Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Một số kỹ năng tập để trở thành tập huấn viên giỏi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.55 MB, 26 trang )

Chương 3
Một số kỹ năng tập để trở thành tập
huấn viên giỏi

49


Trong chương 2 chúng tôi đã đề cập đến sự khác nhau giữa tập huấn truyền thống
thụ động và tập huấn có sự tham gia tích cực và nên thay đổi hướng tiếp cận trong
công tác tập huấn/khuyến nông như thế nào để có thể thay đổi vai trò và nhiệm vụ
của người tập huấn viên. Chương này sẽ miêu tả cụ thể những yêu cầu, thái độ và
kỹ năng cần có để trở thành một tập huấn viên/người hướng dẫn giỏi. Cần nhấn
mạnh rằng tất cả các tập huấn viên đều có thể cải thiện kỹ năng của mình bằng
cách tích cực sử dụng chúng trong quá trình tập huấn với thái độ cầu thị. Tuy vậy,
chúng tôi cũng nhận thấy rằng để trở thành một tập huấn viên xuất sắt thì cần phải
có những khả năng thiên bẩm. Cũng giống như việc thay đổi để chuyển sang sử
dụng phương pháp tập huấn có sự tham gia ở một số người là rất hữu hiệu, tạo cho
họ nhiều niềm vui trong công việc, nhưng đối với một số người khác lại không bao
giờ cảm thấy thoải mái với phương pháp này. Muốn biết mình thuộc nhóm nào thì
trước hết chúng ta nên sử dụng thử cả hai phương pháp. Phần đầu của chương này
sẽ phân tích về vai trò của tập huấn viên và tiếp theo là các kỹ năng để họ có thể trở
thành những tập huấn viên giỏi.

3.1

Vai trò của tập huấn viên

AITCV (2003) đã mô tả một cách tổng quan vai trò của tập huấn viên trong phương
pháp tập huấn có sự tham gia như sau:

Người lập kế hoạch


Tập huấn viên là người đề xuất và
phát triển kế hoạch tập huấn cụ thể
như lựa chọn học viên, địa điểm, nội
dung, phương pháp, thời gian tập
huấn, các tình huống, mô hình, hiện
trường và giáo cụ trực quan sử dụng
trong quá trình tập huấn. Ngoài ra họ
phải xác định và bảo vệ các chuẩn
mực, qui tắc, nội qui, tiêu chí đánh giá để đạt được mục tiêu tập huấn.

50


Nhà xây dựng
Tập huấn viên xây dựng môi trường thoải mái và ý thức học tập tốt cho người học,
duy trì và nâng cao hiệu quả làm việc nhóm bằng cách tham gia với vai trò của một
thành viên trong nhóm, gây dựng và tạo ảnh hưởng khi tham gia hoạt động nhóm.

Nhà giáo dục và giáo viên
Tập huấn viên là người xác định, giải
thích, khái quát hoặc liên hệ với các
khái niệm, ý kiến, nguyên tắc, mô hình
lý thuyết để tăng cường hiểu biết kiến
thức cho học viên. Ngoài ra, tập huấn
viên còn bổ sung những thông tin kiến
thức có tính hệ thống, lô-gíc và kỹ
năng mang tính thực tế cao mà học
viên cần.

Người cung cấp nguồn tư liệu

Tập huấn viên là chỗ dựa về phương pháp giải quyết các vấn đề nằm trong lĩnh vực
chuyên môn và giới thiệu các nguồn cung cấp thông tin, tư liệu sẵn có vì tập huấn
viên/cán bộ khuyến nông có thể dễ dàng tiếp cận thông tin hơn học viên/nông dân.

Người hướng dẫn
Tập huấn viên giúp học viên phát hiện và
sử dụng những kinh nghiệm vốn có của họ
để làm nền tảng cho quá trình học tập, giúp
học viên dùng kiến thức, kinh nghiệm, tiềm
năng của họ để đi đến quyết định và cuối
cùng là đạt được mục tiêu và kết quả học
tập cao.

51


Người tư vấn
Tập huấn viên tư vấn và giúp học viên thoát khỏi áp lực, xung đột nhóm hoặc ảnh
hưởng của chính họ. Họ khuyến khích học viên giúp đỡ lẫn nhau, tôn trọng mục tiêu
và cá tính của nhau. Họ duy trì và khuyến khích một môi trường an toàn nhất cho
học viên để họ có cơ hội tự bộc lộ mình.

Người ủng hộ
Tập huấn viên khuyến khích học viên bắt đầu công việc và ủng hộ học viên trong
quá trình xác định vấn đề, lựa chọn giải pháp, sáng tạo và chấp nhận thay đổi hành
vi; Ủng hộ họ khi có những sáng kiến mới hay hướng giải quyết cho các vấn đề và
sự lựa chọn của họ liên quan đến phương pháp hay kiến thức áp dụng.

Người đánh giá
Đối với nhóm/lớp, tập huấn viên giúp phân tích

và đánh giá không khí, thái độ và kết quả học tập
hay hoạt động nhóm để giúp nhóm hoàn thành
mục tiêu và nhiệm vụ của họ. Đối với từng cá
nhân, tập huấn viên phân tích, đánh giá kết quả
học tập và thực hành để phản hồi kịp thời cho
học viên.

Người bạn đồng hành
Tập huấn viên luôn là người lắng nghe và tôn trọng những quyết định, suy nghĩ,
hành động và tâm tư tình cảm của học viên. Luôn
chia sẻ với học viên các vấn đề nảy sinh trong quá
trình tập huấn.

Hình mẫu lý tưởng
Về phương diện hành vi, tập huấn viên là người
nên có những hành động và cư xử một cách mẫu
mực hoặc phù hợp để làm gương cho các học

52


viên. Về mặt chuyên môn, tập huấn viên nên lựa chọn sử dụng tối ưu và nhuần
nhuyễn các kỹ năng và phương pháp để giúp học viên hình thành một hình mẫu.
Do vậy tập huấn viên nên có phẩm chất của một nhà tư vấn, người hướng dẫn, hỗ
trợ, và là người bạn đồng hành của học viên. Để được như vậy, tập huấn viên nên
lưu tâm đến phương châm sau: ” Chúng ta học không phải do người khác chỉ bảo
mà qua bài học kinh nghiệm rút ra từ những hành động của chúng ta và qua thực
hành”. Học là một ”quá trình trải nghiệm”!

