Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VỚI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.7 KB, 31 trang )

Trường Đại học Ngoại Thương
Khoa Lý luận chính trị

Đề tài:
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN DỤNG
PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP
TỰ CHỦ VỚI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Họ và tên: Hoàng Thùy Dương
Mã sinh viên: 1411110125
Líp: Anh 13 – Khối 5 – Kinh tế – K53
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Đoàn Văn Khái


T12/2014

2


MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu

1

Chương I: Phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến

2

1. Phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến


2

1.1. Phép biện chứng duy vật
1.2. Nội dung của phép biện chứng duy vật

2

2.Một trong hai nguyên lý của phép biện chứng: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

3

2.1. Khái niệm

3

2.2. Nội dung nguyên lý

3

2.3. Ý nghĩa của nguyên lý

3

3. Tại sao phải vận dụng phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến
để phân tích mối lên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội
nhập kinh tế quốc tế?

4

Chương II: Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế

quốc tế cơ hội và thách thức

6

1. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ

6

1.1. Thế nào là nền kinh tế độc lập tự chủ?

7

1.2. Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay

7

1.3. Khó khăn và thử thách khi xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ

11

2. Hội nhập kinh tế quốc tế
2.1. Thế nào là Hội nhập kinh tế quốc tế

12
12

2.2. Bối cảnh quốc tế và khu vực liên quan tới chủ trương hội nhập
kinh tế quốc tế ở nước ta

13


2.3. Những kết quả đạt được khi Việt Nam tham gia quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế

15

2.4. Những mặt yếu kém và tồn tại khi Việt Nam tham gia vào quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế

17

2.5. Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh
tế quốc tế

18

i


Chương III: Những giải pháp và kiến nghị

19

1. Đường lối xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ

19

1.1. Mục tiêu

19


1.2. Một số điều kiện để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ

19

2. Đường lối hội nhập kinh tế quốc tế

22

2.1. Mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế

22

2.2. Những quan điểm chỉ đạo trong quá trình hội nhập

22

2.3. Một số nhiệm vụ cụ thể trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

23

Kết luận

26

Tài liệu tham khảo

27

ii



LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế toàn cầu hóa quốc tế hiện nay, các quốc gia trên thế giới ở mức độ
này hay mức độ khác đều tùy thuộc lẫn nhau, có quan hệ qua lại với nhau. Vì thế nước
nào đóng cửa với thế giới là đi ngược lại với xu thế của thời đại và khó tranh khỏi bị rơi
vào lạc hậu, trái lại mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế tuy có phải trả giá nhất định song
đó là yêu cầu tất yếu hướng tới sự phát triển của mỗi nước, mỗi quốc gia.
Đứng trước yêu cầu ngày càng cấp bách đó, Đại hội Đảng IX đã đưa ra văn kiện
về vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế. Trong bối
cảnh hiện nay, đặt vấn đề xây dựng nên kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập
kinh tế là hoàn toàn đúng đắn và chính xác. Hai mặt đó có mối quan hệ biện chứng với
nhau, bổ sung cho nhau nhằm phát triển nền kinh tế nước ta ngày càng vững mạnh theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến tôi viết bài tiểu luận này với
mong muốn mọi người có một cách nhìn sâu sắc, cặn kẽ hơn, toàn diện hơn về những
nguy cơ thách thức cũng như thời cơ khi chúng ta tham gia vào quá trình hội nhập kết
hợp với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, và ảnh hưởng qua lại giữa việc xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài tiểu luận tôi không thể trình bày tất cả các
vấn đề liên quan đến việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc
tế mà chỉ có thể đi sau vào nghiên cứu phân tích mối quan hệ giữa chúng đồng thời đưa
ra những giải pháp, những kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện đường lối xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

1


CHƯƠNG I
PHÉP DUY VẬT BIỆN CHỨNG DUY VẬT VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN

1. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT LÀ KHOA HỌC VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN

1.1. Phép biện chứng duy vật
Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định bản chất vật chất, tính thống
vật chất của thế giới, mà còn khẳng định các sự vật, hiện tượng trong thế giới luôn tồn
tại trong sự liên hệ, trong sự liên hệ, trong sự vận động và phát triển không ngừng theo
những quy luật vốn có của nó. Làm sáng tỏ những vấn đề đó là nội dung cơ bản của
phép biện chứng. Chính vì vậy, Ph.Ănghen đã khẳng định rằng phép biện chứng là lý
luận về mối liên hệ phổ biến, là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận
động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy. V.I. Leenin nhấn
mạnh thêm: Phép biện chứng là học thuyết sâu sắc nhất, không phiến diện về sự phát
triển.
1.2. Nội dung của phép biện chứng duy vật
1.2.1. Hai nguyên lý cơ bản:
- Nguyên lý về mỗi liên hệ phổ biến
- Nguyên lý về sự phát triển
1.2.2. Các cặp phạm trù cơ bản::
- Cái riêng – cái chung
- Bản chất – hiện tượng
- Tất nhiên – ngẫu nhiên
- Nội dung – hình thức
- Nguyên nhân – kết quả
- Khả năng – hiện tượng
1.2.3. Ba quy luật cơ bản:
- Từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đồi về chất và ngược lại.
- Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
2


- Quy luật phủ định của khẳng định

2. MỘT TRONG HAI NGUYÊN LÝ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Trên cơ sở kế thừa các giá trị về tư tưởng biện chứng trong kho tàng lý luận của
nhân loại, đồng thời khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên thế kỷ
XIX (khoa học về quá trình, về nguồn gốc, về mối liên hệ và về sự phát triển) phép biện
chứng duy vật đã phát hiện ra nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật và hiện
tượng trong thế giới, coi đây là đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật.
2.1. Khái niệm:
- Liên hệ: là sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau giữ các yêu tố trong cùng
một sự vật hoặc giức các sự vật hiện tượng của nhau.
- Liên hệ phổ biến: Là những mỗi liên hệ tồn tại một cách phổ biến mang tính chất
bao quát, nó tồn tại thông qua những mối liên hệ đặc thù của sự vật, nó phản ánh tính
đa dạng và tính thống nhất của thế giới.
2.2. Nội dung nguyên lý:
- Triết học Mác khẳng định mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều nằm trong
mối liên hệ phổ biến, không có sự vật hiện tượng nào tồn tại một các biệt lập mà chúng
tác động đến nahu ràn buộc quyết định và chuyển hóa lẫn nhau. Các mối liên hệ trong
tính tổng thể của nó quy định sự tồn tại vận động, biến đổi của sự vật. Khi các mối liên
hệ thay đổi tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi sự vật.
2.3. Ý nghĩa của nguyên lý
2.3.1. Cơ sở khoa học của quan điểm toàn diện:
- Trong nhận thức và hoạt động phải xem xét sự vật trong tính toàn vẹn của nhiều
mối liên hệ, nhiều mặt, nhiều yếu tố vốn có của nó kể cả các quá trình, các giai đoạn
phát triển của sự vật cả trong quá khứ hiện tại và tương lai. Có như vậy mới nắm được
thực chất của sự vật. Khi tuân thủ nguyên tắc này chủ thể tránh được sai lầm cực đoan
phiến diện một chiều.

