Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong phóng sự truyền hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.17 KB, 82 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Báo chí và văn học từ xưa đến nay vốn là hai hình thái ý thức xã hội
thuộc hai lĩnh vực khác nhau nhưng luôn tồn tại mối quan hệ tác động qua lại.
Thực tế cho thấy, các tác phẩm văn học từ cổ tích, thần thoại đến văn xuôi
hiện đại muốn thành công đều phải bám chắc thực tiễn và ngược lại các bài ký
sự, phóng sự muốn hấp dẫn thì rất cần đến sự phối hợp trong tư duy văn học.
Một đặc điểm chung dễ nhận thấy giữa báo chí và văn học đó chính là ngôn
ngữ. Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng luôn được coi trọng trong các tác phẩm
báo chí và văn học. Nó chính là gia vị hấp dẫn, gây ấn tượng và tạo ra tác
động lớn tới nhận thức và cảm xúc của người tiếp nhận. Chính bởi vậy, giữa
báo chí và văn học có sự trao đổi về mặt ngôn ngữ với nhau. Văn học chính là
một kho tàng ngôn ngữ phong phú giúp cho báo chí mở rộng vốn ngôn từ của
mình. Ngôn ngữ văn học được sử dụng trong các tác phẩm báo chí từ văn hoá,
giáo dục, giải trí đến kinh tế hay cả thể thao... Và bên cạnh đó, chính văn học
cũng đã cung cấp cả nguồn nhân lực cho báo chí. Một số nhà văn cũng là
những nhà báo nổi tiếng như: Hồ Chí Minh, Ngô Tất Tố, Tản Đà, Vũ Bằng,
Nguyên Hồng ...
Ở Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX, phóng sự bắt đầu xuất hiện
và nhanh chóng khẳng định được vị trí vừa là bức tranh sinh động về toàn
cảnh thông tin thời sự vừa là nơi sự ẩn chứa nghệ thuật sử dụng ngôn từ
phong phú, hấp dẫn. Có thể nói, thế mạnh về ngôn ngữ trong phóng sự đã
đem lại một luồng gió mới vào đời sống báo chí nói chung. Trong môi trường
báo chí cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, việc sử dụng các chất liệu văn học
vào tác phẩm phóng sự báo chí đã giúp cho các nhà báo tạo nên phong cách
riêng, ấn tượng và hấp dẫn.


2
Nhiều tác phẩm của loại hình truyền hình nói chung và thể loại phóng


sự truyền hình nói riêng cũng không nằm ngoài xu thế tất yếu đó. Với những
lợi thế về hình ảnh và âm thanh, kết hợp với việc sử dụng ngôn ngữ văn học
chuẩn mực giúp cho các tác phẩm trở nên đặc sắc hơn, mang những nét chấm
phá thú vị mà lại chứa đựng được nguồn thông tin cần thiết. Các nhà báo
truyền hình đã khéo léo sử dụng những chất liệu văn học Việt Nam để sáng
tạo các tác phẩm đưa thông tin nhưng cũng chứa những cảm xúc sâu sắc đến
với khán giả.
Một bộ phận nổi bật của văn học Việt Nam đó chính là thành ngữ và
tục ngữ. Chất liệu văn học này cô đọng, súc tích mà giàu ý nghĩa đã dần được
các nhà báo, phóng viên đưa vào sử dụng trong các tác phẩm phóng sự để làm
lời bình cho những thước hình ảnh thu được. Thành ngữ và tục ngữ vốn là
những câu nói dân gian, được lưu truyền biết bao thế hệ con người. Nó được
sử dụng trong phóng sự truyền hình như những câu nói mã hoá, tác động
mạnh mẽ đến nhận thức của người xem truyền hình. Chính bởi sự gần gũi,
thân thuộc đó mà giá trị thông tin của nó đem lại cho tác phẩm phóng sự
truyền hình càng rộng lớn hơn, sâu sắc hơn...
Việc sử dụng ưu thế này có ý nghĩa lớn lao đối với những người thực
hiện phóng sự truyền hình. Nó đã mang lại cho đời sống báo chí nhiều điều bổ
ích, tạo tính hấp dẫn và tăng cường hiệu quả thông tin, thu hút độc giả. Hơn
hết, nó còn giúp cho báo chí Việt Nam nói chung và phóng sự truyền hình nói
riêng phát triển theo hướng dân tộc và hiện đại.
Tuy nhiên, không phải nhà báo, phóng viên nào cũng nhận thức hết
được thế mạnh cũng như tầm quan trọng của việc khai thác, sử dụng những
thành ngữ, tục ngữ vào phóng sự truyền hình và cũng không phải ai cũng sử
dụng đúng cách để đem lại hiệu quả tốt nhất. Chính vì vậy, trong quá trình sử
dụng chất liệu này còn nảy sinh nhiều vấn đề cần thảo luận, trao đổi và góp ý.


3
Làm sao để có thể khai thác kho tàng các thành ngữ, tục ngữ của dân tộc một

cách triệt để có hiệu quả, đúng ý nghĩa và đem lại hiệu quả tác động to lớn?
Làm sao để việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ tránh được những sai sót, dùng
sai mục đích, tránh gây ra sự nhàm chán, phản cảm... ? Đó là những câu hỏi
cần được làm sáng tỏ.
Do vậy, việc “Sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong phóng sự truyền
hình” trở thành một vấn đề cấp thiết được tác giả chọn làm đề tài luận văn
thạc sĩ của mình với mong mỏi làm sang tỏ những câu hỏi nêu trên.
Trong điều kiện cho phép, luận văn thực hiện khảo sát các phóng sự
truyền hình trên kênh VTV1 thuộc Đài Truyền hình Việt Nam thời gian từ
tháng 5/2014 đến tháng 5/2015.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, còn ít đề tài nghiên cứu về vấn đề sử dụng thành ngữ và
tục ngữ trong các phóng sự truyền hình. Hiện tại có một số tài liệu liên quan
và tác giả luận văn xin xếp thành 3 nhóm tài liệu như sau:
• Nhóm thứ nhất, bao gồm các cuốn sách có liên quan một phần đến
đề tài nghiên cứu:
− Trần Thị Trâm (chủ biên) (2008), “Phát huy ưu thế của văn học
trong sáng tạo tác phẩm báo chí”, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
Cuốn sách đã mở ra một hướng tiếp nhận mới về mối quan hệ giữa
văn học và báo chí. Tuy nhiên cuốn sách chủ yếu đề cập đến ưu thế của văn
học trong sáng tạo tác phẩm báo chí nói chung chứ không tập chung chuyên
sâu vào một thể loại nào.
− Đức Dũng, (2004), Phóng sự báo chí hiện đại, NXB Thông Tấn,
Hà Nội.
Cuốn sách tập trung nói nhiều về đặc trưng và cách thức thực hiện
một tác phẩm phóng sự báo chí. Dung lượng để nói về việc sử dụng chất