3.2


Phát triển kỹ năng

Kỹ năng có thể hiểu là khả năng, năng khiếu, sự khéo léo, sự thành thạo và điêu
luyện của con người trong một công việc cụ thể nào đó được hình thành thông qua
quá trình thực hành luyện tập. Ví dụ, đối với người thợ, kỹ năng có thể hiểu một
cách đơn giản là khả năng thể hiện trình độ tay nghề. Đối với tập huấn viên, kỹ năng
chính là tổ hợp nhiều yếu tố để kết hợp thành mức độ chuyên nghiệp của họ.
Hình thành và phát triển kỹ năng cần một quá trình luyện tập và tích luỹ kinh nghiệm
từ thực tế. Kỹ năng sẽ không phát triển đến
mức điêu luyện nếu không có quá trình trải
nghiệm và tích luỹ. Chính vì vậy, kỹ năng phụ
thuộc rất nhiều vào khả năng và sự cố gắng ở
mỗi cá nhân.
Trong đào tạo tập huấn, kỹ năng cùng với khả
năng trời phú tạo nên "cái duyên" và quyết
định mức độ chuyên nghiệp của người tập
huấn viên. Trong tập huấn có sự tham gia, tập
huấn viên phải thể hiện tính cách của mình
nhiều hơn trong phương pháp truyền thống.
Sự luyện tập thường xuyên sẽ giúp tập huấn
viên có được "cái duyên" vì họ sẽ có nhiều
kinh nghiệm và tự tin hơn khi sử dụng phương pháp tập huấn có sự tham gia.

53


Các kỹ năng cơ bản gồm có những kỹ năng mang tính ứng dụng và những kỹ năng
mang tính cá nhân. Các kỹ năng có tính ứng dụng như kỹ năng sử dụng văn phòng
phẩm và giáo cụ trực quan. Các kỹ năng có tính cá nhân thường liên quan đến sự

thể hiện tính cách như kỹ năng sử dụng ngôn ngữ hình thể, kỹ năng sử dụng ngôn
ngữ lời nói, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng quan sát, kỹ năng đặt câu hỏi. Cả hai loại kỹ
năng đều sẽ được lần lượt đề cập ở các phần tiếp theo.

3.3

Kỹ năng ứng dụng

Một số văn phòng phẩm cơ bản như bảng, bút, giấy, băng dính thường xuyên được
sử dụng trong đào tạo nói chung và tập huấn sử dụng phương pháp tiếp cận có sự
tham gia nói riêng. Nhìn chung, sử dụng phương pháp tập huấn có sự tham gia yêu
cầu sử dụng nhiều loại văn phòng phẩm hơn so với phương pháp truyền thống vì nó
khuyến khích một môi trường học chủ động và sự tham gia tích cực của học viên.
Dưới đây là một số điều cần lưu ý trong quá trình sử dụng các loại văn phòng phẩm.
Hầu hết tập huấn viên đã từng sử dụng những loại văn phòng này, do vậy chúng tôi
sẽ chủ yếu đưa ra những lưu ý để khi sử dụng không mắc lỗi.

Bút dạ và các loại văn phòng phẩm
Bút dạ dùng viết bảng Foóc-mi-ca thường có 1 đầu viết và có thể xoá đi dễ dàng.
Bút dạ dùng viết giấy thường có 2 đầu viết và khó có thể xoá. Do vậy, nhớ rằng
không nên sử dụng bút này để viết lên bảng Foóc-mi-ca. Nếu bạn sử dụng chúng
viết bảng trong trường hợp đặc biệt hoặc quên thì bạn cần dùng cồn, hoặc xăng,
thậm chí dầu gió tẩm ướt vào giẻ để xoá. Có thể dùng bút viết bảng viết kỹ vào các
nét muốn xoá, sau đó dùng giẻ khô lau sạch. Mực sử dụng thường được pha với
cồn hoặc một số chất dung môi dễ bay hơi do vậy luôn nhớ đóng nắp bút ngay sau
khi viết. Bút thường có các loại màu mực khác nhau để sử dụng cho các mục đích
khác nhau. Ví dụ, nên sử dụng các màu đậm như màu xanh và đen để viết chính.
Màu đỏ có thể dùng để nhấn mạnh ý, ghi chép nội dung bổ sung và sửa các nội
dung sai và màu xanh lá cây cho những ý kiến bổ sung. Khi mua bút có thể mua


54


thêm vài lọ mực dùng cho bút viết giấy. Khi bút hết mực, có thể tháo đầu to của bút,
rút ống bông đựng mực và cho mực vào ống bông ấy rồi nắp lại.
Giấy các khổ khác nhau như Ao, A1, A2, A4… thường dùng để viết, vẽ minh hoạ kết
quả làm việc, thảo luận nhóm, làm bảng lật… . Các giấy màu, bìa màu có thể sử
dụng để viết câu hỏi, cắt hình minh hoạ, làm các tấm thẻ, giáo cụ trực quan.
Ngoài bút dạ và giấy viết, một số loại văn phòng phẩm thông dụng khác thường hay
được sử dụng như dao, kéo, hồ dán, phấn, băng dính (gồm các loại băng dính giấy,
ni-lông, hai mặt), dập ghim, đục lỗ, file tài liệu mà bạn nên chuẩn bị để sử dụng trong
các buổi tập huấn.

Bảng và sử dụng bảng
Nếu viết bằng phấn thì thường sử dụng bảng gỗ (bảng đen) và viết bằng bút thì
thường sử dụng bảng trắng bằng Foóc-mi-ca. Trong những điều kiện khó khăn, nếu
bạn không có hai loại bảng trên thì có thể làm bảng bằng cách sử dụng những vật
liệu sẵn có:


Lấy một tấm kính hoặc gương và dán giấy trắng sau tấm kính, dùng bút viết
bảng để viết lên bề mặt của tấm kính.



Có thể làm bảng di động bằng cách dán 1
tấm ni-lông trong màu trắng lên tờ giấy
trắng to (Ao) và có thể dùng bút viết bảng
để viết vào tấm ni-lông đó.




Cũng có thể dùng tấm vải nhựa trắng nếu
viết bằng bút dạ và màu đen nếu viết bằng
phấn để làm bảng trong điều kiện thường
xuyên phải di chuyển.

