Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý TRANG THIẾT bị kỹ THUẬT GIÁO dục đào tạo ở học VIỆN QUÂN y HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.12 KB, 102 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1.

Trang
3
LÝ LUẬN QUẢN LÝ TRANG THIẾT BỊ KỸ
THUẬT GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO Ở HỌC VIỆN

QUÂN Y
1.1. Quan niệm trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo và

14

quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo ở Học
viện Quân y
1.2. Nội dung quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào

14

tạo ở Học viện Quân y
1.3. Nhân tố tác động quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo

23

dục, đào tạo ở Học viện Quân y
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ

26

Chương 2.



TRANG THIẾT BỊ KỸ THUẬT GIÁO DỤC,
ĐÀO TẠO Ở HỌC VIỆN QUÂN Y HIỆN
NAY
2.1. Thực trạng quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục đào

32

tạo ở Học viện Quân y hiện nay
2.2. Yêu cầu và giải pháp cơ bản quản lý trang thiết bị kỹ

32

thuật giáo dục, đào tạo ở Học viện Quân y hiện nay
2.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các giải

55

pháp ở Học viện Quân y

81
85
87
90

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT

Viết đầy đủ
Bảo đảm sửa chữa
Cán bộ giảng viên
Cán bộ nhân viên

Viết tắt
BĐSC
CBGV
CBNV


Cán bộ quản lý
Cung cấp động vật thí nghiệm
Mục tiêu
Nội dung
Phương pháp
Vật chất huân luyện

CBQL
CCĐVTN
MT
ND
PP
VCHL


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn kiện Đại hội Đảng XI khẳng định: đổi mới căn bản toàn diện giáo dục,

đào tạo. Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo
dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương
pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc
biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức,
lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách
nhiệm xã hội. Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất
lượng. Đề cao trách nhiệm của gia đình và xã hội phối hợp chặt chẽ với nhà trường
trong giáo dục thế hệ trẻ. Tiếp tục phát triển và nâng cấp cơ sở vật chất - kỹ thuật
cho các cơ sở giáo dục, đào tạo. Đầu tư hợp lý, có hiệu quả xây dựng một số cơ sở
giáo dục, đào tạo đạt trình độ quốc tế.
Trang thiết bị kỹ thuật là một trong những yếu tố quan trọng của quá trình
giáo dục, đào tạo có vai trò hỗ trợ tích cực cho việc thực hiện nội dung, phương
pháp giáo dục, đạo tạo. Việc sử dụng hợp lý, có hiệu quả các trang thiết bị kỹ thuật
phục vụ trong quá trình giáo dục, đào tạo sẽ phát huy tính tích cực học tập, giúp cho
người học tăng khả năng tiếp thu kiến thức, thu nhận được lượng thông tin lớn
trong thời gian ngắn; đồng thời giảm nhẹ sức lao động của giảng viên, làm cho quá
trình giảng dạy trở nên sinh động, hấp dẫn, góp phần thiết thực nâng cao chất lượng
đào tạocủa nhà trường .
Học viện Quân y là Học viện nằm trong hệ thống Học viện, nhà trường Quân
đội và hệ thống giáo dục quốc dân, với nhiệm vụ giáo dục, đào tạo cán bộ, nhân
viên ngành y cho quân đội và quốc gia; điều trị và nghiên cứu khoa học y học. Trải
qua hơn 65 năm xây dựng và truởng thành, đến nay Học viện Quân y trở thành
trung tâm đào tạo cán bộ, nhân viên ngành y có trình độ từ sơ cấp đến đại học và


4
sau đại học; đồng thời là một trung tâm nghiên cứu về y học quân sự và y học phục
vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong những năm qua, để nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo Học viện Quân y được Nhà nước và Quân đội đầu tư
hàng trăm tỷ đồng phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật. Đây là một

thuận lợi cho Học viện trong công tác giáo dục, đào tạo đồng thời cũng đặt ra
vấn đề về quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo. Trong thời gian qua,
công tác quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo ở Học viện Quân y luôn
được quan tâm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Tuy vậy, bên
cạnh những ưu điểm, công tác quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo
còn có những hạn chế bất cập, nhất là đối với trang thiết bị kỹ thuật hiện đại,
hiệu quả sử dụng trong giáo dục, đào tạo chưa góp phần trực tiếp nâng cao chất
lược giáo dục - đào tạo. Hiện nay việc nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo trong
các nhà trường quân đội nói chung, Học viện Quân y nói riêng là một yêu cầu cấp
thiết. Để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo phải tiến hành đồng bộ nhiều giải
pháp, trong đó có việc đầu tư và nâng cao hiệu quả sử dụng trang thiết bị kỹ thuật
phục vụ giáo dục, đào tạo. Chính vì vậy, quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục,
đào tạo hiện nay là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
Hiện chưa có công trình nào nghiên cứu hệ thống về quản lý trang thiết bị
kỹ thuật giáo dục, đào tạo ở Học viện Quân y.
Với những lý do đã nêu trên, tác giả chọn vấn đề: “Quản lý trang thiết bị kỹ
thuật giáo dục, đào tạo ở Học viện Quân y hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận
văn tốt nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong lịch sử phát triển giáo dục, các quốc gia muốn phát triển nhanh, bền
vững thì vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tập trung đầu tư cho phát triển giáo
dục; trong đó sự quan tâm rất lớn đến sự phát triển trang thiết bị kỹ thuật phục vụ


5
công tác giáo dục, đào tạo nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học.
Theo V.I.Lênin, quy luật nhận thức của con người là "từ trực quan sinh động đến tư
duy trìu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn". Lý thuyết về dạy học trực quan
đã phát triển cùng với các lĩnh vực khác, từ đó giúp ta nhận định được vai trò của
thiết bị trực quan trong quá trình dạy học, giúp người học lĩnh hội được bản chất sự

