Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP - HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ cơ sở TỈNH hà NAM TRONG THỰC HIỆN dân CHỦ xã hội CHỦ NGHĨA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (602.52 KB, 103 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống cơ cấu tổ chức, HTCTCS là một bộ phận cấu thành HTCT xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. HTCTCS có vai trò trực tiếp phổ biến, tuyên truyền, tổ chức nhân dân hiện
thực hóa mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các chỉ
thị, nghị quyết của tỉnh, của huyện. Trực tiếp lãnh đạo, quản lý và huy động mọi nguồn lực ở
cơ sở để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tổ chức và chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
cho nhân dân. Tạo ra những tiềm lực vật chất, chính trị tinh thần góp phần làm nên sức mạnh
tổng hợp cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN ở
nước ta.
Là cấp thấp nhất, gần dân nhất trong hệ thống hành chính bốn cấp ở nước ta, HTCTCS có
một vị trí, vai trò rất quan trọng trong thực hiện dân chủ XHCN ở cơ sở: là thiết chế trực tiếp
lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và tổ chức hiện thực hoá dân chủ ở cơ sở một cách có hiệu quả;
trực tiếp tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và năng lực thực hành dân chủ cho nhân
dân lao động; trực tiếp đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những biểu hiện lợi dụng dân chủ, vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân lao động... nhằm xây dựng và phát huy sức mạnh đoàn kết
toàn dân, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.
Nhận rõ vai trò và tầm quan trọng đó, thời gian qua HTCTCS tỉnh Hà Nam đã triển khai và
thực hiện khá tốt dân chủ XHCN ở cơ sở. Đã động viên và phát huy được tinh thần làm chủ
của nhân dân trong xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương và trong xây dựng, thực
hiện QCDC cơ sở, góp phần thúc đẩy nhanh tiến trình dân chủ hóa đời sống xã hội và công
cuộc xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ XHCN ở nước ta.
Tuy nhiên, ở tỉnh Hà Nam hiện nay còn có một số tổ chức trong HTCTCS chưa phát huy
tốt vai trò của mình trong thực hiện dân chủ XHCN. Quá trình thực hiện dân chủ và QCDC cơ


sở còn bộc lộ những bất cập như hiện tượng mất đoàn kết nội bộ, tình trạng tham nhũng, quan
liêu hách dịch, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân vẫn xảy ra, thậm chí có địa phương còn
để xảy ra điểm nóng... Điều đó, nếu chậm được khắc phục sẽ gây mất trật tự an toàn xã hội
làm ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân, đến hiệu quả thực hiện


dân chủ XHCN ở cơ sở và ảnh hưởng đến việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong
xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.
Hiện nay, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới và sự nghiệp CNH - HĐH đất nước cũng như
mục tiêu xây dựng, phát triển mọi mặt của tỉnh Hà Nam. Đòi hỏi HTCTCS tỉnh Hà Nam phải
không ngừng củng cố, đổi mới và hoàn thiện để phát huy tốt hơn nữa vai trò của mình trong
lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước và trong thực hiện dân chủ XHCN ở cơ sở. Để nâng cao nhận thức và năng lực thực
hành dân chủ cho nhân dân, tạo động lực mạnh mẽ nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát
triển kinh tế, xã hội... ở Hà Nam góp phần cùng nhân dân cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN.
Vì vậy, nhận thức rõ và phát huy tốt vai trò của HTCTCS tỉnh Hà Nam trong thực hiện dân
chủ xã hội chủ nghĩa hiện nay là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài. Đây
là những lý do cơ bản để tác giả chọn đề tài “Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Hà Nam trong thực
hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận văn
Vấn đề dân chủ, dân chủ XHCN đã được các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề cập rất toàn diện, sâu sắc về bản chất, nội dung, vai
trò, đặc điểm và cơ chế thực hiện nó. Trong thực tế lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã
luôn luôn thấy rõ vai trò to lớn của HTCTCS trong thực hiện dân chủ XHCN và QCDC cơ sở.
Tại Hội nghị TW 5 khóa IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “HTCT ở cơ sở có vai
trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách


của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng
đồng dân cư”[ 15, tr.166].
Trong những năm gần đây vấn đề HTCT, HTCTCS và vấn đề dân chủ, dân chủ XHCN được
các nhà khoa học đã nghiên cứu và đề cập ở các góc độ khác nhau như: “dân chủ - di sản văn
hoá Hồ Chí Minh”, của Nguyễn Khắc Mai, Nxb Lao Động, Hà Nội, 1997; “Những đặc trưng cơ
bản của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn quá độ lên CNXH”, Trung tâm Thông tin tư

liệu, HVCTQG Hồ Chí Minh; “Hệ thống chính trị cơ sở đặc điểm xu hướng và giải pháp”, Vũ
Hoàng Công, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002; “Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hoá đời sống
xã hội nông dân miền núi vùng dân tộc thiểu số”, Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên), Nxb CTQG,
Hà Nội, 2002; “Nâng cao trình độ văn hoá dân chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”, luận án phó tiến sĩ, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội
khoa học của Mẫn Văn Mai, Hà Nội, 1994;; “Dân chủ và pháp chế”, của Hoàng Văn Hảo, Tạp
chí Lý luận chính trị số 6, 1998; “Lại bàn về dân chủ XHCN và biện pháp thực hiện dân chủ
XHCN”, của Bùi Xuân Hà, Tạp chí Xây dựng Đảng số 3, 1998; “Dân chủ ở cơ sở - Động lực phát
triển nhân tố con người”, của Nguyễn Đức Khang, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị, số 22, 2000;
“Phát huy dân chủ trong cơ chế một Đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay”, của Nguyễn Văn Huyên,
Tạp chí Cộng sản số 13, 2001; “Phát huy dân chủ ở cơ sở nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của hệ thống chính trị ở nông thôn nước ta hiện nay”, của tiến sĩ Nguyễn Khánh Mậu, Tạp chí
Khoa học chính trị số 1, 2003 ..v.v.v...
Những công trình khoa học trên đã phân tích khá sâu sắc về đặc điểm, cấu trúc, vai trò của
từng thành tố của HTCT xã hội chủ nghĩa; đặc điểm, vai trò, giải pháp xây dựng hệ thống
chính trị cơ sở và mối quan hệ giữa HTCTCS với việc thực hiện dân chủ XHCN và quy chế
dân chủ cơ sở. Nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước vì dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện và có hệ thống về


“HTCTCS tỉnh Hà Nam trong thực hiện dân chủ XHCN hiện nay”. Vì vậy, đề tài luận văn mà
tác giả đã lựa chọn không trùng lặp với các luận văn, luận án, công trình khoa học đã được
công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích: Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của HTCTCS
trong thực hiện dân chủ XHCN, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò
đó trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
*Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của HTCTCS tỉnh Hà Nam trong thực hiện dân chủ

XHCN.
- Phân tích thực trạng vai trò HTCTCS tỉnh Hà Nam trong thực hiện dân chủ XHCN hiện
nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò HTCTCS tỉnh Hà Nam trong thực
hiện dân chủ XHCN hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của HTCTCS tỉnh Hà Nam trong thực hiện dân chủ
XHCN hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu khảo sát thực trạng vai trò HTCTCS trong thực hiện
dân chủ XHCN ở một số xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Hà Nam từ khi tách tỉnh (năm
1997) đến nay.
* 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu


* Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về HTCT; vai trò của HTCTCS; về dân chủ
XHCN và về vai trò của HTCTCS đối với việc thực hiện dân chủ XHCN.
* Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn việc thực hiện dân chủ XHCN của HTCTCS tỉnh Hà Nam từ
1997 đến nay qua nghiên cứu, điều tra, khảo sát của tác giả và qua kế thừa các tư liệu, báo cáo
tổng kết và kết quả khảo sát của các công trình khoa học đã được công bố liên quan đến vấn đề
này.
* Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng một số phương pháp cơ bản như: phương pháp
hệ thống, phân tích, tổng hợp, lôgíc kết hợp với lịch sử, thống kê, so sánh, khảo sát thực tiễn, điều
tra xã hội học và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về vai trò của HTCTCS tỉnh
Hà Nam trong thực hiện dân chủ XHCN và nhằm phát huy vai trò đó trong giai đoạn hiện nay
hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,

giảng dạy một số chủ đề có liên quan về Chủ nghĩa xã hội khoa học ở các nhà trường trong và
ngoài quân đội; làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm: phần mở đầu, 2 chương (4tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục.
Chương 1
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ VÀ VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ
SỞ TỈNH HÀ NAM TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN NAY


1.1. Hệ thống chính trị cơ sở và mối quan hệ giữa hệ thống chính trị cơ sở với thực hiện
dân chủ xã hội chủ nghĩa hiện nay
1.1.1. Thực chất hệ thống chính trị cơ sở
* Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
HTCT xã hội chủ nghĩa là một chỉnh thể, bao gồm toàn bộ những tổ chức chính trị - xã hội, đó
là Đảng Mác - lênin, Nhà nước XHCN, các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động hợp pháp, cùng
những cơ chế chính trị bảo đảm thực hiện quyền lực thuộc về nhân dân.
Cấu trúc của HTCT xã hội chủ nghĩa, bao gồm Đảng cộng sản, Nhà nước XHCN và các
đoàn thể nhân dân mang tính chất chính trị - xã hội, hoạt động theo một cơ chế thống nhất phù
hợp với quy luật phát triển của xã hội, thực hiện đường lối mục tiêu xây dựng CNXH. Cơ chế
đó đảm bảo mọi quyền lực thuộc về nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
và sự quản lý của Nhà nước XHCN.
HTCT xã hội chủ nghĩa hình thành khi Đảng kiểu mới của GCCN nắm được chính quyền,
lãnh đạo nhân dân lao động đi lên CNXH. Đây là thiết chế chính trị thể hiện quyền lực của
GCCN, đem lại lợi ích chính đáng cho nhân dân lao động, do đó nó khác hẳn về chất so với
các thiết chế chính trị của các giai cấp thống trị tồn tại trong lịch sử. Trong HTCT xã hội chủ
nghĩa, mỗi bộ phận của nó hoạt động với chức năng, vai trò riêng, song cùng hướng tới thực
hiện mục tiêu chung là xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân lao động thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới xây dựng CNXH.
Xét về bản chất, HTCT xã hội chủ nghĩa là HTCT nhất nguyên do Đảng cộng sản lãnh đạo, tính

nhất nguyên đó bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của GCCN đối với xã hội, nhằm giữ vững ổn
định chính trị, thực hiện tốt dân chủ XHCN, đem lại quyền lực thực tế thuộc về nhân dân lao động,
đảm bảo cho sự phát triển của đất nước theo con đường XHCN. Giữ vững và tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với HTCT xã hội chủ nghĩa và toàn xã hội là nguyên tắc tối cao, là
điều kiện tiên quyết thực hiện thắng lợi mục đích chính trị thực tiễn của GCCN là xây dựng thành


công CNXH, CNCS ở mỗi nước và toàn thế giới. HTCT xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng cơ
bản sau:
- HTCT xã hội chủ nghĩa mang tính nhân văn và tính nhân đạo sâu sắc. Đây là đặc trưng nổi bật
và chủ yếu của HTCT xã hội chủ nghĩa. HTCT xã hội chủ nghĩa là của dân, do dân và vì dân, các
thiết chế chính trị trong đó là những công cụ để nhân dân lao động thực hiện quyền lực thực tế của
mình. Toàn bộ mục đích, nội dung và phương thức hoạt động của HTCT xã hội chủ nghĩa đều thể
hiện ý chí của nhân dân lao lao động và vì đời sống ấm no, bình đẳng, tự do, hạnh phúc của nhân
dân. Tính nhân đạo còn được thể hiện ở chỗ, nhân dân lao động ngày càng tham gia đông đảo,
rộng rãi vào công việc quản lý xã hội và quản lý nhà nước nhằm từng bước xóa bỏ mọi áp bức,
bất công trong xã hội.
- Trong HTCT xã hội chủ nghĩa có sự thống nhất biện chứng giữa quyền lãnh đạo chính trị
của GCCN với quyền làm chủ xã hội của nhân dân lao động. Đây là đặc trưng mà chỉ có HTCT
xã hội chủ nghĩa mới có, bởi vì HTCT xã hội chủ nghĩa mang bản chất của GCCN. Bản chất ấy
quy định mục tiêu lãnh đạo chính trị của GCCN là nhằm thủ tiêu chế độ người bóc lột người, giải
phóng con người, đưa nhân dân lao động lên địa vị người chủ chân chính của xã hội. Chỉ có sự
lãnh đạo chính trị của GCCN thì mới đem lại quyền làm chủ thực sự về mọi mặt của đời sống xã
hội cho nhân dân lao động, ngược lại quyền làm chủ xã hội của nhân dân lao động được thực hiện
đầy đủ trên thực tế thì đó chính là cơ sở quan trọng bảo đảm quyền lãnh đạo chính trị của GCCN.
- HTCT xã hội chủ nghĩa vừa mang tính thống nhất cao trong nguyên tắc hoạt động vừa mang
tính độc lập tương đối giữa các thành tố cấu thành. Tính thống nhất cao trong nguyên tắc hoạt
động, không đối lập với tính độc lập tương đối giữa các thành tố cấu thành HTCT xã hội chủ
nghĩa; trái lại, đó là hai thuộc tính của một hệ thống, có mối liên hệ và tác động biện chứng lẫn
nhau, tạo tiền đề cho nhau và quy định lẫn nhau. Tính độc lập tương đối về chức năng, nhiệm vụ

của mỗi thành tố trong HTCT xã hội chủ nghĩa không thể thu được hiệu quả cao nếu không có sự
thống nhất cao về nguyên tắc hoạt động. Ngược lại sự thống nhất và ổn định về nguyên tắc hoạt


