Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

PHÂN TÍCH CÁC GIÁ TRỊ TÀI NGUYÊN ĐỂ TẠO RA SẢN PHẨM DU LỊCH ĐẶC TRƯNG – PHỐ CỔ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.92 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
--- o0o ---

ĐỀ ÁN
MODULE TỔNG QUAN DU LỊCH
BẢN THẢO
Tên đề tài:

PHÂN TÍCH CÁC GIÁ TRỊ TÀI NGUYÊN ĐỂ TẠO RA SẢN PHẨM
DU LỊCH ĐẶC TRƯNG – PHỐ CỔ HÀ NỘI

Giảng viên hướng dẫn: PGS. TS Nguyễn Văn Mạnh
Sinh viên thực hiện:

Nguyễn Mai Anh

Mã sinh viên:

11140159

Lớp:

POHE – Lữ hành K56

Hà Nội - 2016


MỤC LỤC



LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hà Nội là mảnh đất Ngàn năm vạn vật, luôn tồn tại trong tiềm thức mỗi
con người đất Việt, “Dù có đi bốn phương trời, lòng vẫn nhớ về Hà Nội”, một
biểu tượng văn hóa bậc nhất của con người và đất nước ta. Nhắc đến Thủ đô
Hà Nội không thể không nhắc tới 36 phố cổ nằm gọn gàng cổ kính trong trái
tim của Thủ đô yêu dấu. Phố cổ Hà Nội nổi bật và độc đáo với các phố nghề,
phố chuyên kinh doanh có từ lâu đời gắn liền với đời sống văn hóa, sinh hoạt
của người dân đất Kinh Kỳ. Khu phố cổ Hà Nội với sức hấp dẫn lan tỏa mạnh
mẽ với những giá trị văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc là một nơi
có tiềm năng du lịch rất lớn. Tuy nhiên, hiện nay mặc dù khu phố cổ đã mang
sức hút của mình đến với nhiều du khách trên thế giới tuy nhiên tiềm năng của
du lịch phố cổ vẫn chưa được vận dụng hết và phương hướng phát triển chưa
được đồng đều và có quy mô. Bởi vậy, em thấy đây là một đề tài phù hợp vs
khả năng và niềm yêu thích của mình
2. Mục đích của đề tài
Nghiên cứu, tìm hiểu về khu phố cổ Hà Nội để từ đó đưa ra những ý kiến
đóng góp cho sự phát triển du lịch của khu phố cổ nhằm phát triển du lịch của thủ
đô Hà Nôi.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận thông tin dữ liệu
- Phương pháp khảo sát thực địa
4. Phạm vi nghiên cứu
Khu phố cổ Hà Nội
5. Đối tượng nghiên cứu
Các công trình kiến trúc trong khu phố cổ
Các tổ chức cá nhân kinh doanh phục vụ du lịch phố cổ
1. Nhận thức rõ giá trị tài nguyên để phát triển sản phẩm du lịch
1.1. Tài nguyên du lịch
1.1.1. Khái niệm


1


Tài nguyên hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các nguồn nguyên liêu, năng
lượng và thông tin trên Trái Đất và trong không gian vũ trụ mà con người có thể sư
dụng phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của mình.
“Tài nguyên du lịch là tổng thế tự nhiên, văn hóa lịch sư cùng các
thành phần của chúng trong việc khôi phục và phát triển thể lực và trí lực
của con người, khả năng lao đông và sức khỏe của họ, những tài nguyên này
được sư dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp cho việc sản xuất dịch vụ du
lịch với nhu cầu thời điểm hiện tại hay tương lai và trong điều kiện kinh tếkỹ thuật cho phép.” (Pirojnik,1985)
“Tát cả giới tự nhiên và xã hội loài người có sức sức hấp dẫn khách du lịch,
có thể sư dụng cho ngành du lịch, có thể sản sinh hiệu quả kinh tế-xã hội hội và môi
trường có thể gọi là tài nguyên du lịch” (Ngô Tất Hổ, 2000)
“ Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích
lịch sư văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân
văn khác có thể được sư dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản
để cấu thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.”
( Luật du lịch Việt Nam, 2005)
Tài nguyên du lịch là một dạng đặc sắc của tài nguyên nói chung. Khái
niệm của tài nguyên du lịch luôn gắn liền với du lịch nói chung. Tài nguyên du
lịch được xem như tiền đề để phát triển du lịch . tài nguyên du lịch càng phong
phú , càng đặc sắc bao nhiêu thì sức hấp dẫ và hiệu quả hoạt động du lịch càng
cao bấy nhiêu.
1.1.2. Đặc điểm
- Khối lượng các nguồn tài nguyên và diện tích phân bổ các nguyền tài
nguyên là cơ sở cần thiết để xác định khả năng khai thác và tiềm năng của hệ thống
lãnh thổ nghỉ ngơi, du lịch.
- Khối lượng các nguồn tài nguyên và diện tích phân bổ các nguồn tài

nguyên là cơ sở cần thiết để xác định khả năng, khai thách và tiềm năng của hệ
thống lãnh thổ, nghỉ ngơi, du lịch.
- Thời gian khai thác xác định tính mùa vụ của du lịch, nhịp điệu của

2


dòng khách
- Tính bất biến về mặt lãnh thổ của đa số các loại tài nguyên tạo nên lực hút
cơ sở hạ tầng và dòng du lịch tới nơi tập trung cấc loại tài nguyên đó.
- Vốn đầu tư tương đối thấp và giá thành chi phí sản xuất không cao cho
phép xây dựng tương đối nhanh chóng cơ sở hạ tầng và mang lại hiệu quả kinh tếxã hội cũng như khả năng sư dụng độc lập từng loại tài nguyên.
- Tài nguyên du lịch có khả năng sư dụng nhiều lần nếu tuân theo các qui
định về sư dụng tự nhiên một cách hợp lý, thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo
vệ chung.
Muốn đánh giá tài nguyên du lịch cần phải tổng hợp nhiều tri thức của các
lĩnh vực khoa học, sinh lý học, tâm lý học, thủy lý học, địa lí tự nhiên và địa lí kinh
tế, lịch sư văn hóa và nghệ thuật , kiến trúc và đô thị, kế hoạch hóa lãnh thổ và kinh
tế du lịch. Khía cạnh lãnh thổ của các đánh giá tài nguyên du lịch là nhiệm vụ của
địa lí du lịch
1.2. Phân loại tài nguyên du lịch
1.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
1.2.1.1 Khái niệm
Theo Khoản 1 (Điều 13, Chương II) Luật Du Lịch Việt Nam năm 2005 quy
định: “Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí
hậu, thủy văn, hệ sinh thái, cảnh quan tự nhiên đang được khai thác hoặc có thể
được sư dụng phục vụ mục đích du lịch”
1.2.1.2. Đặc điểm
Nếu được quy hoạch, bảo vệ, khai thác hợp lý theo hướng bền vững thì phần
lớn các loại tài nguyên du lịch tự nhiên được xếp vào loại tài nguyên vô tận, tài

nguyên có khả năng tái tạo hoặc có quá trình suy thoái chậm. Hầu hết việc khai thác
tài nguyên du lịch tự nhiên chịu ảnh hưởng nhiều vào điều kiện thời tiết. Một số
điểm phong cảnh và du lịch dựa vào tài nguyên tự nhiên thường nằm xa các khu
đông dân cư
1.2.1.3. Phân loại tài nguyên du lịch tự nhiên
• Địa hình

