Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ý THỨC xã hội CHỦ NGHĨA của SINH VIÊN các TRƯỜNG đại học NGÀNH KHOA học xã hội và NHÂN văn ở hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.11 KB, 89 trang )

1

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

VIẾT TẮT

Báo chí và Tuyên truyền

BC&TT

Chính trị hành chính quốc gia

CTHCQG

Chính trị quốc gia

CTQG

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Chủ nghĩa xã hội khoa học

CNXHKH

Đại học

ĐH



Giáo dục và đào tạo

GD&ĐT

Học viện

HV

Khoa học xã hội và nhân văn

KHXH&NV

Quy chế dân chủ

QCDC

Sinh viên

SV

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
MỘT

SỐ
VẤN
ĐỀ

LUẬN

THỰC
TIỄN
VỀ
Ý
THỨC
Chương 1
11
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA SINH VIÊN CÁC


2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÀNH KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN Ở HÀ NỘI HIỆN NAY

1.1.

Một số vấn đề lý luận về ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa của
sinh viên các trường đại học ngành khoa học xã hội và nhân

1.2.

văn ở Hà Nội hiện nay
11

Thực trạng ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa của sinh viên các
trường đại học ngành khoa học xã hội và nhân văn ở Hà Nội
hiện nay và nguyên nhân

27

Chương 2 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO Ý THỨC
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA SINH VIÊN CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÀNH KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
47
NHÂN VĂN Ở HÀ NỘI HIỆN NAY

2.1.

Yêu cầu nâng cao ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa của sinh
viên các trường đại học ngành khoa học xã hội và nhân văn ở

2.2.

Hà Nội hiện nay
47
Những giải pháp cơ bản nâng cao ý thức dân chủ xã hội chủ
nghĩa của sinh viên các trường đại học ngành khoa học xã hội

và nhân văn ở Hà Nội hiện nay
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

55

81
83
88


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài đề tài
Ý thức dân chủ XHCN là một trong những phẩm chất chính trị quan
trọng của mỗi công dân, nhất là đối với SV các trường ĐH ngành
KHXH&NV, những người đang trực tiếp học tập nghiên cứu về các vấn đề
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhờ có ý thức dân chủ XHCN mà SV có
nhận thức, niềm tin đúng đắn về chế độ dân chủ XHCN, có ý chí quyết tâm
trong học tập, nghiên cứu khoa học và rèn luyện; có thái độ chính trị tích cực,
góp phần trực tiếp vào quá trình thực hiện dân chủ trong nhà trường và xã hội.
Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển đất nước, phát huy dân chủ XHCN ở mọi tầng lớp nhân dân,
trong đó SV các trường ĐH ngành KHXH&NV ở Hà Nội, đang là yêu cầu
mang tính chiến lược và cấp bách hiện nay.
Sinh viên các trường ĐH ngành KHXH&NV ở Hà Nội là lực lượng
đông đảo, có trình độ, nhận thức nhanh, dễ thích ứng với các vấn đề mới. Sau
hơn một phần tư thế kỷ của quá trình đổi mới, nền dân chủ XHCN đã có
nhiều thành tựu quan trọng, ý thức dân chủ của nhân dân trong đó có SV các
trường ĐH ngành KHXH&NV ở Hà Nội ngày càng được nâng cao. Đại đa số
SV đều có quyết tâm, hoài bão, lý tưởng, vươn lên, khắc phục những khó
khăn, say mê trong học tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện và các phong trào
xung kích của tuổi trẻ.
Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang thực hiện
chiến lược “diễn biến hoà bình” chống phá chế độ XHCN ở nước ta, trong đó

chúng coi “dân chủ” là một trong những đột phá, thế hệ trẻ là đối tượng quan
trọng để chúng lôi kéo, kích động. Bên cạnh đó mặt trái của nền kinh tế thị
trường; những bất cập của quá trình hội nhập quốc tế, tệ quan liêu tham
nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận


4

không nhỏ cán bộ đảng viên đang diễn ra có chiều hướng phức tạp. Ý thức
dân chủ XHCN của một bộ phận SV các trường ĐH ngành KHXH&NV ở Hà
Nội hiện nay, vẫn còn những hạn chế nhất định. Một bộ phận chưa có ý thức
dân chủ đúng đắn, hiểu sai lệch về dân chủ XHCN, xói mòn niềm tin đối với
Đảng, với chế độ dân chủ XHCN. Từ đó dẫn đến mơ hồ, lệch lạc trong tư duy
lối sống, bị lôi kéo mua chuộc, vi phạm kỷ luật, kỷ cương, pháp luật Nhà
nước, giảm sút ý chí quyết tâm trong học tập, nghiên cứu khoa học và rèn
luyện, ảnh hưởng đến truyền thống tốt đẹp của tuổi trẻ Việt Nam, phẩm chất
đạo đức của người SV dưới mái trường XHCN.
Xây dựng SV các trường ĐH ngành KHXH&NV ở Hà Nội vững
mạnh về mọi mặt, chính là xây dựng và vun trồng cho tương lai của dân
tộc. Đây là vấn đề quan trọng, là đòi hỏi trước mắt và lâu dài của sự nghiệp
cách mạng, nhằm góp phần đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao cho đất nước, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
XHCN. Điều đó đặt ra tính cấp thiết phải nâng cao ý thức dân chủ XHCN
cho SV. Chính vì vậy, đề tài: “Ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa của sinh
viên các trường đại học ngành khoa học xã hội và nhân văn ở Hà Nội
hiện nay” mà tác giả lựa chọn làm luận văn tốt nghiệp có ý nghĩa to lớn cả
về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã có nhiều tác phẩm, bài viết về vấn đề dân chủ, dân chủ XHCN, cũng như ý

thức dân chủ XHCN trong sự nghiệp cách mạng XHCN. Đảng, Nhà nước,
Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên Việt
Nam, Bộ GD&ĐT, các trường ĐH, đã ban hành nhiều văn kiện, nghị quyết,
chỉ thị liên quan đến vấn đề dân chủ và xây dựng ý thức dân chủ XHCN ở
nước ta, trong ngành giáo dục, trong các học viện, nhà trường, trong đội ngũ