4
liệu văn học nói chung, thành ngữ, tục ngữ nói riêng trong tác phẩm phóng

sự đặc biệt là phóng sự truyền hình chưa hề được đề cập.
− Trần Thị Trâm (2006) “Từ nguồn cội văn chương”, NXB Văn hoá
Thông tin.
Cuốn sách mặc dù cũng đã có những dung lượng nhất định để nói về
vai trò của văn chương và việc vận dụng văn học Việt Nam trong làm báo, tuy
nhiên cuốn sách chưa đề cập một cách cụ thể, sâu sắc đến việc sử dụng văn
chương nói chung, thành ngữ, tục ngữ nói riêng vào tác phẩm báo chí và cụ thể
là phóng sự, phóng sự truyền hình.
• Nhóm thứ hai, bao gồm một số luận văn thạc sĩ và khóa luận tốt
nghiệp Cao học và Đại học:
− Hoàng Minh Thống (2009), “Sử dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao
trên báo mạng điện tử”; Khoá luận tốt nghiệp ngành báo Mạng điện tử - Học
viện Báo chí và Tuyên truyền, do PGS.TS Trần Thị Trâm hướng dẫn.
Đây là tài liệu tham khảo hữu ích, có ít nhiều liên quan đến đề tài mà
tôi quan tâm. Tuy nhiên, đề tài này mới chỉ tập trung vào nghiên cứu ở loại
hình báo mạng điện tử không đề cập một chút nào đến loại hình truyền hình.
Mặt khác, đề tài này chỉ nghiên cứu đến việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ, ca
dao trên báo mạng điện tử nói chung, không tập trung vào một thể loại cụ thể
nào vì vậy việc phân tích còn mang tính chất dàn trải.
− Nguyễn Thị Hải Yến (2008), Luận văn Thạc sĩ “Sử dụng chất liệu
văn học thế giới trong sáng tạo tác phẩm báo chí ở Việt Nam”, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền;
Luận văn đề cập đến việc sử dụng các phương diện của chất liệu văn
học nhưng đi sâu trọng tâm vào việc sử dụng chất liệu văn học thế giới trong
sáng tạo tác phẩm báo chí ở Việt Nam. Luận văn không đề cập đến chất liệu
văn học Việt Nam trong sáng tạo tác phẩm báo chí Việt Nam.


5
− Bùi Minh Hằng (2012), Luận văn Thạc sĩ “Ngôn ngữ phóng sự trên

VTV1 - Đài Truyền hình Việt Nam”, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Mặc dù luận văn đã đi vào khai thác một loại hình cụ thể là phóng sự
truyền hình nhưng chỉ chủ yếu tập trung vào việc phân tích tình hình sử dụng
ngôn ngữ chung trong phóng sự truyền hình (ngôn ngữ hình ảnh và ngôn ngữ
âm thanh), chỉ ra những ưu, nhược điểm và biện pháp khắc phục tình trạng sử
dụng thiếu chính xác ngôn ngữ của đội ngũ phóng viên làm phóng sự thuộc
Bản tin tài chính - Kinh doanh trên kênh VTV1. Cách tiếp cận này còn chưa
đi sâu vào nghiên cứu việc sử dụng những thành ngữ, tục ngữ trong phóng sự
truyền hình cũng như nêu lên những ưu, nhược điểm của chất liệu ngôn ngữ
văn học này.
− Nguyễn Thị Hồng Thanh (2010), Luận văn Thạc sĩ “Sử dụng chất
liệu văn học trong sáng tạo tác phẩm báo chí thể thao”, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền.
Trong luận văn này, tác giả đã đi sâu khảo sát cách thức sử dụng chất
liệu văn học trong các thành phần cấu trúc nên một tác phẩm báo chí thể thao,
đưa ra số liệu thống kê về tần suất sử dụng trong Tít báo, Sapo, Mở - Thân Kết của một bài báo... Tuy nhiên, cách khai thác này chỉ tập trung chủ yếu
trên báo viết mà chưa khai thác đến báo truyền hình nói chung và thể loại
phóng sự truyền hình nói riêng.
• Nhóm thứ ba, bao gồm một số bài báo khoa học có những phân tích
liên quan gần đến đề tài nghiên cứu:
− Nguyễn Thị Tuyết Thu (2008), “Vận dụng chất liệu Văn học thế giới
vào báo chí Việt Nam thời hội nhập”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền
thông, số 10.
Trong đó có một mục nhỏ với tiêu đề “Chất liệu văn học thế giới
được lựa chọn phụ thuộc vào “gu” của từng nhà báo”. Trong bài báo khoa học


6
này tuy đã đề cập, khai thác đến chất liệu văn học được sử dụng trong báo chí
nhưng lại chỉ dừng lại ở việc vận dụng chất liệu văn học thế giới với những

điển tích, điển cố, ngạn ngữ ... Một vấn đề còn bỏ ngỏ trong bài báo khoa học
này đó là việc vận dụng văn học Việt Nam vào tác phẩm báo chí, mà cụ thể là
sử dụng thành ngữ, tục ngữ Việt Nam vào tác phẩm phóng sự truyền hình.
− TS. Nguyễn Thị Tuyết Thu (2006), “Sử dụng chất liệu văn học nước
ngoài trong rút tít báo” đăng trên tạp chí Người làm báo số tháng 5.
Tuy nhiên bài báo chỉ tập trung vào vấn đề lựa chọn và sử dụng chất
liệu văn học để viết tít báo, còn việc sử dụng chất liệu này trong viết nội dung
tác phẩm chưa được nghiên cứu.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên mới bước đầu đề cập
đến một số khía cạnh của vấn đề sử dụng chất liệu văn học nói chung và sử
dụng thành ngữ, tục ngữ nói riêng trong sáng tạo tác phẩm báo chí hay mối
quan hệ giữa báo chí và việc sử dụng yếu tố văn học trong tác phẩm báo chí,
báo chí truyền hình... Tuy nhiên, việc đi sâu vào phân tích việc khai thác, sử
dụng thành ngữ, tục ngữ trong phóng sự truyền hình hầu như mờ nhạt thậm
chí là chưa có công trình cụ thể nào. Trong khi đó, mặc dù trong xã hội hiện
đại, khoa học công nghệ phát triển, nhiều loại hình truyền thông mới ra đời và
có những sức phát triển mạnh mẽ nhưng truyền hình vẫn đang là loại hình báo
chí được ưa chuộng, thu hút được đông đảo sự quan tâm của công chúng.
Cùng với đó, thể loại phóng sự truyền hình cũng là thể loại có vai trò quan
trọng trong hệ thống thể loại quan trọng làm nên sức sống của các chương
trình của nhà đài. Việc làm thế nào để thể loại phóng sự ngày càng trở nên ấn
tượng và không chỉ đem lại cho công chúng thông tin , sự định hướng mà còn
truyền cảm xúc, cảm hứng tới người xem. Làm thế nào để những chất liệu
cuộc sống, chất liệu văn học, những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ đã được
lưu truyền nhiều đời nay có giá trị thông tin, răn dạy… dễ đọc, dễ nghe, dễ