3



- Không được đồng nhất và san bằng vai trò của các mối liên hệ của các mặt sự
vật. Phải phản ánh đúng vai trò của từng mặt, từng mối liên hệ. Phải rút ra được những
mối liên hệ bản chất nhất chủ yêu của sự vật khi tuân thủ nguyên tắc này con người sẽ
tránh được sai lầm ngụy biện và chiết trung.
2.3.2. Cơ sở khoa học của quan điểm lịch sử cụ thể;
- Mọi sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất tồn tại vận động phát triển bao giờ
cũng diễn ra trong những hoàn cảnh cự thể, trong không gian và thời gian xác định.
- Điều kiện: Không gian và thowfii gian có ảnh hưởng tới đặc điểm tính chất sự
vật. Cùng là một sự vật nhưng ở trong những điều kiện hoàn cảnh khác nhau sẽ có
những tính chất khác nhau
Yêu cầu:
Khi nghiên cứu xem xét sự vật hiện tượng phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể,
trong không gian xác định mà nó đang tồn tại vận động và phát triển, đồng thời phải
phân tích vạch ra ảnh hưởng của điều kiện hoàn cảnh của môi trường đối với sự tồn tại
của sự vật, đối với tính chất của sự vật và đối với xu hướng vận động và phát triển của
nó.
Khi vận dụng một lý luận nào đó vào trong thực tiễn cần phải tính đến điều kiện
cụ thể của nơi vận dụng tránh bệnh giáo điều dập khuôn, máy móc, chung chung.
3. TẠI SAO PHẢI VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
VÀO PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ
CHỦ VỚI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ?

Sau khi nghiên cứu kỹ phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến ta dễ dàng
nhận ra rằng sự vật hiện tượng luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau chuyển hóa lẫn
nhau hay nói cách khác mọi sự vật hiện tượng tồn tại phải có mối liên hệ với các sự vật
hiện tượng khác chứ không thể tồn tại một cách tách biệt độc lập. Sở dĩ các sự vật hiện
tượng có mối liên hệ với nhau là vì chúng là biểu hiện của vật chất vận động. Có nguồn
gốc chung từ vật động mà khi sự vận động có nghĩa là có mối liên hệ và các mối liên hệ
của sự vật là cái khát quan vốn có của sự vật. Chính vì vậy khi xem xét việc xây dựng

nền kinh tế độc lập tự chủ chúng ta không thể tách rời khỏi việc hội nhập kinh tế quốc

4


tế và ngược lại. Hơn nữa theo quan điểm toàn diện khi xem xét một sự việc hiện tượng
mà cụ thể ở đây việc xây dựng độc lập tự chủ chúng ta phải xem xét nó trong tính toàn
vẹn của nhiều mối liên hệ khác nhau, nhiều mặt khác nhau mà cụ thể đây là ảnh hưởng
của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế và ngược lại.
Có như vậy chúng ta mới nắm được thực chất của sự vật mới tránh được những sai lầm
cực đoan phiến diện một chiều. Đặc biệt đây lại là những vấn đề rất cấp bách đặt ra đối
với chúng ta khi tham gia quá trình toàn cầu hoá, quốc tế hoá. Chỉ có thể dựa trên
nguyên lý mối liên hệ phổ biến mới có thể giúp chúng ta nhìn sâu hơn, hiểu sâu hơn về
vấn đề mà mình đang nghiên cứu. Hơn nữa cũng theo quan điểm lịch sử cụ thể khi xem
xét một sự vật hiện tượng nào đó ta phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể không gian cụ
thể. Vấn đề chúng ta đang nghiên cứu ở đây cần được đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá
hiện nay, tình hình kinh tế nước ta hiện nay để thấy rõ hơn được ảnh hưởng của tình
hình thế giới, tình hình trong khu vực, tình hình trong nước đối với việc xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ kết hợp với hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì vậy dựa trên
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến sẽ giúp chúng ta có một cách nhìn cặn kẽ hơn, tổng
quát hơn. Chẳng hạn liệu hội nhập kinh tế quốc tế có phải là một xu thế tất yếu không,
hội nhập có phải là hoà tan hay không, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ như thế nào
cho phù hợp với tình hình hiện nay, phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế…
Tất cả những vấn đề đó chỉ có thể giải đáp khi chúng ta hiểu rõ hơn về vấn đề chúng ta
đang nghiên cứu dựa trên nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Từ đó ta có thể thấy rõ
hơn tâm quan trọng của phép biện chứng mối liên hệ phổ biến.
Ở chương II, chương III chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu rõ hơn, cặn kẽ hơn về mối
liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở
phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến.