Khi viết nên đứng phía bên phải (nếu bạn là người
thuận tay phải) của bảng nhìn từ phía học viên và
di chuyển từ trái qua phải để tránh quay lưng
xuống học viên và che lấp bảng. Nên vừa viết vừa nói những điều đang viết để tránh
thời gian im lặng.

55


Khi trình bày nên chia bảng ra làm hai phần theo chiều dọc. Phần nhỏ phía bên phải
bảng dùng để viết các nội dung chính của bài. Phần lớn hơn phía bên trái bảng dùng
để viết ví dụ hay vẽ minh hoạ cho nội dung chính.
Nội dung viết lên bảng nên rõ ràng, ngắn gọn và sử dụng nhiều hình vẽ để minh
hoạ. Nên dùng kiểu chữ in hoa (ví dụ: VIẾT BẢNG) hoặc là chữ viết thường không
chân (ví dụ: viết bảng) để dễ nhìn. Kích thước chữ phải đảm bảo để học viên ở vị trí
xa nhất vẫn có thể đọc được, thông thường nên từ 3-5 cm. Để thử thì tốt nhất bạn
hãy viết một câu, đi về phía cuối lớp để thử xem mình có đọc được không. Nếu
không thì bạn phải viết to hơn.
Khi bạn chuyển sang một nội dung mới hoặc hết chỗ để trình bày thì bạn sẽ phải
xoá những phần đã xong. Lưu ý là cần chuẩn bị các dụng cụ cần thiết để xoá bảng.
Giữ lại các ý chính của vấn đề đến khi kết thúc phần trình bày của vấn đề đó. Nhắc
lại những ý chính của phần vừa trình bày và đảm bảo rằng tất cả các học viên đã ghi
chép được những nội dung cần thiết trước khi

xoá bảng.

Bảng lật (giấy tôky)
Bảng lật (thông thường cỡ giấy Ao, A1 hoặc A3)
có thể sử dụng thay bảng. Các loại giấy, bìa, vải
nhựa cùng khổ được gim/kẹp/đóng lại với nhau
thành tập và viết lên đó. Thông thường tập huấn
viên hay dùng giấy Ao để làm bảng lật vì dễ gấp,
cất, di chuyển, và sử dụng lại được. Điều bất lợi
khi sử dụng bảng lật là những nội dung bạn đã
viết lên không thể xoá được và kích cỡ của bảng
lật thường nhỏ hơn kích thước chuẩn của bảng.
Lợi thế của bảng lật là bạn có thể sử dụng lại và tiết kiệm thời gian viết bằng tay lên
bảng. Chữ viết trên bảng lật nên viết to, rõ ràng, ngắn gọn, và chỉ liệt kê các ý chính
chứ không đưa quá nhiều thông tin. Nội dung trong tập bảng lật cần phải chuẩn bị
trước các phần theo thứ tự lô-gíc. Có thể kết hợp với sơ đồ, biểu đồ, hình ảnh minh
họa... cho sinh động và dễ nhớ, dễ hiểu.

56


Bảng lật chỉ nên sử dụng khi tổng kết và chốt lại nội dung đã trao đổi với mục đích
hệ thống lại cho người học dễ nhớ. Trên bảng lật không nên viết quá 10 - 12 dòng/1
tờ và không nên viết quá 10 từ/dòng. Kích thước chữ cũng phải đủ lớn để đảm bảo
học viên ngồi xa nhất cũng có thể đọc được. Tránh lệ thuộc quá nhiều vào bảng lật
vì như vậy sẽ tạo thành môi trường học thụ động và thói quen ỷ lại cho tập huấn
viên.

Giáo cụ trực quan
Giáo cụ trực quan sử dụng trong đào tạo tập huấn để minh hoạ hoặc nhấn mạnh

những nội dung cần thiết và khuyến khích người học sử dụng nhiều giác quan hơn
là chỉ nghe. Giáo cụ trực quan đặc biệt phù hợp với những người học bằng thị giác cần nhìn thấy trước khi họ nhớ. Có nhiều loại giáo cụ trực quan khác nhau như
tranh ảnh, mẫu vật, mẫu
thức ăn, hiện vật sống, phim
ảnh, băng hình. Giáo cụ trực
quan phải phù hợp với đối
tượng học viên, nội dung
trao đổi và điều kiện tập
huấn. Đối với đối tượng học
viên nông dân, những người
không quen với không khí
lớp học thì giáo cụ trực quan
nên đơn giản và dễ hiểu.
Giáo cụ trực quan còn được dùng để sử dụng cho những phần thực hành của người
học, tăng khả năng hiểu, tiếp thu, ghi nhớ của học viên và tạo không khí sôi nổi,
tránh nhàm chán. Khi sử dụng giáo cụ trực quan nên kiểm tra trước và sắp xếp theo
thứ tự sử dụng. Tránh sử dụng quá nhiều loại giáo cụ trực quan khác nhau trong
một buổi lên lớp và lệ thuộc hoàn toàn vào giáo cụ trực quan.

57


3.4

Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ hình thể

Lý do mà chúng tôi đề cập đến ngôn ngữ hình thể trong phần đầu tiên của những kỹ
năng mang tính cá nhân là thể loại “ngôn ngữ không lời” mà bạn sẽ thể hiện với học
viên trước cả khi bạn bắt đầu nói. Ngôn ngữ hình thể là một phương tiện giao tiếp
thể hiện bằng cử chỉ, điệu bộ, hành động, nét mặt thay vì sử dụng lời nói. Ngôn ngữ

hình thể thường được thể hiện qua phong cách, nét mặt, trang phục, ánh mắt, cử
động tay, chân và cơ thể.
Ngôn ngữ hình thể là một trong các phương tiện giao tiếp hỗ trợ đắc lực cho ngôn
ngữ lời nói trong tập huấn và khuyến khích giao tiếp hai chiều có sự tham gia của
học viên. Ngôn ngữ này có thể quyết định quá nửa sự thành công và hiệu quả của
giao tiếp. Cũng có thể nói sử dụng có hiệu quả ngôn ngữ hình thể chính là một nghệ
thuật thu hút con người. Vì vậy, điều quan trọng là bạn hãy chú ý đến việc bạn nên
sử dụng ngôn ngữ này như thế nào trong quá trình tập huấn. Những nội dung tiếp
theo có thể là những vấn đề mà bạn cần lưu tâm.
Bạn có nên thể hiện phong

Phong cách

cách như thế này không?