7
hiểu, dễ nhớ…được vận dụng nhiều hơn, hợp lý hơn, hiệu quả hơn vào tác
phẩm phóng sự để thông tin trong tác phẩm phóng sự dễ tiếp nhận hơn, gần

gũi, thân thuộc với đời thường hơn?
Với mong muốn khám phá, giải thích một cách thấu đáo những câu hỏi kể
trên, với việc kế thừa những thành quả nghiên cứu trước đó, coi đó là nền tảng lý
luận và thực tiễn, tác giả luận văn sẽ đi sâu khảo sát tình trạng thực tiễn sử dụng
thành ngữ và tục ngữ trong phóng sự truyền hình trên kênh VTV1 - Đài Truyền
hình Việt Nam với mong muốn có một sự đóng góp cho việc phát triển thể loại
phóng sự truyền hình và cho sự kết nối văn học và báo chí.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc khảo sát các phóng sự được phát sóng trên kênh VTV1 của Đài
truyền hình Việt Nam trong thời gian từ tháng 5/2014 đến tháng 5/2015, ngoài
việc hệ thống hoá các lý luận liên quan, luận văn sẽ chỉ ra những ưu điểm và
hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trong việc sử dụng thành ngữ, tục
ngữ trong phóng sự truyền hình thông qua các chương trình được chọn khảo
sát... ; từ đó đưa ra một số kiến nghị và đề xuất những giải pháp bước đầu
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong
phóng sự truyền hình trên kênh VTV1 - Đài Truyền hình Việt Nam trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn về việc sử dụng thành ngữ,
tục ngữ trong phóng sự truyền hình như: Khái niệm, vai trò, thế mạnh, hạn
chế của truyền hình và việc khai thác, sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong
phóng sự truyền hình.


8
Hai là, tiến hành khảo sát, thống kê, phân tích làm rõ thực trạng, thành
công, hạn chế trong việc khai thác, sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong phóng
sự truyền hình trên kênh VTV1 hiện nay.

Ba là, đề xuất hệ thống những giải pháp hợp lý nhằm góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong phóng sự
truyền hình trên truyền hình trong thời gian tới.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động sử dụng thành ngữ, tục
ngữ trong phóng sự truyền hình trên kênh VTV1 - Đài Truyền hình Việt Nam.
4.2. Đối tượng khảo sát
− Các tác phẩm phóng sự trên kênh VTV1
Chúng tôi sẽ lựa chọn phóng sự ở hai nhóm chương trình hiện nay:
+ Phóng sự trong “Chương trình thời sự” lúc 19h kênh VTV1
+ Phóng sự trong các chương trình chuyên đề, chuyên mục của kênh
VTV1 như chương trình “Phóng sự” phát sóng lúc 10 giờ 15 phút từ thứ hai
đến thứ sáu hàng tuần; Chương trình “Nông thôn ngày nay”, “Đảng trong
cuộc sống hôm nay”, “Vấn đề hôm nay”…
Đây là các chương trình có tần suất phóng sự đều đặn và thường xuyên
và bên cạnh đó thu hút lượng khán giả quan tâm theo dõi cao.
− Các nhà báo, phóng viên của Đài Truyền hình Việt Nam nói chung
và kênh VTV1 nói riêng - đặc biệt tập trung vào những phóng viên chuyên
sản xuất các phóng sự truyền hình.
− Khán giả truyền hình
Khán giả truyền hình đây là đối tượng quan trọng tiếp nhận thường
xuyên những sản phẩm truyền hình.
4.3. Phạm vi khảo sát


9
Luận văn tập trung vào khảo sát phóng sự trong hai nhóm chương trình là
chương trình thời sự 19 giờ và phóng sự trong các chương trình chuyên mục là
“Nông thôn mới”, “Đảng trong cuộc sống hôm nay”, “Vấn đề hôm nay”…trên

kênh VTV1 từ tháng 5/2014 đến tháng 5/2015.
Do điều kiện và thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu, khảo sát các đối tượng ở địa bàn Thủ đô Hà Nội với các nhóm
tuổi khác nhau.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cở sở phương pháp luận là các quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối của Đảng,
Nhà nước và các chủ trương, định hướng của các cơ quan ban ngành về báo
chí; một số lý thuyết về báo chí nói chung và báo chí truyền hình nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng kết hợp một số phương
pháp sau đây:
− Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp này được sử dụng nhằm khái quát, hệ thống hoá, bổ sung
về mặt lý thuyết về truyền hình nói chung, phóng sự trên truyền hình nói riêng
và đặc biệt là việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong phóng sự truyền hình.
Đây chính là những lý thuyết cơ sở để đánh giá các kết quả khảo sát thực tế
và đưa ra những giải pháp khoa học cho vấn đề nghiên cứu.
− Phương pháp thống kê
Phương pháp này được dùng để xác định tần số xuất hiện, mức độ phát
triển, chất lượng, hiệu quả những chương trình có sử dụng thành ngữ, tục ngữ
trên kênh VTV1. Phương pháp này được thực hiện bằng cách tác giả phải lưu


10
giữ, xem lại các chương trình liên quan đến vấn đề khảo sát từ tháng 5/2014
đến tháng 5/2015.
− Phương pháp phân tích, tổng hợp
Thực hiện phương pháp này nhằm mục đích phân tích, khảo sát việc

đáp ứng nhu cầu thông tin kết hợp việc sử dụng thành ngữ và tục ngữ trên
kênh VTV1 như thế nào đối với khán giả.
− Phương pháp điều tra xã hội học
Phương pháp này nhằm khảo sát trực tiếp công chúng về việc đánh giá
chất lượng việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong phóng sự truyền hình trên
kênh VTV1.
Tác giả sẽ phát phiếu trưng cầu dân ý ngẫu nhiên cho 500 người tại Hà Nội.
− Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp này được thực hiện với lãnh đạo cơ quan báo chí, các
phóng viên, chuyên gia... nhằm thu thập ý kiến đánh giá của cá nhân quanh
vấn đề nghiên cứu.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Khi tiến hành nghiên cứu, chúng tôi đặt ra một số giả thuyết sau:
− Giả thuyết thứ nhất: Thành ngữ và tục ngữ vốn dùng chủ yếu trong
các môn học trên ghế nhà trường mà tiêu biểu là môn Ngữ văn. Việc sử dụng
thành ngữ, tục ngữ sẽ khó được phổ biến rộng rãi nếu không biết vận dụng
vào điểm mạnh của các phương tiện truyền thông đại chúng. Truyền hình với
ưu thế về hình ảnh và âm thanh, nếu kết hợp thêm sự phong phú về mặt ngôn
ngữ từ thành ngữ và tục ngữ sẽ tạo nên hiệu quả tác động mạnh mẽ. Với số
lượng lớn lên tới hàng trăm ngàn đơn vị, phóng phú về nội dung, đa dạng về
hình thức, dễ sử dụng; thành ngữ và tục ngữ sẽ trở thành kho tàng ngôn ngữ
đặc sắc cho hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí nói chung và cho phóng sự
truyền hình nói riêng. Thông qua sự kết hợp này, sẽ dễ dàng chỉ ra các điểm