động và phương hướng phát triển của HTCT xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện cho các thành tố cấu
thành phát huy tính năng động trong thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình
- HTCT xã hội chủ nghĩa là một “hệ thống mở” và “tự tiêu vong”. Tính chất mở của HTCT xã
hội chủ nghĩa thể hiện xu hướng vận động khách quan khả năng “tự tiêu vong” của chính hệ
thống đó. Công cuộc xây dựng CNXH là một quá trình đòi hỏi nhân dân lao động ngày càng tham
gia trực tiếp, tích cực và sáng tạo trong quản lý các mặt của đời sống xã hội thì mới giành được
thắng lợi. Do đó, các tổ chức trong HTCT xã hội chủ nghĩa với tư cách là công cụ quyền lực của
GCCN cũng dần dần từng bước điều chỉnh, từng bước hoàn thiện nhằm phát huy tốt nhất vai trò
của nhân dân lao động vào công cuộc xây dựng CNXH và đến một lúc nào đó nó sẽ tự tiêu vong.
Đây là điểm khác căn bản của HTCT xã hội chủ nghĩa với các HTCT đã ra đời, tồn tại trong lịch
sử.
Những đặc trưng trên đã tạo lên bộ mặt toàn diện, phản ánh thực chất của HTCT xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, trong các giai đoạn khác nhau của quá trình hoàn thiện HTCT xã hội chủ nghĩa
thì mức độ biểu hiện của những đặc trưng đó không giống nhau về phạm vi và trình độ. Nó chỉ
thể hiện một cách đầy đủ và phổ biến trong đời sống xã hội chừng nào CNXH đã được xây dựng,
hoàn thiện và tồn tại trên chính nó.
HTCT xã hội chủ nghĩa có vai trò cực kỳ to lớn trong sự nghiệp cách mạng XHCN, là khâu
then chốt, là yếu tố cơ bản để xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN nhằm đảm bảo quyền
làm chủ thực sự thuộc về nhân dân. HTCT xã hội chủ nghĩa có hai chức năng cơ bản là chức năng
đối nội và chức năng đối ngoại, mà nhiệm vụ nổi bật là thực hiện chức năng quản lý xã hội, cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Ở nước ta, khái niệm HTCT lần đầu tiên được sử dụng trong văn kiện Hội nghị lần thứ VII
Ban Chấp hành Trung ương khóa VI (năm 1990) và cho đến nay khái niệm này được sử dụng phổ
biến. Đảng ta xác định HTCT xã hội chủ nghĩa ở nước ta bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội như: MTTQ Việt Nam, Hội



phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên... Đây là những thiết chế chính trị nhằm từng bước
xây dựng, phát triển và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, đảm bảo mọi quyền lực thuộc về nhân
dân và thực hiện mục tiêu Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Trong cơ cấu tổ chức, HTCT xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay được phân thành bốn cấp
(Trung ương, tỉnh - thành phố, huyện - quận và cấp cơ sở là xã, phường, thị trấn). Trong đó cấp
xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp cơ sở trong hệ thống chính quyền bốn cấp ở nước ta.
* Hệ thống chính trị cơ sở:
Từ nghiên cứu về HTCT nói chung, về HTCT xã hội chủ nghĩa và HTCT ở nước ta có thể quan
niệm: HTCTCS là một bộ phận trong HTCT xã hội chủ nghĩa ở nước ta bao gồm các tổ chức, thiết
chế hợp pháp, có quan hệ về mục đích, chức năng thực hiện hoặc tham gia thực hiện quyền lực
chính trị ở cơ sở.
Xét về cấu trúc của HTCTCS bao gồm, các tổ chức thiết chế chính trị như tổ chức cơ sở đảng,
chính quyền cơ sở (HĐND, UBND), MTTQ và các đoàn thể nhân dân, được tổ chức, hoạt động
theo những nguyên tắc nhất định và gắn bó hữu cơ với nhau. Mỗi bộ phận hợp thành HTCTCS có
vị trí, vai trò, chức năng khác nhau, song đều vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, tổ chức chính
quyền quản lý, nhân dân lao động làm chủ. Cơ chế chính trị đó bảo đảm cho sự vận hành của
HTCTCS, phản ánh và giải quyết mối quan hệ giữa HTCTCS với xã hội, với HTCT cấp trên và
giữa các thành tố cấu thành HTCTCS với nhau.
Xem xét mối quan hệ của HTCTCS, thực chất là xem xét mặt hoạt động của nó, điều đó được
thể hiện ở hệ thống các mối quan hệ theo mục đích, chức năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt
động của HTCTCS, trong đó các mối quan hệ của nó diễn ra vừa theo chiều dọc vừa theo chiều
ngang.
Theo chiều dọc, tức là mối quan hệ giữa HTCTCS với các HTCT cấp trên trong hệ thống hành
chính bốn cấp ở nước ta và mối quan hệ của từng tổ chức, thiết chế theo hệ thống dọc (từ trên xuống
và từ dưới lên). Đây là mối quan hệ giữa lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và phục tùng. HTCTCS là cấp


thấp nhất trong hệ thống hành chính, là cấp hành động đưa đường lối, nghị quyết, chính sách của
Đảng và Nhà nước vào thực tế cuộc sống của nhân dân lao động. Do vậy, HTCTCS chịu sự lãnh

đạo, chỉ đạo và quản lý của HTCT cấp trên. Tuy nhiên, kết quả thực hiện các chủ trương, đường lối,
chính sách, nghị quyết của HTCTCS lại là cơ sở để đánh giá sự vững mạnh và năng lực lãnh đạo,
chỉ đạo của HTCT cấp trên.
Theo chiều ngang, là quan hệ tác động và ảnh hưởng qua lại giữa các thiết chế cấu thành
HTCTCS. Đây là mối quan hệ hết sức phức tạp, là cơ sở để phân biệt chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của từng thiết chế trong hệ thống. Bao gồm các mối quan hệ sau:
Quan hệ giữa tổ chức đảng và chính quyền cơ sở, bản chất của mối quan hệ giữa tổ chức đảng
và chính quyền cơ sở là Đảng lãnh đạo chính quyền (thông qua Đảng ủy, thường vụ Đảng ủy) bằng
các chủ trương, nghị quyết và các biện pháp lớn; bằng việc bố trí cán bộ và quyền kiểm tra việc
chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách, chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Sự lãnh đạo của cấp ủy
còn thông qua những đảng viên phụ trách và công tác trong HĐND, UBND. Chính quyền triển khai
tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng ủy bằng phương thức quản lý nhà nước; tổ chức, tạo điều
kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội và các hoạt động kinh tế, xã
hội, văn hóa... Mối quan hệ ấy được thể hiện thông qua các mối quan hệ cụ thể giữa Đảng ủy xã và
HĐND xã; giữa Đảng ủy xã với UBND xã; giữa Bí thư Đảng ủy với chủ tịch HĐND; Bí thư Đảng
ủy với Chủ tịch UBND xã. Trong các mối quan hệ trên, quan hệ giữa Đảng ủy với HĐND, UBND;
giữa Bí thư Đảng ủy với Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND là quan trọng nhất, chi phối các quan hệ
khác.
Quan hệ giữa tổ chức đảng với các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở, Đảng ủy cơ sở không chỉ
lãnh đạo chính quyền mà còn lãnh đạo các đoàn thể nhân dân. Đây là mối quan hệ thể hiện giữa
lãnh đạo và phục tùng. Ban chấp hành các đoàn thể nhân dân có trách nhiệm báo cáo hoạt động của
tổ chức mình với Đảng ủy cơ sở và đoàn thể cấp trên để xin ý kiến chỉ đạo. Đảng ủy, Thường vụ
Đảng ủy có quyền chỉ đạo hoạt động của các tổ chức này. Đảng uỷ cơ sở lãnh đạo các đoàn thể
nhân dân bằng chủ trương, quan điểm; bằng công tác cán bộ; bằng công tác chỉ đạo, đôn đốc, kiểm


tra. Tuy nhiên trong mối quan hệ này, các đoàn thể nhân dân chịu sự lãnh đạo của tổ chức đảng,
song có tính độc lập tương đối, không phải là quan hệ một chiều. Đảng ủy ra nghị quyết, các tổ chức
đoàn thể thực hiện, nhưng những ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến đóng góp của nhân dân trong thực
tiễn phong trào của các đoàn thể lại bổ sung cho những quyết định của Đảng ủy.