3


Địa hình là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên phong cảnh
và sự đa dạng của phong cảnh nơi đó. Đối với du lịch, các dấu hiệu bên ngoài của
địa hình càng đa dạng và đặc biệt thì càng có sức hấp dẫn du khách.
• Khí hậu
Khi hâu cũng được coi là một dạng tài nguyên du lịch. Trong các chỉ tiêu về
khí hâu, đáng lưu ý nhất là nhiệt độ và độ ẩm không khí. Ngoài ra còn phải tính đến
các yếu tố khách như gió, áp suất khí quyển, ánh nắng mặt trời, và các hiện tượng
thời tiết đặc biệt.
Trên thực tế, điều kiện khí hậu là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến các
chuyến du lịch và hoạt động dịch vụ du lịch. Mỗi loại hình du lịch thường đòi hỏi
những điều kiện khí hậu khác nhau. Ví dụ du khách đi du lịch biển thì cần phải
chọn những dịp ít mưa, nắng nhiều, gió mát còn khách đi trượt tuyết thì phải chọn
nhưng ngày có lượng tuyết lớn ít nắng nếu không sẽ bị tan tuyết.
Cần phải lưu ý đến những hiện tượng thời tiết đặc biệt làm cản trở đến kế
hoạch du lịch như bão , duyên hải, hải đảo, gió mùa đông bắc, gió tây, lốc lũ…
Tính mùa của khí hậu cũng gây ảnh hưởng rõ rệt đến tính mùa vụ trong du
lịch. Các vùng khác nhau trên thế giới có mùa du lịch khác nhau di ảnh hưởng của
yếu tố khí hậu. Do đấy tùy nơi trên thế giới mà hoạt động du lịch có thể diễn ra ra
quanh năm hoặc chỉ một vài tháng.
• Nguồn nước

Tài nguyên nước bao gồn nước chảy trên bề mặt và nước ngầm. Đối với du
lịch thì nước trên bề mặt đóng một vai trò quan trọng, bao gồm nước đại dương,
sông, hồ, suối, thác…Hiện nay với sự phát triển của du lịch, ta còn có nhiều lọai du
lịch đến với các vùng sông hồ suối thác giúp con người hòa mình với thiên nhiên
gần gũi với nguồn nước hơn.


Sinh vật

Ngày nay thị hiếu về du lịch ngày càng trở nên đa dạng. Sau thời gian lao
động mệt mỏi, con người cần được nghỉ ngơi để hồi phục sức khỏe, đảm bảo khả
năng lao động lâu dài… Việc đi du lịch đến các nơi có phong cảnh đẹp, thiên nhiên
trong lành,… là cách để nghỉ ngơi rất tốt. Tài nguyên sinh vật có ý nghiax rất lớn

4


đối với việc phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch lịch sinh thái săn bắn, thể thao,
nghiên cứu khoa học. Ở Việt Nam hiện nay có 10 vườn quốc gia, 61 khu bảo tồn
thiên nhiên, 34 khu rừng văn hóa lịch sư…
• Các cảnh quan du lịch tự nhiên
Là nơi có dạng tài nguyên du lịch tự nhiên hấp dẫn, có khả năng thu hút
khách du lịch và giới hạn trong một không gian không lớn lắm
• Các di sản thiên nhiên thế giới
Để được coi là một di sản thiên nhiên thế giới cần phải là những mãu hết sực
tiêu biểu cho những giai đọa tiến hóa của Trái đất, tiêu biểu cho các quá trình địa
chát đang diễn biển cho thấy sự tiến hóa sinh học và tác động qua lại giữa con
người và môi trường tự nhiên. Nơi ấy có những hiện tượng tạo thành hoặc đặc điểm
tự nhiên hết sức nổi bật tiêu biểu cho một hệ sinh thái quan trọng hoặc bao gồm
những nơi cư trú tự nhiên quan trọng nhất và tiêu biểu nhất trong đó sống sót những

loại thực vật và động vật bị đe doa và có giá trị toàn cấu, đặc biệt về mặt khoa học
hoặc bảo tồn
1.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
1.2.2.1 Khái niệm
Theo Khoản 2 (Điều 13, Chương II) Luật Du Lịch Việt Nam năm 2005 quy
định: “Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hoá,
văn nghệ dân gian, di tích lịch sư, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao
động sáng tạo của con người và các di sản văn hoá vật thể, phi vật thể khác có thể
được sư dụng phục vụ mục đích du lịch”
Đó người và là những đối tượng, hiện tượng do con người tạo ra trọng quá
trình phát triển. Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hoá, các yếu tố
văn hoá, văn nghệ dân gian, di tích lịch sư, di tích cách mạng, khảo cổ, kiến trúc,
các công trình lao động sáng tạo của con người, các di sản văn hoá vật thể, phi vật
thể khác có thể được sư dụng phục vụ mục đích du lịch.
1.2.2.2. Đặc điểm
Tài nguyên du lịch nhân văn do con người tạo ra nên chịu tác động của thời

5


gian, thiên nhiên và do chính con người.Vì vậy dễ bị suy thoái, hủy hoại và không
có khả năng tự phục hồi ngay cả khi không có sự tác động của con người. Vì vậy di
tích lịch sư - văn hóa khi bị bỏ hoang cũng bị xuống cấp nhanh chóng; những giá trị
văn hóa phi vật thể như những làn điệu dân ca, các vũ khúc, các lễ hội, các làng
nghề truyền thống, phong tục tập quán,…khi không được bảo tồn và phát huy có
hiệu quả sẽ bị mai một hoặc biến mất. Do vậy, khi khai thác tài nguyên du lịch nhân
văn cho mục đích phát triển du lịch cần quan tâm đầu tư cho bảo tồn, tôn tạo thường
xuyên, khoa học và có hiệu quả. Tài nguyên du lịch nhân văn là do con người sáng
tạo ra nên có tính phổ biến. Ở đâu có con người, ở đó có tài nguyên nhân văn. Vì
vậy, các địa phương, các quốc gia đều có tài nguyên nhân văn, trong đó có nhiều

loại có sức hấp dẫn với du khách, đã hoặc sẽ có thể sư dụng cho phát triển du lịch.
Tài nguyên du lịch nhân văn ở mỗi vùng, mỗi quốc gia thường mang những đặc sắc
riêng. Do điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội là những yếu tố nuôi
dưỡng tạo thành tài nguyên du lịch nhân văn ở mỗi địa phương, mỗi quốc gia không
giống nhau nên tài nguyên du lịch nhân văn ở mỗi khu vực, mỗi quốc gia có giá trị
đặc sắc riêng, góp phần tạo nên những sản phẩm du lịch độc đáo có sức cạnh tranh
và hấp dẫn du khách riêng. Do vậy, trong quá trình khai thác, bảo tồn tài nguyên du
lịch nhân văn cần coi trọng việc bảo vệ, phát huy giá trị độc đáo của tài nguyên. Tài
nguyên du lịch nhân văn thường được phân bố gần các khu dân cư, đặc biệt tập
trung nhiều ở những khu vực đông dân cư. Bởi nó được sinh ra trong quá trình phát
triển xã hội và là sản phẩm do con người sáng tạo ra. Khác với tài nguyên du lịch tự
nhiên, việc khai thác phần lớn tài nguyên du lịch nhân văn thường ít chịu ảnh hưởng
của các hiện tượng thời tiết gây nên như mưa hay rét nên tính mùa vụ cũng ít hơn so
với tài nguyên du lịch tự nhiên
* Sở thích của người tìm đến tài nguyên du lịch nhân tạo phụ thuộc vào độ
tuổi, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thành phần dân tộc, thế giới quan, vốn trí thức
của họ. ( Điều 13, chương II. Luật du lịch Việt Nam số 44/2005/QH 11 ngày 14
tháng 6 năm 2005).
1.2.2.3 Phân loại tài nguyên du lịch nhân văn

