Trước hết chúng ta hiểu, CCKT nói chung là phạm trù kinh tế tổng
hợp, phản ánh mối liên hệ bản chất giữa các bộ phận, các phân hệ cấu
thành nên một thực thể kinh tế nhất định. Tùy theo phạm vi và mục đích


15
quan tâm mà thực thể kinh tế này có thể được thể hiện ra ở các cấp độ khác
nhau như: cấp độ nền kinh tế quốc dân, cấp độ ngành, cấp độ vùng lãnh thổ
hay doanh nghiệp...
Để xem xét sự vận động của CCKT, người ta thường quan sát
chúng thông qua các quan hệ tỷ lệ về lượng giữa các yếu tố cấu thành trong
tổng thể, hoặc thông qua xu hướng biến đổi của các yếu tố nói trên để
nghiên cứu về mặt định tính của CCKT đó. Là một bộ phận của CCKT nói
chung, CCKT nông thôn được hiểu là một tổng thể kinh tế, trong đó bao
gồm các mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố và sự vận động nội tại của
từng yếu tố trong lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thuộc khu vực

kinh tế nông thôn, diễn ra trong một khoảng thời gian, không gian và điều
kiện kinh tế - xã hội nhất định.
Như vậy, về mặt bản chất, CCKT nông thôn phản ánh sự vận
động, phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nông thôn
thông qua việc xem xét trình độ phát triển của phân công lao động cũng
như quan hệ sở hữu và phân phối trong nội bộ khu vực nông thôn.
Là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ phát triển của phân công
lao động, nên CCKT nông thôn có những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, CCKT nông thôn mang tính khách quan. Đặc trưng này thể
hiện việc hình thành và phát triển của CCKT nông thôn là do kết quả của sự
vận động nội tại, bên trong của bản thân lực lượng sản xuất trong nông thôn
quy định.
Hai là, CCKT nông thôn mang tính lịch sử, xã hội tương đối đậm
nét, phản ánh trình độ phát triển kinh tế của xã hội trong mỗi giai đoạn lịch
sử nhất định.
Tính lịch sử của CCKT nông thôn thể hiện ở chỗ, tương ứng với
mỗi giai đoạn phát triển của xã hội sẽ có một CCKT đặc trưng, phản ánh
những điều kiện kinh tế - xã hội tương ứng giai đoạn lịch sử đó. Khi những


16
điều kiện này thay đổi sẽ làm cho các thành tố của CCKT nông thôn thay đổi
theo.
Tính xã hội của CCKT nông thôn biểu hiện thông qua sự tồn tại và
phát triển của một cơ cấu ngành, nghề với mục đích nhằm để thỏa mãn
những nhu cầu tiêu dùng đa dạng của con người trong từng giai đoạn nhất
định. Chính nhờ cơ cấu đó mà các quan hệ tỷ lệ phân bố sức lao động giữa
các ngành nghề đã hình thành, tạo nên một CCLĐ phù hợp trong khu vực
kinh tế nông thôn.
Ba là, CCKT nông thôn luôn luôn vận động và phát triển theo chiều

hướng từ thấp đến cao và ngày càng hợp lý, hiệu quả.
Lịch sử phát triển của kinh tế nông thôn đã chỉ rõ, lực lượng sản
xuất cũng như trình độ phân công lao động ở nông thôn đã được phát triển
từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp. Chính trên cơ sở này, CCKT
nông thôn cũng ngày càng được hoàn thiện và phát triển.
Bốn là, CCKT nông thôn hình thành và phát triển trong điều kiện có
sự ảnh hưởng, tác động của điều kiện tự nhiên và khả năng cải tạo, khai
thác các điều kiện đó của con người. Đặc trưng trên cho thấy, quá trình sản
xuất trong nông nghiệp, nông thôn nói chung phụ thuộc rất nhiều vào điều
kiện tự nhiên cũng như khả năng cải tạo tự nhiên của con người như: đất
đai, thổ nhưỡng, địa hình, khí hậu... Trong bối cảnh đó, CCKT nông thôn
có thể thay đổi do tác động của các nhân tố này.
Về nội dung, CCKT nông thôn bao gồm các yếu tố sau:
- Cơ cấu kinh tế ngành
Đây là một trong các nội dung cơ bản của CCKT nông thôn. CCKT
ngành được hiểu là các quan hệ tỷ lệ và xu hướng vận động của các ngành
nghề trong khu vực kinh tế nông thôn.
Xét về mặt lịch sử, CCKT ngành ở nông thôn đã hình thành rất
sớm. Sự phát triển của nó gắn liền với sự phát triển của các cuộc cách


