Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ HIỆU QUẢ sử DỤNG đất NÔNG NGHIỆP ở TỈNH bắc NINH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.33 KB, 103 trang )

MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT

12

NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH BẮC NINH

1.1.

Đất nông nghiệp và vai trò của đất nông nghiệp đối với

12

sản xuất
1.2.

Quan niệm về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, tiêu

19

chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử
dụng đất nông nghiệp
1.3.


Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông

30

nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
Chương 2

THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG

35

NGHIỆP Ở TỈNH BẮC NINH

2.1.

Thành tựu và hạn chế về hiệu quả sử dụng đất nông

35

nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh thời gian qua
2.2.

Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và những vấn đề

52

đặt ra
Chương 3

QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU


62

NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG
NGHIỆP Ở TỈNH BẮC NINH

3.1.

Quan điểm cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng

62

đất nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
3.2.

Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng

71

đất nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
KẾT LUẬN

89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

90

PHỤ LỤC


94


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Bảo vệ thực vật

BVTV

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNH, HĐH

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

CHXHCN Việt Nam

Hiệu quả sử dụng

HQSD

Kinh tế thị trường

KTTT

Kinh tế - xã hội


KT-XH

Tư bản chủ nghĩa

TBCN

Ủy ban nhân dân

UBND


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đối với tất cả các quốc gia, đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý
giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là bộ phận hợp thành quan trọng của môi
trường sống, là địa bàn phân bố và tổ chức các hoạt động KT-XH, an ninh,
quốc phòng. Trong nông nghiệp, đất đai không những là đối tượng lao động
mà còn là tư liệu sản xuất không thể thay thế.
Xã hội phát triển, dân số tăng nhanh kéo theo những đòi hỏi ngày càng
tăng về lương thực, thực phẩm, nhà ở, trường học, bệnh viện, đường sá, cùng
các nhu cầu khác về văn hóa, xã hội, v.v. Con người đã tìm mọi cách để khai
thác đất đai nhằm thỏa mãn những nhu cầu ngày càng tăng đó. Đất đai, đặc
biệt là đất nông nghiệp, có hạn về diện tích, nhưng lại có nguy cơ bị suy thoái
dưới tác động của thiên nhiên và của con người trong quá trình sản xuất. Đó
là chưa kể đến sự suy giảm về diện tích đất nông nghiệp do quá trình đô thị
hóa đang diễn ra mạnh mẽ, trong khi khả năng khai hoang đất mới lại rất hạn
chế. Do vậy, việc đánh giá HQSD đất sản xuất nông nghiệp, để từ đó lựa chọn
cách sử dụng đất có hiệu quả, đảm bảo cho sự phát triển bền vững đang trở
thành vấn đề mang tính chất toàn cầu.
Tỉnh Bắc Ninh nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc, có vị trí

rất quan trọng trong chiến lược phát triển KT-XH của đất nước, là một trong
những tỉnh có quá trình CNH, HĐH diễn ra mạnh mẽ. Điều đó làm cho diện
tích đất sản xuất nông nghiệp ngày càng giảm nhanh chóng, trong khi nhu cầu
về sản phẩm nông nghiệp cho người tiêu dùng về số lượng, chất lượng, cũng
như sự đa dạng về chủng loại ngày càng lớn, đòi hỏi người được giao quyền
sử dụng đất sản xuất nông nghiệp phải nâng cao tính hiệu quả. Mặc dù thời
gian qua, chính quyền và người nông dân các địa phương trong tỉnh Bắc
Ninh đã tích cực thực hiện nhiều biện pháp để nâng cao HQSD đất nông
nghiệp, như: dồn điền đổi thửa, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, thâm
3


canh, chuyên canh cây trồng, vật nuôi… góp phần nâng cao giá trị thu nhập
trên một diện tích đất nông nghiệp (có vùng đạt trên 100 triệu
đồng/ha/năm), tạo thêm việc làm cho nhiều lao động nông thôn, nâng cao
thu nhập cho nông dân. Tuy nhiên, HQSD đất nông nghiệp hiện nay trên
địa bàn Tỉnh vẫn còn thấp; giá trị trên một ha, trên một đồng chi phí, cũng
như trên một công lao động bỏ ra vẫn chưa cao; còn nhiều diện tích đất
nông nghiệp bỏ hoang; tình trạng thiếu việc làm trong lao động nông thôn
vẫn còn nhiều, đời sống của nông dân còn nhiều khó khăn; việc đầu tư các
nguồn lực vào đất nông nghiệp còn hạn chế, v.v. Điều đó gây ra không ít trở
ngại cho quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững.
Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề này, tác giả chọn đề tài “Hiệu quả
sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề đất nông
nghiệp, được công bố với mục đích đánh giá HQSD đất nông nghiệp sau khi
thực hiện việc dồn điền đổi thửa, trong quá trình đô thị hóa, hoặc quá trình
phát triển nông nghiệp hàng hóa ở nước ta và ở từng địa phương. Song, vấn
đề HQSD đất nông nghiệp mà một số bài báo khoa học, hoặc được đề cập

trong một phạm vi hạn chế của một số luận văn, luận án, các đề tài nghiên
cứu, hay sách chuyên khảo, đã công bố, chủ yếu được đề cập dưới dạng
những tác động của chính sách đất đai. Dưới đây là một số công trình, sách,
báo khoa học có liên quan đến đề tài, được tác giả chia thành ba nhóm:
* Các sách chuyên khảo có liên quan đến đề tài
Trước hết, phải kể đến cuốn sách của Nguyễn Ngọc Bình (2007), Đất và
những kiến thức sử dụng đất cho nông dân, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. Trong
công trình khoa học này, tác giả Nguyễn Ngọc Bình đã trình bày những kiến
thức cơ bản về đất, như: khái niệm về đất, các thành phần cấu tạo và tính chất
4


của đất. Trên cơ sở đó, tác giả đã cung cấp những kiến thức cơ bản để sử dụng
đất có hiệu quả và bền vững, như: phải phân loại đất thích hợp với từng loại cây
trồng; áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác. Tác giả cũng đã trình bày các
biện pháp để độ phì nhiêu của đất được bảo toàn và bền vững cả về kinh tế, xã
hội, môi trường. Cuốn sách này giúp chúng ta hiểu sâu hơn về đất, làm cơ sở cho
việc lựa chọn cây trồng phù hợp với từng loại hình đất, biết cách cải tạo đất để
nâng cao độ phì của đất, thiết thực góp phần nâng cao HQSD đất nông nghiệp.
Thứ hai là cuốn sách Lâm Quang Huyên (2007), Vấn đề ruộng đất ở
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Trong cuốn sách này, tác giả Lâm
Quang Huyên đã trình bày có tính hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về ruộng đất và đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách về ruộng đất của Nhà nước ta qua các thời kỳ; trong đó có
bàn và phân tích sâu thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay. Tác giả đã hệ thống lại
quá trình thực hiện cách mạng ruộng đất ở Việt Nam, đánh giá những thành
công, thất bại và nguyên nhân của những thành công, thất bại đó. Tác giả cũng
đã nêu một số kinh nghiệm giải quyết vấn đề ruộng đất ở một số nước trên thế
giới và kinh nghiệm sử dụng ruộng đất trong sản xuất nông nghiệp ở một số địa
phương, như: xây dựng cánh đồng 50 triệu/ha/năm ở Thái Bình; xây dựng vùng