Quan hệ giữa chính quyền và các đoàn thể, ngoài mối quan hệ khăng khít giữa Đảng và chính
quyền, giữa Đảng và các đoàn thể nhân dân thì quan hệ giữa chính quyền, cụ thể là HĐND, UBND
với các đoàn thể nhân dân là rất quan trọng, đặc biệt với MTTQ. Hiến pháp năm 1992 khẳng định:
MTTQ là cơ sở chính trị của Nhà nước ta, là nơi tập hợp lực lượng, động viên các tầng lớp nhân dân
trong việc xây dựng chính quyền và thực hiện các chương trình, mục tiêu do đảng bộ và HĐND đề
ra. MTTQ được giao nhiệm vụ chủ trì hiệp thương, lập danh sách các ứng cử viên để nhân dân bầu
vào HĐND. MTTQ là một thành phần của hội đồng bầu cử, tham gia tổ chức và giám sát cuộc bầu
cử HĐND xã. Chủ tịch HĐND xã thông báo bằng văn bản đến MTTQ về tình hình hoạt động của
HĐND và nêu những kiến nghị với MTTQ. Ngược lại, trong kỳ họp của HĐND, đại diện của
MTTQ cùng đại diện các đoàn thể nhân dân phải báo cáo về các hoạt động của mình trong việc xây
dựng chính quyền. Đại diện MTTQ và các đoàn thể nhân dân được mời tham dự các cuộc họp của
UBND về những vấn đề có liên quan.
Trên đây là mối quan hệ xét cả chiều dọc và chiều ngang của HTCTCS, việc tìm hiểu các quan
hệ này trong HTCTCS có ý nghĩa rất quan trọng. Nó là cơ sở để xác định rõ vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của từng thành tố nhằm phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở.
Bản chất của HTCTCS: Bản chất của một HTCT được quy định bởi hai yếu tố cơ bản nhất bao
gồm quan hệ sản xuất nào đặc trưng cho xã hội và giai cấp nào là giai cấp cầm quyền. Ở nước ta,
quan hệ sản xuất giữ vai trò chủ đạo là quan hệ sản xuất XHCN và giai cấp cầm quyền là GCCN.
Điều đó quy định bản chất của HTCT ở nước ta nói chung và HTCTCS nói riêng, bản chất đó được
thể hiện trên những mặt chủ yếu sau:


+ HTCTCS nước ta mang bản chất của giai cấp công nhân. Bản chất GCCN của HTCTCS
nước ta được thể hiện ở chỗ toàn bộ hoạt động của HTCTCS đều thể hiện tư tưởng, quan điểm
của GCCN, đó là học thuyết Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng kim chỉ
nam cho mọi hành động với khát vọng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, thực hiện mục tiêu
lý tưởng là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. HTCTCS luôn luôn phải quán triệt sâu sắc mục tiêu lý tưởng của GCCN, phát huy
vai trò của quần chúng nhân dân lao động thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng CNXH.
+ HTCTCS nước ta mang bản chất dân chủ, quyền lực thực sự thuộc về nhân dân. Sự tồn tại,

phát triển của toàn bộ HTCT xã hội chủ nghĩa nước ta trong đó có HTCTCS là nhằm xây dựng và
hoàn thiện nền dân chủ XHCN, thực hiện tốt quyền dân chủ và QCDC ở cơ sở, bảo đảm quyền lực
thuộc về nhân dân. Tính dân chủ rộng rãi trong mỗi thành tố của HTCTCS nước ta thể hiện vai trò
làm chủ của nhân dân trong xây dựng, hoàn thiện HTCTCS và trong kiểm tra, giám sát các hoạt
động của mỗi tổ chức; ở nội dung, phương thức hoạt động của HTCTCS; ở mối quan hệ giữa các
thành tố, của mỗi thành tố với nhân dân và ở việc thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của HTCTCS, bảo đảm lợi ích của nhân dân. Ngăn chặn, loại trừ bệnh quan
liêu, sự suy thoái của HTCTCS và cán bộ công chức trong hệ thống ấy.
+ Trong HTCTCS nước ta bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân và
tính dân tộc. Nền tảng xã hội của HTCT xã hội chủ nghĩa nước ta, trong đó có HTCTCS là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Chỉ có HTCT mang bản chất giai cấp công nhân, hoạt động theo đường lối,
quan điểm của Đảng mới xác định đúng đắn mục đích, nội dung, phương hướng nhiệm vụ,
giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích của nhân dân với lợi ích của dân tộc. HTCT càng có
tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc bao nhiêu thì càng thể hiện đầy đủ bấy nhiêu bản chất
của giai cấp công nhân.
Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của HTCT tập
trung thể hiện ở chỗ, toàn bộ hoạt động của HTCT là xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ


XHCN, đảm bảo quyền lực thực tế trên mọi lĩnh vực thuộc về nhân dân lao động. Chính quyền Nhà
nước do nhân dân lập nên và nhân dân thực hiện quyền kiểm soát tối cao đối với Chính quyền nhà
nước. HTCT nước ta, trong đó có HTCTCS kế thừa, phát huy những giái trị truyền thống, những tư
tưởng chính trị, những kinh nghiệm quý báu về tổ chức, hoạt động thực tiễn chính trị trong lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc. Là công cụ quyền lực hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng của giai
cấp công nhân là vì độc lập dân tộc và CNXH, phản ánh xu thế phát triển tất yếu của thời đại, đáp
ứng được lợi ích chân chính và nguyện vọng độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của cộng đồng dân
tộc Việt Nam.
Nắm vững cơ cấu và bản chất của HTCTCS có ý nghĩa quan trọng nhằm từng bước củng cố,
kiện toàn và đổi mới nhằm phát huy tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mỗi thành tố trong xây

dựng phát triển kinh tế- xã hội, trong thực hiện dân chủ và QCDC ở cơ sở...
Chức năng, nhiệm vụ của HTCTCS: HTCT nước ta trong đó có HTCTCS là thiết chế, cơ chế
vận hành của chế độ dân chủ XHCN. Chức năng cơ bản của HTCTCS là từng bước xây dựng, hoàn
thiện nền dân chủ XHCN và tổ chức thực hiện dân chủ, QCDC ở cơ sở. Chức năng của HTCTCS
được thể hiện thông qua chức năng, nhiệm vụ của các thành tố :
Tổ chức cơ sở đảng: Tổ chức cơ sở đảng ( chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng
là hạt nhân chính trị ở cơ sở, đóng vai trò là người lãnh đạo toàn diện các mặt ở cơ sở, lãnh đạo
chính quyền và các đoàn thể quần chúng. Hiện nay đảng bộ cơ sở (xã, phường, thị trấn) bao gồm
nhiều chi bộ, thông thường mỗi thôn, xóm có một chi bộ. Theo Điều lệ Đảng, tổ chức đảng ở cơ sở
có các chức năng, nhiệm vụ chủ yếu sau:
Lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở cơ
sở; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, của chi bộ và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả,
trong đó có lãnh đạo thực hiện dân chủ XHCN và QCDC ở cơ sở. Xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong
sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ;
nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng


cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Thường xuyên giáo dục, rèn luyện, quản lý cán bộ, đảng
viên; không ngừng nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức,
năng lực công tác cho cán bộ, đảng viên; làm tốt công tác phát triển đảng viên.
Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự nghiệp, quốc phòng, an
ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững mạnh; chấp hành đúng phát luật và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.
Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ lợi ích chính đáng
của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước.
Kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm cho các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà
nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên.
Chính quyền cơ sở (xã - phường - thị trấn): Chính quyền cơ sở bao gồm HĐND và UBND xã,
phường, thị trấn có chức năng nhiệm vụ như sau:

HĐND xã là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên. HĐND thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định
của hiến pháp và pháp luật, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy
quyền chủ động, sáng tạo của địa phương.
HĐND xã có hai chức năng là quyết định và giám sát trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở
cơ sở. Trong thực hiện dân chủ XHCN và quy chế dân chủ ở cơ sở, HĐND quyết định các chủ
trương, biện pháp thực hiện dân chủ ở cơ sở theo quy định của hiến pháp và pháp luật.
UBND xã là cơ quan chấp hành của HĐND, là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương có
trách nhiệm chấp hành hiến pháp, pháp luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị


quyết của HĐND cùng cấp. UBND có chức năng, nhiệm vụ là quản lý nhà nước toàn diện trên trên
địa bàn, tổ chức thực hiện những nghị quyết và quyết định của HĐND cùng cấp.
Trong thực hiện dân chủ XHCN ở cơ sở, UBND dưới sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng có
nhiệm vụ tổ chức thực hiện những chủ trương, biện pháp chủ yếu do HĐND xã đề ra nhằm bảo
đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân, nâng cao nhận thức và năng lực thực hành dân chủ cho
nhân dân. Đồng thời quản lý mọi hoạt động thực hiện dân chủ và QCDC ở cơ sở theo đúng quy
định của pháp luật.
Các tổ chức chinh trị - xã hội: Các tổ chức chính trị - xã hội trong HTCTCS bao gồm Ủy ban
MTTQ, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh... có chức năng chủ yếu
sau.
Tập hợp, củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sự nhất trí về chính trị, tinh thần
của nhân dân; tuyên truyền vận động nhân dân phát huy quyền làm chủ thực sự của mình trong
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước trên
địa bàn; bảo vệ, đại diện cho quyền lợi, ý chí của quần chúng, đại diện cho họ trong việc tham gia
xây dựng và giám sát Đảng, xây dựng và giám sát chính quyền. Tập hợp những kiến nghị của
nhân dân để phản ánh với Đảng và cơ quan Nhà nước cấp trên; chăm lo, bảo vệ quyền lợi và
nghĩa vụ chính đáng của nhân dân. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu của công
cuộc dân chủ hóa đời sống xã hội và yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN,

MTTQ còn có một chức năng quan trọng đó là chức năng phản biện xã hội. Thông qua việc thực
hiện chức năng này MTTQ thực hiện quyền giám sát việc đề ra các chủ trương, biện pháp lãnh
đạo, tổ chức thực hiện các mục tiêu xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và trong thực hiện dân
chủ XHCN ở cơ sở của tổ chức đảng, chính quyền địa phương đúng hay sai, hiệu quả hay không
hiệu quả. Từ đó kiến nghị với tổ chức đảng, chính quyền cơ sở điều chỉnh cho phù hợp.
Trong thực hiện dân chủ và QCDC ở cơ sở, chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của MTTQ và các
đoàn thể nhân dân là tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và năng lực thực hành dân chủ cho


nhân dân; phát huy cao độ tinh thần làm chủ của nhân dân trong bàn bạc, thực hiện nhiệm vụ xây
dựng, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phản ánh kịp thời ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của
nhân dân về những vấn đề liên quan đến dân chủ và QCDC ở cơ sở với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền; trực tiếp tổ chức nhân dân xây dựng những công trình dân sinh do nhân dân tự nguyện đóng
góp kinh phí.
Trên đây là những chức năng, nhiệm vụ cơ bản của HTCTCS nước ta. Những chức năng, nhiệm
vụ ấy không phải là bất biến mà ngày càng được củng cố, bổ sung trong thực tế lãnh đạo, chỉ đạo,
quản lý quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, trong thực hiện dân chủ và QCDC ở cơ sở.
1.1.2. Mối quan hệ giữa hệ thống chính trị cơ sở với thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa
* Quan niệm về thực hiện dân chủ XHCN
Dân chủ XHCN, theo Từ điển bách khoa Việt Nam: Là dân chủ của đại đa số nhân dân gắn với
công bằng xã hội, chống áp bức bất công, được thể hiện trên thực tế trên tất cả các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm. Đảng
Cộng sản là người lãnh đạo trong nền dân chủ đó [44, tr. 653].
Thực chất dân chủ XHCN là nhân dân trở thành người chủ xã hội, toàn bộ quyền lực thuộc về
nhân dân, nhân dân tự quản lý, tự quyết định mọi vấn đề của chính bản thân họ. Đây là nền dân chủ
thực sự, đầy đủ nhất, triệt để nhất, dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản.
Cấu trúc của dân chủ XHCN, bao gồm: ý thức dân chủ, năng lực thực hành dân chủ và thiết chế,
cơ chế thực hiện dân chủ.
Ý thức dân chủ là một bộ phận của ý thức chính trị, bao gồm hệ thống những quan điểm, tư
tưởng, lý luận về dân chủ, chế độ dân chủ và nền dân chủ XHCN do giai cấp công nhân xác lập,

truyền bá để bảo vệ quyền tự do, dân chủ, bảo vệ lợi ích của đông đảo nhân dân lao động.
Ý thức dân chủ XHCN thường tồn tại dưới hai hình thức cơ bản: ý thức dân chủ xã hội và ý thức
dân chủ cá nhân; Ý thức dân chủ xã hội là ý thức về dân chủ của toàn xã hội, của một chính thể, một