vật hiện tượng dễ dàng hơn.
Từ thời Phục Hưng, nhiều nhà giáo dục tiên phong đã đưa ra các quan điểm
về phương pháp dạy học tích cực. Theo họ để giúp học sinh nắm vững các vấn đề
học tập cần sử dụng phương tiện trực quan.
J.A.Komenxki (1592-1670) nhà giáo dục học lỗi lạc người Séc đánh giá rất cao
vai trò của trang thiết bị dạy học, ông cho rằng : trực quan là nguyên tắc vàng ngọc.
A.N.Leotiv (1903-1979) là nhà tâm lý học xuất sắc thuộc trường phái Tâm lý
học Xô Viết hiện đại cho rằng: Phương tiện dạy học là chỗ dựa bên ngoài cho các
hành động bên trong của đứa trẻ dưới sự lãnh đạo của giáo viên trong quá trình đứa
trẻ nhận thức.
Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, ở Liên Xô (nay là Liên bang Nga) trước
đây đã đề xuất chủ trương "Điện ảnh hóa quá trình học tập". Hiện thực hóa chủ
trương đó, những vệ tinh vô tuyến viễn thông phục vụ cho các chương trình truyền
hình giáo dục ra đời và có những đóng góp tích cực vào quá trình dạy học. Luật
giáo dục của Liên bang Nga bảo đảm tính nhân văn trong giáo dục, dành sự
ưu tiên cho các giá trị chung của con người, sự phát triển tự do của cá nhân,
bồi dưỡng tinh thần công dân, lòng yêu nước, giữ gìn tính chất truyền thống
của giáo dục, song bảo đảm sự tự do và đa nguyên trong giáo dục, phát triển
dân chủ và củng cố tinh thần dân tộc. Điều được khẳng định ở Liên bang
Nga hiện nay là hiện đại đất nước phải dựa vào hiện đại hoá giáo dục, đổi
mới nội dung và cấu trúc giáo dục.
Ở Mỹ, cải cách và chiến lược giáo dục khi bước vào thế kỷ XXI là cố gắng


6
nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục, tăng cường kết quả học tập của học sinh
nhằm cung cấp một lực lượng lao động có trình độ, có khả năng cạnh tranh và thích
ứng tốt nhất trong nền kinh tế của Mỹ và toàn cầu. Chiến lược giáo dục của Hoa Kỳ
hiện nay là hiện đại hoá các trường học, tăng cường chất lượng giáo dục, mở rộng
các chương trình mở rộng trường học. Các học viện, nhà trường quân sự của Mỹ rất

coi trọng việc đào tạo kiến thức nghề nghiệp quân sự với trau dồi kiến thức về tin
học. Quan điểm đào tạo người chỉ huy cho chiến tranh tương lai của họ đã xác định:
Người chỉ huy chiến đấu phải thông hiểu về máy tính, không nhất thiết phải biết
vận hành một phần cứng hay phần mềm cụ thể nào, nhưng phải hiểu những hệ
thống mới sẽ đem lại điều gì cho chiến trường số hóa.
Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo luôn là mối quan tâm hàng đầu của
lãnh đạo các quốc gia trên toàn thế giới. Lý Quang Diệu-cựu Thủ tướng Singapore đảo quốc rất thành công về cải tổ giáo dục - từng nói: “Phát triển đất nước phải bắt
đầu từ giáo dục”. Việt Nam cũng đã xác định giáo dục là lĩnh vực ưu tiên
hàng đầu trong quốc sách. Lãnh đạo giáo dục thường tập trung vào ba yếu tố
trọng tâm 3M, tức Men - Money - Material means. Men - đầu tư về con
người, về đội ngũ giáo dục, cán bộ quản lý giáo dục; Money - đầu tư về tài
chính, ngân sách; Material means - đầu tư phát triển cơ sở vật chất trường
học, đổi mới trang thiết bị giáo dục.
Ở Nhật Bản, từ năm 1960 đã tổ chức nghiên cứu mẫu và sản xuất phim giáo
khoa dùng trong nhà trường. Ở Pháp ngay từ khi có mạng máy tính đã sử dụng trang
bị kỹ thuật dạy học và Trung tâm quốc gia rađio - truyền hình dạy học.
Ở Mỹ và các nước Châu Âu, cũng như một số nước khu vực Châu Á Thái
Bình Dương như Inđônexia, Thái Lan, Philippin, Singapo,... người ta thay thế dần
tranh ảnh giáo khoa in trên giấy bằng các hình ảnh trên màn tivi phục vụ dạy học.
Ở nước ta, cùng với quá trình đổi mới của đất nước, việc nghiên cứu cải tiến,
ứng dụng, phát triển trang thiết bị kỹ thuật phục vụ công tác đào tạo trở thành chủ


7
đề thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học, nhà giáo nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo gắn liền lý thuyết với thực hành. Tiêu biểu là các công trình nghiên
cứu, đề tài khoa học sau.
“Phương tiện kỹ thuật và đồ dùng dạy học” của Nguyên Lương (1995); “Vai
trò của phương tiện dạy học trong dạy học hiện nay” của Hứa Xuân Trường
(1997); “Hiện trạng và những giải pháp đầu tư phát triển khai thác phương tiện kỹ

thuật dạy học trong nhà trường quân đội” của Nguyễn Lương Sơn (1997); “Công
tác thiết bị trường học trong giai đoạn hiện nay” báo cáo tại Hội nghị toàn quốc
về thiết bị giáo dục của Lê Hoàng Hảo (1998). Những công trình nghiên cứu trên
của các tác giả đã xây dựng được một hệ thống lý luận về vị trí, vai trò, tác dụng
và một số yêu cầu về nguyên tắc chế tạo, sử dụng cũng như quản lý trang thiết bị
kỹ thuật giáo dục, đào tạo trong nhà trường hiện nay.
Giáo trình “Giáo dục học quân sự” dùng cho đào tạo bậc đại học (2001)
do tác giả Đặng Đức Thắng (chủ biên) , đã nghiên cứu đến những vấn đề cơ
bản của trang bị kỹ thuật dạy học. Trong đó, các tác giả đã phân tích làm rõ
khái niệm, vai trò, chức năng và những yêu cầu chung khi lựa chọn, sử dụng
các phương tiện kỹ thuật dạy học.
Trong lĩnh vực quân sự nổi bật có đề tài “Nghiên cứu đổi mới công tác đầu
tư, quản lý, sử dụng ngân sách, trang thiết bị đào tạo trong nhà trường quân đội”
do tác giả Phạm Đình Vi làm chủ nhiệm đã làm rõ những cơ sở lý luận, thực tiễn và
đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đầu tư, quản lý, sử dụng ngân
sách, trang thiết bị đào tạo ở nhà trường quân đội trong giai đoạn mới.
Tại các nước tiên tiến trên thế giới đã nghiên cứu vấn đề này, áp dụng việc
quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo đem lại hiệu quả cao trong giáo dục.
Ở Việt Nam, đã có một số tác giả đi sâu vào tìm hiểu vai trò của trang thiết bị
kỹ thuật trong giáo dục, từ đó đề ra được một số giải pháp quản lý trang thiết bị kỹ