chuyên canh nông sản hàng hóa ở Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh… làm bài học trong
nâng cao HQSD đất, đồng thời bảo vệ và phát triển quỹ ruộng đất của nước ta.
Hai cuốn sách nói trên không đề cập đến vấn đề HQSD đất nông nghiệp
ở tỉnh Bắc Ninh, nhưng là những tài liệu quan trọng cung cấp cho học viên
những kiến thức cơ bản về vấn đề ruộng đất ở Việt Nam, bao gồm quan niệm
về đất đai, cách phân loại đất đai, cách thức sử dụng đất đai, kinh nghiệm sử
dụng có hiệu quả quỹ đất nông nghiệp ở các địa phương, v.v.
* Các luận văn, luận án có liên quan đến đề tài
Vấn đề HQSD đất nông nghiệp cũng được một số tác giả lựa chọn làm
đề tài nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ. Tiêu biểu có: Lê Văn
5


Hải (2006), Đánh giá HQSD đất nông nghiệp huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây,
Luận văn Thạc sĩ nông nghiệp, chuyên ngành Quản lý đất đai, Trường Đại
học Nông nghiệp I Hà Nội. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả Lê Văn
Hải tập trung làm rõ một số vấn đề về HQSD đất và đánh giá HQSD đất nông
nghiệp. Trong đó, đáng chú ý là tác giả đã nêu lên những đặc điểm và phương
pháp đánh giá HQSD đất nông nghiệp, các yếu tố ảnh hưởng và hệ thống các
tiêu chí đánh giá HQSD đất nông nghiệp. Phần đánh giá thực trạng, tác giả đã
phân tích khá chi tiết về hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường đối với từng
loại hình đất, từng vùng sản xuất. Trên cơ sở đó, tác giả nêu ra một số quan
điểm, định hướng và giải pháp để nâng cao HQSD đất nông nghiệp. Theo tác
giả, quan điểm sử dụng đất nông nghiệp phải theo hướng đa dạng hóa sản
phẩm, phải đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái. Hệ thống giải pháp phải
được tiến hành đồng bộ, trong đó cần quan tâm giải pháp về nguồn nhân lực,
các chính sách tác động đến HQSD đất, giải pháp về vốn, thị trường sản
phẩm, chuyển giao khoa học - công nghệ, đầu tư, hạ tầng cơ sở, v.v.
Lê Thanh Minh (2008), Nâng cao HQSD đất nông nghiệp trong quá trình
đô thị hóa huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Trường

Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên. Trong công
trình nghiên cứu này, tác giả Lê Thanh Minh đã tập trung làm rõ cơ sở lý luận
và thực tiễn về mối quan hệ giữa đô thị hóa với HQSD đất nông nghiệp; phân
tích, đánh giá đặc điểm và HQSD đất nông nghiệp đối với từng hộ gia đình,
từng loại cây trồng, vật nuôi trong quá trình đô thị hóa. Điều đáng chú ý là tác
giả đã đề xuất một số giải pháp để nâng cao HQSD đất nông nghiệp trong quá
trình đô thị hóa, như: thực hiện nghiêm các quy định của Nhà nước về chính
sách đất đai; đẩy mạnh hoạt động tín dụng cho nông dân vay vốn, ứng dụng
khoa học - kỹ thuật trong sản xuất, tìm thị trường cho nông dân; chuyển dịch
cơ cấu cây trồng, v.v.
Nguyễn Thị Hiền (2011), Đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc
6


Ninh, Luận văn Thạc sĩ nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội.
Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã tập trung làm rõ một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam, trình bày các quan
điểm sử dụng đất nông nghiệp bền vững, các yếu tố chi phối đến HQSD đất
nông nghiệp. Tác giả đã phân tích đánh giá thực trạng hiệu quả kinh tế, hiệu
quả xã hội và hiệu quả môi trường khi sử dụng các loại hình đất nông nghiệp
của huyện Quế Võ; trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả
các loại hình sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa. Trong đó,
đáng chú ý là các giải pháp về thực hiện cơ chế chính sách, tài chính; dồn điền
đổi thửa, cải tạo đất, vốn và thị trường nông sản, v.v.
Bùi Nữ Hoàng Anh (2013), Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trong
sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Yên Bái giai đoạn 2012-2020, Luận án tiến sĩ
nông nghiệp, Đại học Thái Nguyên. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả
Bùi Nữ Hoàng Anh đã tập trung trình bày những nội dung về đất nông
nghiệp, như: khái niệm đất nông nghiệp, phân loại và đặc điểm kinh tế của đất

nông nghiệp, nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp. Điều đáng chú ý là đối
tượng nghiên cứu của luận án này tương đối hẹp, chỉ đi vào nghiên cứu hiệu
quả kinh tế sử dụng đất, chứ không phải nghiên cứu vấn đề HQSD đất nông
nghiệp nói chung. Do đó, tác giả tập trung phân tích cơ sở lý luận về hiệu quả
kinh tế trong sử dụng đất nông nghiệp, đưa ra những nhân tố cơ bản ảnh
hưởng đến hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất nông nghiệp; khái quát những
vấn đề cơ bản về chính sách đất nông nghiệp của Việt Nam qua các thời kỳ,
đánh giá thực trạng và nêu lên những tác động của chính sách đất đai đến hiệu
quả kinh tế trong sử dụng đất nông nghiệp.
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (2013), HQSD đất nông nghiệp sau dồn điền
đổi thửa ở huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, Luận văn Thạc sĩ kinh tế chính trị,
Học viện Chính trị. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả Nguyễn Thị Mỹ
Hạnh đã tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dồn điền đổi
7


thửa; từ đó giải quyết vấn đề cần quan tâm hàng đầu là nâng cao HQSD đất
nông nghiệp. Tác giả đã phân tích thực trạng HQSD đất nông nghiệp sau dồn
điền đổi thửa của huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam; chỉ ra những vấn đề nảy sinh
trong quá trình sử dụng đất nông nghiệp hiện nay cần quan tâm tập trung giải
quyết; đề xuất phương hướng cơ bản và những giải pháp chủ yếu để nâng cao
HQSD đất nông nghiệp sau dồn điền đổi thửa. Trong hệ thống các giải pháp,
đáng chú ý là giải pháp về thực hiện chủ trương, chính sách sử dụng đất hợp lý;
vấn đề nguồn nhân lực, ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp,
v.v. Tác giả coi đây là những biện pháp cần thiết để nâng cao HQSD đất nông
nghiệp sau dồn điền đổi thửa ở huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.
Mặc dù các luận văn, luận án nói trên không trực tiếp nghiên cứu các
vấn đề về HQSD đất nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh, nhưng đã cung cấp cho
học viên những những kiến thức chung về đất nông nghiệp, về hiệu quả nói
chung, hiệu quả kinh tế sử dụng đất nông nghiệp nói riêng, và về các giải