5

thanh niên, học sinh, SV. Đó là những quan điểm, tư tưởng lý luận và phương
pháp luận rất cơ bản, định hướng cho quá trình nghiên cứu của đề tài. Hiện
nay đã có nhiều công trình khoa học liên quan đến đề tài như:
Về dân chủ. Đến nay, đã có nhiều công trình khoa học như: “Dân chủ
tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa”, của Thái Ninh và Hoàng Chí Bảo, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1991; “Vấn đề dân chủ trong lĩnh vực dân chủ ở nước ta
hiện nay”, luận án phó tiến sĩ Triết học của Ngô Hữu Thảo, Hà Nội, 1991;
“Nâng cao trình độ văn hoá dân chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”, luận án phó tiến sĩ Triết
học của Mẫn Văn Mai, Hà Nội, 1994; “Dân chủ với tư cách là một chế độ
chính trị”, của GS Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Triết học số 3 (97), 6-1997; “Một
số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay”, của TS Đỗ Trung
Hiếu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004…Trong đó các công trình:
“Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay” của
Đỗ Trung Hiếu đã luận giải dân chủ từ khái lược chung, chiều cạnh triết học
đến chiều cạnh chính trị. Từ trình bày sơ lược về thuật ngữ và về lịch sử của
“dân chủ”, tác giả nhận định nội dung của khái niệm “dân chủ” “về cơ bản
vẫn giữ nguyên nghĩa cho đến ngày nay. Điểm khác biệt căn bản giữa cách
hiểu về dân chủ thời cổ đại với thời hiện đại là ở tính trực tiếp của mối quan
hệ sở hữu quyền lực công cộng và cách hiểu còn hạn hẹp về khái niệm nhân
dân” [20, tr.8]. Nghiên cứu sự khác nhau của các quan niệm về dân chủ, tác

giả chỉ ra: “Sự phức tạp của vấn đề dân chủ còn nằm ở chỗ: bản thân thuật
ngữ dân chủ ngày nay được hiểu và sử dụng theo nhiều nghĩa. Bởi vậy, phân
biệt các chiều cạnh khác nhau của nó cũng là việc làm rất cần thiết”. Và chính
tác giả đã nghiên cứu vấn đề dân chủ từ những chiều cạnh khác nhau đó. Mặc
dù đưa ra nhiều cách tiếp cận phong phú, đa dạng, nhiều chiều về dân chủ,
song để luận giải cho vấn đề chính của mình, tác giả đã tiếp cận dân chủ với
tư cách là một nền dân chủ, mà trung tâm của nó là vấn đề nhà nước.


6

Với công trình “Dân chủ với tư cách là một chế độ chính trị”, Hoàng
Chí Bảo đã luận giải cách xem xét dân chủ dưới góc độ là một chế độ chính
trị. Tác giả chỉ ra: “dân chủ có căn nguyên sâu xa từ kinh tế, có cơ sở trực tiếp
về chính trị, nó là sản phẩm của sự phát triển kinh tế và sự vận động của
chính trị”. Bên cạnh việc luận giải các mặt không trùng hợp, tác giả còn chỉ ra
sự trùng hợp giữa dân chủ và chính trị dẫn đến sự trùng hợp giữa chế độ dân
chủ với chế độ chính trị và chế độ nhà nước [5, tr.56].
Còn với công trình “Nâng cao trình độ văn hoá dân chủ của nhân dân
trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”
của Mẫn Văn Mai. Công trình đã luận giải vấn đề trung tâm - Trình độ văn
hoá dân chủ, tác giả đã tiếp cận dân chủ với tư cách là một giá trị văn hoá. Từ
đó đưa ra quan niệm riêng về dân chủ: “Dân chủ là một hiện tượng xã hội,
một quan hệ xã hội khách quan. Nội dung cốt lõi của dân chủ là khát vọng và
quyền làm chủ của nhân dân, là quyền lực thuộc về nhân dân và tự do bình
đẳng của nhân dân trong đời sống xã hội và quan hệ xã hội”. Đáng chú ý là
tác giả đã chỉ ra nội dung cấu trúc, nội dung trình độ văn hoá dân chủ của
nhân dân ta [43, tr.4].
Về ý thức và ý thức dân chủ, cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
tương đối toàn diện về ý thức nói chung và ý thức dân chủ nói riêng. Trong

cuốn “Ý thức pháp luật” của mình, được Nxb Quân đội nhân dân, xuất bản
năm 1994, Lê Đức Tiết đã tiếp cận cấu trúc của ý thức bao gồm: “Nhận thức,
tri thức, học thuyết, trường phái; tình cảm, thái độ, quan điểm, lập trường,
khuynh hướng; ý chí, thói quen…” [62, tr.15]. Giáo trình Triết học Mác Lênin của Nxb Quân đội nhân dân, năm 1995 và của Nxb Chính trị quốc gia,
năm 1999 đã luận giải nhiều chiều cạnh của ý thức, từ nguồn gốc, bản chất,
kết cấu đến vai trò và tác dụng của nó. Đã chỉ ra, ý thức là một hiện tượng
tâm lý xã hội, bao gồm toàn bộ quá trình tâm lý tích cực, sự hiểu biết của con
người đối với thế giới khách quan và sự tồn tại thực sự của nó [23, tr.85].


7

Về các giải pháp nâng cao ý thức dân chủ XHCN. Có rất nhiều công
trình đề cập đến các giải pháp nâng cao ý thức dân chủ XHCN ở các góc độ
khác nhau. Đáng lưu ý là hệ thống giải pháp, vấn đề tác động về nhận thức,
nội dung, phương pháp, phương tiện, cơ sở kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội
của dân chủ, đã luận giải và làm rõ các vấn đề một cách khá toàn diện trong
đề tài: “Nâng cao ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa” trong cuốn Tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân chủ của Phạm Hồng Chương (2004), được Nxb CTQG xuất
bản tại Hà Nội [7, tr.216].
Luận án tiến sỹ Triết học: “Ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ
quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” của
Nguyễn Văn Quang (2007). Tác giả trình bày khá toàn diện về ý thức dân chủ
XHCN, đồng thời chỉ ra những nội dung cơ bản về bản chất dân chủ XHCN,
ý thức dân chủ XHCN và vai trò của nó trong xây dựng phẩm chất cách mạng
của mọi công dân nói chung và Hạ sỹ quan, binh sỹ trong Quân đội nhân dân
Việt Nam nói riêng, các biểu hiện ý thức dân chủ XHCN ở đối tượng cụ thể là
HSQ,BS, đưa ra các yêu cầu, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao ý thức dân chủ
XHCN ở đối tượng này [54, tr.34].
Các công trình ngiên cứu về Quy chế dân chủ ở cơ sở, có đề tài: "Thực

hiện Quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay" do
TS Nguyễn Văn Sáu - GS Hồ Văn Thông đồng chủ trì [59, tr.63]. “Để thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở” của Trần Quang Nhiếp, Tạp chí cộng sản, số 2 năm
1999; “Vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của Lênin để thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở” của Trần Văn Đam, Tạp chí Dân vận, số 4 năm
2000; "Gắn việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở với củng cố chính quyền
cơ sở" của nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải, Tạp chí Quốc phòng toàn dân,
số 1 năm 2002; "Dân chủ ở cơ sở - một sức mạnh truyền thống của dân tộc
Việt Nam" của Trần Bạch Đằng, Tạp chí Cộng sản, số 35 năm 2003; "Thực
hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi mới: thành tựu, vấn đề và giải pháp"