quốc gia và nhà nước nhất định, giữ vai trò thống trị trong mọi hoạt động trong xã hội ấy. Ý thức
dân chủ cá nhân là của một con người cụ thể trong xã hội, mang sắc thái chủ quan của cá nhân ấy.
Nó bao gồm tri thức hiểu biết về dân chủ, tình cảm, thái độ đối với nền dân chủ của xã hội và sự
tuân thủ, chấp hành của họ đối với các nguyên tắc, quy định thực hiện các quyền, nghĩa vụ công dân
đối với thể chế, với nền dân chủ trong xã hội.
Năng lực thực hành dân chủ, chính là mức độ, chất lượng vận dụng tri thức dân chủ, sự tham gia
của con người vào các hoạt động công tác và giải quyết các mối quan hệ để thực hiện quyền dân
chủ, quyền làm chủ, thực hiện nghĩa vụ của mình trên thực tế; đồng thời qua đó sáng tạo ra các giá
trị dân chủ nhằm phục vụ bản thân và phục vụ lợi ích của tập thể, xã hội.
Thiết chế, cơ chế thực hiện dân chủ XHCN là hệ thống các tổ chức, hệ thống hiến pháp, pháp
luật và những quy định mang tính pháp lý đảm bảo cho dân chủ XHCN được thực hiện trên thực tế.
Hệ thống tổ chức đó không thể nào khác là các thiết chế trong HTCT xã hội chủ nghĩa, bao gồm
Đảng cộng sản, Nhà nước XHCN và các tổ chức chính trị - xã hội, hoạt động theo một cơ chế Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.
Sự hình thành và phát triển của dân chủ XHCN gắn liền với sự ra đời và phát triển của chế độ
XHCN. Quá trình này có những đặc điểm sau:
Dân chủ XHCN là nấc thang phát triển về dân chủ ở trình độ cao nhất trong toàn bộ tiến trình
lịch sử nhân loại và tiến bộ xã hội cho đến ngày nay.
Sự hình thành và phát triển của XHCN và dân chủ XHCN trải qua một quá trình đấu tranh giai
cấp đầy gay go, phức tạp. Đối với các nước không qua chủ nghĩa tư bản trong đó có Việt Nam, thì
thời kỳ quá độ là thời kỳ cải tạo sâu sắc, triệt để mọi tàn dư của xã hội phong kiến trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Do vậy, việc xây dựng, hoàn thiện chế độ dân chủ XHCN là một quá trình lâu
dài, gian khổ gắn với công cuộc xây dựng CNXH đích thực, CNXH phát triển trên nền tảng của
chính nó.



Bản chất của dân chủ XHCN: Dân chủ XHCN là nền dân chủ tiên tiến nhất trong lịch sử nhân
loại, phát triển đồng thuận với tiến bộ xã hội, với nhân đạo, tự do, văn minh và văn hóa, vì sự hoàn
thiện của con người. Dân chủ XHCN hướng tới mục tiêu giải phóng xã hội, giải phóng con người,
phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động.
Vai trò của dân chủ XHCN đối với tiến bộ xã hội. Đảng ta khẳng định: “dân chủ XHCN vừa là
mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...”[14, tr. 44]. Điều đó
được thể hiện ở những nội dung sau:
Dân chủ XHCN làm cho quần chúng nhân dân lao động ngày càng phát huy vai trò to lớn của
mình vào hoạt động quản lý nhà nước, tạo điều kiện để hình thành và phát triển nhân cách trung
thực, sáng tạo của người làm chủ xã hội. Dân chủ XHCN không chỉ là lời tuyên bố suông mà còn
bảo đảm thực hiện trên thực tế những quyền tự do chính trị, các quyền kinh tế, xã hội của cá nhân;
quyền lao động, nghỉ ngơi, học tập, công tác và hưởng thụ những phúc lợi xã hội.
Dân chủ XHCN đã tạo nên những biến đổi vượt bậc, khác về chất so với những chế độ chính trị
của các nền văn minh trước đó, trực tiếp là văn minh tư bản chủ nghĩa. Dân chủ XHCN tạo nên
những giá trị mới của công bằng xã hội, đó là dân chủ, bình đẳng cho số đông dân cư, cho đại đa số
nhân dân. Từ thân phận người nô lệ, nông dân, công nhân lao động làm thuê trở thành những công
dân của chính thể xã hội, có quyền quyết định sự tồn tại, phát triển của đất nước, vận mệnh của quốc
gia, trong đó có cả bản thân mình. Mức sống của đông đảo quần chúng nhân dân ngày càng được
nâng cao, được thỏa mãn ngày càng đầy đủ và tốt hơn những nhu cầu vật chất và tinh thần, làm cho
văn hóa và các giá trị đạo đức, thẩm mỹ thâm nhập ngày càng phong phú và sâu sắc hơn vào lối
sống của cá nhân và xã hội. Chế độ XHCN là một chế độ xã hội tốt đẹp được thể hiện thông qua
bản chất của dân chủ XHCN, nó đã đánh dấu một nấc thang mới của tiến bộ xã hội trong lịch sử
nhân loại.
Dân chủ XHCN là đỉnh cao, là một trong những động lực mạnh mẽ của tiến bộ xã hội. Nó là đặc
trưng bản chất của CNXH, là sự thể hiện trực tiếp lý tưởng nhân đạo của CNXH. Song nền dân chủ


này không phải tự phát hình thành mà là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp, là sự sáng tạo của
nhân dân lao động, nó phải luôn được phát triển, hoàn thiện, khắc phục triệt để những khuyết tật

của xã hội cũ và gắn với công cuộc xây dựng CNXH trên mọi lĩnh vực. Tuy nhiên ở nước ta
hiện nay, việc hiện thực hóa chế độ dân chủ XHCN trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm
bảo cho nhân dân lao động được phát huy quyền lực thực tế của mình là một vấn đề quan trọng
và cấp bách. Khâu quan trọng và cấp bách hiện nay là mở rộng và thực hiện dân chủ ở cơ sở,
nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Bởi vì:
Cơ sở, đặc biệt là ở xã, phường, thị trấn - nơi trực tiếp triển khai, thực hiện mọi chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chỉ có thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân mới khơi dậy được tính tích cực, chủ động, tự giác của nhân dân tham gia thực
hiện những chủ trương, chính sách ấy, nhờ vậy mà trở thành hiện thực. Và chỉ khi công việc
của Nhà nước, của xã hội trở thành công việc của mọi người và mọi người tham gia thực hiện
thì chế độ chính trị mới thực sự có sức mạnh. Điều đó lại diễn ra thường xuyên, hàng ngày ở
chính cơ sở.
Việc thực hiện dân chủ XHCN ở cơ sở là xây dựng nền tảng của chế độ chính trị theo định
hướng XHCN. Chế độ chính trị ở nước ta thực chất là chế độ dân chủ của nhân dân lao động, trong
đó cơ bản là của công nhân, nông dân và trí thức. Nhân dân lao động làm chủ quyền lực nhà nước,
quyền lực xã hội trước hết và cơ bản là ở cơ sở, từ đó mới có thể làm chủ quyền lực ở phạm vi rộng
lớn hơn. Xây dựng chế độ dân chủ ở cơ sở là nền tảng cho xây dựng chế độ dân chủ của toàn bộ
HTCT ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH
Dân chủ ở cơ sở chủ yếu là thực hiện hình thức dân chủ trực tiếp mặc dù có cả dân chủ đại diện.
Song dân chủ trực tiếp có vai trò rất quan trọng trong thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao
động. Bởi lẽ, chỉ trên cơ sở thực hiện tốt dân chủ trực tiếp mọi người mới có ý thức, thói quen, trách
nhiệm thực hiện dân chủ đại diện. Hơn nữa, khi cử tri đi bầu cử lựa chọn người đại diện cho mình là
tiền đề đầu tiên để có thể thực hiện được dân chủ đại diện.