6


• Các di tích lịch sư văn hoá
Các di tích lịch sư văn hoá là những công trình được tạo ra bởi tập thể hoặc
cá nhân con người trong quá trình sáng tạo lịch sư, hoạt động văn hoá. Văn hoá bao
gồm: văn hoá vật chất, văn hoá xã hội và văn hoá tinh thần.
Ở Việt Nam theo pháp lệnh bảo vệ và sư dụng di tích lịch sư và danh lam
thắng cảnh, công bố ngày 4 tháng 4 năm 1984 được quy định:
“ Di tích lịch sư văn hoá là những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài

liệu và các tác phẩm có giá trị lịch sư, khoa học, nghệ thuật cũng như văn hoá khác,
hoặc liên quan đến các sự kiện lịch sư, qua trình phát triển văn hoá – xã hội”.
“ Danh lam thắng cảnh là những khu vực thiên nhiên hoặc có những công
trình cổ nổi tiếng”.
• Các lễ hội
Lễ hội là một hình thức văn hoá đặc sắc phản ánh đời sống tâm linh của một
dân tộc.
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tập thể của nhân dân sau những ngày lao
động vất vả, hoặc là một dịp mọi người hướng về một sự kiện lịch sư trọng đại của
đất nước hoặc liện quan đến những sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân. Do vậy, lệ
hội có tính chất cao đối với du khách Việt Nam.


Các nghề và làng nghề thủ công truyền thống

Nước ta là một đất nước có nhiều nghề thủ công truyền thống như chạm khắc
đá, nghề đúc đồng, nghề kim hoàn, nghề gốm, nghề mộc, nghề mây tre đan, nghề dệt…
mỗi làng nghề đều có lịch sư phát triển lâu dài và khá độc đáo. Đến với các làng nghề,
khách du lịch sẽ được chiêm ngưỡng sự khóe léo của những nghệ nhân và biết thêm
được về lối sống, những tư duy triết học, những tâm tư tình cảm của con người.
• Các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học
Là những điều kiện sinh sống, những đặc điểm văn hoá phong tục tập quán,
hoạt động sản xuất với những sắc thái riêng của các dân tộc.
Những tập tục riêng về cư trú, về tổ chức xã hội, về sinh hoạt, trang phục và
ẩm thực,về ca múa nhạc…

7


• Các đối tượng văn hoá thể thao hay những hoạt động có tính sự kiện

Các trung tâm khoa học, các trường đại học, các thư viện lớn, các bảo
tàng… Những hoạt động mang tính sự kiện như các giải trí thể thao lớn, các
cuộc triển lãm những thành tựu kinh tế quốc dân, các hội chợ, các liên hoan
phim ảnh quốc, ca nhạc.
1.3. Ảnh hưởng của tài nguyên du lịch đến hoạt động du lịch
Du lịch là ngành công nghiệp không khói, là một trong những ngành có đóng
góp to lớn vào tổng thu nhập quốc dân và là ngành mũi nhọn của nhiều nước phát
triển bằng con đùng du lịch. Phát triển du lịch đêm lại những lợi ích như dóng góp
vào sự phát triển của đất nước, tăng nguồn thu ngoại tệ, giúp chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, phát huy lợi thế, thúc đẩy các ngành kinh tế khác cùng phát triển. Ngành du
lịch cũng được coi là ngành thúc đẩy sự hiểu biết văn hóa và hòa bình. Nếu như tài
nguyên du lịch tự nhiên thu hút khách bởi sự hoang sơ, hùng vĩ, độc đáo và hiếm
hoi của nó thì tài nguyên du lịch nhân văn thu hút khách bởi tính phong phú, đa
dạng và tính truyền thống, cũng như tính địa phương của nó. Các đối tượng văn
hóa, tài nguyên du lịch nhân văn là cơ sở để tạo nên các loại hình du lịch văn hóa
phong phú, nó đánh giấu sự khác biệt giữa nơi này và nơi khác, quốc gia này với
quốc gai khác, dân tộc này với dân tộc khác và là yếu tố thúc đẩy động cơ đi du lịch
của du khách, kích thích quá trình lữ hành. Ngày nay du lịch văn hóa là một xu
hướng mang tính toàn cầu, trong đó văn hóa trở thành nội hàm, động lực để phát
triển du lịch bền vững, giá trị văn hóa khiến sản phẩm du lịch mang đậm nét độc
đáo nhân văn, được coi là nguồn tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn có vai trò đặc
biệt quan trọng trong hoạt động du lịch.
Trong những chuyến đi tham quan tài nguyên du lịch nhân văn khách không
chỉ được tham quan mà còn có thể tìm hiểu và nghiên cứu khoa học.
Tài nguyên du lịch nhân văn đa số không có tính mùa vụ, không phụ thuộc
vào tự nhiên và các điều kiện tự nhiên khác, do vậy tài nguyên du lịch nhân văn góp
phần giảm nhẹ tính mùa, tính thời vụ của các loại hình du lịch khác. Các loại tài

8



nguyên du lịch nhân văn hầu như đều có thể khai thác phục vụ du lịch quanh năm
2.

Phố cổ Hà Nội – Giá trị tài nguyên nhân văn độc đáo để tạo sản

phẩm du lịch Hà Nội
2.1. Tổng quan về phố cổ Hà Nội
2.1.1 Đặc điểm về vị trí địa lý, dân sô
• Vị trí địa lý
Theo quyết nghị số 70 BXD/KT-QH ngày 30/3/1995 của bộ Xây dựng, khu
phố cổ Hà Nội có phạm vi được xác định là
- Phía Bắc: phố Hàng Đậu
- Phía Tây là phố Phùng Hưng
- Phía Nam là các phố Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ và Hàng Thùng
- Phía Đông là đường Trần Quang Khải và đường Trần Nhật Duật
Trước đây Hà Nội chỉ có 36 phố phường tuy nhiên sau khi được quy hoạch
lại, khu phố cổ Hà Nội thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm có tổng diện tích khoảng
100ha, có 76 tuyến phố thuộc 10 phường: Phường Hàng Đào, Hàng Bạch, Hàng
Buồm, Hàng Bồ, Hàng Bông, Hàng Gai, Hàng Mã, Đồng Xuân, Cưa Đông, Lý Thái
Tổ, mặc dù các phố cổ Hà Nội còn nằm cả bên ngoài khu vực này, nhưng do đây là
khu vực tập trungphoos cổ nhiều nhất và còn giữ được những đặc trưng nên chỉ khu
vực theo quy định được gìn giữ và bảo tồn là khu phố cổ.
• Dân số
Phố cổ là một khu kinh doanh buôn bán sầm uất và sôi động tại Hà Nội. Với
lợi thế vị trí trung tâm, nơi có lượng khách du lịch ghé thăm khá cao, lưu lượng
người qua lại động, việc mở rộng diện tích kinh doanh ngày càng gia tăng. Với cơ
hội kinh doanh, buôn bán với nguồn thu nhập cao giúp họ duy trì được cuộc sống
ổn định nên nhiều hộ gia đình đang sống tại đây qua nhiều thế hệ không muốn
chuyển ra ngoài.