8

của Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3 năm 2004. Có thể tìm
hiểu khái quát về công trình nghiên cứu này qua cuốn sách cùng tên do Nxb
CTQG phát hành năm 2003.
Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước về: "Củng cố và tăng cường hệ
thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát triển của nước ta hiện
nay" do GS Hoàng Chí Bảo - Học viện CTHCQG Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm,
nghiệm thu 2002. Đề tài "Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống
xã hội nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc nước
ta", do TS Nguyễn Quốc Phẩm chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
[52, tr. 45]. "Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã – Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn" của PGS, TS Dương Xuân Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
“Chất lượng thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở đơn vị cơ sở quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay” sách chuyên khảo của TS Tạ Việt Hùng, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 2010 [42, tr.21]. Các công trình nghiên cứu kể trên đã đi sâu
nghiên cứu về việc thực hiện Quy chế dân chủ gắn với tăng cường hệ thống chính
trị ở cơ sở ở các lĩnh vực, môi trường khác nhau, chỉ ra các giải pháp cụ thể để

thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Nhìn chung, các công trình trên đã đề cập nhiều tới vấn đề dân chủ, ý
thức dân chủ, với những đối tượng, phạm vi nghiên cứu và hệ thống các giải
pháp nhằm mục đích khác nhau. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách có hệ thống Ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa của sinh
viên các trường đại học ngành khoa học xã hội và nhân văn ở Hà Nội hiện
nay. Vì vậy, đề tài mà tác giả lựa chọn nội dung nghiên cứu không trùng lặp
với các công trình đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích:
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn về ý thức dân chủ XHCN
của SV các trường ĐH ngành KHXH&NV trên địa bàn Hà Nội, đề xuất


9

những yêu cầu và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao ý thức dân chủ XHCN của
của SV các trường ĐH ngành KHXH&NV ở Hà Nội hiện nay.
Nhiệm vụ:
Làm rõ quan niệm, đặc điểm, vai trò, ý thức dân chủ XHCN của SV các
trường ĐH ngành KHXH&NV ở Hà Nội hiện nay.
Đánh giá thực trạng ý thức dân chủ XHCN của SV các trường ĐH
ngành KHXH&NV ở Hà Nội hiện nay.
Đề xuất những yêu cầu và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao ý thức dân
chủ XHCN của SV các trường ĐH ngành KHXH&NV ở Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là ý thức dân chủ XHCN của SV các
trường ĐH ngành KHXH&NV ở Hà Nội hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu:

Từ góc độ triết học, đề tài nghiên cứu ý thức dân chủ XHCN của SV
các trường ĐH ngành KHXH&NV ở Hà Nội hiện nay là người Việt Nam, các
trường dân sự, bậc đại học, đào tạo chính quy tập trung. Tập trung nghiên
cứu: ĐH KHXH&NV; ĐH Sư phạm; ĐH Ngoại ngữ (ĐH Quốc gia Hà Nội);
HV BC&TT; HV Hành chính (HV CTHCQG Hồ Chí Minh); một số ngành
thuộc HV Ngoại giao; ĐH Công đoàn; ĐH Luật; ĐH Văn hóa và ĐH Hà Nội.
Quá trình khảo sát thực tiễn tập trung vào hai trường điển hình là: ĐH
KHXH&NV (ĐH Quốc gia Hà Nội) và HV BC&TT (HV CTHCQG Hồ Chí
Minh). Thời gian nghiên cứu từ năm 2007 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Phương pháp luận của đề tài là Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ
nghĩa duy vật lịch sử; vận dụng các tư tưởng, luận điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về dân chủ, dân chủ XHCN, ý thức dân chủ XHCN, xây dựng ý thức dân


10

chủ XHCN.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu thực tiễn ý thức dân
chủ của SV trong thực hiện dân chủ XHCN trong các trường ĐH ngành
KHXH&NV ở Hà Nội, qua các nghị quyết, báo cáo tổng kết, các nhận định,
đánh giá của các nhà trường về giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học; về công
tác thanh niên; SV trong tình hình mới. Sử dụng phương pháp đặc thù của
CNXHKH, vận dụng tổng hợp các phương pháp lôgíc - lịch sử, phân tích, so
sánh; qua thu thập các số liệu, khảo sát điều tra xã hội học của tác giả và phương
pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho Bộ GD&ĐT, lãnh đạo
các trường, các cấp bộ Đoàn, Hội sinh viên trong việc nâng cao ý thức dân

chủ XHCN của SV các trường ĐH ngành KHXH&NV ở Hà Nội.
Đề tài góp phần nâng cao ý thức dân chủ XHCN, đồng thời trực tiếp
thúc đẩy việc thực hiện tốt hơn những quy định về thực hiện QCDC trong SV
và định hướng cho SV trong hoạt động thực tiễn.
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy, định
hướng giáo dục về dân chủ và kỷ luật trong các học viện, nhà trường trong cả
nước, nhất là ngành KHXH&NV về ý thức chính trị xã hội, ý thức dân chủ
XHCN và một số chủ đề trong các môn KHXH&NV.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


11

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ Ý THỨC
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG
ĐẠI HỌC NGÀNH KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Ở HÀ NỘI HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa của
sinh viên các trường đại học ngành khoa học xã hội và nhân văn ở Hà
Nội hiện nay
1.1.1. Dân chủ và ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
* Dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ là một hiện tượng xã hội, là một sản phẩm của xã hội loài
người phát triển đến một giai đoạn lịch sử nhất định. Xét về mặt lịch sử, khái
niệm dân chủ xuất hiện rất sớm, từ thời cổ đại. Trong ngôn ngữ của người
Hy-lạp cổ đại đã xuất hiện cụm từ Démos Kratos, trong đó démos là nhân
dân, kratos là quyền lực. Như vậy, theo nghĩa ban đầu của nó, dân chủ có

nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân. Nói cách khác, dân chủ là một khái
niệm để chỉ một chế độ xã hội mà ở đó “nhân dân là chủ thể của quyền
lực”[60, tr.60]. Sự phát triển của dân chủ đã làm xuất hiện nhiều cách tiếp cận
mới, khác nhau đối với phạm trù dân chủ, song dân chủ vẫn là một phạm trù
lịch sử phản ánh một hiện tượng xã hội, một quan hệ xã hội khách quan mà
nội dung cốt lõi của nó là khát vọng, là quyền làm chủ, quyền tự do, bình
đẳng về quyền lực của nhân dân, của một giai cấp nhất định trong một xã hội
xác định. Phạm vi đề tài này tiếp cận dân chủ dưới góc độ là một hình thức
nhà nước và quyền, nghĩa vụ của công dân dưới chế độ nhà nước, đó là tri
thức, tình cảm, niềm tin và ý chí về dân chủ.
Chế độ dân chủ XHCN. Chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm chế độ dân
chủ là một phạm trù lịch sử, là một hình thức nhà nước, một hình thức chính
trị. Các hình thái xã hội không có hoạt động chính trị như: chủ nghĩa cộng sản