17
mạng phân công lao động xã hội đã từng xảy ra trong lịch sử. Theo đó,
CCKT ngành ngày càng được hoàn thiện với cấu trúc nội tại đa dạng, phức
tạp hơn.
Căn cứ cơ bản để xem xét sự cấu thành của CCKT ngành trong
nông nghiệp, nông thôn là dựa vào tiêu thức phân ngành theo đặc tính kinh
tế - kỹ thuật. Theo đó, CCKT ngành trong nông nghiệp, nông thôn được
phân chia như sau:
+ Các ngành lớn: Nông nghiệp, công nghiệp - xây dựng; các hoạt

động dịch vụ phi nông nghiệp.
+ Các phân ngành hẹp hơn, như trong nông nghiệp có: Trồng trọt,
chăn nuôi...
Trong công nghiệp có: Công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp
cơ khí nông nghiệp...
Trong dịch vụ có: Dịch vụ sản xuất, dịch vụ bảo vệ thực vật...
Từ các phân ngành hẹp như trên, tùy theo quy mô và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn, các phân ngành
đó lại được tiếp tục phân chia thành các ngành nhỏ hẹp hơn nữa. Kết quả
cuối cùng sẽ hình thành nên một tổ hợp ngành nghề đa dạng và phức tạp
trong khu vực kinh tế nông thôn.
- Cơ cấu kinh tế vùng:
Có thể hiểu đó là quan hệ tỷ lệ về kinh tế và xu hướng vận động
giữa các vùng và trong nội bộ vùng lãnh thổ của một quốc gia. Cơ sở
kinh tế để hình thành CCKT vùng là do sự phát triển của phân công lao
động theo lãnh thổ quy định.
Như trên đã nêu, do nông thôn là khu vực rộng lớn với những đặc
điểm về kinh tế, xã hội, cũng như điều kiện tự nhiên... hết sức đa dạng,
nên không chỉ tạo ra sự phát triển khác biệt về kinh tế giữa các vùng, mà


18
còn tạo ra sự phát triển khác biệt ngay ở cả trong nội bộ vùng, làm hình
thành nên các tiểu vùng lãnh thổ. Chính sự phát triển này đã tạo nên sự
đan xen giữa phân công lao động theo ngành, nghề với phân công lao
động theo lãnh thổ trong nông nghiệp, nông thôn. Trong đó, phân công
lao động theo ngành, nghề sẽ đóng vai trò quyết định đến việc hình
thành và phát triển của CCLĐ theo vùng lãnh thổ; bởi lẽ, vùng lãnh thổ
chính là địa bàn triển khai, bố trí cơ cấu ngành, nghề đã hình thành trong
những điều kiện kinh tế xã hội cụ thể.

Trong thực tế, CCKT vùng chịu sự tác động của một số mối quan
hệ kinh tế sau:
+ Quan hệ sản xuất và trao đổi giữa các vùng lãnh thổ trong một
quốc gia.
+ Quan hệ sản xuất và trao đổi giữa các vùng lãnh thổ thuộc các
quốc gia khác nhau.
+ Quan hệ sản xuất và trao đổi giữa các tiểu vùng trong từng
vùng lãnh thổ.
Các mối quan hệ trên thường đan xen với nhau, phản ánh qui mô
và trình độ phát triển của phân công lao động trong nước và quốc tế. Hệ
quả cuối cùng là không chỉ tạo nên một CCKT vùng trong phạm vi quốc
gia, mà còn ngay cả trên phạm vi quốc tế
- Cơ cấu theo thành phần kinh tế:
Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hình thành phạm trù này là do
có sự tồn tại các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau trong nền kinh
tế. Trong nông nghiệp, nông thôn, các thành phần kinh tế cùng tồn tại, bình
đẳng trước pháp luật và vận động, phát triển dưới sự tác động của các quy
luật trong nền kinh tế thị trường. Do vậy, sự tập hợp của các hình thức sở
hữu này và tương quan về kinh tế giữa chúng đã tạo ra một cơ cấu theo