11
mạnh, điểm yếu, hạn chế của việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ vào trong đời
sống thường ngày. Mặt khác cũng chỉ ra những điểm còn tồn tại, đáng lưu ý,
tranh cãi trong việc áp dụng ngôn ngữ văn học vào tác phẩm phóng sự truyền
hình. Từ đó đưa ra những tiêu chí đánh giá chất lượng việc sử dụng thành

ngữ, tục ngữ trong phóng sự truyền hình hiện nay.
− Giả thuyết thứ hai: Việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong phóng sự
truyền hình trên kênh VTV1- Đài Truyền hình Việt Nam dù đã được quan
tâm hơn nhưng hiệu quả đem lại còn chưa cao. Bên cạnh những điểm sáng
đáng khích lệ thì vẫn còn tồn tại những hạn chế. Nếu không có những khảo
sát, phân tích khoa học, khách quan thực trạng đang diễn ra, để từ đó chỉ ra
những điểm mạnh, điểm yếu, hạn chế, thành công đồng thời đưa ra giải pháp
hợp lý thì hoạt động sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong phóng sự truyền hình
trên kênh VTV1 sẽ khó phát huy hết hiệu quả có thể đạt được.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
− Về mặt lý luận - nhận thức
Luận văn hệ thống hoá và phân tích cụ thể về vai trò của việc sử
dụng thành ngữ, tục ngữ trong phóng sự truyền hình được phát sóng trên kênh
VTV1 hiện nay. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên
cứu và cơ sở đào tạo báo chí, thông qua việc đưa ra những phân tích cụ thể về
thực trạng và giải pháp nâng cao việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong phóng
sự truyền hình.
− Về mặt thực tiễn
Việc nghiên cứu đề tài này sẽ cho thấy một cái nhìn cụ thể, chỉ ra sự
cần thiết của việc sử dụng kết hợp thành ngư, tục ngữ vào ngôn ngữ phóng sự,
đây là một việc làm cần được phổ biến rộng hơn. Từ đó gợi mở giúp các nhà
quản lý đưa ra được những tiêu chí để có thể sản xuất các phóng sự truyền
hình có nội dung hấp dẫn hơn, phù hợp hơn với khán giả. Đồng thời, đặt ra


12
những yêu cầu với các nhà báo trong việc tìm tòi, khai thác, sử dụng sao cho
linh hoạt các thành ngữ, tục ngữ vào tác phẩm phóng sự của mình. Không
ngừng mở rộng và trau dồi vốn hiểu biết, tạo phong cách riêng và nâng cao uy
tín của cơ quan báo chí.

Bên cạnh đó, tác giả hy vọng đây sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích
cho những người quan tâm.
8. Kết cấu luận văn
− Luận văn được chia thành 3 phần chính: Phần mở đầu; Phần nội
dung và Phần kết luận. Cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề sử dụng thành ngữ, tục
ngữ trong phóng sự truyền hình
Chương 2: Thực trạng hoạt động sử dụng thành ngữ và tục ngữ trong
phóng sự truyền hình trên kênh VTV1 hiện nay
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả việc sử
dụng thành ngữ, tục ngữ trong phóng sự truyền hình
− Ngoài ra, luận văn còn có phần tài liệu tham khảo và phụ lục.


13

Chương 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SỬ DỤNG THÀNH NGỮ, TỤC
NGỮ TRONG LỜI BÌNH PHÓNG SỰ TRUYỀN HÌNH

1.1. Một số khái niệm
1.1.1.Thành ngữ
Ở Việt Nam, mỗi nhà nghiên cứu xem xét thành ngữ từ những góc độ
khác nhau, do vậy, mỗi tác giả đã có những cách quan niệm và kiến giải riêng
về thuật ngữ này. Chính vì vậy cho đến nay tồn tại khá nhiều khái niệm và
những nghiên cứu chỉ ra đặc điểm về đối tượng này.
Trong "Lời nói đầu" của từ điển "Thành ngữ tiếng Việt" có đoạn viết:
"Ranh giới bên dưới của thành ngữ là cụm gồm hai từ, còn ranh giới bên trên
là câu. Thành ngữ tiếng Việt là đơn vị trung gian nằm giữa hai giới hạn đó".
[17; tr. 72]. Quan niệm này về thành ngữ được đưa ra dưới góc nhìn về dung

lượng chữ làm nên cụm từ và câu.
Không chỉ dừng lại nhận định về thành ngữ như trên, tác giả Nguyễn
Văn Tu trong cuốn Cuốn "Từ vựng học tiếng Việt hiện đại" đã nghiên cứu sâu
hơn, nâng tầm và chỉ ra khái niệm thành ngữ ở góc độ ngữ nghĩa của các từ
làm nên cấu trúc thành ngữ đó. Cụ thể theo tác giả cuốn sách: “Thành ngữ là
những cụm từ cố định mà các từ trong đó đã mất đi tính độc lập đến một
trình độ cao về nghĩa, kết hợp làm thành một khối vững chắc, hoàn chỉnh.


14
Nghĩa của chúng không phải nghĩa của từng thành tố (từ) tạo ra.Những
thành ngữ này cũng có tính hình tượng hoặc cũng có thể không có.Nghĩa của
chúng đã khác nghĩa của những từ nhưng cũng có thể cắt nghĩa bằng từ
nguyên học. Một số thành ngữ trong tiếng Việt có tính chất kiểu điển tích,
điển cố nhưng nghĩa điển cố, điển tích ấy không còn được nhớ lại nữa thậm
chí là những người dùng hiện nay không cần biết lai lịch của những thành
ngữ ấy.”[22; tr. 185-186].