12

nguyên thuỷ trước đây và giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản sau này lẽ dĩ
nhiên là không có chế độ dân chủ. V. I. Lênin viết: “Dân chủ là một phạm trù
thuộc riêng lĩnh vực chính trị thôi” [31, tr.258] và “Dân chủ tức là chính
quyền của nhân dân” [29, tr.284]. Chế độ dân chủ là một chế độ xã hội mà
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và đi liền với chuyên chính của nhân
dân. Dân chủ đối lập với quân chủ, chuyên chế, độc tài và phát xít.
Như vậy, ngay từ đầu “chế độ dân chủ” là khái niệm dùng để chỉ tính
chất của mối quan hệ giữa nhân dân với nhà nước, nhân dân là chủ thể của
quyền lực. C. Mác chỉ rõ: “trong chế độ dân chủ, thì chế độ nhà nước, luật
pháp, bản thân nhà nước - trong chừng mực nhà nước là một chế độ chính trị
nhất định - chỉ là sự tự quy định của nhân dân và là nội dung xác định của
nhân dân” [33, tr.351].
Chế độ dân chủ là một phạm trù chính trị, là sự khái quát thực tại về

các xã hội có hoạt động chính trị và quan hệ chính trị, giai cấp trong xã hội có
giai cấp. Dân chủ bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định, gắn
liền với chuyên chính, phản ánh lợi ích của giai cấp thống trị, không có thứ
dân chủ trừu tượng, phi giai cấp, siêu giai cấp, ngoài giai cấp. Chế độ dân chủ
là một hình thức nhà nước, mà ở đó thừa nhận quyền bình đẳng giữa các công
dân. Chế độ dân chủ là một phạm trù lịch sử, nó không thể xuất hiện khi xã
hội chưa nảy sinh giai cấp, sẽ mất đi trong xã hội không còn giai cấp.
Chế độ dân chủ XHCN là thành quả đấu tranh cách mạng của giai
cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân, nhân
dân lao động tiến hành cuộc cách mạng, lật đổ chính quyền của giai cấp tư
sản (phong kiến), thiết lập chính quyền và xây dựng bộ máy nhà nước của
mình, tạo tiền đề thực hiện dân chủ XHCN, mở rộng tự do cho giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và thực hành chuyên chính với kẻ thù, thông
qua nhà nước của giai cấp công nhân. “Đồng thời với việc mở rộng rất


13

nhiều chế độ dân chủ - lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người
nghèo, chế độ dân chủ cho nhân dân chứ không phải cho bọn nhà giàu chuyên chính vô sản còn thực hành một loạt biện pháp hạn chế quyền tự do
đối với bọn áp bức, bọn bóc lột, bọn tư sản” [28, tr.109].
Bản chất của chế độ dân chủ XHCN là bảo đảm quyền làm chủ thực tế
của nhân dân lao động trên mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội và tinh thần; phát huy tính tích cực sáng tạo của toàn thể nhân dân trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN thông qua nhà nước XHCN,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là “chính quyền của nhân dân, do
nhân dân làm chủ” [26, tr.218] và cũng là một chế độ dân chủ “hơn gấp triệu
lần” bất cứ một chế độ dân chủ nào trong lịch sử, như V.I. Lênin đã từng
khẳng định. Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa phát triển sáng tạo quan điểm dân

chủ và dân chủ XHCN, Người cho rằng: “dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân
làm chủ”[45, tr.375]. Triết lý cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi thiết kế và
tổ chức xây dựng một chế độ chính trị cách mạng đầu tiên ở nước ta được tóm
tắt trong hai từ “dân chủ”, nghĩa là “nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là
dân, vì dân là chủ”[44, tr.515]; “Nhà nước do nhân dân làm chủ...”[44,
tr.452]; toàn bộ quyền lực, lợi ích đều thuộc về nhân dân và được thực hiện
qua các hình thức dân chủ.
Như vậy, chế độ dân chủ XHCN là một chế độ chính trị mà trong đó
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân lao động, một hình thức tự quy định
của nhân dân để chi phối hoạt động của nhà nước, xã hội và công dân trên cơ
sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các công dân, được pháp luật thừa
nhận, bảo đảm trên thực tế, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và đội
tiền phong là Đảng Cộng sản.
Đặc điểm của chế độ dân chủ XHCN là: Nhân dân lao động là chủ thể
mọi quyền lực của xã hội; quyền lợi và nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm,
cống hiến và hưởng thụ luôn gắn bó chặt chẽ với nhau; phủ định biện chứng


14

chế độ dân chủ tư sản, kế thừa và phát triển những giá trị tiến bộ và văn minh
của nhân loại; là hành động cách mạng không ngừng của nhân dân trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm hướng tới một xã hội không còn nạn
áp bức giai cấp, dân tộc và “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho
sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [38, tr.628].
* Ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong óc của con người
một cách năng động sáng tạo. Theo triết học Mác - Lênin, ý thức “chẳng qua
chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến
đi ở trong đó”[36, tr.35]; là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” [27,

tr.138]; là “hình thức cao của sự phản ánh của thực tại khách quan, hình thức
mà chỉ riêng con người mới có được”[57, tr.1066]. Ý thức được nảy sinh
trong mối quan hệ tác động qua lại giữa con người với thế giới khách quan
thông qua hoạt động thực tiễn. Nội dung ý thức do thế giới khách quan quy
định, song ý thức luôn mang tính chủ quan bởi kết quả phản ánh của ý thức
phụ thuộc vào năng lực chủ quan của chủ thể phản ánh.
Như vậy, ý thức là một hiện tượng xã hội, mang tính xã hội, không tồn
tại chung chung, trừu tượng mà nó luôn tồn tại dưới những hình thái ý thức cụ
thể như ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức dân chủ, ý
thức tôn giáo… Các hình thái ý thức đó tồn tại tương đối độc lập, phản ánh
những mặt, những lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, chúng thường
xuyên tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình vận động biến đổi và phát
triển. Ý thức mang tính tích cực, tự giác, sáng tạo, mang bản chất xã hội, ý
thức còn là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp.
Ý thức dân chủ XHCN là một dạng ý thức xã hội, phản ánh bản chất
chế độ dân chủ XHCN, đời sống hiện thực XHCN. Theo đó sự phản ánh hiện
thực khách quan về ý thức dân chủ, được đề tài xác định bao gồm các yếu tố
cơ bản là: tri thức (nhận thức, hiểu biết); tình cảm (gồm cả niềm tin); thái độ
và ý chí (gồm cả ý chí và quyết tâm).