19
thành phần kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn. Tôn trọng thực tế khách
quan này không chỉ là việc lựa chọn bước đi chiến lược để ổn định kinh tế xã hội, mà còn là việc tập hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả
các thành phần kinh tế trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn.
- Cơ cấu kỹ thuật:
Là việc phản ánh các quan hệ về trình độ phát triển kinh tế nói
chung và kỹ thuật sản xuất nói riêng giữa các yếu tố trong tổng thể kinh tế
nông thôn.
Do những điều kiện lịch sử để lại nên nông thôn nói chung và ở

nước ta nói riêng thường chậm phát triển hơn so với đô thị. Vì vậy, về mặt
kỹ thuật, trong nông nghiệp và nông thôn đã hình thành CCKT mang đậm
nét cổ truyền với hình thức tổ chức và kỹ thuật sản xuất lạc hậu, manh
mún.
Chính những đặc tính kỹ thuật trên đã tạo nên tâm lý, tập quán đặc
thù của dân cư nông thôn và chi phối phương thức sản xuất kinh doanh của
họ.
1.2.2. Cơ cấu lao động nông thôn
Như đã nêu, CCKT nông thôn hình thành và phát triển là do sự vận
động của lực lượng sản xuất; tiếp đó, nó lại trở thành yếu tố chi phối sự
hình thành và phát triển của CCLĐ nông thôn. Do vậy có thể hiểu CCLĐ
nông thôn như sau:
CCLĐ nông thôn là một phạm trù kinh tế, được hình thành, phát
triển trên cơ sở của CCKT nông thôn và phản ánh quan hệ tỷ lệ cũng như
xu hướng vận động, phát triển của các yếu tố, bộ phận tạo nên nguồn lao
động nông thôn.
Về nội dung, CCLĐ nông thôn được phân chia thành CCLĐ xã hội
và CCLĐ thực tế.


20
- CCLĐ xã hội:
Là việc quan sát cơ cấu của nguồn lao động nông thôn ở khía cạnh
xã hội, trong đó bao gồm các nội dung:
+ CCLĐ theo giới tính và độ tuổi:
Theo cách phân chia này, lao động nông thôn sẽ chia thành:


Lao động nam và nữ




Lao động trong độ tuổi và lao động ngoài độ tuổi

Riêng đối với lao động ngoài độ tuổi lại có thể chia thành lao động
trên và dưới độ tuổi, có khả năng và thực tế có tham gia lao động đã được
quy đổi thành lao động tiêu chuẩn.
Việc xem xét cơ cấu lao động theo góc độ này cho phép đánh giá
được quy mô của nguồn lao động nông thôn theo giới tính và tuổi tác. Qua
đó có thể đưa ra được các nhận định về xu thế vận động của nguồn lao
động nông thôn trong tương lai.
+ CCLĐ theo ngành, nghề:
Đây là một trong những nội dung quan trọng nhất cần chú ý khi
quan sát nguồn lao động nông thôn. Cũng như CCKT ngành, CCLĐ theo
ngành, nghề là kết quả của sự phát triển phân công lao động theo ngành,
nghề ở nông thôn.
Nếu phân chia theo ngành kinh tế - kỹ thuật, CCLĐ nông thôn sẽ
bao gồm:


Lao động nông nghiệp



Lao động công nghiệp, xây dựng



Lao động dịch vụ




Lao động ngành nghề khác


21
Trong nội bộ từng ngành, lao động lại được chia thành những ngành hẹp
hơn, như:


Trong lao động nông nghiệp có: Lao động trồng trọt, lao động

chăn nuôi.