pháp nâng cao HQSD đất nông nghiệp. Vì vậy, đây là các tài liệu tham khảo
rất có giá trị đối với học viên. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu của học viên
không trùng lặp với các luận văn, luận án đã công bố.
* Các bài báo khoa học có liên quan đến đề tài
Trần Thị Minh Châu (2011), "Chính sách đất nông nghiệp ở Việt Nam",
Tạp chí Cộng sản, số 824; Nguyễn Mạnh Tuân (2011), "Chính sách về đất đai
trong nông nghiệp ở Việt Nam : thực trạng và những kiến nghị", Tạp chí Nghiên
cứu kinh tế, Số 396 (5/2011); Nguyễn Sinh Cúc (2008), "Ổn định đất nông
nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia", Tạp chí Lý luận chính trị, số 9.
Trong những bài viết trên, các tác giả đã trình bày vai trò của đất nông
nghiệp, chính sách đất nông nghiệp, sự hình thành, phát triển chính sách đất
nông nghiệp, phân tích làm rõ những thành công và hạn chế về chính sách đất
nông nghiệp của nước ta qua các thời kỳ; trên cơ sở đó, đề xuất một số giải
pháp lớn đối với chính sách đất nông nghiệp ở nước ta hiện nay nhằm nâng
8


cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực,
phát triển nền nông nghiệp hiện đại, bền vững.
Phạm Văn Vân và Nguyễn Thanh Trà (2010), “Đánh giá HQSD đất
nông nghiệp ở huyện Chương Mỹ - Hà Nội”, Tạp chí Khoa học và Phát triển,
tập 8, số 5, trang 850-856, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. Trong bài
viết này, nội dung đáng chú ý là các tác giả đã chỉ ra những tiêu chí đánh giá
HQSD đất nông nghiệp; trên cơ sở kết quả khảo sát, điều tra, phân tích kết
quả, tác giả đã đánh giá khá chi tiết hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường
đối với từng loại hình đất nông nghiệp, từng vùng sản xuất, từng loại cây
trồng chính ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
Bùi Nữ Hoàng Anh, Trần Chí Thiện (2013), “Phân tích các nhân tố ảnh
hưởng đến hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Yên Bái”,
Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, Số 423-8/2013, trang 36 - 45. Bài viết này của hai

tác giả đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế trong sử dụng
đất nông nghiệp của tỉnh Yên Bái dựa trên số liệu khảo sát 270 hộ nông dân
trong 3 huyện đại diện cho 3 vùng sinh thái của Tỉnh. Bài viết đã cung cấp 6
nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất nông nghiệp,
6 nhóm giải pháp tương ứng cho toàn Tỉnh và các giải pháp đặc thù theo từng
loại hình đất nông nghiệp. Trong các giải pháp đó, hai tác giả của bài báo nhấn
mạnh việc đặc biệt chú trọng cải thiện nhân tố xã hội (bao gồm cả trình độ dân
trí, chính sách, cách thức tổ chức, v.v). Các nhân tố khác về kỹ thuật - công
nghệ, cơ sở hạ tầng, điều kiện sản xuất của nông hộ, điều kiện tự nhiên và thị
trường cũng được hai tác giả đề nghị cần được quan tâm thỏa đáng.
Tóm lại, vấn đề HQSD đất nông nghiệp ở Việt Nam đã được nhiều
người quan tâm nghiên cứu và công bố trên một số sách, bài báo khoa học; hoặc
được một số luận án, luận văn nghiên cứu, nhưng chưa có công trình khoa học
nào trực tiếp nghiên cứu toàn diện, trực tiếp vấn đề HQSD đất nông nghiệp ở
tỉnh Bắc Ninh dưới góc độ kinh tế chính trị. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của học
9


viên không trùng lặp với các công trình đã công bố. Tuy nhiên, kết quả nghiên
cứu của các công trình liên quan đến đề tài đã nêu ở trên là những tài liệu tham
khảo bổ ích, nhất là những kiến thức có liên quan đến vấn đề HQSD đất nông
nghiệp nói chung, để học viên triển khai nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về HQSD đất nông nghiệp ở tỉnh Bắc
Ninh. Trên cơ sở đó, đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao HQSD đất nông nghiệp trên địa bàn Tỉnh những năm tiếp theo.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về HQSD đất nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh.
- Đánh giá đúng thực trạng HQSD đất nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh

trong những năm qua.
- Đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao HQSD
đất nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu HQSD đất để sản xuất nông nghiệp trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh, với chủ thể sử dụng đất là người được giao quyền sử
dụng đất nông nghiệp; có tính đến chủ thể sở hữu là nhà nước khi bàn các
nhân tố chi phối và giải pháp nâng cao HQSD đất nông nghiệp.
Việc phân tích thực trạng HQSD đất nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh được
giới hạn trong thời gian từ năm 2009 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; quan
điểm, đường lối, chính sách về sử dụng đất nông nghiệp của Đảng và Nhà
10


nước ta; Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh cùng những chủ
trương, biện pháp của địa phương trong những năm gần đây về quản lý, sử
dụng và nâng cao HQSD đất nông nghiệp.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học của kinh tế
chính trị Mác - Lênin để làm sáng tỏ cơ sở lý luận về HQSD đất nông nghiệp;
sử dụng các phương pháp: kết hợp lô-gíc với lịch sử, so sánh, phân tích, tổng
hợp, thống kê, khảo sát trực tiếp tại địa phương, phỏng vấn cán bộ Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn và bà con nông dân tại các địa phương đến
khảo sát, phương pháp chuyên gia cùng một số phương pháp khác để phân

tích thực trạng, đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao HQSD đất nông
nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh.
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa học cho việc hoạch định
những chính sách, biện pháp nâng cao HQSD đất nông nghiệp của tỉnh Bắc
Ninh và một số địa phương khác có đặc điểm tương đồng với Bắc Ninh.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
phục vụ nghiên cứu giảng dạy trong các trường đại học và cao đẳng.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Phần mở đầu; 3 chương (7 tiết), kết luận; Danh mục tài liệu
tham khảo; Phụ lục.