8
thuật nâng cao hiệu quả công tác giáo dục. Một số đề tài nghiên cứu liên quan đến
nội dung luận văn được các tác giả trong nước đề cập đến trong những năm
gần đây như.
Luận văn thạc sỹ của tác giả Thái Xuân Nhi “Một số giải pháp quản lý trang
thiết bị dạy học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở trường Cao đẳng Sư phạm kỹ
thuật Vinh”(2002) [39].
Luận văn đã nêu được quan niệm cơ sở vật chất trường học nói chung, trang

thiết bị kỹ thuật dạy học nói riêng là một yếu tố không thể thiếu được của quá trình
sư phạm, chúng góp một phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo. Tác giả khẳng
định trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo là một bộ phận không thể thiếu được
của quá trình sư phạm. Rõ ràng việc “Dạy chay – dạy xuông” hay còn nói “Dạy từ
miệng đến tai” sẽ gây tổn hại lớn cho giáo dục đào tạo. Nó làm cho người học thụ
động, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của người học. Sự hỗ trợ đắc lực
của trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo sẽ là cầu nối giữa người dạy và người
học, làm cho hai nhân tố này gắn kết với nhau trong việc thực hiện: Mục tiêu đào
tạo – Nội dung đào tạo – Phương pháp đào tạo, làm cho chất lượng giảng dạy và
học tập được nâng cao.
Luận văn cũng chỉ ra được những mặt mạnh, những tồn tại đối với trang thiết
bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo. Với tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học công
nghệ hiện nay, mỗi công nghệ dịch vụ mới cần được đào tạo với những thiết bị
tương ứng thì sau khi tốt nghiệp mới thực sự đáp ứng yêu cầu với thực tế cược sống
hiện nay.
Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Đông “Quản lý cơ sở vật chất và
thiết bị dạy học ở trường Trung học phổ thông Phan Bội Châu huyện Krụng Năng
tỉnh Đăk Lăk, thực trạng và giải pháp”(2011) [29].
Luận văn thạc sỹ của tác giả Trần Đức Hùng “Biện pháp quản lý thiết bị
dạy học ở các trường Trung học phổ thông tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn


9
hiện nay” (2012).
Tác giả đã nêu bật tầm quan trọng của trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào
tạo. Thiết bị dạy học là yếu tố không thể thiếu được của quá trình dạy học, nó
chịu sự chi phối của nội dung và phương pháp dạy học nhưng lại là điều kiện để
thực hiện nội dung và phương pháp dạy học. Trang thiết bị dạy học phải được sử
dụng có hiệu quả nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao
chất lượng giáo dục.

Một số nhà trường còn bị động về mặt kinh phí để mua sắm trang thiết bị dạy
học, dẫn đến trang thiết bị hiên có được xây dựng từ nhiều nguồn khác nhau nên
không đồng bộ, mất cân đối giữa các loại hình, giữa các môn học, điều kiện bảo
quản thiết bị chưa đầy đủ, việc bảo dưỡng trang thiết bị cũng gặp nhiều khó khăn do
trình độ của đội ngũ chuyên trách còn nhiều hạn chế. Ý thức khai thác, sử dụng
thiết bị dạy học của một bộ phận giáo viên còn chưa cao vài ngại khó, ngại khổ, mất
thời gian. Một số trường tuy được trang bị phương tiên hiện đại như phòng Lab,
phong thí nghiệm thực hành, phòng máy vi tính nhưng không có hiệu quả. Trang
thiết bị kỹ thuật chưa được sử dụng ở mức cao, chưa thực sự gắn bó chặt chẽ với
nội dung chương trình, chưa tạo động lực để đổi mới phương pháp dạy học và nâng
cao chất lượng giáo dục.
Công tác kiểm kê, kiểm tra, đánh giá chất lượng và việc sử dung trang thiết
bị kỹ thuật còn bất cập và chưa thường xuyên. Chế độ bồi dưỡng khen thưởng cho
những cán bộ, giáo viên đạt thành tích cao trong công tác quản lý trang thiết bị kỹ
thuật chưa được thỏa đáng, công tác quản lý trang thiết bị kỹ thuật còn bị xem nhẹ.
Nghiên cứu của tác giả Trần Bích Liễu “ Đánh giá tác động của công nghệ
thông tin truyền thông (ICT) sử dụng trong dạy học đối với kiến thức và kỹ năng
của giáo viên và học sinh các trường trung học phổ thông”(2012) [34].
Bài viết của tác giả Phạm Văn Danh “Bài giảng điện tử với sự hỗ trợ của
máy tính và các thiết bị dạy học”(2013).


10
Sử dụng hiệu quả bài giảng điện tử nhờ vào máy tính và các thiết bị dạy học
được coi là yếu tố quan trọng trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy. Tuy
nhiên, theo đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo, mặc dù trong những năm gần đây
đã tiến hành việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục để nâng cao chất
lượng dạy và học, nhưng đến nay nhiều giáo viên còn ngại sử dụng thiết bị dạy học
trong các giờ dạy do công tác soạn giáo án điện tử khá vất vả và mất thời gian trong
công tác chuẩn bị, do thiếu thiết bị dạy học và chất lượng các thiết bị này không

đảm bảo hoặc là trình độ tin học của giáo viên còn yếu. Nhiều giáo viên cho rằng,
khi việc cung ứng thiết bị đã đi vào ổn định, cần có những quy định cụ thể để ràng
buộc trách nhiệm của hiệu trưởng các trường vào việc sử dụng thiết bị trường học.
Hiện thực tế là một số giáo viên rất có ý thức với việc sử dụng thiết bị
dạy học trong qúa trình sử dụng bài giảng điện tử, nhưng cũng không nên lạm
dụng nhiều sẽ dẫn tới tình trạng đọc chép sang chiếu chép thì rất nguy hiểm,
mà chỉ áp dụng cho những bài học nào cần sử dụng để minh họa và phát huy
tính sáng tạo của học sinh.
Tóm lại, các công trình, đề tài trên đã nghiên cứu về trang bị kỹ thuật dạy học
ở các khía cạnh khác nhau; luận giải những cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất
phương hướng biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác sử dụng phương
tiện, thiết bị kỹ thuật phục vụ công tác đào tạo trong các nhà trường. Những kết quả
nghiên cứu trên là cơ sở giúp cho việc kế thừa, hoàn thiện lý luận về vấn đề quản lý
trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo góp phần nâng cao chất lượng đào tạo,
nghiên cứu khoa học trong các nhà trường quân đội hiện nay nói chung, Học viện
Quân y nói riêng.
Các tác giả đã đi sâu vào khai thác ở các cấp độ, mức độ khác nhau về vị trí,
vai trò, chức năng cũng như về quản lý khai thác sử dụng các phương tiện kỹ thuật
dạy học. Tuy nhiên tại Học viện Quân y hiên nay, hoạt động Giáo dục – Đào tạo có
những nét đặc thù riêng. Các trang thiết bị ký thuật dạy học cũng có những đặc
điểm khác. Chính vì vậy việc quản lý các trang thiết bị dạy học cũng có những nét
đặc thù, nó vừa mang tính quân sự, vừa mang tính y học. Cho đến giờ, vẫn