Theo những tài liệu nghiên cứu thì đầu những năm 90, dân số tại Phố cổ
trong giai đoạn này là khoảng 80.000 dân, đến nay dân số tuy đã giảm bớt xuống
còn khoảng 60,372 người nhưng mật độ dân số vẫn khá đông. Vào năm 2000, mật

9


độ dân số khu phố cổ là 74058 người/ha, gấp hai lần mật độ dân số trong Quận
Hoàn Kiếm (32419 người/ha).
Dân cư phố cổ từ đầu có nguồn gốc từ các làng nghề xung quanh đến đây
sinh sống, họ định cư ở đây để vừa sản xaauts vừa buôn bán các sản phẩm thủ công
được truyền qua nhiều thế hệ.
2.1.2. Đặc điểm về kinh tế-văn hóa-xã hội
• Đặc điểm kinh tế
Phố cổ Hà Nội được hình thành từ thế kỷ 15, bao gồm 36 phố phường mỗi
pường là 1 khu tập trung dân cư sản xuất và buôn bán các ngành nghề thủ công.nề
kinh tế phố cổ chủ yếu phát triển dựa trên sự kết hợp thương mại và hoạt động thủ
công mà trong đó thương mại đóng vai trò là chủ yếu. Sau nhiều năm Việt Nam đã
có những bước tiến thay đổi đầy màu sắc trong thời gian vừa qua. Điều này đã tác
động và biến khu phố cổ trở thành trung tâm kinh tế sôi động nhất với nhiều công ty
doanh nghiệp tập trung tại đây. các hoạt động kinh tế dặc trưng của khu phố cổ là
thương mại, du lịch và dịch vụ. Sự phát triển nhanh của kinh tế đã góp nhiều nguồn
tài chính cho ngân sách Chính phủ và địa phương, tạo thêm nhiều việc làm cho
người đân khu vực
• Đặc điểm văn hóa xã hội
- Giáo dục: Phố cổ là nới sinh sống chủ yếu của những người Hà Nội gốc,
những gia đình trí thức và có truyền thống lâu đời. Tuy đã có sự di chuyển về dân
số, song những sự thay đổi đó không làm thay đổi những nét truyền thống của
người dân nơi đây. Cho đến bây giờ, chúng ta vẫn có theertuwj hào nói phố cổ là
một khu dân trí cao.

- Đời sống: Quần Hoàn Kiếm là trung tâm thành phố Hà Nội, trong quận có
tới 7 bệnh viện lớn, mỗi phường trong quận cũng có trạm y tế riêng. Đây là điều
kiện thuân lợi cho người dân phố cổ đến khách và chăm sóc sức khỏe.
- Văn hóa: Phố cổ không chỉ là một trung tâm kinh tế mà còn là một trung
tâm văn hóa đa dangh: văn hóa ẩm thực phong phú. Đình, đền, chùa, miếu… là

10


những công trình kiến trúc in đậm dấu ấn văn hóa đặc trưng của vùng đất này. Bên
cạnh đó là những di sản văn hóa phi vật thể như ca dao, truyện cổ, tín ngưỡng tâm
linh, cách sống…Hà nội 36 phố phường khoog chỉ đơn thuần là sự hiện diện của
những văn hóa vật th nhuwngax công trình kiến trúc mà còn là còn là khía cạnh văn
hóa phi vật thể, đó chính là cái hồn của khu phố cổ.
2.1.3. Giá trị kiến trúc-cảnh quan
Phố cổ Hà Nội với lịch sư lâu đời luôn là niềm tự hào về một di sản kiến trúc
quý báu mang đậm bản sắc truyền thống văn hóa của dân tộc và xứng đáng tượng
trưng cho cốt cách linh hồn của Thu đô ngàn năm văn hiến. Các giá trị văn hóa của
khu phố cổ Hà Nội được nhận biết đồng thời qua các đặc trưng hình thái kiến trúc
vốn được tạo thành bởi phương thức tổ chức, đặc thiù về hoạt động kinh tế xã hội
và văn hóa của cộng đồng dân cư.
Khu Phố cổ Hà nội là một quần thể kiến trúc độc đáo, mang nặng bản sắc
dân tộc Việt. Khu Phố cổ Hà nội có sắc thái đặc trưng của một khu dân cư sản xuất
chủ yếu là nghề thủ công truyền thống. Nơi đây diễn ra đồng thời nhiều hoạt động
trong đời sống hằng ngày của cư dân đô thị: sinh sống, bán hàng, sản xuất, lễ hội,
nghỉ ngơi, vui chơi giải trí, tạo nên một sức sống mãnh liệt để khu Phố cổ tồn tại
vĩnh viễn và phát triển không ngừng.
2.1.4. Lịch sử hình thành và phát triền của phô cổ Hà Nội
Thủa xa xưa, dọc theo hai bờ sông Hồng đã hình thành những khu vực dân
cư sinh sống, quần tụ thành những làng nhỏ. Vào thế kỷ thứ V (454 - 456), thuộc

thời kỳ Bắc thuộc, một trong những điểm dân cư này phát triển thành một quận nhỏ
có tên là Tống Bình. Trải qua hàng ngàn năm, từ một đô thị sơ khai của người Việt
với quy mô nhỏ bé, Tống Bình đã trở thành một thành phố trên ba triệu dân và là
một trung tâm đầu não về chính trị, quốc phòng, văn hoá, kinh tế quan trọng của đất
nước Việt Nam. Từ Tống Bình tới Hà Nội ngày nay là cả một quá trình đô thị hoá
phức tạp diễn ra trong một không gian rộng với quy mô lớn.
Trong thời kỳ phong kiến, Hà Nội sớm trở thành trung tâm chính trị của đất
nước khi viên đô hộ Cao Biền cho mở rộng Đại La Thành vào năm 866 và đặt tại

11


đây đại bản doanh của chính quyền đô hộ Trung Hoa. Nhưng Hà Nội chỉ trở thành
thủ đô của nước Đại Việt vào năm 1010, khi Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ vị vua
đầu tiên của triều đại Lý quyết định cho dời đô từ Hoa Lư về Đại La.
Dưới thời nhà Lý, nhà Trần, Phố cổ Hà nội bao gồm nhiều phường trong
tổng số 61 phường thời đó. Dưới thời Lê, đầu thế kỷ XVI, Hà Nội trở thành Đông
Kinh, khắp nơi đổ về buôn bán làm ăn trong 36 phường lúc bấy giờ, và dần dần, nơi
đây chính là khu Phố Cổ thời nay.
Từ thế kỷ XV khu Kinh Thành gọi là phủ Trung Đô gồm 2 huyện với tổng số
36 phường. Trong thời kỳ này đa phần huyện Thọ Xương, hầu hết các phố đều là
nơi buôn bán. Rất nhiều đền và chùa cũng được xây vào thời kỳ này.
Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX thành phố đã thiết lập một mạng lưới chợ.
Phía đông là khu dân cư, kinh thành, nơi tập trung các phường nghề.
Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội, quy hoạch Hà Nội bắt đầu có sự
thay đổi: Khu Phố Cổ có nhiều thay đổi mạnh mẽ. Đường phố được nắn lại, có hệ
thống thoát nước, có hè phố, đường được lát trải nhựa và có hệ thống chiếu sáng.
Nhà cưa hai bên đường phố được xây gạch lợp ngói. Bên cạnh những nhà cổ mái
ngói với các gờ đấu, bờ nóc dật tam cấp xuất hiện các ngôi nhà có mặt tiền được
làm theo kiểu cách Châu âu.