Đồng quan điểm như trên, tác giả Đái
Xuân Ninh trong cuốn “Hoạt động của từ
tiếng Việt”cũng cho rằng:“Thành ngữ là
một cụm từ cố định mà các yếu tố tạo thành
đã mất tính độc lập ở cái mức nào đó và kết
hợp lại thành một khối tương đối vững chắc
và hoàn chỉnh. Ví dụ: thành ngữ “Mẹtròn
con vuông" không thể đổi thành "Mẹ cũng
tròn con cũng vuông” hay là "Mẹ tròn lắm
con vuông lắm”... [5; tr. 212]
Cùng quan điểm về góc độ ngữ nghĩa từ làm nên thành ngữ, tác giả
Nguyễn Thiện Giáptrong “Từ và nhận diện từ tiếng Việt”đã nghiên cứu và



15
chỉ thêm ra đặc trưng về tính chất, sắc thái của từ làm nên thành ngữ đó và
cho rằng: “Thành ngữ là những cụm từ cố định vừa có tính hoàn chỉnh về
nghĩa vừa có tính gợi cảm . Ví dụ: Chó ngáp phải ruồi, Hồn xiêu phách lạc,
Nói thánh nói tướng... Bên cạnh các nội dung trí tuệ, các thành ngữ bao giờ
cũng đi kèm theo các sắc thái bình giá, cảm xúc nhất định, hoặc là kính trọng
tán thành, hoặc là chê bai, khinh rẻ, hoặc là ái ngại, xót thương...Chẳng hạn
thành ngữ “Nói thánh nói tướng' vừa chê bai sự khoác lác vừa kèm thêm thái
độ chê bai không tán thành...”[23; tr. 80].Tác giả cũng phân chia thành ngữ
theo cấu trúc là:thành ngữ hoà kết, thành ngữ chắp dính. Bên cạnh đó, tác giả
cũng phân biệt thành ngữ với ngữ định danh và cụm từ tự do.
Trong thời gian gần đây đã có luận văn của Trần Anh Tư là: "Thành
ngữ đồng nghĩa và thành ngữ trái nghĩa trong tiếng Việt"(2001)[32,12].Luận
văn này xem xét về đặc điểm cấu tạo,nguồn gốc từ loại cũng như những biến
thể sử dụng và các giá trị khác nhau của Thành ngữ tiếng Việt.Đồng thời luận
văn này cũng chỉ ra được các đặc điểm về cấu tạo, nguồn gốc, ý nghĩa khái
quát và vai trò của thành ngữ đồng nghĩa, trái nghĩa.Đây là công trình đã có
nhiều tính sáng tạo, công phu nhưng nó chỉ đi sâu vào thành ngữ đồng nghĩa
và thành ngữ trái nghĩa trong tiếng Việt chứ không đi sâu nghiên cứu thành
ngữ so sánh.
Từ việc khảo sát, phân tích thực tiễn như nêu trên, tác giả luận văn thấy
rằng mặc dù có rất nhiều quan niệm khác nhau về thành ngữ, nhưng đó là
những quan niệm được nhìn ở các góc nhìn khác nhau mà thôi, còn nội hàm
về thuật ngữ cơ bản tiệm cận, đều khẳng định tính hoàn chỉnh, ràng buộc của
cụm từ làm nên thành ngữ và giá trị biểu cảm của cụm từ đó. Tác giả xin khái
quát và đưa ra quan niệm về thành ngữ như sau: “Thành ngữ là đơn vị tiêu
biểu của từ ngữ, được hình thành bởi những cụm từ nhưng lại có tính hoàn



16
chỉnh về nghĩa vừa hàm ẩn chứa đựng một hình tượng sinh động và độc
đáo”.
Điểm khác giữa thành ngữ Việt Nam và thành ngữ nước ngoài là nó
bằng tiếng Việt, do người Việt sáng tạo ra. Vì vậy, nó thể hiện những nét
riêng về văn hóa, cách dùng ngôn từ của người Việt.Qua nghiên cứu cho thấy,
thành ngữ Việt phong phú hơn thành ngữ của nhiều nước về số lượng, kèm
theo đó là những biến thể trong thành ngữ. Ví dụ: chúng ta nói "dày gió dạn
sương", nhưng cũng có thể nói "gió sương dày dạn "; chúng ta nói "dễ như trở
bàn tay", nhưng cũng có thể nói "dễ như lật bàn tay". Trật tự của các từ trong
nhóm có thể thay đổi, thậm chí từ cũng có thể thay thế, miễn là nói lên được
nguyên ý. Ví dụ: Thành ngữ được dùng để chê kẻ hết sức ngu dốt: “dốt đặc
cán mai”, “dốt dài cán thuổng”.
1.1.2.Tục ngữ
Tục ngữ là một hiện tượng ý thức xã hội phản ánh lối nói, lối nghĩ và
lối sống của nhân dân trải qua bao thời đại, lưu giữ một kho tàng tri thức, kinh
nghiệm của nhân dân về thiên nhiên và lao động sản xuất, về con người và xã
hội. Tục ngữ thiên về trí tuệ nên thường được ví von là "trí khôn dân gian".Trí
khôn đó rất phong phú mà cũng rất đa dạng nhưng lại được diễn đạt bằng
ngôn từ ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ, giàu hình ảnh và nhịp điệu. Có thể coi tục
ngữ là văn học nói dân gian nên thường được nhân dân vận dụng trong đời
sống sinh hoạt, giao tiếp cộng đồng và xã hội hay hẹp hơn như lời ăn tiếng nói
và khuyên răn.
Tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn, trong đời sống sản
xuất và đấu tranh của nhân dân, do nhân dân trực tiếp sáng tác; được tách ra
từ tác phẩm văn học dân gian hoặc ngược lại; được rút ra tác phẩm văn học


17

bằng con đường dân gian hóa những lời hay ý đẹp hoặc từ sự vay mượn nước
ngoài.
Từ trước đến nay cũng đã có khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến
tục ngữ Việt Nam. Theo Vũ Ngọc Phantrong “Tục ngữ ca dao Việt Nam”:
“Tục ngữ là một câu tự nó diễn trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh
nghiệm, một luân lý, một công lý, có khi là một sự phê phán”. [33; tr. 26]
Còn có khái niệm khác truyền miệng như: tục ngữ là những câu nói gọn
ghẽ và có ý nghĩa lưu hành từ đời xưa, rồi do cửa miệng của người đời truyền
đi... Đây là một trong những khái niệm về tục ngữ đã xuất hiện sớm, mặc dù
chưa thật sự đầy đủ các đặc trưng nhưng cũng đã nêu được một số đặc điểm
cơ bản của thuật ngữ này.Tuy nhiên, qua nghiên cứu các khái niệm nêu trên
cho thấy nội dung khái niệm chưa chú ý đến chức năng cũng như mục đích
của tục ngữ.Thực tế, tục ngữ còn có chức năng thông báo. Thông báo một nội
dung tri thức và nhằm để đạt được một mục đích nào đó trong quá trình giao
tiếp của con người như: truyền đạt kinh nghiệm; giáo huấn một điều tốt, răn
đe, hạn chế cái xấu; bày tỏ thái độ, quan niệm, chính kiến trước một hiện
tượng nào đó; tăng tính lập luận khi trình bày một vấn đề, một sự việc, một sự
biện giải mà không cần giải thích, biện luận nhiều lời…
Nhóm tác giả: Chu Xuân Diên - Lương Văn Đang - Phương Tri trong
“Tục ngữ Việt Nam”cho rằng: “Nội dung tục ngữ là các kinh nghiệm đời
sống, kinh nghiệm lịch sử xã hội của nhân dân, có khi được tổng kết dưới
dạng các tư tưởng triết lý dân gian. Hình thức của tục ngữ là hình thức các
đơn vị lời nói, có thể dễ dàng được nhà văn nhà thơ dùng như một thành tố
hữu cơ trong cấu trúc ngôn ngữ tác phẩm của minh. Điều đó khiến cho sự
thâm nhập của tục ngữ với tư cách là một thể loại sáng tác dân gian vào sáng
tác cá nhân thường thể hiện thành sự tiếp thu, sự sử dụng của nhà văn, nhà


18
thơ một cách trọn vẹn các câu tục ngữ cả về nội dung lẫn hình thức.”[1; tr.