11
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống về quản lý trang
thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo phục vụ cho hoạt động giáo dục, đào tạo ở
Học viện Quân y.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất giải pháp quản lý trang
thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ở
Học viện Quân y.
* Nhiệm vụ nhiên cứu
Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào
tạo ở Học viện Quân y.
Đánh giá thực trạng quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo ở Học
viện Quân y hiện nay.
Xác định yêu cầu và đề xuất một số giải pháp cơ bản quản lý trang thiết bị kỹ
thuật giáo dục, đào tạo ở Học viên Quân y hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo ở Học viện Quân y.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo ở Học viện Quân y.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu lý luận và thực trạng quản lý trang thiết bị
kỹ giáo dục, đào tạo của nhà trường; đề xuất các giải pháp quản lý trang bị thiết bị
kỹ thuật giáo dục, đào tạo, phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học và
thực hành điều trị ở Học viện Quân y.
Phạm vi về thời gian: Thời gian khảo sát, điều tra, số liệu từ 2008 đến nay.


12
5. Giả thuyết khoa học
Chất lượng giáo dục, đào tạo phụ thuộc vào nhiều yếu tố của quá trình đào
tạo trong đó quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo có ý nghĩa rất quan
trọng trong nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Vì vậy nếu nghiên cứu, đánh giá
đúng thực trạng quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo và đưa ra các giải
pháp quản lý như: Tổ chức giáo dục nâng cao nhận thức cho các chủ thể quản lý về

vai trò, tầm quan trọng của trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo; Kế hoạch hóa
quản lý trang thiết bị kỹ thuật; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý; thường
xuyên bồi dưỡng năng lực quản lý, khai thác sử dụng trang thiết bị kỹ thuật giáo
dục, đào tạo; tăng cường kiểm tra đánh giá công tác quản lý trang thiết bị giáo dục
thì sẽ quản lý chặt chẽ trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo ở Học viện Quân y hiện nay.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Tác giả nghiên cứu tiếp cận đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận duy
vật biện chứng, duy vật lích sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục, đào tạo và quản
lý giáo dục. Đồng thời quán triệt và vận dụng các quan điểm hệ thống – cấu
trúc, quan điểm logic – lịch sử và quan điểm thực tiễn để phân tích và giải
quyết những nhiệm vụ nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu liên quan như:
Các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, của các cấp về giáo dục, đào tạo và quản lý
giáo dục; Luật giáo dục 2005, sửa đổi bổ xung năm 2009; Dự thảo chiến lược phát
triển giáo duc 2009 – 2020. Các giáo trình, sách chuyên khảo ... về quản lý và quản
lý giáo dục. Các công trình khoa học, bài báo khoa học có liên quan đến đề tài fdax
được công bố và đăng tải trên các tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học.


13
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát thực tế: Trực tiếp quan sát các vấn đề liên quan, các
hoạt động quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo ở Học viện Quân y để tìm
hiểu thực trạng, những vấn đề cần giải quyết.
- Phương pháp tọa đàm, trao đổi: tọa đàm, trao đổi với cán bộ nhân viên quản

lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo và giảng viên, học viên ở Học viện Quân y
làm cơ sở đánh giá đúng thực trạng, chỉ ra các yếu tố tác động; đồng thời đề xuất giải
pháp cơ bản quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo ở Học viện Quân y.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Nghiên cứu những kết quả và kinh
nghiệm thực tiễn quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo ỏ một số nhà
trường để làm rõ thực trạng vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp ý kiến chuyên gia: Xin ý kiến các nhà khoa học, nhà giáo, nhà
quản lý về một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan trong luận văn.
- Phương pháp khảo nghiệm: Trưng cầu ý kiến bằng phiếu đối với 64
đồng chí cán bộ quản lý trang thiết bị kỹ thuật, quản lý giáo dục và giảng viên của
các bộ môn khoa ở Học viện Quân y về tính cần thiết và tính khả thi của các giải
pháp để đánh giá được tính cần thiết và tính khả thi của các giải pháp.
- Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phương pháp toán thống kê để
tổng hợp và xử lý số liệu trong quá trình nghiên cứu.
7. Ý nghĩa của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn
quản lý trang thiết bị kỹ thuật, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở
Học viện Quân y.
- Luận văn nghiên cứu thành công có thể dùng làm tài liệu tham khảo về
công tác quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo ở Học viên Quân y và
trong các nhà trường quân đội hiện nay.
8. Cấu trúc luận văn
Bao gồm: Mở đầu, 2 chương (6 tiết), kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


14
Chương 1
LÝ LUẬN QUẢN LÝ TRANG THIẾT BỊ
KỸ THUẬT GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO Ở HỌC VIỆN QUÂN Y

1.1. Quan niệm trang thiết bị kỹ thuật giáo dục,
đào tạo và quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo ở Học viện
Quân y
1.1.1. Quan niệm trang thiết bị kỹ thuật giáo dục,
đào tạo ở Học viện Quân y
Theo các chuyên gia nghiên cứu về giáo dục của Việt Nam cho rằng:
Trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo là thuật ngữ chỉ một vật thể hoặc
một tập hợp đối tượng vật chất mà người giảng viên sử dụng với tư cách là
phương tiện điều khiển hoạt động nhận thức của người học. Còn đối với
người học thì đó là các nguồn tri thức, là các phương tiện giúp người học lĩnh
hội các khái niệm, định luật, lý thuyết khoa học...hình thành trong họ kỹ năng,
kỹ xảo nhằm đạt được mục đích của quá trình giáo dục, đào tạo ở nhà trường.
Trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo ở Học viện Quân y là những dụng
cụ, máy móc, thiết bị, vật dụng cần thiết cho hoạt động giáo dục, dạy học, giúp cho
quá trình nhận biết, lĩnh hội kiến thức của người học được tốt hơn. Ví dụ: sách giáo
khoa, giáo trình, bảng viết, bảng dữ liệu đã chuẩn bị sẵn, tranh ảnh, phim, các đoạn
clip hoạt hình mô phỏng cùng với máy chiếu qua đầu (overhead), máy chiếu đa
năng (Projecter) với sự trợ giúp của máy tính, của các phần mềm, chương trình như
Powerpoint, mindmap, Workbelch,…vật mẫu, vật thật các phương tiện, dụng cụ
trang bị trong các phòng thí nghiệm, xưởng thực hành.
Có thể hiểu trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo là tất cả các phương tiện
vật chất, kỹ thuật và sản phẩm khoa học - công nghệ (chứa đựng) thông tin học tập
được huy động vào các hoạt động giáo dục, đào tạo trong nhà trường. Trang thiết
bị kỹ thuật dạy học góp phần nâng cao chất lượng của các phương pháp dạy
học đã có mà không làm thay đổi bản chất các phương pháp này.
Từ nghiên cứu ở trên tác giả quan niệm: Trang thiết bị kỹ thuật giáo dục,