Từ 1954 trở đi, do chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư nhân;
chính sách phát triển sản xuất, chính sách kinh tế của thời bao cấp. Toàn bộ khu Phố
Cổ nơi buôn bán sầm uất đây đã trở thành khu đơn thuần để ở (1960 - 1983) dân cư
trở thành cán bộ, công nhân viên, phục vụ cho xí nghiệp, hợp tác xã các cơ quan
thành phố v.v... mặt tiền của nhiều nhà cưa được sưa lại thành mặt tiền nhà ở có cưa
đi và cưa sổ - phố xá yên tĩnh hơn; sự nhộn nhịp phố xá tuỳ ở từng nơi từng lúc
thường theo gìơ ca kíp đi làm vào sáng, trưa, chiều tối; sự nhộn nhịp còn ở các khu
chợ, các cưa hàng bách hoá, cưa hàng chuyên doanh của Nhà nước của hợp tác xã
(như chợ Đồng Xuân, chợ Hàng Da,...)
Khu Phố Cổ từ 1986 đến nay, với đường lối chính sách mới từ nền kinh tế
bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường; mở rộng sự giao lưu kinh tế và quan hệ với

12


quốc tế; mở rộng các thành phần kinh tế trong nước, khích lệ mọi tầng lớp nhân dân
xây dựng mở mang phát triển kinh tế văn hoá xã hội, buôn bán ở khu Phố Cổ dần
dần được phục hồi, phát triển và sầm uất hơn xưa. Các mặt tiền nhà được cải tạo đổi
mới - nhiều nhà xuống cấp, bị hỏng đã được xây dựng lại với nhiều kiểu cách.
Nhiều đình đền chùa được tu sưa, không khí tâm linh đã trở lại với khu Phố Cổ.
Góp phần vào không khí hoạt động của khu Phố Cổ trong gần thập kỷ nay là
sự qua lại tấp nập của dòng người du lịch phát triển là nhân tố tích cực thúc đẩy
hoạt động thương mại, dịch vụ, văn hoá.
2.2. Giá trị tài nguyên nhân văn khu phố cổ
2.2.1. Kiến trúc Phô cổ Hà Nội
Nhiều du khách lần đầu đến Hà Nội đã bị quyến rũ bởi vẻ đẹp của thủ đô,
một vẻ đẹp tạo nên bởi dáng vóc nhỏ nhắn, hiền hòa, cổ kính của kiến trúc kết hợp
hài hoà với mầu xanh của cây cối và hồ nước. Kiến trúc của Hà Nội mang đậm dấu
ấn của lịch sư dài lâu, chùa chiền, đền miếu có khắp nơi trên đất Hà Nội. Không khí
thanh tịnh được tạo ra chính bởi kiến trúc đơn sơ, giản dị, gần gũi với con người. Về

mặt kiến trúc, Hà Nội có thể chia thành các khu vực: khu phố cổ, khu thành cổ, khu
phố cũ, các khu mới qui hoạch.
Theo các nguồn sư liệu khác nhau thì khu phố cổ của Hà Nội ngày nay là
nhân lõi của kinh đô Thăng Long từ khi mới thành lập, tức là cũng đã có tới gần
ngàn năm tuổi.
Nói về địa giới không gian khu phố cổ thì có thể coi đó là một hình tam giác
cân có đỉnh là phố Hàng Than, cạnh phía đông là đê sông Hồng, cạnh phía tây là
Hàng Cót, Hàng Điếu, Hàng Da, còn đáy là trục Hàng Bông-Hàng Gai-Cầu Gỗ. Tại
khu phố này cho đến khi người Pháp đến, đều chung một dáng dấp, các phố chi chít
dọc ngang kiểu bàn cờ, phần lớn mang tên gọi của mặt hàng sản xuất kinh doanh tại
những nơi đó: Hàng Ðường, Hàng Bạc, Hàng Bồ,...
Tất cả các ngôi nhà hai bên đường đều theo kiểu "nhà ống". Nhà như một cái
ống, bề ngang hẹp, chiều dài sâu có khi thông ra một ngõ khác, phố khác. Chiều
rộng trung bình của mặt tiền từ 2-4m, trong khi đó chiều dài có thể từ 20-60m và có

13


một số trường hợp lên tới 150m. Bố cục cũng tương tự như sau: gian ngoài là chỗ
bán hàng hoặc làm hàng. Tiếp đó là khoảng sân lộ thiên để lấy ánh sáng. Trên sân
có bể cạn (trong có hòn non bộ, có cá vàng), quanh sân là cây cảnh, là giàn hoa.
Gian nhà trong mới là nơi ăn ở và nối vào đó là khu phụ. Ða số là nhà một tầng lợp
bằng những viên ngói nhỏ nhắn, với nét đặc trưng là hai bức tường hồi vượt lên
khỏi mái, xây giật cấp như những bậc thang và đầu nóc là hai trụ.
Thực dân Pháp xâm chiếm Hà Nội kéo theo sự xuất hiện của một kiểu nhà
được xây mới bằng gạch kiên cố, cao 2-3 tầng, được biến đổi trên nền cũ của những
ngôi “nhà hàng phố” hình ống quen thuộc của phố cổ. Với diềm mái, song cưa được
trạm trổ, cưa sổ rộng có hình chóp. Loại nhà này khá phổ biến mà ngày nay vẫn còn
khá nhiều ở các phố Hàng Bông, Hàng Buồm, Hàng Cót. Như vậy, bên cạnh những
đặc điểm của “nhà hàng phố”, những ngôi nhà cổ sau này đã có sự xen kẽ của các

chi tiết, yếu tố trang trí mang kiến trúc phương tây.
Sự kết hợp nhuần nhuyễn, khéo léo giữa lối kiến trúc mới và một phong các
cổ-mang đậm tính truyền thống Á Đông, đã tạo nên một tổng thể độc đáo, một bức
tranh sống động về một khu phố cổ “rêu phong cổ kính”, có sức hấp dẫn đặc biệt
trong tâm khảm của mỗi người Hà Nội cũng như sự quyến luyến không quên của du
khách phương xa. Khu phố cổ Hà Nội với những ngôi nhà ống nhỏ nhắn xinh xắn ,
những con đường ấm áp người đi, những đền chùa mái cong mềm mại, lại còn cả
những không gian, cây xanh mượt mà và ngọt ngào hương... tất cả đã làm nên một
vẻ đẹp mà chỉ Hà Nội mới có.
2.2.2. Các công trình kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng
Một trong những đặc trưng nổi bật của khu “36 phố phường” là sự kết hợp
hài hòa giữa nhà ở, cưa hàng và các công trình tôn giáo tín ngưỡng đình đền chùa.
Bên cạnh sự hoà đồng với tự nhiên và cộng đồng xã hội, người Hà Nội còn luôn tìm
cách hoà đồng với thế giới tâm linh, vì cùng với một không gian đô thị vật chất, vẫn
tồn tại một không gian đô thị mang mầu sắc huyền thoại, thiêng liêng, ở đó có thể
giao hoà cùng với quá khứ chứa chất sức mạnh tiềm ẩn.
• Đình