15

Từ quan niệm về dân chủ, ý thức có thể quan niệm:
Ý thức dân chủ là một hình thái ý thức đặc thù của ý thức xã hội
trong một xã hội nhất định, phản ánh mối quan hệ dân chủ của đời sống xã
hội đó; khát vọng quyền làm chủ của nhân dân, quyền lực thuộc về nhân
dân, tổng hòa của nhận thức, thái độ, niềm tin và ý chí của nhân dân về dân
chủ, mà trong đó nhân dân là chủ thể quyền lực của một xã hội xác định.
Đồng thời có thể đưa ra nội dung: Ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa là

một dạng đặc thù của ý thức dân chủ, phản ánh đời sống dân chủ của xã hội
xã hội chủ nghĩa, mang bản chất giai cấp công nhân, phản ánh quyền lực nhà
nước thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động; là tổng hoà của
nhận thức, niềm tin, thái độ và ý chí quyết tâm; thể hiện bằng hành vi thực
hiện dân chủ, định hướng cho nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Xét về cấu trúc ý thức dân chủ XHCN gồm: nhận thức; niềm tin; thái
độ và ý chí quyết tâm của chủ thể. Nhận thức, niềm tin, thái độ và ý chí dân
chủ XHCN hoà quyện, gắn bó với nhau, tác động lẫn nhau trong ý thức dân
chủ XHCN. Việc nghiên cứu ý thức dân chủ XHCN đòi hỏi phải làm rõ các
nội dung cơ bản này. Xác định những nội dung cơ bản đó chỉ có tính chất
tương đối, bởi tính chất, cấu trúc và nội dung của ý thức dân chủ XHCN rất
rộng và phức tạp. Một mặt, nó được kết cấu như ý thức nói chung (có cả chiều
ngang lẫn chiều dọc); mặt khác, nó lại được kết cấu theo các dạng của ý thức
xã hội (có cả ý thức thông thường lẫn ý thức lý luận). Cả hai dạng cấu trúc đó
lại đồng thời phản ánh mặt tư tưởng và tâm lý của ý thức dân chủ XHCN. Do
đó, khi phân tích theo những nội dung cơ bản (nhận thức, niềm tin, thái độ, ý
chí) vừa phải luôn xem xét chúng trong các mối quan hệ với các nội dung, các
yếu tố cấu thành ý thức dân chủ XHCN như kết cấu cơ bản của ý thức và ý
thức xã hội, vừa phải đặt trong các mối quan hệ với chế độ dân chủ XHCN. Ý


16

thức dân chủ XHCN thể hiện thông qua hành vi, hành động thực hiện dân chủ,
trong xây dựng, bảo vệ chế độ dân chủ XHCN.
1.1.2. Quan niệm ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa của sinh viên các
trường đại học ngành khoa học xã hội và nhân văn ở Hà Nội
* Sinh viên các trường ĐH ngành KHXH&NV ở Hà Nội.
Sinh viên các trường ĐH ngành KHXH&NV ở Hà Nội hiện nay là lực

lượng đông đảo, đang học tập nghiên cứu tại các học viện, nhà trường thuộc
ngành KHXH&NV trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Họ có độ tuổi trung bình
từ 18 đến 24; phần lớn là đoàn viên Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; phần
đông là SV nữ, SV nam ngày càng có chiều hướng giảm những năm gần đây
chiếm khoảng trên 30%, cá biệt có chuyên ngành chỉ có dưới 15%. Họ được
sinh ra và lớn lên trong quá trình đất nước tiến hành công cuộc đổi mới; được
giáo dục trong môi trường thuận lợi, thừa hưởng những thành quả của ông,
cha với một nền giáo dục XHCN đang trong thời kỳ hội nhập quốc tế, hướng
đến xây dựng nền kinh tế tri thức. Họ lớn lên trong điều kiện đất nước vừa
đấu tranh, vừa xây dựng, hoàn thiện và mở rộng nền dân chủ XHCN trên tất
cả các lĩnh vực đời sống xã hội, đảm bảo cho mọi người dân thực sự làm chủ
mọi lĩnh vực đời sống trên thực tế. Phần lớn SV xuất thân từ con em nông
dân, công nhân và viên chức, thuộc các dân tộc khác nhau.
Sinh viên ngành KHXH&NV, cơ bản có kiến thức tốt về các môn xã
hội, có xu hướng nghề nghiệp rõ ràng, có tình cảm, niền tin, nhạy bén đối với
các vấn đề chính trị, xã hội. Đại đa số các em đều có nhận thức và tình cảm
nhất định đến các vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội, có tâm hồn phong phú,
tính nhân văn sâu sắc. Có khả năng phân tích, tổng hợp, đánh giá những vấn
đề trong nước và quốc tế trên các bình diện một cách tương đối nhạy cảm,
nhanh chóng. Thời gian đào tạo thường là 4 năm; cuối thời gian học tập,
nghiên cứu, SV đi thực tế cuối khóa; thi tốt nghiệp, làm khóa luận, tốt nghiệp
ra trường được cấp bằng “cử nhân”.


17

Các trường ĐH ngành KHXH&NV, với các chuyên ngành học và nghiên
cứu đều tập trung, liên quan đến các lĩnh vực chính trị, xã hội, văn hóa hết sức đa
dạng, phong phú [Phụ lục 9]. Phần lớn các trường ngành này ở Hà Nội đều thuộc
các trường công lập nhà nước, có bề dày truyền thống xây dựng và phát triển.