Nếu tập huấn viên có vai trò tạo dựng hình mẫu
lý tưởng thì bạn cần phải có phong cách phù hợp
với những chuẩn mực trong xã hội. Tập huấn
viên nên có phong cách thoải mái, tự tin, thân
thiện, cởi mở và gần gũi. Để có thể thực hiện tốt
vai trò của một người hướng dẫn, tập huấn viên
phải năng động, linh hoạt và lịch sự. Tính hài
hước để gây ấn tượng và cuốn hút học viên là
một trong những lợi thế của nhiều tập huấn viên.
Tập huấn viên nên tránh thể hiện sự thiếu tự tin, cứng nhắc, xa cách, lạnh lùng,
buồn tẻ và quá nghiêm trang. Điều tối kỵ là thể hiện sự thiếu lịch sự hay khiếm nhã,
bất cần và trịnh thượng.

58



Bạn có nên mặc như

Trang phục

thế này không?

Tập huấn viên nên mặc những
trang phục chỉnh tề, màu sắc hài
hòa, giản dị, phù hợp với đối
tượng và phong tục tập quán của
địa phương và để tạo cảm giác
thoải mái và tự tin khi giao tiếp với
học viên.
Mặc những trang phục thiếu kín
đáo, không phù hợp sẽ làm phân
tán sự chú ý của học viên, tạo cảm giác thiếu tự tin cho chính bản thân tập huấn
viên và thiếu tôn trọng học viên.

Nét mặt
Người tập huấn viên nên có nét

Bạn có nên có nét
mặt này không?

mặt thay đổi thích hợp đối với
từng lời nói, cử chỉ và từng đối
tượng tập huấn khác nhau. Tươi
cười trong những tình huống khó
xử hoặc kết thúc một câu trả lời/

giải thích/ phần đã trao đổi bằng
một nụ cười tươi là nguyên tắc
quan trọng cần ghi nhớ.
Tập huấn viên nên tránh các biểu hiện nét mặt như cau có, đăm chiêu, lạnh nhạt
gây khó chịu. Nét mặt “không ai biết hơn mình” gây ra cảm giác khó gần cho học
viên. Nét mặt “không đàng hoàng” sẽ tạo cho học viên cảm giác thiếu tôn trọng.

59


Giao tiếp bằng mắt
Tập huấn viên khi giao tiếp bằng mắt với học viên nên nhìn vào vùng miệng hơn là
vùng trán của người đó để tỏ ra thân mật hơn. Chỉ nên nhìn vào mỗi người trong 2-4
giây và chọn lúc thích hợp để rời mắt khỏi đối tượng. Khi đứng trước một nhóm nhỏ
nên để mắt lần lượt đến từng người một. Khi đứng trước một nhóm lớn nên để mắt
lần lượt đến từng nhóm nhỏ trong thời gian ngắn 5-10 giây.
Tránh nhìn chằm chằm quá lâu vào một người vì như thế là bất lịch sự hoặc mang
tính chất khiêu khích. Nếu nhìn ngắn hoặc liếc quá nhanh thì sẽ tạo cho học viên
cảm giác là bạn bực mình hoặc mất tự tin. Một điều tối kị là tránh ánh mắt tức giận,
kể cả những tình huống khó xử.

Cử động tay
Cử động tay có thể sử dụng để minh hoạ cho lời nói. Hai loại thao tác cơ bản của
bàn tay là phác hoạ 1 hình ảnh tượng trưng để minh hoạ khi nói và tạo nhịp điệu
đồng thời với nhịp điệu của lời nói. Thả lỏng hai vai và hai cánh tay để tạo ra các cử
chỉ lịch thiệp và tự tin. Mở rộng hai bàn tay, các ngón tay khi bắt đầu nói để tỏ ra
mình tự tin và tôn trọng người nghe và khuyến khích tham gia của học viên. Để
ngửa lòng bàn tay và khép các ngón tay khi làm các động tác. Nên thay đổi kiểu
thao tác của hai bàn tay để tránh sự nhàm chán. Khi không phác hoạ các động tác
minh họa cho lời nói thì nên thả lỏng hai tay và để ở tư thế ngang bụng.

Nên tránh các cử chỉ tay như: chỉ 1
ngón tay như ra lệnh hay chỉ trích người
nghe; chắp hai tay như thể cầu xin
người nghe mình; khép chặt hai tay vào
thân tạo cảm giác thiếu tự tin; vung vẩy
hai cánh tay hoặc "không biết để tay vào
đâu"; vuốt tóc, gãi đầu, vuốt mặt, lau
kính, sửa lại quần áo và lặp đi lặp lại
nhiều lần một kiểu thao tác tay.

60


Cách cầm tài liệu
Tập huấn viên nên có một bản tài

Bạn có nên cầm
tài liệu như thế
này không?

liệu tóm tắt ngắn gọn trong tay để
tăng thêm sự tự tin và tỏ ra tôn trọng
người nghe, nhất là để tránh những
phút lúng túng đột xuất xảy ra. Tài
liệu nên ghi lên mẩu giấy nhỏ (1/4
giấy A4), tóm tắt các ý chính lên 2
mặt và cầm gọn được trong lòng
bàn tay. Chỉ cần cầm bằng một tay,
dành một tay để làm động tác cần thiết để tỏ ra tự chủ hơn. Thỉnh thoảng nhìn vào
từng phần của tài liệu trước khi nói, dù bạn tự thấy không cần thiết, để tỏ ra tôn

trọng người nghe và để không bỏ sót một nội dung nào.
Tránh cầm cả một tờ giấy, một tập giấy hay phiếu ghi có thể gây ra tiếng sột soạt
khó chịu và cầm tài liệu bằng cả hai tay. Không nên cầm tài liệu chi tiết và đọc tất cả
các nội dung có trong tài liệu. Tránh chuyển tài liệu từ tay này sang tay kia trong khi
nói, khiến người nghe mất tập trung chú ý và cuộn tài liệu thành cái ống rồi vung vẩy
nó khi nói, khiến người nghe nhìn thấy mà bực mình. Tránh cầm tài liệu nhưng lại
không nhìn hoặc không sử dụng tài liệu.
Thiếu lịch sự khi bạn

Tư thế đứng

đứng như thế này!!!