14


Một trong những loại sản kiến trúc cổ có giá trị phải kể đến đó là đình. Hiện
nay ở khu phố cổ tập trung 21 ngôi đình. Một trong những ngôi đình cổ và tiêu biểu
nhất là đình Thanh Hà số 1Ngõ Gạch, đình Tân Khai số 44 Hàng Vải, đình Trương
Thị thờ thần Hiên viên Hoàng Đế là ông tổ bách nghệ được xây dựng từ năm Gia
Long thứ 13 do 3 dòng họ Đôc-Hoàng-Phạm xây dựng tại 42 Hàng Bạc. Đình được
sư dụng vào nhiều mục đích. Đây là nơi thờ thành Hoàng làng-che chở cho cuộc
sống muô dân trong thôn, hoặc người có công sáng lập ra phường, làng đó; hay một
người trong truyền thuyết hoặc vị anh hùng có thực. Cư dân phố cổ chủ yếu là dân
từ những làng nghề thủ công tới làm ăn sinh sống vì vậy họ chủ yếu xây những ngôi

đình để thờ “ông tổ làng nghê” và dùng làm nơi sinh hoạt tụ họp của những người
cùng nghề với nhau. Tại đây thường diễn ra lễ tế rước các vị thần với các phần hội
gồm các trò chơi và bài hát dân gian thể hiện sức mạnh, tài năng trí tuệ. Tuy chỉ là
một thực thể bé nhỏ trong lòng phố cổ nhưng sự tinh tế trong kiến trúc của những
ngôi đình lại mang một giá trị rất lớn, giúp khách phần nào hình dung đời sống sinh
hoạt, lễ hội.. của dân làng cũng như những bàn tay khéo léo của những người thợ


Đình Kim Ngân thờ tổ sư nghề kim hoàn.



Đình Trương Thị thờ tổ sư nghề kim hoàn



Đình Lò Rèn thờ tổ sư nghề rèn.



Đình Hài Tượng thờ tổ sư nghề giày.



Đình Hàng Quạt (Xuân Phiến Thị) thờ tổ sư nghề quạt.



Đình Thuận Mỹ, đình Hà Vĩ thờ tổ sư nghề sơn.




Đình Hoa Lộc Thị thờ tổ sư nghề nhuộm.



Đình Tú Thị thờ tổ sư nghề thêu.



Đình Kiếm Hồ thờ tổ sư nghề vôi.



Đình Tranh Lâu thờ tổ sư nghề mộc.



Đình Nhị Khê thờ tổ sư nghề tiện.



Đình Phúc Hậu thờ tổ sư nghề gương.



Đình Hàng Thiếc thờ tổ sư nghề thiếc.

• Đền


15


Nếu như đình là nơi thờ cúng những vị thành hoàng thì đền là nơi thờ cúng
những vị anh hùng xuất hiện trong truyền thuyết, lịch sư, hay các vị thần sông núi,
nước…Hình dáng kiến trúc và cách sắp xếp của các ngôi đền trong khu vực phố cổ
cũng tương tự như đình, nhưng diện tích đền thì nhỏ hơn. Sự khách biệt chủ yếu
giữa đình và đến là các chi tiết điêu khắc trang trí. Một trong những ngôi dền cổ
nhất của khu phố cổ là đền Bạch Mã ở 76 Hàng Buồn được xây dựng từ thế kỷ XI,
thờ thần Bachj Mã và là một trong những ngôi đền biểu tượng cho khí thiên sông
núi ở kinh thành Thăng Long, một trong bốn Thăng Long tứ trấn. Ngoài ra cũng
không thể không kể đến đền Ngọc Sơn nằm ở hồ Hoàn Kiếm.
• Chùa
Chùa là nơi để thờ Phật và được đạt ở những nơi yen tĩnh, có cảnh quan đẹp
và nhiều cây cối. Bố cục mặt bằng kết cấu ở đây cũng như đình và đền. Kiến trúc
vừa đóng lại vừa mở, đóng ở nơi thờ cúng nhưng cũng có mối quan hề bên trong và
bên ngoài qua hàng hiên mà tạo nên khu đệm. Hai ngôi chùa điển hình trong khu
phố cổ là chùa Cầu Đông (thế kỉ X) và chùa Thái Cam (thế kỉ XIX).
Các loại hình kiến trúc đình, đền, chùa vừa mang một vẻ đẹp rất riêng cho
phố cổ Hà Nội, vừa được sư dụng là nơi thờ cúng tổ tiên, nhắc nhở con cháu về cội
nguồn, về gốc rễ của mình.
2.2.3. Các di tích lịch sử văn hóa
• Di tích cách mạng kháng chiến :
Chia làm 3 thời kỳ : - Thời trước cách mạng(trước 1930) : Bao gồm một
số điạ điểm cơ sở nuôi giấu cán bộ trong thời kỳ hoạt động bí mật. - Thời kỳ từ
1930 đến 1945 : Bao gồm trụ sở một số báo như Tin Lành, báo Lao Động, báo
Nhân Dân, báo Tin Tức, trong đó trụ sở báo Tin Tức - 105 (Phùng Hưng) đã
được xếp hạng; Một số cơ sở nuôi giấu cán bộ và đặc biệt là ngôi nhà 48 Hàng
Ngang - nơi Bác Hồ viết bản Tuyên Ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam
(hồ sơ di tích cách mạng kháng chiến 105 Phùng Hưng , 48 Hàng Ngang) ( đã

được xếp hạng ). - Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) :
Nhiều địa chỉ di tích trong giai đoạn này. Khu vực Phố cổ cũng là mặt trận chủ

16


yếu của Liên khu I trong thời kỳ chống Pháp. Đó là ngôi nhà 86 Hàng Bạc - trụ
sở của Trung đoàn Thủ Đô, chợ Đồng Xuân, chợ Hàng Da ... và cả những đình,
chùa trong khu vực này cũng được dùng làm trụ sở cho kháng chiến như chùa
Cầu Đông, chùa Vĩnh Trù, quán Huyền Thiên ... Một số phần thuộc liên khu II,
với nhiều địa điểm kháng chiến đáng ghi nhớ như trụ sở Bộ quốc phòng, trụ sở
nữ tự vệ chiến đấu Thành Hoàng Diệu.
• Di tích kiến trúc thành luỹ
Duy nhất có một - đó là Ô Quan Chưởng ( đã đượcxếp hạng ). Trong số các
di tích kiến trúc tôn giáo hiện còn, có tới gần tới 80% di tích có hiện tượng vi phạm
trong đó bao gồm cả những di tích đã được xếp hạng, gần 70% di tích xuống cấp,
cần tu sưa tôn tạo. Một số di tích có hiện trạng bảo quản khá tốt như đền Bạch Mã,
đình Yên Thái, nhà 48 Hàng Ngang, số còn lại ở trong tình trạng xuống cấp . Hiện
trạng phổ biến là sự chiếm dụng đất hoặc kiến trúc chính của di tích để ở. Di tích có
hiện trạng vi phạm nặng là đình Kim Ngân (36 hộ), quán Huyền Thiên (14 hộ),
chùa Vĩnh Trù (6 hộ), chùa Thái Cam (4 hộ), nhà 105 Phùng Hưng (6 hộ), chùa Cầu
Đông (đã giải toả 2 hộ). Các hộ dân ở đây hoặc có hợp đồng nhà với Xí nghiệp kinh
doanh nhà Hoàn Kiếm, hoặc là do người trụ trì đưa vào để ở từ trước.
2.2.4. Văn hóa làng nghề phô nghề
Một trong những điểm nhấn độc đáo thu hút khách du lịch đến với phố cổ
chính là ở sự tụ hội, chuyên doanh ngành nghề của các dãy phố mang tên “Hàng”.
Hà Nội xưa với 36 phố phường mà mỗi tên phố gắn liền với những mặt hàng thủ
công được các hộ gia đình sản xuất, kinh doanh ngay tại chỗ. Ngày nay, phần lớn
các phố Hàng vẫn còn tên, nhưng nghề xưa gắn với tên phố thì đã mai một. Các phố
Hàng này đã trở thành các phố thương mại, kinh doanh hỗn hợp, các tên phố gợi

cảm giác Hà Nội là một cái chợ, mỗi khu phố là nơi sản xuất và buôn bán các mặt
hàng riêng biệt. Tuy nhiên tính chất các phố nghề ở Kẻ Chợ chỉ là nơi giao dịch, nơi
mua bán, thường không phải chỗ sản xuất. Các mặt hàng được sản xuất các vùng
phụ cận, rồi đem ra bán ở Hà Nội, như đồ đúc đồng, rồi guốc dép, mũ nón... Như
phố Hàng Đồng bày bán mâm đồng, đỉnh đồng từ làng nghề Ngũ Xã. Phố Hàng