15
đào tạo là tập hợp những thiết bị kỹ thuật và phương tiện giáo dục, dạy học mà

người dạy và người học trực tiếp sử dụng trong quá trình giáo dục, đào tạo góp
phần nâng cao chất lương giáo dục, đào tạo.
Trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo ở nhà trường được xem như một
điều kiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo; vì vậy, việc quản
lý và khai thác sử dụng trang bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo có hiệu quả sẽ góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo trong các nhà trường. Đó là các trang thiết bị
kỹ thuật, đồ dùng dạy học; các thiết bị thí nghiệm, thực hành; các loại thiết bị
máy móc chuyên ngành, trang bị kỹ thuật công nghiệp và các phương tiện sản
xuất. Các phương tiện kỹ thuật dạy học bằng công nghệ thông tin, như các thiết
bị đa năng, các phương tiện dùng cho giảng dạy lý thuyết, các phương tiện
dùng cho rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo thực hành và các phương tiện kỹ thuật dạy
học hiện đại khác.
Trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo bao gồm trang bị dùng chung phục
vụ giảng dạy và học tập, trang thiết bị tại các phòng học phổ thông, phòng học
chuyên dùng, phòng thí nghiệm, xưởng thực hành - thực tập, trung tâm huấn luyện
thực hành, trung tâm mô phỏng; các phần mềm dạy học và quản lý đào tạo; trang bị
thao trường, bãi tập, trường bắn. Cụ thể:
Trang thiết bị phòng học phổ thông bao gồm thiết bị kỹ thuật phổ thông để
phục vụ giảng dạy, học lý thuyết theo chương trình đào tạo như hệ thống ánh sáng,
thông gió, bàn ghế, bảng bục, máy chiếu.
Trang thiết bị phòng thí nghiệm bao gồm thiết bị kỹ thuật, vật tư kỹ thuật cần
thiết để phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy, học tập của môn học thuộc chương
trình đào tạo, bao gồm các trang thiết bị thí nghiệm thuộc khối kiến thức cơ bản, cơ
sở, chuyên ngành.
Trang thiết bị xưởng thực hành - thực tập bao gồm thiết bị kỹ thuật để
học viên thực hành, thực tập những kiến thức, kỹ năng của môn học chung và
chuyên ngành theo yêu cầu đào tạo, bao gồm cơ khí, gò, hàn, điện-điện tử, tin


16

học, ngoại ngữ.
Trang thiết bị thao trường, bãi tập, trường bắn bao gồm thiết bị chuyên dùng
quân sự tại khu vực, địa hình được cấu trúc để huấn luyện, kiểm tra kết quả huấn
luyện hoặc để thử nghiệm vũ khí trang bị kỹ thuật của cơ sở đào tạo.
Lý luận và thực tiễn dạy học ở các trường đã khẳng định: Trang thiết
bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo là “mắt xích” để gắn kết các nhân tố: mục
tiêu, nội dung, phương pháp; đồng thời nó là điều kiện để thực hiện nguyên
lý giáo dục “Học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn”. Trong đó
phương pháp dạy học và trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo tuy là hai
mặt của quá trình giáo dục, đào tạo song luôn gắn bó, tương tác; trang thiết
bị giáo dục, đào tạo là công cụ của phương pháp giáo dục, đào tạo, nó càng
hiện đại, càng hỗ trợ tốt hơn cho phương pháp.
Trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo là nhân tố minh chứng khách
quan cho việc gắn lý luận với thực tiễn. Thực tế cho thấy, bất kỳ một hoạt động
nào cũng luôn đi liền với tư duy và tư duy luôn gắn kết với hoạt động. Vì thế,
trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo sẽ tạo ra sự toàn diện của hoạt động,
đồng thời phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học;
góp phần to lớn vào việc cải tiến và đổi mới phương pháp dạy học; là điều
kiện rất cần thiết để người dạy và người học thực hiện được các chức năng,
nhiệm vụ dạy học đặt ra, giúp sự phối hợp hiệp đồng giữa các cơ quan, đơn
vị được nhanh chóng và thuận tiện.
Trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo là điều kiện thuận lợi cho sự nghiên
cứu dạng bề ngoài của đối tượng và các tính chất có thể tri giác trực tiếp của chúng.
Trang bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo giúp cụ thể hóa những sự việc, vấn đề quá trừu
tượng, đơn giản hóa những máy móc và thiết bị quá phức tạp. Giúp người học nắm
bài học sâu sắc hơn.
Trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo còn giúp người học phát triển năng


17

lực nhận thức, đặc biệt là khả năng quan sát, tư duy (phân tích, tổng hợp các hiện
tượng, rút ra những kết luận có độ tin cậy,...), giúp người học hình thành cảm giác
thẩm mỹ, được hấp dẫn bởi cái đẹp, cái đơn giản, tính chính xác của thông tin chứa
trong phương tiện.
Giúp giáo viên tiết kiệm được thời gian trên lớp trong mỗi tiết học. Giúp
giáo viên điều khiển được hoạt động nhận thức của người học, kiểm tra và đánh
giá kết quả học tập của người học được thuận lợi và có hiệu suất cao. Dễ dàng
quản lý người học trong quá trình thực hành.
Với các trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến như hệ thống máy tính với sự kết nối
mạng cùng với các phần mềm tiên tiến, ví dụ như phòng máy tính Hiclass:
người giáo viên có thể gửi các yêu cầu cụ thể riêng biệt tới từng học viên, tiếp
nhận đối thoại trực tiếp song phương hay đa phương như học viên có thể gửi
trả lời công khai, các học viên khác cũng có thể trả lời trực tiếp, riêng rẽ trên
các máy tính khác nhau. Trong quá trình học sinh thực hành, giáo viên có thể
vẫn giám sát, quản lý hoạt động của các học sinh để có thể đưa ra các nhận xét
đánh giá kịp thời và chính xác.
Các phương tiện nghe nhìn đa phương tiện, máy tính điện tử...được sử dụng
kết hợp sẽ cho phép rút ngắn thời gian trình bày, có độ chính xác cao mà vẫn làm
cho bài giảng sinh động, trực quan, hấp dẫn đối với học sinh. Một số phần mềm
chuyên dụng dùng trong dạy học kỹ thuật (được chuyển giao hoặc tự xây dựng, cải
tiến ở Việt Nam) đang được sử dụng có hiệu quả.
Trong quá trình dạy học các chức năng của các phương tiện dạy học phải thể
hiện được sự minh hoạ, biểu diễn, sự tác động để đạt được mục đích dạy và học đó
là: Truyền thụ tri thức, hình thành kĩ năng, phát triển hứng thú học tập, tổ chức điều
khiển quá trình dạy học.
Trong quá trình dạy học, các trang thiết bị kỹ thuật đã hỗ trợ rất nhiều cho