Tập huấn viên khi viết nên đứng ở
phía bên trái bảng. Khi nói thì nên
đứng ở giữa bảng và hướng về phía
học viên. Đứng thoải mái trên hai
chân, thả lỏng người và chủ yếu do
vùng khớp hông chi phối. Nhớ 4
điểm tựa giữ thăng bằng là ở 2 gót
chân và hai đầu gan bàn chân. Với
nam, hai gót cách nhau khoảng 3040 cm - rộng bằng vai, với nữ thì

61


bằng khoảng 1/2 của nam.
Tránh đứng ở vị trí thiếu trung tâm vì như vậy sẽ không quan sát bao quát lớp.
Tránh đứng ở vị ví có thể che khuất bảng hoặc tầm nhìn của học viên. Tránh đứng
quay lưng về phía học viên và đứng chân trước chân sau, dựa vào bàn hoặc tường.

Để tránh bị mỏi, không nên để cột sống, ngực hay vai chi phối chủ yếu tư thế đứng
của mình.

Di chuyển
Đi lại nhiều quá,
chóng mặt đây mà!!!

Tập huấn viên chỉ di chuyển khi có
mục đích cụ thể. Ví dụ: nếu thấy
có ai lơ đãng, hãy tiến đến gần
người/nhóm đó để khiến họ tập
trung chú ý trở lại. Lúc đầu có thể
đứng cách xa, rồi tiến dần đến với
từng người để lắng nghe và trả lời,
để tỏ ra quan tâm đến họ. Sau đó
nên đi giật lùi về phía bảng. Dừng
lại mỗi chỗ vài giây rồi chuyển
sang chỗ khác để tạo không khí
sinh động.
Không nên di chuyển quá nhiều
trong khi trao đổi và tránh đi hết
chỗ này đến chỗ khác làm phân
tán chú ý của người nghe. Không
nên vừa đi lại vừa nói, quay lưng
lại với người nghe mà tiếp tục nói,
chỉ di chuyển đến một vị trí cố định

gây ra cảm giác thiên vị ở học viên. Cần lưu ý là nếu không di chuyển, chỉ đứng một
chỗ cũng tạo cảm giác cứng nhắc và thiếu linh hoạt.


62


3.5

Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ lời nói
Kỹ năng sử dụng ngôn
ngữ lời nói là khả năng
dùng

từ

ngữ,

âm

lượng, ngữ điệu trong
những ngữ cảnh cụ thể
để đạt được mục đích
và tạo hiệu quả khi giao
tiếp. Ngôn ngữ lời nói
được xem như là một
trong những phương
tiện giao tiếp có hiệu
quả nhất trong tập huấn. Ngôn ngữ lời nói được tập huấn viên sử dụng để chuyển
tải những thông tin cho học viên nghe hoặc nghe và ghi chép lại. Một tập huấn viên
có kỹ năng sử dụng ngôn ngữ lời nói tốt khi chuyển tải nội dung có hiệu quả và cuốn
hút người nghe. Để đạt được yêu cầu này, tập huấn viên nên lưu ý những vấn đề
sau:



Sử dụng ngôn từ quen thuộc, dễ hiểu.



Dùng câu văn ngắn gọn, đủ ý và rõ nghĩa.



Tốc độ nói vừa phải, không quá nhanh để người nghe kịp theo dõi, không
quá chậm để tạo ra cảm giác ê a.



Âm lượng nói không quá to hoặc quá nhỏ để đủ mọi người đều nghe rõ. Nếu
khi cần thì có thể sử dụng loa để đảm bảo âm lượng. Khi dùng loa không nên
để âm lượng quá to tránh làm cho người nghe mệt mỏi.



Nhịp điệu nói không nên đều đều dẫn đến cảm giác buồn ngủ. Nên ngắt,
ngừng, nghỉ, giọng điệu cần thay đổi lên xuống. Nhấn mạnh những điểm
chính và phù hợp với nội dung để tạo điểm nhấn và cuốn hút người nghe.



Kết hợp nhuần nhuyễn và có nghệ thuật giữa ngôn ngữ hình thể và lời nói là
thực sự cần thiết để tạo sinh động và hiệu quả sử dụng ngôn ngữ lời nói.
Nên nhớ người nghe không chỉ nghe bằng tai mà họ còn có thể nghe “bằng
mắt” và cảm nhận thông điệp từ bạn bằng cả các giác quan khác.


63


3.6

Kỹ năng lắng nghe
Một nhiệm vụ có thể nói là quan trọng
hàng đầu của tập huấn viên khi sử
dụng phương pháp tập huấn có sự
tham gia là khả năng lắng nghe học
viên. Sự sẵn lòng và khả năng lắng
nghe của tập huấn viên sẽ quyết định
phần lớn mức độ tương tác trong các
buổi tập huấn. Lắng nghe là sẵn sàng
đón nhận và hiểu một thông điệp từ
người khác trực tiếp qua giao tiếp hoặc
gián tiếp qua quan sát. Lắng nghe khác
với nghe vì nó cần sự tập trung và tác
động của trí tuệ. Lắng nghe là để người
khác dẫn mình vào thế giới của họ.

Hiệu quả lắng nghe sẽ bị tác động của nhiều yếu tố như người nói, người nghe, nội
dung, môi trường xung quanh. Kỹ năng của người nói tốt như diễn đạt rõ ràng, hấp
dẫn, dễ hiểu, lô-gic, tôn trọng, chuẩn bị kỹ thì thu hút được người nghe. Ngược lại
nếu người nói ấp úng, rụt rè, không thân thiện sẽ gây ức chế. Khi lắng nghe một
cách tin cậy, nhiệt tình, đặt câu hỏi để hỏi thêm thông tin, đáp ứng khi được hỏi,
xung phong trả lời câu hỏi thì tạo thêm sự nhiệt tình cho người nói. Nếu người nghe
không thiện chí, thiếu tôn trọng, gây mất trật tự, nói chuyện riêng, cắt ngang bài trình
bày thì gây ức chế người nói và ảnh hưởng đến không khí chung.

Trong khi lắng nghe cần tập trung lắng nghe và lưu thông tin trong trí nhớ hoặc bằng
cách ghi chép. Không nên đưa ra câu hỏi trong khi đang nghe người khác nói. Sau
khi lắng nghe bạn hãy phân tích thông tin và đưa ra những câu hỏi nếu cần thiết.