11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH BẮC NINH

1.1. Đất nông nghiệp và vai trò của đất nông nghiệp đối với sản xuất
1.1.1. Đất nông nghiệp
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên ban tặng
cho con người. Con người sinh ra trên đất, sống và lớn lên nhờ vào sản phẩm
của đất. Tuy vậy, không phải ai cũng hiểu đất là gì? Tại sao lại phải giữ gìn,
bảo vệ và phát huy nguồn tài nguyên này. Theo định nghĩa của nhà thổ
nhưỡng người Nga Vi-li-am (1935) thì “Đất là một lớp vật thể tơi xốp trên bề
mặt của hành tinh chúng ta, mà thực vật có thể sinh trưởng được” [3, tr.5 ].
Theo Từ điển Bách khoa Nông nghiệp (năm 1991) “Đất là vật hình
thành tự nhiên, gồm những tầng lớp liên quan nhau theo phát triển sinh học,
được tạo thành do kết quả biến đổi các lớp mặt thạch quyển vỏ Trái đất, dưới

tác động của nước, không khí, sinh vật”, và “ Đất đai là phần bề mặt của trái
đất có đặc điểm bao gồm tất cả những thuộc tính tương đối ổn định của sinh
quyển trên và dưới bề mặt đó, từ khí quyển đến thổ nhưỡng, địa hình, địa
mạo, thủy văn, quần thể động, thực vật, cho đến những kết quả của hoạt động
con người trong quá khứ và hiện tại, trong chừng mực những thuộc tính đó có
ảnh hưởng, có ý nghĩa đến sử dụng đất của con người trong hiện tại và tương
lai” [27, tr.170]. Dưới góc độ kinh tế chính trị, đất đai là một loại tư liệu sản
xuất cơ bản, thiết yếu của quá trình sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chất
nuôi sống con người (sẽ làm rõ hơn ở 1.1.2). Loại tư liệu sản xuất này ở nước
ta có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng; trong đó, Nhà nước
với tư cách là người chủ sở hữu giao quyền sử dụng có thời hạn cho các tổ
chức, cá nhân sử dụng theo quy định của pháp luật.
Như vậy, đất là một vật thể tự nhiên độc lập, có những quy luật phát
sinh, phát triển riêng theo không gian và thời gian, như các vật thể tự nhiên
khác. Nhưng từ sau khi loài người xuất hiện, thì đất là đối tượng lao động, là
12


tư liệu sản xuất của con người, và còn là sản phẩm lao động của con người.
Bởi vậy, qua các hoạt động sản xuất của mình, con người cũng là một yếu tố
quan trọng trong quá trình hình thành đất. Cho nên, các loại đất xấu hay tốt
không phải đơn thuần chỉ do các quy luật của tự nhiên, mà con người khi sử
dụng đất, dựa vào các đặc tính của nó, có thể làm cho đất xấu trở thành đất
tốt, đất tốt ngày càng tốt hơn qua quá trình sử dụng và ngược lại.
Nông nghiệp theo nghĩa rộng là tổ hợp các ngành gắn liền với các quá
trình sinh học, bao gồm cả nông nghiệp theo nghĩa hẹp (trồng trọt, chăn nuôi),
lâm nghiệp (trồng và khai thác bảo vệ tài nguyên rừng), ngư nghiệp (đánh bắt
và nuôi trồng thủy sản), diêm nghiệp (làm muối). Thực tiễn cho thấy, trong
một thời gian dài của lịch sử, nông nghiệp là một ngành kinh tế chủ yếu của
hầu hết các quốc gia. Nông nghiệp là khu vực duy nhất sản xuất ra lương

thực, thực phẩm nuôi sống con người.
Với cách tiếp cận đó, có thể hiểu đất nông nghiệp là đất được sử dụng
chủ yếu vào sản xuất của các ngành nông nghiệp, như: trồng trọt, chăn nuôi,
nuôi trồng thủy sản, làm muối, hoặc sử dụng vào mục đích nghiên cứu thí
nghiệm về nông nghiệp. Theo Từ điển Bách khoa Nông nghiệp (năm 1991)
“Đất nông nghiệp là các loại đất được sử dụng cho sản xuất nông nghiệp:
trồng trọt các loại cây hằng năm hay lâu năm, trồng cỏ cho chăn nuôi. Các
mặt nước để nuôi trồng thủy sản” [27, tr.171]. Luật Đất đai năm 1993 quy
định về đất nông nghiệp tại Điều 42 như sau: “Đất nông nghiệp là đất được
xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn
nuôi, nuôi trồng thủy sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp” [18].
Với quy định của Luật Đất đai năm 1993, đất đai của Việt Nam được
chia thành sáu loại: đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất chuyên dùng, đất
khu dân cư nông thôn, đất đô thị, đất chưa sử dụng. Theo sự phân loại này,
đất nông nghiệp và đất lâm nghiệp được tách riêng thành hai loại. Tuy nhiên,
sự phân loại này dẫn đến sự đan xen, chồng chéo giữa các loại đất, không có
sự tách bạch về mặt pháp lý, gây khó khăn cho công tác quản lý đất đai.
13


Để khắc phục những hạn chế đó, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho
người sử dụng đất thực hiện các quyền của mình trong việc sử dụng đất, Luật
Đất đai năm 2003 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và gần đây, Luật Đất đai năm
2013 đã chia đất đai thành ba loại, với tiêu chí phân loại duy nhất là căn cứ vào
mục đích sử dụng chủ yếu: nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp
và nhóm đất chưa sử dụng. Theo đó, nhóm đất nông nghiệp là “đất được xác
định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng cây hàng năm,
trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất
nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối; đất nông nghiệp khác sử dụng để xây dựng
nhà kính và các loại nhà khác phục vụ mục đích trồng trọt, xây dựng chuồng

trại chăn nuôi hoặc nghiên cứu thí nghiệm về trồng trọt, chăn nuôi, đất ươm tạo
cây giống, con giống và đất trồng hoa, cây cảnh” [20, tr.120]. Như vậy, nói đến
đất nông nghiệp, hiện nay người ta thường hiểu sẽ bao gồm:
Đất sản xuất nông nghiệp: bao gồm đất trồng cây hàng năm và đất
trồng cây lâu năm;
Đất lâm nghiệp: bao gồm đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất
rừng đặc dụng;
Đất nuôi trồng thủy sản: đất được sử dụng chuyên vào mục đích nuôi
trồng thủy sản nước lợ, nước mặn và nước ngọt;
Đất làm muối: là ruộng muối để sử dụng vào mục đích sản xuất muối;
Đất nông nghiệp khác: gồm đất sử dụng để xây dựng nhà kính và các
loại nhà khác phục vụ mục đích trồng trọt, kể cả các hình thức trồng trọt
không trực tiếp trên đất; xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và
các loại động vật khác được pháp luật cho phép; đất trồng trọt, chăn nuôi,
nuôi trồng thủy sản cho mục đích học tập, nghiên cứu thí nghiệm; đất ươm
tạo cây giống, con giống và đất trồng hoa, cây cảnh. Trong phạm vi nghiên
cứu của luận văn này, do vị trí địa lý của Bắc Ninh không có biển, nên đất nông
nghiệp ở Bắc Ninh không có loại hình đất làm muối.
14