18
công việc của giảng viên và giúp cho người học tiếp thu kiến thức một cách thuận

lợi. Có được các phương tiện thích hợp, người giảng viên sẽ phát huy hết năng lực
sáng tạo của mình trong công tác giảng dạy, làm cho hoạt động nhận thức của
người học trở nên nhẹ nhàng và hấp dẫn hơn, tạo ra cho người học những tình cảm
tốt đẹp với môn học. Do đặc điểm của quá trình nhận thức, mức độ tiếp thu kiến
thức mới của ngời học tăng dần theo các cấp độ của tri giác.
Khi đưa những phương tiện kỹ thuật vào quá trình gió dục, đào tạo giảng
viên có điều kiện để nâng cao tính tích cực, tính tư duy độc lập của người học và từ
đó nâng cao hiệu quả của quá trình tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và hình thành kỹ
năng, kỹ xảo của người học. Ngoài ra với các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại giảng
viên có thể rút ngắn được thời gian giảng giải thuyết trình để tập trung hơn vào rèn
luyện phương pháp, kĩ năng cho người học.
Phân loại trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo bao gồm các nhóm sau:
Nhóm trang thiết bị kỹ thuật được sử dụng để giáo viên truyền đạt, lĩnh hội
kiến thức, nó tác động lên các giác quan của người học, để truyền tải thông tin dạy
học đến họ. Khi sử dụng các phương tiện này, thường phải kết hợp với các phương
pháp của giảng viên viên như thuyết trình, diễn giải..để định hướng việc tiếp nhận
có hiệu quả tri thức môn học.
Nhóm trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo được sử dụng để luyện tập kỹ
năng: Đó là các thiết bị kỹ thuật và phương tiện dạy học giúp người học tiếp thu và
rèn luyện hoàn thiện các kỹ năng, kỹ xảo hoạt động nghề nghiệp, sử dụng thành
thạo các trang bị kỹ thuật và tâm lý. Trong nhóm này bao gồm các phương tiện
dùng để luyện tập kỹ năng, kỹ xảo cá nhân và dùng để luyện tập kỹ năng, kỹ xảo,
phối hợp làm việc theo nhóm trong sản xuất theo dây chuyền....
Nhóm trang bị kỹ thuật kiểm tra đánh giá kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của
người học đó là: Các thiết bị đo lường, các máy trắc nghiệm, máy đo lực kéo nén,
máy đo các giá trị của dòng điện …Các phương tiện này thường dùng để thu thông


19
tin ngược từ phía người học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập của người học.

Nhóm trang thiết bị kỹ thuật tự học: Đây là các phương tiện mà người học
sử dụng nó vừa để lĩnh hội kiến thức, vừa để tập luyện, hoàn thiện các kỹ xảo, kỹ
năng nghề nghiệp và tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập của bản thân.
Trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo ở Học viện Quân y là toàn bộ cơ
sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật giáo dục,đào tạo bảo đảm cho nhiệm vụ giáo
dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học ở Học viện Quân y góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục, đào tạo của nhà trường.
1.1.2. Quan niệm quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo ở Học
viện Quân y
Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát
huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài
lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục
đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất. Biện pháp là cách làm, cách giải quyết
một công việc cụ thể của một cá nhân hay một tập thể để đạt được hiệu quả hoạt
động. Trong một tổ chức để đạt được mục tiêu quản lý, các chủ thể quản lý sử
dụng các biện pháp để tác động vào khách thể quản lý để đạt được mục tiêu đã
xác định, đó là chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức mà mình quản lý.
Quản lý trang thiết bị kỹ thuật là những tác động hợp quy luật của chủ thể
quản lý trường học đến những đối tượng quản lý có liên quan đến lĩnh vực trang
thiết bị, phương tiện kỹ thuật giáo dục, đào tạo nhằm làm cho các hoạt động của
nhà trường vận hành đạt tới mục tiêu.
Từ quan niệm trên, tác giả cho rằng: Quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục,
đào tạo là cách thức, biện pháp phát huy vai trò bằng những tác động hợp quy luật của
chủ thể đến những đối tượng có liên quan nhằm thực hiện việc khai thác và sử dụng có
hiệu quả trang thiết bị kỹ thuật vào các hoạt động giáo dục, đào tạo của nhà trường
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo.
Để quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, dạy học kỹ thuật dạy học ở có