17


Giấy bán các loại giấy của các làng làm giấy của vùng Bưởi và Cầu Giấy đem
xuống bày cả trăm, cả nghìn tờ trước cưa hàng. Phố Hàng Chiếu (trước gọi là phố
Mới) thì người miền biển của Nam Định, Ninh Bình tải chiếu cói lên các cưa hàng
buôn mà buôn bán lại…
Sự đổi thay và những khác nhau còn thấy ở bộ mặt từng phố. Khác với
làng nghề làm nghề cha truyền con nối, ở phố, dù là phố nghề, cái chính cũng
là cưa hàng và cũng hợp tan theo thời thế; không có phố nào từ đầu tới cuối
phố nhà nhà đều một nghề, một cưa hàng như nhau. Theo Chuyện cũ Hà Nội
của nhà văn Tô Hoài, Phố Hàng Buồm đầu thế kỷ trước cũng la liệt những
quán, ngành nghề khác nhau. Người ta còn chưa phân định được phố Hàng
Buồm là bán buồm thuyền (vì xưa gần đó có cưa hà Khẩu trên sông Hồng), hay
là cái vỉ buồm đậy nắp cái buồm đựng đường mà nhiều nhà trên phố làm nghề
đan buồm, đan vỉ cói. Hai bên đầu phố là những của hàng bán thịt lợn, thịt vịt,
thịt ngan ngỗng… Đoạn giữa phố rải rác các hiệu ăn lớn (gọi là cao lâu) của
người Trung Quốc… Cuối phố là các nhà bán đường, đường cát, đường phổ,
đường bánh của lái buôn Quảng Ngãi đem ra theo đường sông… Hàng Giấy thì
bên cạnh những cưa hàng bán giấy moi, giấy bản, còn nhiều nhà bán gạo, vì
đây cạnh phố hàng Gạo và chợ Gạo…
Không thể không kể đến Phố Hàng Mã chuyên bán giấy và đồ hàng mã nhỏ,
đồ bằng giấy để trang trí như hoa giấy, đèn giấy các kiểu... và đồ mã để cúng lễ như
mũ Thổ thần, mũ ông Táo, vàng giấy...Dần dần, những món hàng trang trí khác đổ

bộ về đây…Vào những ngày lễ, Tết, con phố này thực sự trở thành con phố của
những âm thanh, sắc màu, ánh sáng dân gian và mang đậm dấu ấn tâm linh của
người phương Đông.
Theo sự phát triển của đời sống nơi trung tâm cả nước, các chợ và các phố
nghề đang dần mọc hình thù trở lại. Dẫu vậy cũng không thể và không bao giờ có
một phố toàn nhà một nghề như tên phố và trong tưởng tượng xưa nay. Những phố
nghề liên quan đến đòi hỏi của cuộc sống hôm nay lại được thấy vui mắt bởi sự đan
xen của các mặt hàng

18


Trên con phố Hàng Bạc ngày trước còn có những ông thợ bạc, thợ dát vàng
ngồi trước cái bễ, vừa kéo bễ vừa cầm búa đập, dát những vòng tay,những chiếc lắc
kỷ niệm. Người của làng của phố ra Hàng Bạc đánh bộ xà tích, đặt làm đôi khuyên,
đôi hoa tai vàng, cái vòng cổ, sợ dây chuyền… Khách hàng ngồi quanh đợi mua
hàng đặt và xem ông thợ bạc giũa và mài bóng cái ống vôi bạc.Thợ, thường cũng là
chủ hiệu, sẵn lò, đe, đồ nghề đấy mà kéo bễ, đập dát ngay cho khách ngồi đợi…
Hàng Bạc là nơi tập trung những người thợ tinh xảo kỹ thuật chế tác đồ vàng bạc
của đất kinh kỳ. Họ xuất thân từ ba làng nghề làm đồ vàng bạc nổi tiếng ở Bắc Việt
Nam: làng Châu Khê, (Hải Dương), làng Định Công (Hà Nội) và làng Đồng Sâm
(Thái Bình).Ngày nay, nghề buôn bán trao đổi vàng bạc không chỉ còn tập trung ở
phố Hàng Bạc mà đã có rải rác các cưa hiệu ở những phố khác. Nhưng phố Hàng
Bạc vẫn là nơi tập trung những người thợ kim hoàn tinh xảo gắn với truyền thống.
Trải qua ngàn năm giữ gìn, xây dựng và phát triển với những làng nghề, phố
nghề và những ngành nghề thủ công truyền thống, Thăng Long - Hà Nội ngày càng
thể hiện một diện mạo, tiềm năng phong phú và đa dạng. Nay, mỗi phố Hàng dẫu có
khác xưa phần nào nhưng vẫn hấp dẫn khách du lịch bởi đặc trưng riêng của mình
và Hà Nội với 36 phố phường vẫn là điểm hẹn văn hóa không thể thiếu trên hành
trình khám phá vẻ đẹp văn hóa Việt...

2.3. Thực trạng chất lượng của sản phẩm du lịch phố cổ
2.3.1 Điểm mạnh
Với đặc trưng của lịch sư, khu phố cổ Hà Nội sở hữu nguồn di sản văn hóa
vật thể, phi vật thể phong phú, đa dạng, đồng thời cũng là nguồn tài nguyên du lịch
quý giá. Khu vực này hiện có 121 công trình, di tích đền, chùa, miếu và hơn 1.000
công trình nhà ở có giá trị, trong đó có hơn 200 công trình nhà ở có giá trị đặc biệt.
Có thể kể đến những di tích nổi tiếng vẫn được bảo tồn đến ngày nay như: Ngôi nhà
cổ 87 Mã Mây, đình Đồng Lạc 38 Hàng Đào, đền Bạch Mã, đình Kim Ngân, nhà
40-42 Hàng Bạc... Đặc điểm nổi bật nhất của khu phố cổ là các phố nghề, nơi quy
tụ nhiều thợ thủ công từ các làng nghề quanh Thăng Long xưa, tập trung theo từng
khu vực chuyên làm nghề truyền thống. Theo thời gian, những con phố này không