Đất nông nghiệp có những đặc điểm cơ bản như sau:
Một là, đất nông nghiệp có vị trí cố định không di chuyển được.
Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu, nhưng lại có vị trí cố định,
không thể di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác, gắn liền với điều kiện tự
nhiên, điều kiện KT-XH của mỗi vùng. Đặc tính này đồng thời quy định tính
giới hạn về quy mô theo không gian gắn liền với môi trường mà đất đai chịu
sự chi phối; gắn liền với nguồn gốc hình thành của đất đai, địa hình, khí hậu,
kết cấu đất, độ màu mỡ, vị trí của đất, v.v. Vị trí của đất nông nghiệp có ý
nghĩa lớn về mặt kinh tế trong quá trình khai thác sử dụng đất. Thông thường,

đất nông nghiệp ở gần các khu đô thị, thuận tiện về giao thông thường được
khai thác sử dụng triệt để hơn đất đai ở các vùng xa xôi, hẻo lánh; do đó, vị trí
địa lý của đất nông nghiệp thường mang lại cho người sở hữu và người sử
dụng nhiều lợi ích hơn. Đặc điểm này chính là một điều kiện dẫn tới hình
thành địa tô chênh lệch I mà C. Mác đã chỉ ra trong lý luận địa tô TBCN của
mình; đồng thời, đây cũng là một yếu tố cần xem xét khi tính tới HQSD đất
trong điều kiện hiện nay.
Hai là, diện tích đất nông nghiệp có hạn.
Do đặc điểm tự nhiên của đất đai, nên diện tích đất nông nghiệp đưa vào
canh tác luôn bị giới hạn bởi không gian nhất định. Diện tích đất có hạn do
giới hạn của từng nông trại, từng hộ nông dân, từng vùng và phạm vi lãnh thổ
từng quốc gia. Sự giới hạn về diện tích đất nông nghiệp còn thể hiện ở khả
năng hoạt động khai hoang, khả năng tăng vụ trong từng điều kiện cụ thể.
Quỹ đất nông nghiệp là có hạn và ngày càng trở nên khan hiếm do nhu cầu
ngày càng cao về đất đai của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa cũng như
đáp ứng nhu cầu đất ở khi dân số ngày một gia tăng. Đặc điểm này ảnh hưởng
đến khả năng duy trì và mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là
một điều kiện dẫn tới hình thành lợi nhuận siêu ngạch trong kinh doanh nông
nghiệp mà C. Mác đã chỉ ra trong lý luận địa tô TBCN.
Tuy nhiên, dù bị giới hạn về mặt không gian, nhưng trên mỗi đơn vị diện

15


tích đất nông nghiệp, nếu không ngừng tăng cường đầu tư vốn, sức lao động,
đưa khoa học và công nghệ mới vào sản xuất, thì số lượng sản phẩm trên một
đơn vị diện tích và giá trị nông phẩm đem lại trên một đơn vị sản phẩm sẽ ngày
càng nhiều hơn và chất lượng hơn. Đây là con đường chủ yếu để nâng cao
HQSD đất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông nghiệp, nhằm đáp ứng yêu cầu
tăng lên về nông phẩm cung cấp cho xã hội.

Ba là, đất nông nghiệp vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm
của lao động.
Đất nông nghiệp vốn là sản phẩm của tự nhiên, xuất hiện và tồn tại ngoài ý
muốn của con người. Đất nông nghiệp được hình thành do quá trình phong hoá
đá và sự tác động của vi sinh vật, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng... và do con người
tiến hành khai phá, đưa vào sử dụng nhằm phục vụ lợi ích của con người. Trong
quá trình lịch sử lâu dài đó, lao động của con người qua nhiều thế hệ đã được kết
tinh vào đó. Do đó, ngày nay đất nông nghiệp vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa
là sản phẩm của lao động. Đặc điểm này đặt ra trong quá trình sử dụng, con
người cần phải không ngừng cải tạo và bồi dưỡng, đồng thời phải khai thác đất
nông nghiệp cho hợp lý để làm cho đất ngày càng màu mỡ hơn.
Bốn là, đất nông nghiệp có chất lượng không đồng đều.
Đất nông nghiệp không đồng nhất về chất lượng do sự khác nhau giữa
các yếu tố dinh dưỡng vốn có của nó. Trước hết, đó là kết quả của quá trình
hình thành đất và đây chính là một điều kiện dẫn đến hình thành địa tô
chênh lệch I; mặt khác, quan trọng hơn là quá trình canh tác của con người.
Nếu trong quá trình sử dụng, khai thác đất nông nghiệp, người sử dụng đất
thường xuyên đầu tư cải tạo và bồi dưỡng cho đất, thì sẽ bảo tồn và nâng cao độ
màu mỡ của đất nông nghiệp ở từng cánh đồng, từng khu vực. Từ đó sẽ đạt
được năng suất cây trồng cao. Đây cũng chính là một điều kiện dẫn đến hình
thành địa tô chênh lệch II mà C. Mác đã chỉ ra trong lý luận địa tô TBCN. Vận
dụng trong điều kiện hiện nay, đó cũng chính là phương thức nâng cao HQSD
đất nông nghiệp. Điều đó đòi hỏi người sử dụng đất nông nghiệp phải xác định
16


tỷ lệ hợp lý về các nguồn lực như: vốn, nhân lực, loại cây trồng, vật nuôi…
trong quá trình sản xuất nông nghiệp. Có như vậy thì mới có thể đem lại hiệu
quả kinh tế cao cho mình.
1.1.2. Vai trò của đất nông nghiệp đối với sản xuất

Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là
nguồn lực to lớn của đất nước, là nguồn sống của nhân dân; là cơ sở tự nhiên,
là tiền đề cho mọi quá trình sản xuất, nhưng vai trò của đất đối với mỗi ngành
sản xuất có tầm quan trọng khác nhau. Bàn về vấn đề này, nhà kinh tế học tư
sản cổ điển Wiliam Petty (1623-1687) có một luận điểm nổi tiếng: “lao động
là cha, còn đất đai là mẹ của mọi của cải”. Trong phần mở đầu, Luật Đất đai
năm 1993 đã khẳng định: “Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là
tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường
sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá,
xã hội, an ninh và quốc phòng” [8]. Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai có
vai trò đặc biệt quan trọng. Điều này được thể hiện như sau:
Thứ nhất, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất đặc biệt, chủ yếu và
không thể thay thế được trong sản xuất nông nghiệp.
Điều đó được quy định bởi đất nông nghiệp vừa là tư liệu lao động vừa
là đối tượng lao động. Trong khi đó, đối với các loại đất chuyên dùng khác,
thì đất đai chỉ là đối tượng lao động; con người phải sử dụng tư liệu lao động
để tác động vào đất đai để tạo ra sản phẩm. Đất đai là đối tượng lao động vì
đất đai chịu sự tác động của con người trong quá trình sản xuất, như: cày, bừa,
xới, lên luống, v.v. Quá trình đó làm tăng chất lượng của ruộng đất, tạo điều
kiện thuận lợi để tăng năng suất và chất lượng cây trồng. Đất đai là tư liệu lao
động, vì đất đai phát huy tác dụng như một công cụ lao động. Con người sử
dụng đất đai để trồng trọt, chăn nuôi. Không có đất đai thì không có sản xuất
nông nghiệp. Sự kết hợp của đối tượng lao động và tư liệu lao động đã làm
cho đất nông nghiệp trở thành tư liệu sản xuất đặc biệt. Đất đai là tư liệu sản
17


xuất đặc biệt còn là vì, các tư liệu sản xuất khác bị hao mòn dần trong quá trình
sử dụng, nhưng đất nông nghiệp nếu biết khai thác, cải tạo và sử dụng hợp lý, thì
độ phì của đất ngày càng tăng, chất lượng đất ngày càng cao hơn.

Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu của sản xuất nông nghiệp, vì nó có vai
trò quyết định trong việc tạo ra các loại nông sản. Nếu không có đất thì không
thể tiến hành các hoạt động sản xuất nông nghiệp được; và do đó cũng không
thể có nông sản được. Cho đến nay, nơi duy nhất để sản xuất ra lương thực,
thực phẩm nuôi sống con người vẫn cơ bản là đất nông nghiệp.
Thứ hai, đất nông nghiệp là môi trường sống, môi trường không gian
quan trọng để sản xuất nông nghiệp.
Chúng ta đều biết rằng, đất là thành phần quan trọng hàng đầu của môi
trường sống. C.Mác đã chỉ ra rằng: “ Đất là không gian, yếu tố cần thiết của
tất thảy mọi sự sản xuất và mọi hoạt động của loài người” [16, tr.473]. Sản
xuất nông nghiệp có đặc thù là hoạt động sản xuất cơ bản diễn ra ở ngoài trời,
phải tiếp xúc với tự nhiên. Mọi hoạt động sản xuất nông nghiệp diễn ra đều
cần phải có đất. Cây trồng, vật nuôi đều phải dựa vào đất và mặt nước để phát
triển. Tất cả những yếu tố đó chính là môi trường sống, là không gian để sản
xuất nông nghiệp. Thực tế lịch sử cho thấy: đất là yếu tố không thể thiếu
trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của các thế hệ con người. Hiện nay,
khoa học - công nghệ phát triển, con người có thể sản xuất ra một số sản
phẩm nông nghiệp mà không cần sử dụng đất nông nghiệp; song trên thực tế,
điều đó chưa phải là phổ biến, vì sản xuất theo phương pháp đó có chi phí quá
cao, không hiệu quả, không thể tạo khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn. Cho
đến nay, hình thức sản xuất này chưa thể mở rộng một cách phổ biến được. Và
suy cho đến cùng, dù có ứng dụng khoa học - công nghệ bao nhiêu đi chăng
nữa, thì sản xuất nông nghiệp vẫn cần phải có không gian đất nông nghiệp nhất
định. Vì vậy, đất nông nghiệp vẫn đóng vai trò hàng đầu trong sản xuất nông
nghiệp hiện nay.
Thứ ba, quyền sử dụng đất nông nghiệp được coi là phương tiện góp
vốn để phát triển sản xuất.
18



Đất đai là một loại tài sản đặc biệt. Sở hữu đất đai là một vấn đề rất phức
tạp, phản ánh nhiều mối quan hệ giữa nhà nước với người dân; giữa người với
người trong quá trình chiếm hữu, sử dụng đất. Ở nước ta, theo Luật Đất đai năm
2013 thì: đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý. Nhà nước không tư hữu hóa đất đai, nhưng giao cho người
dân quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hóa đặc
biệt. Người sử dụng đất, theo Điều 167 của Luật Đất đai năm 2013, có nhiều
quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế
chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất và được bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất. Trên cơ sở đó, cá nhân hoặc tổ chức sử dụng đất do thiếu vốn sản xuất có
thể thế chấp quyền sử dụng đất tại các ngân hàng thương mại, các quỹ tín dụng
nhân dân để vay vốn sản xuất; hộ nông dân được giao quyền sử dụng đất sản
xuất nông nghiệp, nhưng do thiếu kinh nghiệm, thiếu lao động thì có thể dùng
quyền sử dụng đất được giao để liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế
khác như một phần vốn góp. Chính vì thế, có thể coi đất nông nghiệp (thực chất
là quyền sử dụng đất) có vai trò như là một phương tiện góp vốn, thế chấp, huy
động vốn, liên doanh, liên kết trong sản xuất kinh doanh. Điều đó có đầy đủ cơ
sở pháp lý và được Nhà nước bảo hộ, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các
hộ nông dân khai thác và sử dụng quỹ đất sản xuất nông nghiệp một cách linh
hoạt nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân.
1.2. Quan niệm về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, tiêu chí đánh
giá và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
1.2.1.Quan niệm về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
* Khái niệm hiệu quả.
Hiệu quả là một khái niệm được sử dụng khá rộng rãi trong đời sống xã
hội. Nói đến hiệu quả, người ta thường hiểu là nói đến kết quả công việc đạt
đến mức nào trong so sánh với mục đích đặt ra. Đó là kết quả mong muốn, là

19



cái mà con người mong đợi và hướng tới khi thực hiện một công việc so với
mục đích được kỳ vọng.
Khái niệm hiệu quả có nội dung khác nhau ở những lĩnh vực khác
nhau. Trong sản xuất, nói đến hiệu quả có nghĩa là nói đến hiệu suất, năng
suất lao động, được đánh giá bằng số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra
một đơn vị sản phẩm; hoặc bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong
một đơn vị thời gian. Trong kinh doanh, hiệu quả được thể hiện ở lãi suất,
lợi nhuận trên một đơn vị vốn đầu tư. Trong các hoạt động xã hội phi lợi
nhuận, thì hiệu quả ở đây là hiệu quả xã hội, được coi là kết quả đạt được
so với mục đích đặt ra của hoạt động xã hội đó.
Nhìn chung, hiệu quả là một phạm trù khoa học phản ánh quan hệ so
sánh giữa kết quả đạt được và chi phí đã bỏ ra để đạt được kết quả đó trong
một thời kỳ nhất định.
* Quan niệm về sử dụng đất nông nghiệp và các nguyên tắc sử dụng
đất nông nghiệp.
Sử dụng đất nông nghiệp là hệ thống các biện pháp của người được
giao quyền sử dụng đất thực hiện để tác động vào đất nông nghiệp nhằm đạt
được các lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường. Do đất đai có hạn; vừa là
sản vật của tự nhiên, vừa là sản vật của lao động; vừa là tư liệu lao động, vừa
là đối tượng lao động, nên quá trình sử dụng đất nông nghiệp cũng là quá
trình tác động của con người vào giới tự nhiên. Do vậy, quá trình sử dụng đất
nông nghiệp đòi hỏi người được giao quyền sử dụng đất phải tuân theo những
nguyên tắc nhất định. Cụ thể là:
Thứ nhất, đất nông nghiệp phải được sử dụng đầy đủ, hợp lý. Điều này
có nghĩa là toàn bộ diện tích đất nông nghiệp cần được sử dụng hết vào sản
xuất, với việc bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với đặc điểm của từng
loại đất, nhằm nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi.
Thứ hai, đất nông nghiệp phải được sử dụng đạt hiệu quả cao. Đây là kết
quả của việc sử dụng đầy đủ, hợp lý đất đai. Việc xác định HQSD đất nông