Lao động công nghiệp, xây dựng lại chia thành: Lao động tiểu thủ

công nghiệp, lao động công nghiệp chế biến, lao động cơ khí...
Từ các ngành hẹp, lao động nông thôn lại tiếp tục được phân chia
thành các nghề với chuyên môn hẹp hơn nữa.... Kết quả cuối cùng của sự
phân công lao động trên là tạo nên một CCLĐ ngành nghề rất đa dạng với
chuyên môn sâu, thậm chí rất sâu trong nông thôn. Đây chính là điều kiện
cơ bản để phát triển kỹ năng nghề nghiệp và nâng cao năng suất lao động
của các ngành, nghề.
+ CCLĐ theo vùng lãnh thổ:
Là các quan hệ tỷ lệ cũng như xu hướng vận động, phát triển của
nguồn lao động giữa các vùng và trong nội bộ vùng lãnh thổ ở nông thôn.
Việc hình thành và phát triển CCLĐ theo vùng lãnh thổ là kết quả của sự
phân công lao động theo vùng và trong nội bộ từng vùng. Ưu thế cơ bản
của sự phân công này là đã tạo điều kiện để phát huy các lợi thế so sánh

của từng vùng. C.Mác đã khẳng định: " Sự phân công lao động theo vùng,
làm cho một số ngành sản xuất nhất định bị buộc chặt vào một số vùng
nhất định trong nước" [47]. Trên cơ sở của phân công lao động theo vùng,
trong nội bộ từng vùng, lao động lại được tiếp tục phân chia để tạo thành
CCLĐ theo xu hướng chuyên môn hóa ngày càng sâu hơn.
Tuy nhiên, cũng cần thấy giữa CCLĐ theo vùng và CCLĐ theo
ngành, nghề trong thực tế không hoàn toàn độc lập nhau, trái lại chúng có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bởi lẽ, không có một cơ sở ngành, nghề
nào ở nông thôn lại không được triển khai trên một vùng lãnh thổ nhất


22
định; ngược lại, CCLĐ theo vùng lại chính là sự thể hiện của CCLĐ theo
ngành, nghề trên vùng lãnh thổ đó.
+ CCLĐ theo thành phần kinh tế:
Như trên đã nêu, việc xuất hiện cơ cấu thành phần kinh tế ở nông
thôn là do có sự tồn tại các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau.
Trên cơ sở đó, CCLĐ theo thành phần kinh tế cũng được hình thành và
phát triển, phản ánh mối quan hệ tỷ lệ cũng như xu hướng vận động của lực
lượng lao động trong các thành phần kinh tế ở nông thôn. Hiện nay ở nông
thôn nước ta, tương ứng với 5 thành phần kinh tế, lực lượng lao động cũng
được chia thành 5 loại như sau:
Lao động làm việc trong khu vực kinh tế Nhà nước, lao động làm
việc trong thành phần kinh tế hợp tác, lao động làm việc trong thành phần
kinh tế tư bản Nhà nước, lao động làm việc trong thành phần kinh tế cá thể
và lao động làm việc trong thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Về mặt pháp
lý, các loại lao động này đều bình đẳng trước pháp luật và cũng có quyền,
nghĩa vụ riêng của mình.
+ CCLĐ theo yếu tố sử dụng nguồn:
Đây là cơ cấu hình thành trên cơ sở căn cứ vào mức độ tham gia lao

động của các bộ phận cấu thành trong nguồn lao động nông thôn. Theo đó,
CCLĐ nông thôn sẽ bao gồm:
- Dân số hoạt động kinh tế ở nông thôn:
Là những người từ 15 tuổi trở lên đang hoặc không có việc làm,
nhưng có nhu cầu làm việc. Đây chính là lực lượng lao động nông thôn, bộ
phận này thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn lao động hiện có ở
thời điểm báo cáo.