Các nhà trường đã đào tạo nhiều thế hệ SV thành danh là các lãnh tụ chính trị,
nhà văn hóa, nhà nghiên cứu, các học giả, các nhà khoa học có uy tín trong các
lĩnh vực, đã có nhiều đóng góp to lớn trong quá trình xây dựng, phát triển của
dân tộc, làm rạng danh đất nước và ngành trong quá trình phát triển. Ngày nay
trước xu thế hội nhập quốc tế, kinh tế tri thức, các trường ĐH ngành
KHXH&NV đang vươn lên đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng GD&ĐT,
nghiên cứu các lĩnh vực KHXH&NV với nhiều cấp học, bậc học, ngành học, đa
ngành, đa lĩnh vực, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời cung cấp nhiều luận
cứ khoa học có giá trị, những vấn đề thực tiễn vận động xã hội đang đặt ra trong
quá trình phát triển đất nước. Hiện nay các trường đang mở rộng hợp tác quốc tế,
nâng cao chất lượng GD&ĐT, trở thành những trung tâm đào tạo có chất lượng
cao trong khu vực và trên thế giới, thu hút nhiều SV trong nước và quốc tế.
Hiện nay, cũng giống như một số lĩnh vực, ngành đào tạo khác, ngành
KHXH&NV đang đứng trước những khó khăn thách thức nhất định. Do tác
động của cơ chế thị trường; do nhận thức, tâm lý của người học; do nội dung
và chương trình giáo dục còn nhiều bất cập. Do đó hiện nay lượng SV theo
học ngành này đang có chiều hướng giảm, học sinh nam, học sinh giỏi ngày
càng ít thi vào ngành này.
Thủ đô Hà Nội, trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội của cả
nước, Thành phố vì hòa bình, với truyền thống Thăng Long ngàn năm văn
hiến, nơi hội tụ những giá trị văn hóa, nhân văn của dân tộc qua các triều đại.
Nơi đánh dấu những chiến công oai hùng, hiển hách của dân tộc ta qua các
thời kỳ lịch sử trước đây và trong thời đại Hồ Chí Minh. Sau khi mở rộng địa


18

giới hành chính, Hà Nội đang phát triển vươn lên trở thành một trong những
Thủ đô hiện đại trong khu vực và trên thế giới. Là nơi tập trung hầu hết các

trường ĐH tại khu vực phía bắc, trong đó có các trường ĐH ngành
KHXH&NV. Thủ đô Hà Nội là nơi tập trung các nguồn lực, trung tâm nghiên
cứu, ứng dụng quan trọng trong và ngoài nước.
Bên cạnh đó, Thủ đô Hà Nội cũng là nơi các thế lực thù địch đang tìm
cách chống phá ta trên mọi lĩnh vực, nhất là thực hiện âm mưu “diễn biến hòa
bình”, nhằm chuyển hóa, chống phá chế độ và con đường đi lên CNXH của
nhân dân ta. Đặc biệt, chúng tập trung lợi dụng, kích động, lôi kéo thế hệ trẻ,
SV đang sống và học tập tại Thủ đô. Thành phố Hà Nội cũng như các đô thị
khác đang phải chịu những hậu quả của quá trình đô thị hóa, của quá trình
phát triển nóng, những bất cập trong công tác quản lý xã hội như: văn hóa, y
tế, giáo dục, giao thông, môi trường, tệ nạn xã hội, mại dâm, ma túy, tội phạm
trong nước, quốc tế, nạn buôn lậu và các vấn đề xã hội phức tạp khác. Những
thực tế của đời sống chính trị, văn hóa, xã hội trên đia bàn Thủ đô, đã trực
tiếp tác động đến ý thức dân chủ XHCN của SV các trường ĐH ngành
KHXH&NV hiện nay với các mức độ khác nhau.
* Ý thức dân chủ XHCN của SV các trường ĐH ngành KHXH&NV ở
Hà Nội hiện nay là biểu hiện đặc thù của ý thức dân chủ XHCN của nhân dân
ta, được thể hiện ở một đối tượng cụ thể là SV ngành KHXH&NV.
Ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa của sinh viên các trường đại học
ngành Khoa học xã hội và Nhân văn ở Hà Nội hiện nay là tổng hòa những tri
thức, niềm tin, thái độ và ý chí quyết tâm của sinh viên đối với nhiệm vụ thực
thi, bảo vệ, xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa và các quyền lợi, nghĩa
vụ của sinh viên.
Ý thức dân chủ XHCN của SV các trường ĐH ngành KHXH&NV ở
Hà Nội là một bộ phận của ý thức xã hội XHCN, chịu sự tác động nhiều mặt
bởi các hình thái ý thức xã hội XHCN khác, thường xuyên, trực tiếp nhất là ý


19


thức chính trị; ý thức pháp quyền; ý thức kỷ luật học đường. Do đó, việc
nghiên cứu ý thức dân chủ XHCN của SV các trường ĐH ngành KHXH&NV
ở Hà Nội đồng thời phải xem xét đến các loại ý thức có liên quan.
* Ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa của SV các trường ĐH ngành
KHXH&NV ở Hà Nội hiện nay, được biểu hiện ở các nội dung sau:
Về nhận thức dân chủ XHCN.
Đó là nhận thức về quyền dân chủ, quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của
công dân, được Đảng, Nhà nước quy định trong quá trình xây dựng CNXH,
nhằm đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản thông qua sự quản lý điều hành của Nhà nước pháp quyền XHCN.
Hiểu biết về các thiết chế, cơ chế dân chủ XHCN bao gồm các tổ chức
chính trị xã hội, các mối quan hệ của các tổ chức đó với nhau và quan hệ với nhân
dân. Thể hiện bản chất của chế độ XHCN, đảm bảo quyền lực thực tế trên mọi
lĩnh vực thuộc về nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, mang bản chất
của giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các văn kiện nghị quyết của Đảng ta, nội dung của dân chủ XHCN
được thực hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như dân chủ về kinh tế;
chính trị; văn hóa; xã hội và trong các mối quan hệ xã hội đa dạng của con
người và cộng đồng xã hội.
Biết được các hình thức dân chủ bao gồm: dân chủ đại diện là nhân dân
thực hiện quyền dân chủ thông qua các cơ quan đại diện và người đại diện
trong các cơ quan dân cử, các tổ chức chính trị xã hội; dân chủ trực tiếp là
nhân dân trực tiếp tham gia các hoạt động quản lý xã hội theo quyền hạn,
nghĩa vụ, chức trách công dân của mình; hình thức tự quản, qua đó cộng đồng
dân cư tự đề ra các quy định thực hiện quyền, nghĩa vụ trách nhiệm của mình
theo những quy định đó một cách tự giác, nhất là trong thực hiện QCDC.