12].
Như vậy nghiên cứu cho thấy có nhiều quan niệm khác nhau về thuật
ngữ này, tuy nhiên điểm chung có thể chỉ ra là tục ngữ xuất hiện từ rất sớm,
gắn với đời sống lao động của con người, để diễn đạt các kinh nghiệm của
con người. Quan niệm của nhóm tác giả của cuốn sách “Tục ngữ Việt Nam”
nói trên tương đối bao quát, rõ ràng. Tác giả luận văn xin được kế thừa khái
niệm này để phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Trong một bài viết trên tạp chí Ngôn ngữ, tác giả Nguyễn Văn Mệnh đã
khẳng định: “Giữa thành ngữ và tục ngữ có thể tìm ra được những đặc điểm
khác biệt rõ ràng ở cả hai phương diện nội dung và hình thức”. Từ nhận xét:
“Về nội dung thành ngữ giới thiệu một hình ảnh, một hiện tượng, một trạng
thái, một tính cách, một thái độ” còn tục ngữ “đi đến một nhận định cụ thể
một kết luận chắc chắn, một kinh nghiệm sâu sắc, một lời khuyên răn, một bài
học về tư tưởng, đạo đức” và tác giả đã kết luận: “Có thể nói nội dung của
thành ngữ mang tính chất hiện tượng còn nội dung của tục ngữ mang tính
chất quy luật. Từ sự khác nhau cơ bản về nội dung dẫn đến sự khác nhau về
hình thức ngữ pháp.“Mồi câu” của thành ngữ chỉ là một cụm từ chưa phải là
một câu hoàn chỉnh. Tục ngữ thì khác hẳn, mỗi tục ngữ tối thiểu là một
câu."[25; tr. 3].
Tục ngữ cũng như các sáng tạo khác của dân gian như: ca dao, truyện
cổ tích... đều là các thông báo. Nó thông báo một nhận định, một kết luận về
một phương diện nào đó của thế giới khách quan. Do vậy, mọi tục ngữ đọc
lên là “một câu hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý tưởng...” [25; tr.41].
Trong cuốn “Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học” các tác giả đã định
nghĩa: Tục ngữ là “Câu ngắn gọn, có cấu trúc tương đối ổn định, đúc kết kinh


19
nghiệm sống, đạo đức, tri thức của một dân tộc. Khác với thành ngữ, tục ngữ
không bao hàm ý nghĩa khuyên răn trực tiếp. Ví dụ: Thuốc đắng dã tật, Uống

nước nhớ nguồn...” [18; tr. 329]
Việc phân biệt thành ngữ với tục ngữ trước những năm 1940 chưa thấy
có sách nào đề cập đến.Từ năm 1968, với cuốn “Việt Nam văn học sử yếu”
lần đầu tiên Dương Quảng Hàm đặt vấn đề phân biệt thành ngữ với tục ngữ.
Có thể coi đây là ý kiến đầu tiên được chú ý đến trong quá trình đi tìm sự
khác nhau giữa tục ngữ và thành ngữ. Ông cho rằng “Một câu tục ngữ tự nó
phải có một ý nghĩa đầy đủ hoặc khuyên răn, hoặc chỉ bảo điều gì, còn thành
ngữ chỉ là những lời nói có sẵn để ta tiện dùng mà diễn đạt một ý gì hoặc tả
một trạng thái gì cho có màu mè”. [3; tr. 89].
Giữa hình thức và nội dung, tục ngữ có sự gắn bó chặt chẽ, một câu tục
ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Tục ngữ có tính chất đúc
kết, khái quát hóa những nhận xét cụ thể thành những phương châm, chân
lý.Hình tượng của tục ngữ là hình tượng ngữ ngôn được xây dựng từ những
biện pháp so sánh, nhân hóa và ẩn dụ.Đa số tục ngữ đều có vần, gồm 2 loại:
vần liền và vần cách. Các kiểu ngắt nhịp: trên yếu tố vần, trên cơ sở vế, trên
cơ sở đối ý, theo tổ chức ngôn ngữ thơ ca... Sự hòa đối là yếu tố tạo sự cân
đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững chắc cho tục ngữ. Hình thức đối: đối thanh,
đối ý. Tục ngữ có thể có 1 vế, chứa 1 phán đoán, nhưng cũng có thể có thể
gồm nhiều vế, chứa nhiều phán đoán.
Tóm lại, tục ngữ và thành ngữ là khác nhau trong đó tục ngữ là những
câu nói gọn chắc, xuôi tai, diễn đạt những kinh nghiệm lâu đời của nhân dân
về thiên nhiên và lao động sản xuất, về con người và xã hội: nó thường được
nhân dân vận dụng trong suy nghĩ, trong nói năng, và trong những hoạt động
thực tiễn của mình (như làm ăn, giao tiếp, ứng xử…).Ví dụ: Hiện tượng "cóc


20
nghiến răng" ngày nay đã được khoa học giải thích nhưng từ xưa, người Việt
đúc kết về dự báo mưa thông qua câu tục ngữ:“Cóc nghiến răng đang nắng
thì mưa”, “Ếch kêu uôm uôm ao chuôm đầy nước”…