64


Tập huấn viên có kỹ năng lắng nghe tốt khi thu thập thông tin đầy đủ và sử dụng
chúng để đưa ra những câu trả lời hợp lý. Để đạt được kết quả này, tập huấn viên
cần chú ý đến:


Thái độ khi lắng nghe (được thể hiện bằng ngôn ngữ hình thể):


Bày tỏ thái độ tập trung,
quan tâm và thích thú lắng
nghe bằng cách: nhìn và
hướng về học viên, im lặng
hoặc ghi chép ý chính, gật
đầu đồng ý, tán thưởng
hoặc tỏ ra ngạc nhiên, vui
sướng.



Kiên nhẫn cho học viên
thời gian để nói những
điều họ muốn nói hay
thông điệp mà người nói

muốn chuyển tải, thậm chí
cả những điều mình không
đồng ý.



Tôn trọng và khách quan lắng nghe những gì học viên đang nói chứ
không phải những gì mình cần vì việc đánh giá, đặt câu hỏi hay phản hồi
sẽ tiến hành sau.




Tránh ngắt lời thường xuyên khi học viên nói.

Phản hồi cho học viên:


Sau khi học viên ngừng nói, nên tóm lại những điểm chính mà học viên
vừa trình bày.



Đặt câu hỏi làm rõ vấn đề khi học viên kết thúc để chứng tỏ mình nắm
vững thông điệp.



Nhận xét và đưa ra phản hồi thích hợp cho họ hoặc khuyến khích các
học viên khác tham gia vào thảo luận.




Để hoàn thiện quá trình lắng nghe thì cần thiết phải phân tích, xử lý thông
tin để đưa ra kết luận hợp lý.

65


3.7

Kỹ năng quan sát
Để có thể chủ động trong
mọi tình thế, tập huấn
viên cần phải biết được
những gì đang diễn ra
trong lớp học. Chính vì
vậy, tập huấn viên cần
phải rèn luyện kỹ năng
quan sát. Quan sát là
một quá trình tích cực đòi
hỏi người tập huấn viên

sử dụng tất cả các giác quan để đánh giá không khí của lớp học. Mục đích của quá
trình quan sát trong tập huấn đảm bảo cho môi trường học đạt trạng thái tốt nhất.
Để làm được điều này thì tập huấn viên cần phải hiểu tình trạng của lớp học bằng
cách thu thập thông tin qua quan sát, lắng nghe và cảm nhận. Do vậy, tập huấn viên
nên quan sát:



Từng học viên để đánh giá kiến thức, thái độ, kỹ năng và thu thập thông tin
phản hồi từ họ.



Sự tương tác giữa các học viên để đánh giá kỹ năng và quan hệ xã hội.



Các tập huấn viên khác hoặc trợ giảng để phối hợp nhịp nhàng với nhau
trong quá trình tập huấn.



Môi trường xung quanh và môi trường xã hội để đánh giá tác động của nó
đến hiệu quả tập huấn.



Các nhóm để xây dựng mối quan hệ giữa các học viên và giúp họ xóa bỏ đi
ngăn cách được tạo ra từ sự khác nhau về trình độ, địa vị, tuổi tác, giới tính,
và ranh giới địa lý.

Tương tự như kỹ năng lắng nghe, tập huấn viên có kỹ năng quan sát tốt khi thu thập
thông tin đầy đủ và đưa ra kết luận chính xác. Để đạt được kết quả này, tập huấn
viên cần lưu ý:

66





Phạm vi quan sát: Cần quan sát từ phạm vi bao quát nhiều góc độ, khía cạnh
đến phạm vi hẹp từng cá nhân, từng nhóm nhỏ, từng sự kiện.



Thời gian tiến hành quan sát: Cần liên tục từ khi bắt đầu đến kết thúc quá
trình tập huấn và trong một số trường hợp đặc biệt khác.



Thái độ khi quan sát: Nên có thái độ khách quan, thoải mái, thân thiện, cởi
mở, vui vẻ khi quan sát. Bày tỏ ánh mắt trìu mến, động viên và khích lệ.
Không áp đặt hoặc chịu ảnh hưởng của định kiến, quan niệm, và kinh
nghiệm của cá nhân.



Tránh định kiến: Nên có cái nhìn khách quan và tránh để cho những tình cảm
cá nhân ảnh hưởng đến đánh giá con người và công việc.



Ghi chép thông tin quan sát: Cần kết hợp với lắng nghe, suy ngẫm, ghi chép
để nâng cao hiệu quả quan sát.

3.8

Kỹ năng đặt câu hỏi


Câu hỏi là một cách để thu thập thông tin từ những câu trả lời. Hỏi là hình thức giao
tiếp chủ yếu của con người. Câu hỏi cũng được sử dụng để tạo cơ hội cho giao tiếp
hai chiều. Trong tập huấn, câu hỏi thường được sử dụng để thu thập thông tin như:
kiến thức và nhu cầu của học viên. Câu hỏi còn được sử dụng để thăm dò hoặc làm
sáng tỏ một vấn đề và
giúp học viên ôn tập
nội

dung

bài

học.

Giống như các kỹ năng
khác, đặt câu hỏi là
việc mà chúng ta làm
hàng ngày nhưng ít khi
để ý đến. Và cũng như
các kỹ năng khác, khi
bạn luyện tập một cách
nghiêm túc về sử dụng
những loại câu hỏi nào
trong hoàn cảnh nào

67


thì chúng ta có thể phát triển được kỹ năng này.