Quyền lực, lợi ích của nhân dân được thực hiện thông qua những công việc thường xuyên, trực
tiếp ở cơ sở. Do vậy, nhân dân phải biết, bàn, làm và kiểm tra những công việc ấy mới có thể thực
hiện quyền lực và lợi ích của mình. Dân chủ ở cơ sở có ý nghĩa thiết thực, cụ thể trong việc thực
hiện dân chủ xã hội.
Thực hiện dân chủ XHCN: Theo Đại từ điển tiếng Việt, thực hiện là làm cho trở thành

cái có thật bằng hoạt động cụ thể [17, tr. 1615]. Theo đó, Thực hiện dân chủ XHCH ở cơ
sở là tổng thể các hoạt động của HTCTCS để cụ thể hoá và hiện thực hoá những nội dung,
nguyên tắc, cơ chế dân chủ phù hợp với chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ và đặc điểm hoạt
động của HTCTCS, để nhân dân lao động trở thành người chủ, làm chủ trên thực tế.
Mục đích của quá trình này nhằm phát huy cao nhất vai trò của nhân dân lao động, khả năng và
trách nhiệm của các thành tố thuộc HTCTCS trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tổ chức thực hiện dân
chủ XHCN và QCDC cơ sở. Phát huy năng lực và quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước và mục tiêu xây dựng, phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Góp phần vào quá trình dân
chủ hóa đời sống xã hội và sự nghiệp xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ XHCN ở nước ta.
Chủ thể thực hiện dân chủ XHCN ở cơ sở là toàn bộ các bộ phận cấu thành của HTCTCS (bao
gồm tổ chức cơ sở đảng, chính quyền cơ sở và các đoàn thể nhân dân). Lực lượng tham gia là toàn
thể nhân dân lao động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trên cơ sở
hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
Nội dung thực hiện dân chủ XHCN ở cơ sở: trước hết HTCTCS phải quán triệt đầy đủ, sâu sắc
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm, chính sách
của Đảng, Nhà nước về dân chủ. Cụ thể hóa nội dung, cơ chế, hình thức thực hiện dân chủ, từ đó đề
ra những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện dân chủ XHCN ở cơ sở.
* Biểu hiện của mối quan hệ giữa HTCTCS với thực hiện dân chủ XHCN


HTCTCS và dân chủ XHCN là hai phạm trù khác nhau, có tính độc lập tương đối nhưng
có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở nước ta (1991), Đảng ta khẳng định: “toàn bộ tổ chức và hoạt động của
HTCT nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ
XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân” [8, tr.19]. Tính biện chứng của mối quan hệ
đó được thể hiện như sau:
- HTCTCS là thiết chế thực hiện dân chủ XHCN trên thực tế ở cơ sở.
HTCTCS tuyên truyền giáo dục cho nhân dân lao động những kiến thức căn bản về dân chủ
XHCN. Đối với dân chủ XHCN, công tác tuyên truyền, giáo dục của HTCTCS tiến hành một cách

đầy đủ, toàn diện sâu rộng trong nhân dân về bản chất, nội dung, tính ưu việt của dân chủ XHCN,
về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, về ý thức và năng lực thực hành dân chủ cho nhân dân lao
động. Thông qua đó làm cho nhân dân hiểu được dân chủ XHCN là thành quả tất yếu của cách
mạng XHCN, là chế độ dân chủ cao nhất, tiên tiến nhất trong quá trình hình thành, phát triển của
các nền dân chủ trong lịch sử. Mà ở đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản mọi quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, một nền dân chủ rộng rãi và triệt để nhất trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Để từ đó nhân dân tin tưởng “ chế độ dân chủ vô sản, so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào,
cũng dân chủ hơn gấp triệu lần” [23, tr.312]. Để nhân dân có khả năng nhận diện, phân biệt, cảnh
giác không hoang mang giao động, ngả nghiêng trước những khuynh hướng, quan điểm dân chủ sai
trái, vững tin vào sự nghiệp xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta.
Mặt khác, thông qua tuyên truyền giáo dục về quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân như
quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham gia vào quá trình quản lý nhà nước; quyền và nghĩa vụ lao
động, học tập; quyền sở hữu thừa kế tài sản, quyền khiếu lại, tố cáo; quyền được hưởng các chế
độ chăm sóc và bảo vệ sức khỏe; quyền và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, để nhân dân hiểu được rằng:
“quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo hộ các quyền của công
dân; công dân làm tròn nghĩa vụ của mình đối với nhà nước và xã hội. Quyền và nghĩa vụ công dân
do hiến pháp và pháp luật quy định” [35, tr.139]. Đồng thời thông qua giáo dục các nội dung trên


tạo ra cơ sở pháp lý để nhân dân nắm vững quyền hạn, nghĩa vụ của mình đối với xã hội, đối với đất
nước và các quyền lợi mà mình được hưởng. Từ đó biết bảo vệ các quyền lợi chính đáng, biết cách
tuân thủ theo pháp luật, tự do trên cơ sở tự giác, tôn trọng chấp hành nghiêm hiến pháp và pháp luật.
Tôn trọng và bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mọi công dân.
Bên cạnh việc tuyên truyền, giáo dục về bản chất, nội dung dân chủ XHCN, HTCTCS còn tuyên
truyền, giáo dục cho nhân dân hiểu biết về những quan điểm tư tưởng, lý luận về dân chủ và dân
chủ XHCN của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh nhằm nâng cao tri thức, tình cảm, thái độ
đúng với đối với nền dân chủ XHCN và sự tuân thủ, chấp hành của nhân dân đối với các nguyên
tắc, quy định thực hiện các quyền, nghĩa vụ công dân đối với xã hội và nhà nước. Để nhân dân vận
dụng vào giải quyết các mối quan hệ nhằm thực hiện các quyền dân chủ, quyền làm chủ, thực hiện
nghĩa vụ của mình trên thực tế.

HTCTCS tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Nói đến HTCTCS là nói đến cấp cuối cùng
trong hệ thống hành chính nhà nước, là cấp xa Trung ương nhưng lại có vai trò trực tiếp tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, thực thi pháp luật của Nhà nước. Là cấp trực
tiếp làm việc với dân, trực tiếp thực hiện dân chủ và QCCD ở cơ sở.
Thông qua thực hiện QCDC của HTCTCS sẽ tạo ra một khâu đột phá, đưa sinh hoạt chính trị
lên một tầm cao mới, củng cố và kiến tạo những điều kiện có tính nền tảng cho sự nghiệp dân chủ
hóa ở cơ sở, tạo ra một bước chuyển biến về chất trong cán bộ đảng viên và nhân dân. Qua đó dân
chủ không còn là những mệnh đề trừu tượng, những khẩu hiệu trống rỗng mà là những vấn đề cụ
thể quy định vai trò, chức năng của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân trong thực hiện dân
chủ. Đồng thời quy định một cách cụ thể quyền hạn, nghĩa vụ công dân và những điều nhân dân cần
biết, cần bàn, cần làm, cần kiểm tra như thế nào.
Mặt khác, thông qua thực hiện QCDC của HTCTCS là một bước ngoặt quan trọng thể hiện dân
chủ ở nước ta đã được thể chế hóa thành quy phạm pháp luật. Đã đặt đúng vị trí, vai trò của Đảng,
Nhà nước và các đoàn thể nhân dân trong HTCT, trong thực hiện chế độ dân chủ XHCN. Việc thực