1.1.3. Lời bình của phóng sự truyền hình
- Phóng sự truyền hình:
Trong tác phẩm "Báo chí truyền hình", các tác giả G.V.Cudonhetxop,
X.L.Xvich, A.La.Iuropxki có viết: "Phóng sự là thể loại báo chí thông tin
nhanh chóng trên báo chí, đài phát thanh, truyền hình về một sự kiện nào đó
mà phóng viên đã chứng kiến, can dự vào" [36, tr.59]. Với quan niệm này các
tác giả nhấn mạnh đến tính thời sự, nhanh chóng của phóng sự.
Còn tác giả Phạm Thành Hưng trong “Thuật ngữ báo chí – truyền
thông"đã định nghĩa: "Phóng sự là thể loại trần thuật diễn biến của những sự
kiện có ý nghĩa xã hội quan trọng mà tác giả đã chứng kiến, trải nghiệm ít
nhiều, với những ấn tượng, cảm xúc sống động, được trình bày dưới hình
thức văn viết, lời kể, băng ghi âm, hình ảnh truyền hình. Tác phẩm phóng sự
thường thống hợp hai yếu tố có tác động tương hỗ: thông tin về sự kiện khách
quan và quan điểm chủ kiến của tác giả" [26, tr.35].
Trong cuốn sách "Công chúng truyền hình", tác giả Trần Bảo Khánh,
có viết: "Phóng sự truyền hình là thể loại báo chí phản ánh sự kiện, hiện
tượng, vấn đề theo logíc khách quan trong quá trình phát sinh, phát triển
bằng ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh. Những thông tin này bao gồm sự kiện,
vấn đề và cả quan điểm, thái độ của nhà báo trước sự kiện, vấn đề đó". [31,
tr.59].
Cũng đồng quan điểm với các tác giả của các cuốn sách nêu trên, tác
giả Nguyễn Ngọc Oanh trong cuốn: "Phóng sự truyền hình, lý thuyết và kỹ
năng" định nghĩa: "Phóng sự truyền hình là thể loại đặc trưng của truyền


21
hình. Nó chuyển tải một nội dung thông tin nóng hổi, sinh động đến công
chúng ở thời hiện tại. Nội dung thông tin được bộc lộ theo trình tự logíc diễn
biến của sự kiện, vấn đề... qua dòng hình ảnh và âm thanh của hiện thực mà
phóng viên lựa chọn, sắp xếp. Chính kiến, thái độ và cảm xúc của phóng viên

bộc lộ rõ qua việc phân tích, cắt nghĩa, lý giải sự kiện, vấn đề đó" [23, tr.19].
Như vậy, phóng sự truyền hình về bản chất giống phóng sự báo chí nói
chung. Nhưng do mỗi loại hình báo chí có đặc trưng riêng, đặc biệt là về ngôn
ngữ, kỹ thuật chuyển tải và phương thức tác động của thông tin tới công
chúng mà phóng sự truyền hình có một vài điểm khác biệt. Xét những quan
niệm đã nghiên cứu, tác giả luận văn xin kế thức khái niệm phóng sự truyền
hình của nhóm tác giả Nguyễn Ngọc Oanh để phục vụ cho quá trình nghiên
cứu tiếp sau.
- Lời bình của phóng sự truyền hình
Thực tế cho thấy với truyền hình, hình ảnh là chính ngôn – ngôn ngữ
chính để truyền đạt nội dung thông tin.Hình ảnh giúp người xem có thể hiểu
sự kiện, sự việc gì xảy ra? Xảy ra ở đâu? Khi nào và như thế nào?...Chính vì
lẽ đó, mà trên truyền hình có khi khán giả có thể được đón nhận những tác
phẩm chỉ có hình ảnh và tiếng động hiện trường nhưng có thể kể được một
câu chuyện nào đó.Tuy nhiên, số lượng những tác phẩm như vậy không thật
nhiều.Và cách thức đó thường chỉ dành cho những tác phẩm vấn đề không
quá phức tạp. Còn thực tế, phần nhiều tác phẩm truyền hình hiện nay ngoài
hình ảnh về sự kiện, hiện tượng được đề cập tới thì còn có sự trợ giúp thêm
của lời nói nói chung và lời bình nói riêng. Cùng với hình ảnh, lời bình cũng
là ngôn ngữ góp phần làm nên một tác phẩm truyền hình. Lời bình giúp cung
cấp thêm thông tin (số liệu, con số cụ thể…); phân tích những chi tiết mà hình


22
ảnh không chuyển tải hết ý nghĩa; và có thể chia sẻ cảm xúc giúp khán giả
nhập cuộc.
Với phóng sự truyền hình, lời bình cũng có vai trò như vậy. Lời bình
góp phần giúp cho khán giả hiểu sâu, hiểu rõ hơn bản chất của câu chuyện,
vấn đề mà phóng sự truyền hình đang đề cập tới. Lời bình trong phóng sự
truyền hình giúp truyền đạt nội dung tư tưởng của tác phẩm, giúp người xem

tổng hợp, khái quát được ý nghĩa của sự việc, sự kiện phản ánh trong tác
phẩm. Đó là công cụ cung cấp thông tin có chiều sâu. Nhiều khi không có lời
bình, hình ảnh rất khó khăn để có thể chuyển tải được hết nội dung thông tin
mà công chúng cần. Mặc dù hiện nay để hiện đại hóa ngôn ngữ truyền hình
nhằm mang tới sự sinh động, hấp dẫn cho người xem, hệ thống kỹ xảo, đồ
họa, âm thanh phụ trợ được khai thác tối đa nhưng cho dù là ấn tượng đến
mấy thì tất cả sẽ chỉ dừng ở bề ngoài nếu không có phân tích, nhận định từ
phóng viên. Lời bình góp phần quan trọng để đẩy sự thật lên đến mức cao
nhất trong cảm thụ của khán giả. Đó là cách diễn đạt có định hướng nhận thức
tư tưởng của phóng viên về thông tin sự kiện, với mục đích nâng tầm hình ảnh
và cái tôi của tác giả. Nhất là trong phóng sự có ảnh tĩnh thay hình ảnh thực tế
thì việc không có lời bình sẽ làm khán giả khó có thể hình dung được chủ ý
của tác giả khi đưa ra bức ảnh đó. Khi lời bình đó phải hợp lý, ăn khớp với
hình ảnh,… thì hiệu quả đạt được càng tối đa; bình luận, đánh giá của tác giả
về sự kiện thể hiện bằng lời sẽ làm tăng tính hấp dẫn hơn.
Tóm lại, “lời bình của phóng sự truyền hình là một loại ngôn ngữ được
chắt lọc viết ra từ sự suy tư, tổng hợp của nhà báo khi tiếp cận một vấn đề
trong xã hội và khi kết hợp với hình ảnh sẽ góp phần làm nên một phóng sự
hoàn thiện về ý tứ, sâu sắc về tư tưởng giúp người xem hiểu được bản chất
của câu chuyện đang được đề cập tới”.