23
- Dân số không hoạt động kinh tế, gồm những người từ 15 tuổi trở lên
không thuộc bộ phận có việc làm và không có việc làm vì các lý do sau
đây:


Đang đi học

• Làm
• Già


nội trợ gia đình

cả, ốm đau, tàn tật mất sức lao động

Đang ở các tình trạng khác.

+ CCLĐ theo trình độ chuyên môn kỹ thuật:
Là quan hệ tỷ lệ cũng như xu hướng biến động giữa các loại lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật khác nhau trong khu vực nông thôn.

CCLĐ theo trình độ chuyên môn kỹ thuật cho biết tương quan tỷ lệ về chất
lượng sức lao động, cũng như xu hướng vận động về trình độ chuyên môn
của nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn trong tương lai. Theo tiêu thức
này, lao động nông thôn có cơ cấu như sau:
- Về trình độ văn hóa, bao gồm các loại:


Lao động đã tốt nghiệp phổ thông trung học



Lao động đã tốt nghiệp cấp II

• Lao

động có trình độ văn hóa hết cấp I

• Lao

động chưa biết đọc, biết viết

- Về chuyên môn kỹ thuật lao động lại được chia thành:
• Lao

động không có chuyên môn kỹ thuật

• Lao

động có chuyên môn kỹ thuật


Riêng đối với lao động có chuyên môn kỹ thuật lại có thể được
phân chia thành các loại như:
• Lao

động có trình độ công nhân kỹ thuật

• Lao

động có trình độ sơ cấp


24
• Lao

động có trình độ trung học chuyên nghiệp

• Lao

động có trình độ cao đẳng và đại học

• Lao

động có trình độ trên đại học

Trong mỗi loại trình độ nói trên, tùy theo mức độ lành nghề khác
nhau, lao động lại tiếp tục được chia thành các nhóm có trình độ chuyên
môn cao, trung bình và thấp. Nếu theo cách phân chia như hiện nay, tỷ lệ
lao động đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật ở nông thôn nước ta mới chỉ
ở mức 9,3%, trong đó:



Lao động có trình độ công nhân kỹ thuật và sơ cấp chiếm: 2,41%

• Lao


động có trình độ trung học chuyên nghiệp chiếm: 5,94%

Lao động có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học: 0,95% [6]

Tình hình trên cho thấy, lực lượng lao động nông thôn nước ta hiện
có chất lượng tương đối thấp. Để khắc phục tình trạng này cần có các giải
pháp tích cực trong lĩnh vực đào tạo, đặc biệt là việc dạy nghề cho nông
dân, bởi đây là một lực lượng lao động đông đảo nhưng hầu như chưa được
qua đào tạo nghề.
- Cơ cấu lao động thực tế:
Là các quan hệ tỷ lệ và xu hướng thay đổi về thời gian lao động
thực tế giữa các ngành, nghề khác nhau trong tổng quỹ thời gian lao
động thực tế đã sử dụng ở nông thôn.
Việc nghiên cứu CCLĐ thực tế có ý nghĩa quan trọng, nhằm tìm ra
các giải pháp hữu hiệu để khai thác những khả năng tiềm tàng về thời gian
lao động còn chưa được sử dụng hiện nay ở nông thôn nước ta. C.Mác
cũng đã từng khẳng định rằng:
Tính chất toàn diện trong sự hoạt động, sự phát triển và
trong việc tiêu dùng của mỗi thành phần cũng như toàn xã hội đều


25
phụ thuộc vào việc tiết kiệm thời gian. Toàn bộ vấn đề tiết kiệm
chung quy lại là vấn đề tiết kiệm thời gian [47].