Các loại câu hỏi
Các loại câu hỏi thường hay được sử dụng trong tập huấn là câu hỏi đóng, câu hỏi
mở, câu hỏi dẫn dắt và câu hỏi hùng biện.
Câu hỏi đóng
Câu hỏi đóng là dạng câu hỏi có rất ít sự lựa chọn và khi trả lời thường "có" hoặc
"không". Câu hỏi đóng thường dùng để kiểm tra thông tin, khẳng định nội dung và
sử dụng khi không có nhiều thời gian để thảo luận. Ví dụ: Anh có nuôi gà mái đẻ
không?
Câu hỏi mở
Câu hỏi mở là dạng câu hỏi có rất nhiều sự lựa chọn và dùng để thu thập thông tin.
Nó thường bắt đầu với: ai, khi nào, ở đâu, làm như thế nào, tại sao hay như thế nào.
Câu hỏi mở sử dụng khi yêu cầu học viên đưa ra thông tin, giúp học viên mở rộng
suy nghĩ và để khơi gợi ý kiến. Do vậy được áp dụng trong phương pháp tập huấn
tích cực chủ động để tạo cơ hội cho người học tham gia. Ví dụ: Trong chăn nuôi cần
phải quan tâm đến những yếu tố nào để có hiệu quả kinh tế cao?
Câu hỏi khơi gợi hoặc dẫn dắt
Đây là câu hỏi đưa ra nhằm hướng câu trả lời vào một vấn đề cụ thể. Chúng được
sử dụng để khai thác thêm thông tin nếu câu trả lời chưa đầy đủ hoặc không rõ ràng
và khai thác thêm thông tin hoặc kiểm tra lại thông tin trước. Ví dụ: Bác đang nuôi
lợn đực giống. Bác có thể cho chúng tôi biết thêm về cách khai thác sử dụng được
không?
Câu hỏi hùng biện
Trên thực tế, câu hỏi hùng biện thường gần với sự suy ngẫm hơn là một câu hỏi.
Thường thì người hỏi tự đưa ra câu trả lời ngay sau đó. Nó thường được dùng để
khơi gợi học viên suy nghĩ về một vấn đề hoặc dùng để bắt đầu 1 bài trình bày. Vì
vậy, không dừng lâu sau câu hỏi hùng biện, tránh không để cho học viên trả lời. Ví
dụ: chúng ta cần làm gì để có thể hạch toán kinh tế trong chăn nuôi gà? Trước tiên
là phải ghi chép số liệu...

68



Các cách đặt câu hỏi
Trong tập huấn thường có hai cách đặt câu hỏi: hoặc trực tiếp cho cá nhân nào đó
và hoặc đưa câu hỏi cho tập thể. Nếu sử dụng quá nhiều cách đặt cho câu hỏi cá
nhân thì sẽ tạo ra không khí nặng nề và học viên sẽ có cảm giác là khi nào sẽ đến
lượt mình bị hỏi. Dần dần, nó sẽ trở thành không khí chất vấn hoặc kiểm tra hơn là
đối thoại. Nếu đặt câu hỏi cho tập thể quá nhiều thì sự quan tâm của học viên sẽ
giảm vì thông thường một vài học viên sẽ nói nhiều hơn và sẽ lấn át những người
khác. Do vậy, nên sử dụng hài hòa hai cách đặt câu hỏi trên. Ban đầu có thể đặt câu
hỏi cho tập thể và tiếp theo là những câu hỏi cho cá nhân để đảm bảo tất cả học
viên đều tham gia. Trong một số tình huống cụ thể, có thể chuyển từ cách này sang
cách kia và ngược lại.
Đặc điểm một câu hỏi hay
Một câu hỏi hay có các đặc điểm như:


Cấu trúc ngắn gọn, rõ ràng, chỉ nên diễn đạt
một ý/nội dung.



Ngôn ngữ thông dụng, dễ hiểu.



Nội dung phù hợp với chủ đề đối thoại và
trình độ của đối tượng được hỏi.




Tạo được sự quan tâm của người nghe.

Tập huấn viên có kỹ năng đặt câu hỏi tốt sẽ thu được câu trả lời hay, đúng, phù hợp
và đạt được các mục đích đề ra khi sử dụng câu hỏi. Để đạt được kết quả này, tập
huấn viên cần chú ý:


Chuẩn bị câu hỏi:


Câu hỏi nên được chuẩn bị trước và đáp ứng đầy đủ yêu cầu của một
câu hỏi hay.



Tránh đặt câu hỏi quá khó để đánh đố.



Cân nhắc thời gian và tình huống, ví dụ: câu hỏi mở khi động não, thảo
luận nhóm..., câu hỏi đóng để khẳng định nội dung và kết thúc vấn đề.



Khi đưa câu hỏi: Cần nói to, rõ ràng để đảm bảo tất cả mọi người đều nghe
được, nếu không phải nhắc lại. Dành đủ thời gian cho người được hỏi suy
nghĩ câu trả lời. Thái độ vui vẻ, cơi mở, tôn trọng, khuyến khích người trả lời.

69





Khi học viên trả lời: Mời học viên trả lời và cảm ơn khi họ trả lời xong. Đánh
giá câu trả lời, khen ngợi những câu/phần trả lời chính xác. Nhắc lại cả câu
trả lời hoặc phần trả lời đúng để tăng mức độ tiếp thu và sự tin tưởng của
học viên. Bổ sung hoặc trả lời lại nếu câu trả lời còn thiếu hoặc chưa chính
xác. Nếu cần có thể mời các học viên khác bổ sung cho câu trả lời .



Cần tránh trả lời câu hỏi thay cho học viên, cả nhóm trả lời đồng thanh và lặp
đi lặp lại một câu hỏi.

3.9

Kỹ năng trả lời câu hỏi
Quan trọng không kém kỹ năng câu hỏi là
khả năng của người tập huấn viên khi để
cho học viên đưa ra các câu hỏi. Như vậy,
tập huấn viên có thể rơi vào tình thế không
trả lời được câu hỏi học viên đưa ra. Bạn
xử lý tình thế này như thế nào? Không ai là
người biết tất cả. Học viên sẽ không thiếu
tôn trọng bạn nếu như bạn nói “xin lỗi, tôi
không biết rõ về vấn đề này lắm, cho phép
tôi xem xét thêm và trả lời vào buổi sau”.
Nhưng học viên sẽ không tôn trọng bạn nếu
bạn không tiếp tục đề cập đến vấn đề đó

hoặc trả lời sai.
Trả lời câu hỏi là đưa ra ý kiến và quan

điểm của mình cho một câu hỏi cụ thể nào đó. Trả lời câu hỏi là một trong các
phương tiện sử dụng thường xuyên trong giao tiếp hai chiều. Trong tập huấn có sự
tham gia của người học, trả lời câu hỏi của học viên đưa ra là một nhiệm vụ mà tập
huấn viên thường xuyên phải làm. Vì vậy, bạn cần biết làm thế nào để khuyến khích
học viên đưa ra các câu hỏi và trả lời các câu hỏi của họ.

70


Tập huấn viên có kỹ năng trả lời câu hỏi tốt khi đưa ra các câu trả lời đúng, dễ hiểu,
đáp ứng được thắc mắc của học viên và đạt được mục đích đề ra. Để làm được
điều này, tập huấn viên cần chú ý những điểm sau:


Luôn tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích học viên đặt câu hỏi.



Thái độ vui vẻ, cởi mở, tôn trọng và cầu thị khi học viên hỏi.