19


còn bày bán những sản phẩm truyền thống như trước, nhưng một số phố vẫn còn
lưu giữ lại nghề truyền thống như Hàng Bạc với nghề chế tác bạc, Hàng Đường với
nghề làm mứt kẹo...
Mới đây, vào khoảng trung tuần tháng 10/2014 cùng với việc khai trương
tuyến phố đi bộ mở rộng thuộc khu vực bảo tồn cấp 1 khu phố cổ Hà Nội (gồm
Hàng Buồm, Mã Mây, Đào Duy Từ, Hàng Giầy, Tạ Hiện, Lương Ngọc Quyến)
BQL Phố cổ Hà Nội đã khởi động chương trình biểu diễn nghệ thuật đường phố xen
kẽ với các buổi biểu diễn văn hóa nghệ thuật dân gian như chèo, xẩm, quan họ, ca
trù… vào 3 ngày cuối tuần. Dù mới qua gần 6 tháng hoạt động nhưng các chương
trình này đã cho thấy hiệu quả rõ rệt khi nhận được sự hưởng ứng lớn từ các nghệ
sĩ, nghệ nhân và cả du khách thập phương.
Một điểm nhấn đặc biệt nữa của phố cổ Hà Nội, đó chính là chợ đêm phố
cổ vào các tối cuối tuần, nơi quy tụ gần 4.000 gian hàng với đủ các loại mặt
hàng từ quần áo, giầy dép đến các đồ thủ công mỹ nghệ, đồ lưu niệm… Chính
bởi những nét văn hóa truyền thống mà ít nơi nào có được, phố cổ Hà Nội vẫn

luôn là điểm đến lý tưởng của du khách thập phương mỗi khi có dịp ghé thăm
Hà Nội.
Ngoài ra để đảm bảo an toàn cho khách du lịch và người dân đô thị,
công tác quản lý trật tự đô thị cx được tăng cường, trật tự hè đường, vệ sinh
môi trường trong khu phố cổ có nhiều chuyển biến tích cực. Được sự đồng ý
của thành phố và chính phủ, quận Hoàn Kiếm đã đưa xe ô tô điện, một loại
phương tiện giao thông mới vào phục vụ khách du lịch để tham quan khu phố
cổ. Sau gần 1 năm hoạt động, phương tiện giao thông này đã phát huy hiệu quả
tạo ấn tượng tốt trong lòng khách du lịch.
2.3.2 Điểm yếu
Chỉ tính riêng trong năm 2014, lượng khách du lịch quốc tế đến tham quan
phố cổ Hà Nội đạt tới 864.000 lượt khách nước ngoài, cùng với gần 8200 lượt kiều
bào, đã chứng tỏ sức hút từ du lịch phố cổ đối với du khách là rất lớn. Tuy nhiên,
việc chưa được kết nối thành tour tuyến một cách chuyên nghiệp; doanh nghiệp và

20


nhà quản lý vẫn chưa có chung tiếng nói khiến chúng ta chưa thể mang lại cho du
khách những trải nghiệm sâu sắc, ấn tượng.
Phần lớn du khách mới chỉ biết đến một Hà Nội xưa qua những lời thuyết
minh của hướng dẫn viên, mà không hề có điểm tham quan tổng thể bằng các mô
hình trực quan và các video sống động. Điều này gây khó khăn cho du khách khi
muốn có một hình dung toàn diện, cụ thể về một thành phố nghìn năm tuổi. Mặt
khác, việc các gánh hàng rong, đánh giày tại khu vực phố cổ thường chèo kéo, chặt
chém du khách đã khiến cho tình hình an ninh trật tự ở khu phố cổ trở nên phức tạp,
gây ảnh hưởng đến các hoạt động du lịch.
Hàng hóa được bày bán la liệt, san sát dọc các con phố trong khu phố cổ, đủ
các mạt hàng chủng loại từ cao cấp đến bình dân, đa dạng về mẫu mã và hình thức
đáp ứng được nhu cầu mua bán của du khách. Quy nhiên song song vs đó là tình

trạng chặt chém, thét giá cao, thậm chí không tương ứng với chất lượng hàng hóa
bán ra. Ngoài ra chúng ta cũng có thể bắt gặp hiện tượng đeo bám khác du lịch bắt
chẹt khách của các hàng bán rong, không cần biết khách có đồng ý hay không, mỗi
khi nhìn thấy khách Tây, họ vẫn nhấc đôi quang gánh của mình đặt lên vai khách,
dúi vào khách những sản phẩm bán và rút tiền của khách với giá trị cao hơn gấp
nhiều lần.
Trật tư đô thị, trật tự giao thông trong khu phố cổ còn tồn tại nhiều bất cập.
Có quáy nhiều phương tiện giao thông cùng tham gia gây ách tắc và ô nhiễm khói
bui, ô tô con và ô tô khách thường xuyên đỗ sai quy định, đỗ trên vỉa hè, xe đỗ của
các hàng quán đỗ trái phép cũng là nguyên nhân gây ra sự không thông thoáng cho
giao thông, gây ảnh hưởng đến người đi bộ và khách di lịch
Ngoài ra việc quảng bá hình ảnh cho khu phố cổ và phát huy giá trị lịch sư
văn hóa của các công trình di tích chưa được triển khai tích cưc, chưa tạo ra hiệu
quả phục vụ cho du lịch.
3. Nhận xét và khuyến nghị
• Vẻ đẹp của Hà Nội được tạo nên phần lớn bời những ngôi nhà cổ vs
những mài ngói đỏ và tường ngói rêu phong. Nhưng giờ đây nó đang mất dần đi
21


những dâú ấn cổ xưa và thay vào đó là những ngôi nhà cao tầng, sáng loáng, những
ngôi nhà cổ hay các di tích chỉ còn xuất hiện rải rác trên mỗi phố. Vì vậy vấn đề đặt
ra là phải bảo tồn, trùng tu một cách khoa học. Công tác trùng tu và bảo tồn yêu cầu
rát khắt khe, phải chính xác nguyên gốc của di tích, giữ được tính chất biểu trưng
cho giá trị lịch sư và ghệ thuật, nguồn tư liệu cho thế hệ sau.
• Điều cốt lõi trong việc bảo tồn tôn tạo khu vực phố cổ không chủ yếu là ở
phần vẻ ngoài của khu phố mà còn phải làm sống dậy phần hồn, bảo tồn được một
không gian văn hóa xã hội đô thị truyền thống xưa. Để làm được điều này chúng ta
có thể có một vài phương hướng.
+ Sư dụng phần lõi bên trong các cơ sở truyền thống để bảo tồn những

ngành nghề xưa mà sản phẩm của nó có thể phục vụ cho cuộc sống , tạo nên nét văn
hóa kinh doanh sầm uất vốn có.
+ Khôi phục lại những lễ hội, trò chơi dân gian truyền thống, về nếp sống
sinh hoạt cộng đồng độc đáo của cư dân phố cổ.
+ Chọn một không gian phù hợp để trưng bày các sản phẩm nghề thủ công
truyền thống trong kiến trúc cổ, thường xuyên tổ chức các triển lãm và liên hoan du
lịch cho du khách về những đặc sắc của văn hóa phố cổ
• Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, quảng bá du lịch
Để tạo ra một lực hút, kích thích tò mò cho du khách đến với phố cổ, các
doanh nghiệp du lịch phải đưa ra được những di tích và lễ hội tiêu biểu, nững nét
văn hóa mang đậm bản sắc nhất với một lịch trình tham quan phù hợp, độc đáo. Sẽ
còn có hiệu quả hơn nếu như các công ty lữ hành có sự cạnh tranh với nhau và đưa
ra những sản phẩm du lịch tốt nhất để quảng bá cho khách du lịch với những ấn
phẩm độc đáo nhất. Điều này rất quan trọng và sẽ tạo được ấn tượng tốt trong lòng
du khách. Ngoài ra các doanh nghiệp lữ hành cũng nên liên kết một cách chặt chẽ
với các khách sạn cũng như nhà nghỉ, các tờ rơi quảng cáo, sách hướng dẫn về du
lịch phố cổ… luôn có sẵn ở các khách sạn để khách có thể tiếp cận thông tin một
cách nhanh nhất.

22



×