Trong nông nghiệp, nông thôn, với điều kiện lao động bình thường,
khi quỹ thời gian làm việc trong kỳ chưa được sử dụng hết thì chúng còn là
một tiềm năng để nâng cao năng suất lao động. Tác động của yếu tố này tới
sự biến thiên của năng suất lao động trong nông nghiệp, nông thôn có thể
được lượng hóa bằng hệ thức sau:
Wngày = Wh x th
Wn = Wngày x tn
Hay:

Wn = Wh x th x tn

Trong đó: Wn: Năng suất lao động bình quân tháng hoặc năm
Wngày: Năng suất lao động bình quân ngày.
Wh: Năng suất lao động bình quân giờ
th: Số giờ làm việc thực tế trong ngày
tn: Số ngày làm việc thực tế trong tháng hoặc năm.
Theo các hệ thức trên, nếu mức năng suất lao động bình quân giờ
không thay đổi thì khi thay đổi số giờ công, ngày công làm việc trong ngày,
trong tháng hoặc năm sẽ làm thay đổi mức năng suất lao động trong kỳ.
Nội dung kinh tế này đã cho thấy tầm quan trọng của việc phân tích CCLĐ
thực tế đối với sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, khi mà việc sử
dụng lao động ở đây bị ảnh hưởng nhiều bởi tính thời vụ của sản xuất nông
nghiệp.
Từ những phân tích trên có thể rút ra được các nhận định sau đây:
Một là, CCLĐ được hình thành trên cơ sở CCKT và phụ thuộc vào
xu hướng biến đổi của CCKT. Tuy nhiên, CCLĐ cũng có tính độc lập


26
tương đối, thể hiện: Một CCLĐ tiên tiến, hợp lý sẽ có tác động tích cực trở

lại đối với CCKT và thúc đẩy CCKT phát triển.
Hai là, CCLĐ xã hội và CCLĐ thực tế tuy là các phạm trù kinh tế
có nội hàm khác nhau, nhưng lại có quan hệ mật thiết với nhau, vì đều phản
ánh các nội dung về lượng và cũng như về chất của nguồn lao động nông
thôn. Do đó, khi phân tích CCLĐ nông thôn cần có sự kết hợp đầy đủ cả
hai nội dung quan trọng này.
1.3. CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN

1.3.1. Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trong lịch sử phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới, CNH và
HĐH đã từng được coi là bước đi chiến lược để đưa một nền sản xuất nhỏ,
nông nghiệp lạc hậu lên thành nền sản xuất lớn có công - nông nghiệp hiện
đại,khoa học - kỹ tiên tiến. Những thành công đó đã cho thấy tính tất yếu
khách quan của CNH, HĐH đối với sự phát triển của các nền kinh tế nói
chung. Nhưng về mặt học thuật thì bản thân khái niệm CNH, HĐH lại đang
có nhiều cách hiểu khác nhau. Chính điều này đã làm nảy sinh sự khác biệt
không chỉ trong phương thức xây dựng chiến lược mà còn cả trong chính
sách triển khai thực hiện CNH, HĐH ở các quốc gia.
Dưới đây là một số khái niệm về CNH, HĐH đã được nhiều nhà
nghiên cứu đưa ra:
- CNH, HĐH là quá trình CDCCKT từ một nền kinh tế trong đó sản
xuất nông nghiệp là chủ yếu, sang một nền kinh tế có công nghiệp và dịch
vụ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn.
- CNH, HĐH là chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, khoa học công nghệ trong một thời gian dài.


27
- CNH, HĐH là quá trình cải biến lao động thủ công lạc hậu thành
lao động sử dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để đạt được năng suất lao
động xã hội cao.

v.v...
Với những cách tiếp cận trên, chúng tôi cho rằng cách đặt vấn đề
trong khái niệm thứ ba là cách hiểu đúng đắn nhất về bản chất và mục đích
của CNH, HĐH là nhằm tăng năng suất lao động xã hội, yếu tố quyết định
nhất cho sự tồn tại của một chế độ xã hội. Tại hội nghị Ban chấp hành
Trung ương lần thứ 7 (khóa VII) của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng
đã khẳng định:
CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội
từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ
biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương
pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và
tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao
[17 ].
Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc (UNIDO) cũng
đã đưa ra định nghĩa về CNH như sau:
CNH là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình
này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân
được động viên để phát triển một cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở
trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm CCKT này là có một
bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản
xuất và hàng tiêu dùng có khả năng bảo đảm cho toàn bộ nền
kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bảo đảm tới sự tiến bộ về kinh
tế - xã hội [36].