nghiệp được tính toán qua nhiều chỉ tiêu, như: năng suất cây trồng, sản lượng,
20


giá trị, lợi nhuận... thu được trên một đơn vị diện tích; hệ số sử dụng đất, v.v.
Thứ ba, đất nông nghiệp phải được quản lý và sử dụng một cách bền
vững. Sự bền vững ở đây là sự bền vững cả về số lượng và chất lượng, có nghĩa
là đất nông nghiệp phải được bảo tồn không chỉ đáp ứng được nhu cầu của thế
hệ hiện tại mà còn cho thế hệ tương lai.
* Quan niệm về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Từ những phân tích về khái niệm hiệu quả và quan niệm về sử dụng đất
nông nghiệp cùng các nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp, có thể quan niệm
về HQSD đất nông nghiệp như sau: Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là một
phạm trù kinh tế, phản ánh tương quan giữa kết quả đạt được về kinh tế, xã
hội và môi trường so với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó trên một diện
tích đất nông nghiệp được sử dụng trong một thời kỳ nhất định.
Nội dung cơ bản của quan niệm này được hiểu như sau:
Thứ nhất, kết quả đạt được của quá trình sử dụng đất nông nghiệp là
kết quả hữu ích, được tính trên cả ba phương diện: kinh tế, xã hội và môi
trường. Theo đó, HQSD đất nông nghiệp sẽ là tương quan giữa kết quả đạt được
về kinh tế, kết quả đạt được về mặt xã hội và kết quả đạt được về mặt môi
trường so với chi phí bỏ ra trong quá trình sử dụng đất nông nghiệp để có
những kết quả nói trên. Trong đó, kết quả về kinh tế có thể đo đếm bằng khối
lượng sản phẩm, giá trị sản xuất, giá trị gia tăng, doanh thu, lợi nhuận trên một
đơn vị diện tích nhất định. Kết quả xem xét về mặt xã hội trong quá trình sử
dụng đất nông nghiệp chính là kết quả những tác động của việc sử dụng đất
nông nghiệp đến các vấn đề xã hội, như: giải quyết việc làm, tăng thu nhập,
nâng cao trình độ dân trí của nông dân. Kết quả về mặt môi trường của quá
trình sử dụng đất là kết quả những tác động ảnh hưởng của việc sử dụng đất
nông nghiệp tới môi trường xung quanh.

Thứ hai, chi phí bỏ ra là những chi phí mà người sử dụng đất bỏ ra
trong quá trình sản xuất nông nghiệp, bao gồm: chi phí lao động sống và lao
động quá khứ. Những chi phí thường được tính đến là: chi phí lao động và
21


dịch vụ; chi phí: giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi,
thuốc chữa bệnh cho gia súc, gia cầm, khấu hao nông cụ (máy móc), chuồng
trại, xăng dầu, điện, nước, v.v.
Thứ ba, HQSD đất nông nghiệp được xem xét cả về định tính và định
lượng. Về mặt định lượng, đó là so sánh kết quả thu được và chi phí bỏ ra,
người ta chỉ thu được hiệu quả khi kết quả thu được lớn hơn chi phí bỏ ra. Độ
chênh lệch, hay tỷ lệ đó càng lớn thì hiệu quả sử dụng đất càng cao và ngược
lại. Về mặt định tính, mức độ hiệu quả sử dụng đất phản ánh nỗ lực của từng
khâu, của mỗi lực lượng trong cả quá trình sản xuất; phản ánh trình độ quản lý,
sử dụng đất nông nghiệp; sự gắn kết, phối hợp trong việc giải quyết những yêu
cầu về mục tiêu kinh tế với yêu cầu mục tiêu chính trị, xã hội và môi trường.
Thứ tư, việc đánh giá HQSD đất nông nghiệp được xác định trong
không gian và thời gian cụ thể (diện tích, mùa vụ hay một năm). Do vậy,
HQSD đất nông nghiệp còn được thể hiện ở việc tận dụng tối đa diện tích đất
nông nghiệp hiện có, không để đất bỏ hoang và ở việc tăng hệ số sử dụng đất,
tăng vòng quay sử dụng đất.
1.2.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Để đánh giá HQSD đất nông nghiệp, người ta thường vận dụng 3 tiêu
chí về hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường
Trước hết, về hiệu quả kinh tế của việc sử dụng đất nông nghiệp.
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh chất lượng của các hoạt
động kinh tế. Bàn về vấn đề này cũng có nhiều quan điểm và tiếp cận dưới
nhiều góc độ khác nhau. Theo ngành thống kê định nghĩa, thì hiệu quả kinh tế
là một phạm trù kinh tế, biểu hiện của sự tập trung phát triển theo chiều sâu,

phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực và sự chi phí các nguồn lực trong
quá trình sản xuất. Còn theo cách hiểu thông thường trong lĩnh vực kinh tế,
thì hiệu quả kinh tế là tỷ lệ giữa kết quả về kinh tế thu được so với chi phí bỏ
ra, hay ngược lại là chi phí trên một đơn vị sản phẩm hay giá trị sản phẩm.

22


Như vậy, hiệu quả kinh tế sử dụng đất nông nghiệp được hiểu là mối
tương quan so sánh giữa kết quả về mặt kinh tế đạt được so với lượng chi phí
về kinh tế bỏ ra trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp nhất định trong các
hoạt động sản xuất nông nghiệp. Kết quả đạt được là phần giá trị thu được của
sản phẩm đầu ra; lượng chi phí bỏ ra là phần giá trị của các nguồn lực đầu vào.
Mối tương quan đó thường được xem xét dưới các chỉ tiêu: kết quả thu được
trên một đơn vị diện tích cụ thể (một ha, một sào); kết quả thu được trên một
đồng chi phí, một lao động đầu tư vào sản xuất. Khi đánh giá về hiệu quả kinh
tế sử dụng đất nông nghiệp, người ta thường quan tâm đến một số chỉ tiêu sau:
Một là, số lượng sản phẩm thu được trên một đơn vị diện tích trong
khoảng thời gian nhất định. Chỉ tiêu này thường được tính là bao nhiêu tạ
(tấn)/ha/vụ (năm);
Hai là, thu nhập thuần túy trên một đơn vị diện tích. Đây là bộ phận của
giá trị tổng sản lượng trừ đi chi phí sản xuất, phản ánh kết quả cuối cùng của
việc sử dụng đất;
Ba là, hiệu quả một đồng vốn đầu tư vào một đơn vị diện tích đất nông
nghiệp nhất định. Thường được tính là tỷ lệ phần trăm giữa thu nhập và lượng
vốn đầu tư vào sản xuất trên một ha đất nông nghiệp;
Bốn là, giá trị một lao động nông nghiệp làm ra trong một thời gian
nhất định (một vụ hay một năm); hoặc giá trị (quy ra tiền) của một công lao
động nông nghiệp trong một vụ, hoặc một năm (thường được tính bằng tỷ lệ
trung bình giữa tổng thu nhập và tổng số ngày công trực tiếp lao động).