20


Các điều kiện bảo đảm, trước hết là ý chí của nhân dân, vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, vai trò của hệ thống chính trị, năng lực thực hành dân
chủ của nhân dân. Tính ưu việt, bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN, thông qua
hoạt động của Nhà nước, phương thức sản xuất, trình độ phát triển xã hội,
truyền thống văn hóa, năng lực thực hành dân chủ, QCDC của nhân dân.
Nhận thức sự khác nhau về bản chất dân chủ XHCN và dân chủ tư sản,
đây là một trong vấn đề cốt lõi, quan trọng định hướng chính trị, dân chủ cho
SV các trường ĐH ngành KHXH&NV ở Hà Nội. Biết được những nội dung
trọng tâm mà các thế lực thù địch, phản động đang tập trung chống phá chúng
ta, với chiêu bài “dân chủ”, “dân chủ phi giai cấp”, “dân chủ không tính từ.”
Đối tượng tác động lôi kéo của chúng chính là thế hệ trẻ, học sinh, SV, các
tầng lớp nhóm người bất mãn, cơ hội chính trị, thù hằn với dân tộc, chế độ.
Đồng thời vạch trần âm mưu thủ đoạn của kẻ thù là việc làm cần thiết, cấp
bách cả trước mắt lẫn lâu dài, giữ vững niềm tin và sự ổn định của chế độ
XHCN ở nước ta.
Về niềm tin dân chủ XHCN.
Sự tin tưởng của SV vào chế độ dân chủ XHCN, tin tưởng vững chắc
vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sẽ đảm bảo quyền dân chủ
của nhân dân. Tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc, mục tiêu Đảng
và nhân dân ta đề ra, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đến gữa thế kỷ nước ta trở thành nước
công nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN, trong đó dân chủ XHCN ngày
càng phát triển và hoàn thiện.
Sự tin tưởng của SV về các quyền dân chủ sẽ được thực hiện tốt hơn
trong SV, đây là niền tin dân chủ được cụ thể hóa trong đời sống học tập, rèn
luyện, sinh hoạt hàng ngày của SV. Thông qua các tổ chức các hoạt động, SV
được thực hiện quyền nghĩa vụ của mình trên tất cả các nội dung, bằng QCDC



21

tại các nhà trường. Trên thực tế từ nhận thức đến hành động trong thực hiện
dân chủ XHCN là điều kiện, môi trường tốt nhất để mỗi SV đáng giá, kiểm tra
đúng bản chất và có niềm tin về dân chủ XHCN. Khi mà niềm tin dân chủ
XHCN được hình thành trong mỗi SV, thì nó sẽ được củng cố, chuyển hóa
thành ý chí hành động thực tiễn.
Thái độ của SV trước mọi sự việc, việc làm liên quan đến quyền và
nghĩa vụ của mình trong thực hiện dân chủ XHCN.
Có thể là phản ứng tích cực hay tiêu cực, song nhìn chung khi ý thức
dân chủ XHCN đã được hình thành thì cách xem xét, đánh giá, giải quyết vấn
đề diễn ra một cách, khoa học, tích cực, có phân biệt đúng sai, tốt sấu. Thái độ
còn được biểu hiện ở việc xem xét mọi hoạt động chính trị, xã hội trong nước
cũng như trên thế giới, sẽ được SV xử lý dưới “lăng kính” của ý thức dân chủ
XHCN một cách tích cực, trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Điều đó khẳng định một khi ý thức dân chủ XHCN trở thành niềm
tin trong SV thì thái độ biểu hiện là rõ ràng nhất quán, trước các vấn đề, họ là
người tích cực tán thành ủng hộ hay phản đối, nhất là các vấn đề chính trị, xã hội
nhạy cảm, phức tạp. Đây thật sự là liều “thuốc thử” đối với SV trước những vấn
đề thực tiễn đạt ra cần giải quyết. Nếu được trang bị tốt về ý thức dân chủ XHCN,
đứng vững trên lập trường giai cấp thì từng SV sẽ có thái độ chính trị rõ ràng, có
quan điểm đúng đắn và xử lý tốt trước mọi vấn đề.
Ý chí quyết tâm của SV trong thực hiện các quyền dân chủ, xây dựng,
bảo vệ chế độ dân chủ XHCN.
Đây là biểu hiện tập trung, là đỉnh cao của ý thức dân chủ XHCN của
SV, là sự chuyển hoá trực tiếp, là kết quả tất yếu của quá trình tích lũy tri
thức, xây dựng niềm tin, thái độ dân chủ XHCN. Thông qua ý chí quyết tâm
thực hiện các quyền dân chủ, xây dựng, bảo vệ, thực thi chế độ dân chủ
XHCN, trực tiếp quyết tâm hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao, có



22

thể nhận biết tính toàn diện hay phiến diện của ý thức dân chủ XHCN.
Chủ động, nhiệt tình, sáng tạo, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, thử
thách, vươn lên trong quá trình thực hiện dân chủ, hoàn thành tốt nhiệm vụ
học tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện. Mỗi SV có ý chí quyết tâm cao trong
thực hiện và phát huy dân chủ XHCN, trong học tập nghiên cứu, trong hoạt
động xã hội và cuộc sống theo quy định của pháp luật. Luật Giáo dục Đại học
quy định nhiệm vụ của người học: “Học tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện
theo quy định; Tôn trọng giảng viên, cán bộ quản lý, viên chức và nhân viên
của cơ sở giáo dục đại học; đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập và rèn
luyện; Tham gia lao động và hoạt động xã hội, hoạt động bảo vệ môi trường,
bảo vệ an ninh, trật tự, phòng, chống tiêu cực, gian lận trong học tập và thi cử,
phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội” [56, tr.36].
1.1.3.Vai trò ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa của sinh viên các
trường đại học ngành khoa học xã hội và nhân văn ở Hà Nội hiện nay
Vai trò là chức năng, tác động, tích cực của cái gì hoặc của ai, trong
mối liên hệ với sự vật, hiện tượng và với người khác. Mỗi sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan đều có một vai trò nhất định trong mối
quan hệ đối với khách thể. Là một bộ phận của ý thức xã hội XHCN, ý thức
dân chủ XHCN của SV các trường ĐH ngành KHXH&NV ở Hà Nội có vai
trò cơ bản như ý thức xã hội XHCN. Nhưng là ý thức dân chủ của một đối
tượng cụ thể, nên vai trò của nó được biểu hiện trên những vấn đề cụ thể sau:
Một là, ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện cho sinh viên phát
huy tinh thần chủ động, sáng tạo, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, xây dựng nhà
trường, các tổ chức vững mạnh.
Sự phấn đấu, vươn lên trong học tập, nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ
chính trị trung tâm của mỗi SV. Do đó ý thức dân chủ là một động lực, một
tiền đề để SV nỗ lực cố gắng vươn lên, phát huy trí tuệ, tinh thần chủ động