hiện tốt QCDC ở cơ sở của HTCTCS là yếu tố trực tiếp tham gia xây dựng Đảng, chính quyền
trong sạch, vững mạnh. Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân sẽ là hiện thực ở cơ sở.
HTCTCS cụ thể hóa phương châm dân biết, dân bàn dân làm, dân kiểm tra trong thực hiện các
mục tiêu kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh của Đảng, Nhà nước và của địa phương. Đại
hội Đảng lần thứ VIII xác định: “Xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm “ dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước” [11,
tr.44]. Phương châm này thể hiện Đảng Cộng sản Việt Nam một lòng, một dạ phục vụ nhân dân,
luôn tìm mọi phương thức để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra là bốn khâu liên hoàn để phát huy quyền làm chủ của
nhân dân mà trước hết là ở cơ sở. HTCTCS thường xuyên kịp thời thông tin cho nhân dân biết
những vấn đề cơ bản về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; về chủ trương của tổ chức đảng và
những quy định của chính quyền các cấp ở địa phương; về mục đích, nội dung và phương thức hoạt

động của các đoàn thể xã hội để nhân dân bàn bạc, thống nhất, đóng góp ý kiến và thực hiện theo
chức trách, quyền hạn của mỗi công dân.
Thông qua việc cụ thể hóa những vấn đề dân biết, dân bàn, dân làm của HTCTCS nhằm phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trong kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức thuộc HTCT cơ
sở; trong phát hiện, đấu tranh bài trừ các tệ nạn xã hội, nhất là đối với các tệ nạn quan liêu, tham ô,
tham nhũng, sách nhiễu nhân dân của một số người có chức có quyền. Để xây dựng các thành tố
của HTCTCS trong sạch, vững mạnh, bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Đấu tranh, ngăn chặn và đẩy lùi các hiện tượng sai trái, vi phạm quyền làm chủ của công dân.
Đây là việc làm cần thiết và thường xuyên của HTCT, trong đó HTCTCS có vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ dân chủ XHCN, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân lao động, bảo đảm cho quá
trình thực hiện dân chủ đúng định hướng XHCN và đạt hiệu quả cao. Bởi vì, thông qua đấu tranh


ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của công dân để thanh lọc những phần tử
cơ hội, thoái hóa biến chất, quan liêu hách dịch... trong các tổ chức của HTCTCS, bảo đảm cho dân
chủ XHCN được thực hiện trên thực tế. Củng cố niềm tin của nhân dân lao động vào sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước, tin vào bản chất tốt đẹp của nền dân chủ XHCN mà chúng ta đang
xây dựng. Từ đó để nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình trong thực hiện các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
- Dân chủ XHCN được phát huy tạo điều kiện để xây dựng HTCTCS vững mạnh thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ. Đây là sự thể hiện tác động trở lại của việc thực hiện tốt dân chủ XHCN đối
với quá trình xây dựng, hoàn thiện và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của HTCTCS.
Dân chủ XHCN được thực hiện là cơ sở để xây dựng HTCTCS vững mạnh đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ. Bởi vì, dân chủ XHCN được thực hiện mà trước hết ở từng thành tố của HTCTCS sẽ tạo
nên sự vững mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác trên thực tế. Phát huy được trí tuệ, lòng
nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm cao của đội ngũ cán bộ trong quán triệt, thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời phát huy được trí tuệ của tập thể
trong thảo luận xây, dựng nghị quyết lãnh đạo, chương trình hành động của các tổ chức trong
HTCTCS, từ đó động viên, tổ chức nhân dân thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách xây dựng,
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước ở cơ sở.

Thông qua thực hiện dân chủ XHCN ở chính bản thân của các thành tố trong HTCTCS, sẽ phát
huy được tinh thần tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ nhằm phát hiện, đấu tranh loại bỏ
những quan điểm sai trái, các tệ nạn xã hội làm trong sạch bộ máy. Đây là cơ sở để củng cố, thực
hiện tốt mối quan hệ giữa các thành tố trong HTCTCS và giữa HTCTCS với nhân dân, đảm bảo
cho các thành tố đó thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, qua đó nâng cao uy tín, chất lượng,
hiệu quả hoạt động của HTCTCS.
Thực hiện tốt dân chủ XHCN ở cơ sở sẽ phát huy vai trò to lớn của quần chúng nhân dân lao
động trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Bởi vì, dân chủ XHCN được thực hiện sẽ phát huy được trí


lực, vật lực và tính tích cực cách mạng của nhân dân trong bàn bạc, thực hiện những chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước và phương hướng, mục tiêu xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội,
quốc phòng, an ninh ở địa phương. Đồng thời tạo điều kiện để nhân dân phát huy quyền lực, trách
nhiệm của mình trong kiểm tra giám sát mọi hoạt động của các thành tố trong HTCTCS; trong phát
hiện, đấu tranh ngăn chặn các hành vi đi ngược lại dân chủ XHCN và vi phạm quyền làm chủ của
nhân dân. Qua đó củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa HTCTCS với nhân dân, tạo điều
kiện để HTCTCS thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong lãnh đạo, quản lý xây dựng,
phát triển kinh tế - xã hội và trong thực hiện dân chủ XHCN, QCDC ở cơ sở. Góp phần xây dựng,
đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của HTCTCS hiện nay.
Dân chủ XHCN được thực hiện trên thực tế là cơ sở để lựa chọn những cán bộ có đức, có tài
giữ những cương vị chủ trì trong HTCTCS. Bởi lẽ, dân chủ mà đặc biệt là QCDC cơ sở được thực
hiện trên thực tế sẽ phát huy được quyền công dân, tinh thần làm chủ của mọi cán bộ, đảng viên và
nhân dân trong lựa chọn, giới thiệu và bầu những cán bộ có đủ tâm, đủ tầm, đủ trí gắn bó với dân,
hết lòng phục vụ nhân dân vào giữ các cương vị chủ chốt trong các tổ chức thuộc HTCTCS. Đồng
thời dân chủ được thực hiện sẽ tạo ra một môi trường dân chủ rộng rãi để nhân dân giám sát, phát
hiện và đấu tranh ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực, hiện tượng vi phạm dân chủ giúp tổ chức
đảng, chính quyền sàng lọc, loại bỏ những phần tử cơ hội, cá nhân chủ nghĩa trong các tổ chức của
HTCTCS. Nhằm xây dựng HTCTCS trong sạch, vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu mới của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
1.2. Đặc điểm và vai trò của hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Hà Nam trong thực hiện dân chủ

xã hội chủ nghĩa hiện nay
1.2.1. Đặc điểm hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Hà Nam
Vài nét về đặc điểm tình hình tỉnh Hà Nam: Tỉnh Hà Nam được thành lập ngày 20/10/1890
theo nghị định của toàn quyền Đông Dương. Trải qua 116 năm tồn tại với nhiều biến cố khác nhau,
gắn với quá trình phát triển đất nước, năm 1965 tỉnh Hà Nam và tỉnh Nam Định sát nhập thành tỉnh


×