23
1.1.4. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong lời bình phóng sự truyền hình
“Sử dụng là đem dùng vào mục đích nào đó” [18, tr.491]. Hành vi sử
dụng chỉ xuất hiện trong thế giới con người và là hành động có mục đích, có
tính toán nhằm mục đích đem lại hiệu quả tốt nhất. Hành động “sử dụng” chỉ
xuất hiện khi có đối tượng để khai thác. Ví dụ: sử dụng cái bút, sử dụng
quyển vở… Trong trường hợp này, đối tượng đem ra để “dùng” hay nói cách
khác để “sử dụng” đó là cái bút hoặc quyển vở.Và quyển vở hay cái bút được

dùng vào việc ghi chép, học tập. Nếu như khai thác là hành động số một - là
sự tìm kiếm và sử dụng là hành động tiếp theo thứ hai, là việc dùng những thứ
đã khai thác được vào một công việc, một tình huống cụ thể một cách có mục
đích để đạt hiệu quả tốt nhất. Khai thác luôn hướng tới việc là tìm kiếm mong
sao đem về (cho mình, cho đơn vị mình) những sản phẩm, vật phẩm, thông
tin… càng nhiều càng tốt thì sử dụng lại hướng tới việc dùng có chủ đích
những cái “kiếm được” đó với mong muốn sao có hiệu quả nhất.
Vậy, từ sự phân tích đó, kết hợp với những khái niệm nêu trên có thể
quan niệm:“Sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong lời bình của phóng sự truyền
hình là việc xen kẽ vào lời bình một số thành ngữ, tục ngữ hợp với nội dung
tác phẩm nhằm thay thế những câu văn xuôi diễn đạt dài dòng giúp cho tác
phẩm thêm dễ hiểu và tăng phần cảm xúc trong tiếp nhận.”. Sử dụng thành
ngữ, tục ngữ trong lời bình phóng sự truyền hình là một xu thế của báo chí nói
chung và của truyền hình nói riêng. Cách đưa thành ngữ, tục ngữ vào lời bình
phóng sự truyền hình được các phóng viên, biên tập viên sử dụng từ rất lâu và
nhằm đưa ra những lời bình sâu sắc, dễ cảm nhận nhất cho người xem. Bằng
cách đưa thành ngữ, tục ngữ; lời bình phóng sự truyền hìnhvừa mang phong
cách hiện đại, vừa dí dỏm, hàm súc, gây ấn tượng cho người đọc. Do vậy, nếu
nhà báo biết vận dụng thành ngữ, tục ngữ một cách thích hợp với sự kiện thì


24
bài viết sẽ trở nên độc đáo, cô đọng, hấp dẫn hơn so với cách thể hiện thông
thường.

1.2. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng
thành ngữ, tục ngữ trong lời bình phóng
sự truyền hình
- Làm cho phóng sự trở nên “mềm mại”, giàu thông tin, cảm xúc và dễ
tiếp nhận

Thành ngữ, tục ngữ là lời ăn tiếng nói, là sự đúc kết những kinh nghiệm
từ cuộc sống hàng ngày của nhân dân lao động. Đó là những lời nói ngắn gọn
nhằm kết tinh kinh nghiệm, lối sống và tinh hoa văn hóa của dân tộc. Nó là
kết tinh tinh hoa của ngôn ngữ vì tục ngữ, thành ngữ rất ngắn gọn dễ sáng tác,
dễ nhớ và dễ truyền miệng. Ngôn ngữ hàm súc, ít lời nhưng nhiều ý. Do
vậy,những bài phóng sự có dùng thành ngữ, tục ngữ hợp lý góp phần người
xem tiếp nhận thông tin dễ dàng và cảm xúc hơn. Ví dụ: câu nói: “Đêm ấy
trời rất tối, chúng tôi nhìn chẳng thấy gì cả”. Nói như vậy cũng rất rõ, nhưng
chưa phải là cực tả, chưa có hình tượng gì. Nếu dùng thành ngữ: “Đêm ấy,
trời tối đen như mực, hay tối ngửa bàn tay không thấy; ... tối như hũ nút ; ...
tối như đêm ba mươi” …thì câu văn sẽ dễ hay cũng như dễ hiểu hơn.
- Tạo nên sự độc đáo, ấn tượng cho lời bình nói riêng và cho tác phẩm
nói chung
Nếu nhà báo biết vận dụng thành ngữ, tục ngữ một cách thích hợp với
sự kiện thì bài viết sẽ trở nên độc đáo.Việc lựa chọn, trích dẫn các thành ngữ
và tục ngữ trên báo chí cũng có thể đem đến tác dụng không kém các hình
tượng văn học trong việc gây ảnh hưởng đối với người đọc. Các thành ngữ và


25
tục ngữ xuất hiện dưới dạng trích dẫn trong bài báo, nếu được sử dụng một
cách lôgic, có tính nghệ thuật sẽ đem lại hiệu quả vượt xa bất kì sự miêu tả
hay tường thuật nào, bởi lẽ nó đáp ứng được cả hai yêu cầu của ngôn ngữ báo
chí. Những ý tưởng, tình cảm, thái độ, quan điểm của nhà báo đối với sự kiện
của người viết được thể hiện một cách sâu sắc, ẩn ý hơn. Đó là những thông
tin ngoài lời. Đồng thời, nó còn mang mục đích chia sẻ, tác động nhất định tới
độc giả bằng chính kiến của tác giả. Trong một số trường hợp viết về vấn đề
cần phê phán (tệ nạn xã hội, những hành vi vi phạm đạo đức, vi phạm những
quy tắc, chuẩn mực xã hội )thì việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ sẽ giúp nói tới
hàm ý phê phán, cảnh báo kín đáo, thâm thúy hơn.

– Góp phần làm nên phong cách riêng của tác giả
Với đặc trưng ngắn gọn, có vần, có nhịp; thành ngữ, tục ngữ trong lời
bình phóng sự truyền hình giúp bài báo tạo ra cách nói hàm súc, gây bất ngờ,
hứng thú với bạn đọc. Việc sử dụng thành ngữ một cách sáng tạo và thuần
thục làm cho câu văn có tính cân đối và nó diễn tả một nội dung sâu sắc, dễ đi
vào lòng người đọc.Nhất là với các thành ngữ, tục ngữ được sử dụng sáng tạo
như: hoán đổi vị trí các yếu tố, cải biên các yếu tố, chơi chữ…Các thành ngữ,
tục ngữ này tạo cách truyền tải thông tin cô đúc, ngắn gọn, hấp dẫn, dễ dàng
góp phần tạo nên phong cách riêng của mỗi cây bút.
Mỗi nhà báo đều có đặc trưng, phong cách riêng trong lời trần thuật của
mình. Phong cách viết cũng như phong cách ngôn ngữ của một tác giả thấm
sâu vào mọi thành tố, mọi tế bào của tác phẩm.Câu văn - đơn vị có thể chứa
tục ngữ, thành ngữ - cũng là thành tố thể hiện phong cách. Chọn hoặc sáng
tạo được câu tục ngữ thể hiện phong cách riêng của nhà báo sẽ làm hình ảnh
nhà báo còn mãi trong tâm hồn người xem truyền hình.
Trước một vấn đề, nhà báo có thể tận dụng vốn thành ngữ, tục ngữ của
dân tộc để “kể”, để “nâng tầm”, để làm sâu sắc, sâu lắng câu chuyện. Nếu biết


×