23

khắc phục mọi khó khăn, tích cực học tập, tìm tòi nghiên cứu nắm chắc các
kiến thức chuyên ngành. Nhờ có ý thức dân chủ, SV biết bảo vệ quyền lợi
chính đáng của mình, trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học, say mê
tìm tòi khám phá tri thức khoa học, phát triển năng lực nghiên cứu của lý luận
và thực tiễn, góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng học tập và
nghiên cứu khoa học.
Ý thức dân chủ XHCN giúp SV tích cực, chủ động trong tu dưỡng, rèn
luyện về mọi mặt, đây là một trong yêu cầu không thể thiếu, nó hình thành
nhân cách của SV các trường ĐH ngành KHXH&NV ở Hà Nội hiện nay.
Mục tiêu của giáo dục đào tạo là dạy nghề và dạy người, mục tiêu kép để hình
thành phẩm chất năng lực cho SV. Nhờ có ý thức dân chủ XHCN mà SV tự
giác trong nhiệm vụ tu dưỡng, rèn luyện hiện nay. Nhất là hiện nay tác động
của mặt trái nền kinh tế thị trường, tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị,
đạo đức đang diễn ra khá phổ biến trong Đảng và toàn xã hội, làm ảnh hưởng,
cản trở trực tiếp quá trình xây dựng CNXH, đe dọa đến sự tồn vong của chế
độ ta. Do đó việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, nhân cách người SV là yêu cầu
quan trọng. Do đó ý thức dân chủ là cơ sở để SV tích cực, chủ động, sáng tạo
trong rèn luyện bản lĩnh, nhân cách, chấp hành tốt mọi quy định của nhà
trường, chính sách của Đảng, luật pháp của Nhà nước, làm tròn nghĩa vụ một
cách tự giác, hiệu quả.
Ý thức dân chủ XHCN giúp SV tích cực tham gia xây dựng nhà
trường, các tổ chức vững mạnh. Thông qua hoạt động của nhà trường, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội SV Việt Nam làm cho ý thức dân
chủ của mỗi SV ngày càng phát triển; mặt khác ý thức dân chủ của SV lại là
một nhân tố quan trọng để mỗi SV phát huy vai trò, khả năng, tình độ, năng
lực thực hành dân chủ của mình, thực hiện ước mơ hoài bão, lý tưởng cách

mạng của mình. Ý thức dân chủ góp phần quan trọng để SV đề đạt được


24

những nhu cầu khát vọng của tuổi trẻ như: vấn đề việc làm, xu hướng nghề
nghiệp, tình bạn, tình yêu, hôn nhân, tri thức, giải trí, khám phá, văn hóa….
Hai là, ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa góp phần nâng cao phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống và ý thức chấp hành luật pháp của sinh viên.
Ý thức dân chủ XHCN đóng vai trò quan trọng giúp SV hiểu được các
giá trị tự do, công bằng, bình đẳng của chế độ ta; đồng thời nắm vững hệ
thống các tổ chức chính trị, thiết chế bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của công
dân, là điều kiện thuận lợi để nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp
công nhân. Nhờ đó, lòng trung thành với Đảng, Tổ quốc và chế độ XHCN
càng được tỏ rõ; lòng tin vào công cuộc đổi mới xây dựng CNXH càng được
nâng cao; ý chí quyết tâm học tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện và các hoạt
động được thực hiện hiệu quả hơn. Ý thức dân chủ của SV là một tiêu chí
đánh giá trình độ giác ngộ chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của SV.
Thông qua việc đánh giá đúng, đủ ý thức dân chủ của SV, làm cho công tác
nắm bắt tình hình tư tưởng và định hướng chính trị cho đoàn viên, thanh niên,
SV được kịp thời.
Yêu nước gắn liền với yêu CNXH, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc XHCN đã và đang trở thành một lối sống chủ đạo của thế
hệ trẻ Việt Nam, của SV hiện nay. Lối sống chủ đạo này sẽ được phát triển
trên cơ sở nhận thức đúng đắn, sâu sắc các giá trị dân chủ, đặc biệt là
“quyền được sống, quyền được tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc”
[47, tr.355]; quyền được, học tập, lao động, cống hiến và hưởng thụ; quyền
tự do, bình đẳng giữa các giai cấp, dân tộc, tôn giáo… trong chế độ ta.
Ý thức dân chủ là cơ sở để SV nhận thức mối quan hệ giữa dân chủ và
kỷ luật, SV sẽ chấp hành triệt để kỷ luật học đường, chế độ, quy định nhà

trường và các tổ chức đề ra, tuân thủ nghiêm, các quy định của Bộ GD&ĐT
và luật pháp Nhà nước. Do đó ý thức chính trị của SV ngành này sẽ được


25

nâng lên; họ sẽ tự giác tuân theo các chuẩn mực, quy định, nguyên tắc hành vi
đạo đức xã hội, quan hệ công dân, quan hệ bạn bè. Như Bác Hồ từng nhận
định: “củng cố thêm lập trường quan điểm giai cấp vô sản của mỗi người,
nâng cao lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tạo điều kiện để tăng cường đoàn
kết nhất trí trên, dưới... Đó là kết quả tốt đẹp của sinh hoạt dân chủ, của phê
bình và tự phê bình đúng đắn” [46, tr.353].
Ba là, ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ sở giúp sinh viên nâng
cao nhận thức, phòng chống, đấu tranh với các biểu hiện, hành vi sai trái về
dân chủ XHCN.
Trước tác động bởi mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự chống phá
của các thế lực thù địch, nhiệm vụ phòng chống, đấu tranh, ngăn chặn và đẩy
lùi những tư tưởng, hành vi sai trái, về dân chủ, đã trở nên cấp thiết. Ý thức
thức dân chủ XHCN được tạo lập sẽ tạo điều kiện cho SV đấu tranh, ngăn
chặn, đẩy lùi những ảnh hưởng của tư tưởng cá nhân, tự do vô tổ chức, coi
nhẹ lợi ích tập thể; nêu cao tinh thần làm chủ tập thể, đấu tranh chống gian
nận trong học tập, nghiên cứu khoa học, giải quyết hài hoà lợi ích cá nhân với
lợi ích tập thể và lợi ích xã hội.
Ý thức dân chủ còn làm cho SV luôn có tinh thần cảnh giác, kịp thời
đấu tranh chống lại các luận điểm sai trái, âm mưu thủ đoạn, lợi dụng dân chủ
chống phá cách mạng của các thế lực thù địch, một cách chủ động. Tích cực
tuyên truyền, bảo vệ quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ, bảo vệ đường lối chủ trương của Đảng, luật pháp của Nhà
nước, đồng thời, tạo cho họ cơ sở để bảo vệ quan điểm của Đảng trên vấn đề
dân chủ, góp phần xây dựng chế độ dân chủ XHCN ở nước ta. Mặt khác nhờ

có ý thức dân chủ XHCN, tạo cho họ khả năng “đề kháng”, “miễn dịch”, phát
hiện, phân biệt, đấu tranh với những tư tưởng, hành vi, vi phạm dân chủ, phản
dân chủ, như chuyên quyền, lạm quyền, độc đoán, gia trưởng và các quan
điểm, tư tưởng dân chủ tư sản, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Nhận rõ


×