20

hiệu quả, các chủ thể quản lý cần có những cách thức, biện pháp tác động vào các
trang bị kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng khai thác, sử dụng bảo đảm bền, an toàn
và tiết kiệm.
Với vai trò là chủ thể: Đảng uỷ, Ban Giám hiệu Nhà trường; cấp uỷ, chỉ
huy các khoa giáo viên là chủ thể lãnh đạo, quản lý, thực hiện các chủ trương,
biện pháp nhằm quản lý có hiệu quả trang bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo, các
giảng viên, nhân viên quản lý cơ sở vật chất, học viên là chủ thể trong việc quản
lý, khai thác sử dụng trang thiết bị kỹ thuật. Để đạt được các mục tiêu giáo dục,
đào tạo đề ra, các chủ thể tiến hành đồng bộ các cách thức, biện pháp quản lý
trang thiết bị kỹ thuật và sử dụng có hiệu quả trong quá trình giáo dục, đào tạo
tạo ra sự biến đổi nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Biện pháp quản lý trang
bị kỹ thuật được thể hiện ở các nghị quyết lãnh đạo của Đảng uỷ nhà trường, của
cấp uỷ các khoa giáo viên; thông qua việc xây dựng và tổ chức thực hiện các kế
hoạch quản lý và sử dung. Cấp uỷ, chỉ huy các khoa giáo viên là chủ thể trực tiếp
nhất thực hiện các biện pháp quản lý và sử dụng trang thiết bị kỹ thuật vào quá
trình giáo dục, đào tạo.
Quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo là các hoạt động có mục
đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý trong tổ chức bảo quản giữ gìn, theo dõi nắm
bắt, kiểm tra đánh giá trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo. Quản lý trang thiết bị
kỹ thuật giáo dục, đào tạo bao gồm hệ thống liên quan đến lãnh đạo, chỉ huy, tổ
chức, điều khiển, theo dõi nắm bắt kiểm tra đánh giá tình trạng sử dụng, hiệu quả
của các trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo.
Với cách tiếp cận như vậy tác giả đưa ra quan niệm: Quản lý trang thiết bị kỹ
thuật giáo dục, đào tạo ở Học viện Quân y là tổng thể các hoạt động có mục đích,
có kế hoạch của chủ thể quản lý chặt chẽ số lượng, chất lượng, chủng loại và tình
trạng kỹ thuật của trang thiết bị kỹ thuật hiện có phục vụ cho việc khai thác sử
dụng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của nhà trường.
Chủ thể quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo ở Học viện Quân y
bao gồm hệ thống tổ chức lãnh đạo chỉ huy các cấp của học viện đến các nhân viên



21
chuyên môn kỹ thuật.
Đảng ủy, Ban giám đốc học viện là chủ thể cao nhất, là lực lượng lãnh đạo
chỉ đạo điều hành công tác quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo. Các
phòng ban, bộ môn khoa có trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo, đặc biệt là
Phòng Trang bị vật tư kỹ thuật là chủ thể trực tiếp quản lý trang thiết bị kỹ thuật
giáo dục, đào tạo. Các phòng ban, bộ môn khoa phân công cá nhân phụ trách các
mặt quản lý, phân công nhân viên chuyên môn làm công tác quản lý.
Mục đích quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo nhằm nắm chắc tình
hình mọi mặt về trang bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo.Trên cơ sở đó, cung cấp những
thông tin cần thiết để lãnh đạo, chỉ huy xác định chủ trương biện pháp trong tổ chức
xây dựng lực lượng và cung cấp những yếu tố cần thiết để cơ quan các cấp, các
ngành nghiên cứu xây dựng các kế hoạch bảo đảm trang thiết bị kỹ thuật giáo dục,
đào tạo. Giúp cho người lãnh đạo nắm chắc tình hình trang thiết bị kỹ thuật giáo dục,
đào tạo, bảo đảm hệ số kỹ thuật, ra các quyết định bảo đảm đầy đủ, đồng bộ, kịp thời
cho các yêu cầu nhiệm vụ giảng dạy, thực hành điều trị, nghiên cứu khoa học. Quản
lý nhằm đề xuất kế hoạch để duy trì, phục hồi tính năng kỹ thuật, độ tin cậy, tuổi thọ
của trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo. Quản lý nhằm xác định khả năng sản
xuất, mua sắm số trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo để phục vụ giảng dạy, thực
hành điều trị, nghiên cứu khoa học và số phải loại khỏi trang bị hàng năm.
Đối tượng quản lý là số lượng, chất lượng, chủng loại trang thiết bị kỹ thuật
phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và điều trị ở Học viện Quân y, gồm: trang
thiết bị phòng học phổ thong, trang thiết bị chuyên dung, phòng thí nghiệm, trang
thiết bị thực hành, trung tâm mô phỏng y học …
Phương thức quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo: đăng ký,
thống kê; ghi chép vào sổ sách, mẫu biểu đã được quy định những số liệu, sự
việc có liên quan đến công tác quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo;
thu thập các số liệu, sự việc đã đăng ký có liên quan đến công tác quản lý trang
thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo. Thông qua phương pháp đăng ký, thống kê

chủ thể quản lý nắm bắt và đánh giá được số lượng, chủng loại, đồng bộ, chất


22
lượng các trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo được phân công quản lý.
Tất cả các loại trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo đều phải được
thường xuyên, liên tục đăng ký, thống kê đúng các nội dung vào sổ sách, mẫu
biểu quy định. Các số liệu, sự việc được đăng ký, thống kê phải phù hợp với thực
tế và được cấp có thẩm quyền xác nhận.
Kiểm tra, kiểm kê là việc xác định thực tế số lượng của từng loại trang bị và
chất lượng của từng trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo. Kiểm tra, kiểm kê có
thể được thực hiện định kỳ hoặc đột xuất. Sau khi kiểm tra, kiểm kê cần đối chiếu
so sánh với số liệu đã đăng ký, thống kê trên sổ sách và các tiêu chuẩn chất lượng.
Trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp thích hợp nhằm bảo đảm đủ trang thiết bị kỹ
thuật giáo dục, đào tạo theo biên chế hoặc theo yêu cầu nhiệm vụ và bảo đảm duy
trì hay phục hồi tính năng kỹ thuật, độ tin cậy, tuổi thọ của trang thiết bị kỹ thuật
giáo dục, đào tạo.
Báo cáo tình hình (có thể theo mẫu quy định) cho chủ thể quản lý cấp trên
nắm được thực lực (tình trạng thực tế về số lượng, chủng loại, đồng bộ, chất lượng,
đặc điểm kỹ thuật. v.v.) trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo của Học viện và các
biện pháp giải quyết nhằm đáp ứng nhu cầu về trang thiết bị kỹ thuật cho thực hiện
nhiệm vụ giảng dạy, thực hành, điều trị và nghiên cứu khoc học của Học viện Quân
y. Báo cáo tình hình trang thiết bị kỹ thuật có thể tiến hành theo định kỳ hoặc đột
xuất, vai trò của các báo cáo như các thông tin phản hồi cho chủ thể quản lý biết
được tình hình thực hiện quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo ở các bộ
môn, khoa diễn ra như thế nào để có quyết định điều chỉnh.
Các hình thức quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo: Ra văn bản quản
lý; dùng các phương tiện kỹ thuật trong quản lý; sơ kết, tổng kết, hội thảo, v.v.
Kiểm tra việc thực hiện các công việc quản lý của các bộ phận và cá nhân
theo các tiêu chí, quan điểm, nguyên tắc, phương pháp trong quản lý trang thiết

bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo, những tiêu chí này không thể lượng hóa được, mà nó
có tác dụng định hướng rõ mục tiêu quản lý, phương pháp quản lý nhằm nâng cao