Luôn ghi nhận câu hỏi của học viên bằng cách cảm ơn và khi trả lời câu hỏi
nên đưa ra các câu nhận xét như: Câu hỏi của anh/chị rất thú vị; Đó là một
câu hỏi/điểm rất hay; Cảm ơn anh/chị đã đề cập đến vấn đề này.....




Không thách thức hoặc bắt đầu đếm các câu hỏi mà học viên đưa ra.



Khi học viên đưa câu hỏi: Nên mời từng người có ý kiến hoặc nêu câu hỏi,
chú ý lắng nghe để hiểu rõ câu hỏi, nếu chưa rõ hoặc hiểu chưa đúng thì hỏi
lại và đề nghị mọi người tiếp tục cho ý kiến hoặc nêu câu hỏi.

Trong tập huấn thường thì học viên sẽ đưa ra nhiều câu hỏi cùng một lúc. Do vậy,
trả lời câu hỏi nên theo trình tự sau:
1.

Ghi nhận các câu hỏi bằng cách ghi chép lại. Trong khi ghi chép nên làm rõ
câu hỏi nếu cần thiết.

2.

Phân loại câu hỏi để có quyết định trả lời: Nên phân loại câu hỏi và sắp xếp
thứ tự trả lời các câu hỏi theo lô-gích của vấn đề. Với một số loại câu hỏi đặc
biệt thì nên có các cách xử lý phù hợp.

3.

Trả lời: Khi trả lời nên bày tỏ thái độ thiện chí với người hỏi và trả lời thẳng
vào vấn đề, có trọng tâm, ngắn gọn, dễ hiểu, sử dụng các hình ảnh minh hoạ
nếu cần. Nên đưa ra ví dụ cụ thể và số liệu để tăng tính thuyết phục của câu
trả lời. Xác định xem người hỏi đã thỏa mãn với câu trả lời hay chưa và cảm
ơn. Đối với các loại câu hỏi cụ thể thì nên có các cách giải quyết hợp lý. Ví
dụ:



Câu hỏi hay, phù hợp chủ đề thì trả lời hoặc nêu câu hỏi cho học viên trả lời.



Câu hỏi khó và hay (về nội dung vì không đủ kiến thức, thông tin) thì có thể
đưa câu hỏi ra cho tập thể cùng thảo luận, hỏi trợ giúp của đồng nghiệp hoặc
nếu thực sự bạn không thể có ngay câu trả lời thì hẹn trả lời vào dịp sau.



Câu hỏi thách đố thì nên mời người đưa câu hỏi cho ý kiến chia sẻ trả lời.



Câu hỏi ngoài thẩm quyền trả lời hoặc chất vấn một cách tiêu cực thì không
nên trả lời và nêu rõ lý do tại sao không trả lời.

71




Câu hỏi dễ, lặp lại ý đã nêu nên trả lời tóm tắt.



Câu hỏi lạc đề thì không nên trả lời mà nêu lại trọng tâm, phạm vi đối thoại,
hoặc gợi ý cho người đối thoại đặt lại câu hỏi và tế nhị chỉ ra sự không phù

hợp của câu hỏi.

Khi trả lời cần tránh gây phản ứng tiêu cực từ người nghe. Trả lời ngay từng câu hỏi
một vì vậy sẽ tạo ra kiểu chất vấn và không huy động được sự tham gia của học
viên để họ cùng chia sẻ kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau. Thêm nữa tập huấn viên
sẽ không có nhiều thời gian để suy nghĩ và đưa ra câu trả lời hay nhất. Không nên
liều lĩnh trả lời các câu hỏi vượt qua khả năng và quyền hạn của mình.

3.10

Kỹ năng cho và nhận phản hồi tích cực
Phản hồi là xem xét và đánh giá lại để
kiểm soát trong một hệ thống. Trong
tập huấn, phản hồi có nghĩa là tập
huấn viên sẽ thu nhận được những
nhận xét từ học viên về mức độ phù
hợp của nội dung, trình độ và kỹ năng
của tập huấn viên, thái độ và chấp
hành nội qui của học viên...

Phản hồi tích cực có mục đích giúp học viên/tập huấn viên thay đổi thái độ và hành
vi theo chiều hướng tốt.
Để có kỹ năng cho phản hồi tích cực, tập huấn viên cần lưu ý:


Nội dung phản hồi phải cụ thể, rõ ràng, trung thực và chính xác.



Trọng tâm phản hồi nên chú trọng vào hành động mà không phải cá nhân

nhận phản hồi. Gợi ý cho người phản hồi để họ tự đánh giá.



Số lượng ý kiến nên 2-3 ý kiến và đề cập từng ý một và đưa ý phản hồi tích
cực trước, ý tiêu cực sau.

72




Thái độ khi cho phản hồi cần khách quan, thẳng thắn, cởi mở, chân tình,
đúng mực, đóng góp xây dựng. Chia sẻ ý kiến - không phải là phán xét hay
ra lệnh.



Ngôn ngữ sử dụng trong khi phản hồi nên đúng mực, hợp lý và không mang
tính chỉ trích hay mệnh lệnh cho người nhận phản hồi. Nên dùng những
từ/cụm từ như: nên, nên chăng, nếu như có thể, tốt hơn nếu như,
thiếu…Tránh dùng những từ mang tính chất phủ định hoặc mệnh lệnh như:
phải, nhất thiết phải, nhưng, nhưng mà, không …



Không gian và thời gian cho phản hồi nên hợp lý, kịp thời, đúng nơi, đúng lúc
và đúng đối tượng.

Để có kỹ năng nhận phản hồi tích cực, tập huấn viên cần lưu ý:



Khi nhận phản hồi nên có ứng xử mang tính tích cực. Cảm ơn trước hoặc
sau khi nhận phản hồi.



Thái độ khi nhận phản hồi nên đúng mực, không khó chịu, giận dỗi, lãnh đạm
hay tranh cãi.



Hỏi lại khi chưa hiểu rõ, hỏi thêm ý kiến phản hồi của những người khác nếu
cần.



Giúp học viên phản hồi những ý kiến rõ ràng, đúng trọng tâm.



Xử lý thông tin phản hồi, sau đó có những ghi nhận hoặc giải trình kịp thời.

Chê cũng chí tình.

Góp ý mà toàn

Thế này thì phải

thấy chê thôi thì


sửa sai thôi!

ai mà nghe nổi!!!

73


×