28
Qua các quan niệm về CNH nêu trên, ta có thể thấy một số điểm
cần chú ý như sau:
- Xét về mặt mục tiêu, thực hiện CNH là nhằm đưa nền kinh tế

đang ở tình trạng lạc hậu, kém phát triển lên ở một trình độ mới cao hơn.
Qua đó tạo ra sự thay đổi cả về lượng cũng như về chất cho nền kinh tế
quốc dân.
- Xét về mặt qui mô, CNH có nội hàm bao trùm toàn bộ quá trình
phát triển kinh tế, xây dựng CCKT đa ngành, nghề chứ không phải thuần
túy chỉ là xây dựng công nghiệp.
- Xét về nội dung, có thể thấy nội dung cơ bản, bao trùm nhất của
CNH là: Nâng cao trình độ kỹ thuật cho lao động và áp dụng những công
nghệ hiện đại vào sản xuất.
- Xét về bản chất, CNH chính là sự thể hiện những nội dung của
cách mạng khoa học - công nghệ. Do vậy, nó là nhiệm vụ tất yếu của các
quốc gia chậm phát triển trong quá trình chuyển nền kinh tế từ trạng thái
lạc hậu, kém phát triển và phụ thuộc, sang một nền kinh tế phát triển và có
khả năng hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
- Tiến hành CNH nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là trong các nước
đang phát triển sẽ mang lại những tác dụng to lớn sau:
+ Thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế -xã hội, nâng cao được đời
sống vật chất, tinh thần của dân cư, góp phần đưa xã hội chuyển từ nền
"Văn minh nông nghiệp" sang nền " Văn minh công nghiệp".
+ Góp phần hình thành CCKT đa ngành, nghề và duy trì được sự
phát triển hài hòa, cân đối giữa các vùng lãnh thổ trong nước. Qua đó, thúc
đẩy việc mở rộng, phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại nhưng vẫn đảm bảo
phát huy được những lợi thế so sánh của mỗi quốc gia.


29
+ Tiến hành CNH sẽ thúc đẩy sự phát triển phân công lao động theo
ngành, nghề và vùng lãnh thổ, tạo ra sự CDCCLĐ theo hướng giảm tỷ
trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm việc trong các
ngành nghề khác và nâng cao được trình độ chuyên môn cho người lao

động.
- Về hình thức biểu hiện, có thể nhận biết được sự hiện diện của CNH
qua các dấu hiệu sau:
+ Có sự thay đổi của qui mô sản xuất từ chỗ chỉ lấy qui mô sản xuất
gia đình là chủ yếu, chuyển sang qui mô sản xuất theo kiểu công xưởng
lớn.
+ Tỷ trọng sản xuất nông nghiệp giảm đi, tỷ trọng sản xuất công
nghiệp, dịch vụ ngày càng tăng lên.
+ CCLĐ có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng lao động
nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp, dịch vụ...
+ Tốc độ đô thị hóa tăng lên, thể hiện thông qua việc gia tăng tỷ lệ
dân cư tập trung tại các đô thị và khu công nghiệp.
+ Sử dụng rộng rãi năng lượng cơ học vào trong quá trình sản xuất.
+ Một số ngành, nghề mới được hình thành trên cơ sở của hệ thống
cơ sở hạ tầng và thông tin liên lạc phát triển.
+ Các yếu tố của thị trường ngày càng được hoàn thiện và phát
triển.
+ Có sự áp dụng rộng rãi các phát minh mới vào sản xuất.
v.v...
Còn hiện đại hóa được hiểu là việc trang bị, sử dụng những yếu tố
của công nghệ tiên tiến vào trong quá trình sản xuất.


×