Thứ hai, hiệu quả xã hội của việc sử dụng đất nông nghiệp.
Hiệu quả xã hội là phạm trù có liên quan mật thiết với hiệu quả kinh tế
và thể hiện mục tiêu hoạt động kinh tế của con người. Việc lượng hoá các chỉ
tiêu biểu hiện hiệu quả xã hội còn gặp nhiều khó khăn, nên hiệu quả xã hội
chủ yếu thể hiện ở các chỉ tiêu định tính, như: giải quyết việc làm cho người
lao động, xoá đói giảm nghèo, định canh, định cư, công bằng xã hội, nâng cao
mức sống của người dân, nâng cao trình độ dân trí của người dân, v.v.
23


Hiệu quả xã hội trong sử dụng đất nông nghiệp phản ánh mối tương quan
giữa kết quả thu được về mặt xã hội mà việc sử dụng diện tích đất nông nghiệp đó mang lại
so với các chi phí bỏ ra. Khi đánh giá về hiệu quả xã hội của việc sử dụng đất nông nghiệp,
người ta thường quan tâm đến chỉ tiêu khả năng tạo việc làm trên một đơn vị diện

tích đất nông nghiệp.
Thứ ba, hiệu quả môi trường của việc sử dụng đất nông nghiệp.
Ngày nay, giải quyết vấn nạn ô nhiễm môi trường là vấn đề mang tính
toàn cầu. Vì thế, việc đánh giá tác động môi trường là điều không thể bỏ qua
trong những hoạt động của con người tác động đến giới tự nhiên. Quá trình sử
dụng đất nông nghiệp là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên, nên
quá trình đó được coi là có hiệu quả, khi nó không gây tổn hại hay có những
tác động xấu đến môi trường đất, môi trường nước và môi trường không khí
cũng như không làm ảnh hưởng xấu đến môi sinh và đa dạng sinh học.
Hiệu quả môi trường của việc sử dụng đất nông nghiệp là mức độ ảnh
hưởng đến môi trường do quá trình sử dụng đất nông nghiệp sản sinh ra dưới các
tác động vật lý, hóa học, sinh học, v.v. Tiêu chí này thường được xem xét ở chỉ
tiêu: mức độ ô nhiễm môi trường (nước, không khí, đất) do quá trình sử dụng đất
nông nghiệp và ở mức độ giảm (tăng) độ phì nhiêu của đất nông nghiệp. Cụ thể
hơn, người ta thường xem xét tiêu chí này ở việc đảm bảo cho chất lượng đất

không bị thoái hóa, bạc màu và nhiễm các chất hóa học trong canh tác; ở mức
độ sử dụng phân bón vô cơ và các loại thuốc BVTV.
Tóm lại, đánh giá HQSD đất nông nghiệp phải quan tâm tới cả ba tiêu chí
trên; trong đó, hiệu quả kinh tế là trọng tâm, vì không có hiệu quả kinh tế thì không
có điều kiện nguồn lực để thực thi hiệu quả xã hội và môi trường. Ngược lại, không
có hiệu quả xã hội và môi trường thì hiệu quả kinh tế sẽ không bền vững.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến HQSD đất nông nghiệp là hết
sức cần thiết, làm cơ sở để đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao HQSD
đất. Có thể kể đến những nhân tố cơ bản sau:
24


Thứ nhất, là điều kiện tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên bao gồm nhiều yếu tố, như: vị trí, địa hình, thổ
nhưỡng... của đất canh tác. Đây là điều đã được C. Mác nói đến trong lý luận
địa tô TBCN của mình. Do đất nông nghiệp có đặc điểm là không thể di chuyển
được và có hạn, nên vị trí, địa hình, thổ nhưỡng của mảnh đất cụ thể ảnh hưởng
lớn đến hiệu quả kinh tế của việc sử dụng đất. Khi bàn về địa tô chênh lệch I, C.
Mác đã chỉ ra rằng: địa tô chênh lệch I là địa tô thu được trên cơ sở ruộng đất
màu mỡ và trên ruộng đất có vị trí thuận lợi, như gần nơi tiêu thụ hay nơi có
đường giao thông thuận tiện. Nếu gần nơi tiêu thụ, như: thành phố, khu công
nghiệp hay đường giao thông vận tải thuận tiện, người sản xuất nông nghiệp sẽ
tiết kiệm được một phần chi phí lưu thông khi bán nông phẩm cùng một giá.
Nhờ đó, những người phải chi phí vận tải ít hơn đương nhiên được hưởng một
khoản lợi nhuận siêu ngạch so với những người phải chi phí vận tải nhiều hơn,
do đó đây là một điều kiện hình thành địa tô chênh lệch. Như vậy, vị trí, địa
hình, chất lượng của đất ảnh hưởng không nhỏ đến HQSD đất nông nghiệp.
Điều kiện khí hậu cũng là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp
đến HQSD đất nông nghiệp; bởi trước hết, nó là yếu tố quy định đặc điểm thổ

nhưỡng, chất lượng của đất nông nghiệp, hình thành nên điều kiện cho người
sản xuất nông nghiệp trên những mảnh đất đó đạt được lợi nhuận siêu ngạch.
Thêm nữa, nó chi phối đến quá trình tổ chức sản xuất nông nghiệp sao cho có
hiệu quả. Nắm vững yếu tố khí hậu thời tiết để bố trí cây trồng, vật nuôi hợp
lý, phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, sẽ tránh được những thiệt hại
do khí hậu gây ra; đồng thời, giảm được tính thời vụ trong sản xuất nông
nghiệp, từ đó có thể nâng cao hệ số (vòng quay) sử dụng đất nông nghiệp.
Thứ hai, là phương thức canh tác, bao gồm các biện pháp kỹ thuật canh
tác. Đó là những tác động của con người vào đất đai, cây trồng, vật nuôi nhằm
tạo nên sự hài hòa giữa các yếu tố của quá trình sản xuất để đạt hiệu quả kinh
tế cao. Điều này thể hiện sự hiểu biết sâu sắc của con người về đối tượng sản
25


×