23
chất lượng và hiệu quả giảng dạy, điều trị, nghiên cứu khoa học ở Học viện Quân y.
1.2. Nội dung quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo ở
Học viện Quân y
1.2.1. Xây dựng quy hoạch sử dụng trang thiết bị kỹ thuật
Quy hoạch sử dụng trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo nhằm khai
thác thiết bị kỹ thuật hiện có một cách hiệu quả, tiết kiệm. Quy hoạch sử dụng
thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo là căn cứ để xây dựng kế hoạch bảo đảm
trang bị, dự trữ vật tư kỹ thuật, kế hoạch sử dụng trang bị, kế hoạch công tác kỹ
thuật, kế hoạch chỉ tiêu sản lượng ngân sách kỹ thuật. Các chuyên ngành kỹ
thuật xây dựng và đề xuất với Tổng cục Kỹ thuật để báo cáo Bộ Tổng Tham
mưu, Bộ Quốc phòng về quy hoạch sử dụng toàn bộ các loại trang thiết bị kỹ
thuật giáo dục, đào tạo hiện có do chuyên ngành được phân công quản lý. Quy
hoạch sử dụng trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo thường được xây dựng
cho thời gian 10 năm, tầm nhìn 20 năm, hàng năm có rà soát, bổ sung.
Nội dung của quy hoạch: Chủng loại, số lượng trang thiết bị kỹ thuật
giáo dục, đào tạo biên chế cho các phòng giảng, phòng thực hành, bộ môn,
khoa, bệnh viện và các trung tâm nghiên cứu ứng dụng;
Chủng loại trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo cần duy trì để sử dụng
lâu dài (từ 10 năm trở lên); Chủng loại trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo
cần duy trì để sử dụng tiếp theo các thời hạn trên 5 năm và dưới 10 năm; Chủng
loại trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo tận dụng với thời hạn sử dụng dưới 5
năm; chủng loại trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo cần cải tiến, hiện đại
hoá để sử dụng tiếp hoặc có thể cải hoán để sử dụng vào việc khác.
1.2.2. Xây dựng kế hoạch sử dụng trang thiết bị kỹ thuật
Mục đích lập kế hoạch sử dụng trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo:

Các đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo
phải lập kế hoạch sử dụng trang thiết bị kỹ thuật thuộc biên chế đơn vị mình
nhằm: Duy trì tỉ lệ trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo hoạt động tốt, bảo
đảm khả năng thực hiện nhiệm vụ giàng dạy, thực hành điều trị, nghiên cứu


24
khoa học.
Làm cơ sở để báo cáo cấp trên đưa trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào
tạo đi sửa chữa định kỳ.
Làm cơ sở để xây dựng kế hoạch bảo đảm vật tư kỹ thuật.
Căn cứ để lập kế hoạch sử dụng trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo
ở Học viện Quân y.
Kế hoạch công tác của Học viện Quân y.
Chỉ tiêu giờ (lần) hoạt động của trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo.
Chỉ tiêu bảo đảm của cấp trên về vật chất kỹ thuật và sửa chữa định kỳ
trang thiết bị kỹ thuật. Tình trạng kỹ thuật, tuổi thọ kỹ thuật còn lại của trang
thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo.
Nội dung kế hoạch sử dụng trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo:
Chủng loại, số lượng trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo được sử
dụng cho các hoạt động của Học viện Quân y.
Số giờ (lần) hoạt động của từng trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo.
Thời điểm trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo phải dừng hoạt động
để thay thế các cụm tổng thành hoặc đưa đi sửa chữa.
Tỉ lệ trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo tốt, sẵn sàng để sử dụng
từng thời kỳ.
Kế hoạch sử dụng trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo là một nội
dung của kế hoạch công tác kỹ thuật. Khi xây dựng kế hoạch sử dụng trang
thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo, cơ quan kỹ thuật cần phối hợp chặt chẽ với
cơ quan tham mưu và thống nhất trình người chỉ huy.

1.2.3. Quản lý số lượng, chất lượng và chủng loại trang thiết bị kỹ
thuật giáo dục, đào tạo
* Quản lý số lượng trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo
Quản lý số lượng từng chủng loại, kiểu loại trang thiết bị kỹ thuật giáo dục,


25
đào tạo hiện có.
Quản lý số lượng ở các trạng thái sử dụng của từng chủng loại trang thiết bị
kỹ thuật giáo dục, đào tạo: lưu kho, đang sử dụng, sửa chữa và bảo dưỡng, cải tiến,
tình trạng sử dụng của từng loại trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo.
Độ chính xác của các số liệu quản lý là nội dung rất quan trọng đánh giá chất
lượng quản lý trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo. Độ chính xác của các số
liệu quản lý phụ thuộc vào:
Sai số sinh ra trong quá trình trực tiếp thực hiện quản lý như: chủng loại, số
hiệu, nước sản xuất, cấp chất lượng ... Sai số này gọi là sai số trực tiếp quản lý, khó
tránh khỏi và chỉ có thể hạn chế dần đến mức nhỏ nhất trong quá trình quản lý.
Sai số do quá trình cung cấp, tiếp nhận và xử lý số liệu. Sai số này gọi là sai
số giao nhận và xử lý, nó đều xuất phát từ các số liệu quản lý trên sổ sách khi thực
hiện đăng ký thống kê, hay quá trình cập nhật, xử lý các số liệu đó.
Quản lý sự biến động của trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo (tăng do
tiếp nhận, bổ sung, thu hồi; giảm do cấp phát, điều chuyển, tổn thất...).
Quản lý số lượng là cơ sở để ngành kỹ thuật tham gia ý kiến với cơ quan
tham mưu về chiến lược trang thiết bị và kế hoạch bảo đảm trang thiết bị kỹ thuật
giáo dục, đào tạo; xây dựng và đề xuất quy hoạch sử dụng trang thiết bị kỹ thuật
giáo dục, đào tạo, lập kế hoạch sử dụng trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo của
Học viện Quân y.
Quản lý số lượng cũng là cơ sở để quy hoạch hệ thống cơ sở kỹ thuật, xây
dựng đội ngũ kỹ thuật.
* Quản lý chất lượng trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo

Quản lý tình trạng kỹ thuật của từng trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo
theo tiêu chuẩn phân cấp chất lượng, hệ số kỹ thuật (Kt).
Quản lý hạn sử dụng của từng trang thiết bị kỹ thuật giáo dục, đào tạo; thiết
bị lẻ, cụm tổng thành lắp trên trang thiết bị kỹ thuật giáo dục đào tạo đó.
Cùng với quản lý số lượng, quản lý chất lượng là cơ sở để lập kế


×