5


CHƯƠNG II
XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VỚI HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC
1. XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ

Có ý kiến cho rằng, trong điều kiện “toàn cầu hóa” nền kinh tế, mở cửa hội nhập
mà lại đặt vấn đề xây dựng kinh tế độc lập tự chủ là thiếu nhạy bén, không thức thời,
thậm chí là bảo thủ, tư duy kiểu cũ. Thế giới bây giờ là một thị trường thống nhất, cần
thứ gì thì mua, thiếu tiền thì đi vay, sao lại chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ (?!)
Nói như vậy mới nghe qua thì thấy có vẻ có lý, nhưng nếu suy ngẫm kỹ thì thấy
không có cơ sở khoa học, vì nó quá ư giản đơn và phiến diện. Chúng ta biết rằng, độc
lập tự chủ là một xu thế phát triển của thế giới. Trong điều kiện “toàn cầu hóa”, liên
doanh, liên kết rất đa dạng và phức tạp như hiện nay lại càng phải giữ vững tính độc lập
tự chủ.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm, đường lối
chính trị độc lập tự chủ mà còn là đòi hỏi của thực tiễn, nhằm bảo đảm độc lập tự chủ
vững chắc về chính trị, bảo đảm phát triển bền vững và có hiệu quả cho chính ngay nền
kinh tế, cho việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Khi đã có độc lập tự chủ về chính trị
thì nội dung cơ bản của độc lập tự chủ của một quốc gia là có xây dựng được nền kinh
tế độc lập tự chủ hay không. Đây là kinh nghiệm của nước ta và cũng là kinh nghiệm
của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Vả chăng, nước ta phát triển kinh tế để
đi lên chủ nghĩa xã hội, bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, các lực lượng
chống đối chủ nghĩa xã hội thường xuyên tìm cách ngăn cản và chống phá sự nghiệp
xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nếu không xây dựng một nền kinh tế độc
lập tự chủ thì dễ bị lệ thuộc, bị các thế lực xấu, thù địch lợi dụng vấn đề kinh tế để lôi


6


kéo, hoặc khống chế, ép buộc chúng ta thay đổi chế độ chính trị, đi chệch quỹ đạo của
chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, có xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ thì mới
tạo được cơ sở kinh tế, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chế độ chính trị độc lập tự chủ. Độc
lập tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất để bảo đảm cho sự độc lập tự chủ bền vững về
chính trị. Không thể có độc lập tự chủ về chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Độc lập tự
chủ về kinh tế được đặt trong mối quan hệ biện chứng với độc lập tự chủ về các mặt
khác sẽ tạo ra sự độc lập tự chủ và sức mạnh tổng hợp của một quốc gia.
1.1. Thế nào là nền kinh tế độc lập tự chủ ?
Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào nước
khác, người khác, hoặc vào một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối, chính sách phát
triển, không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, tài chính, thương mại, viện trợ...
để áp đặt, khống chế, làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc.
Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế trước những biến động của thị trường,
trước sự khủng hoảng kinh tế tài chính ở bên ngoài, nó vẫn có khả năng cơ bản duy trì
sự ổn định và phát triển; trước sự bao vây, cô lập và chống phá của các thế lực thù địch,
nó vẫn có khả năng đứng vững, không bị sụp đổ, không bị rối loạn. Bảo đảm độc lập tự
chủ về kinh tế cũng có nghĩa là bảo đảm vững chắc định hướng xã hội chủ nghĩa và giá
trị truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc trong công cuộc phát triển kinh tế, tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Không phải chờ đến khi có trình độ phát triển
cao mới đặt vấn đề giữ vững độc lập tự chủ, mà ngay từ đầu, ngay bây giờ đã phải bảo
đảm yêu cầu cơ bản về độc lập tự chủ, trước hết là về đường lối chính trị, các nguyên
tắc cơ bản về phát triển kinh tế. Đương nhiên, xây dựng kinh tế độc lập tự chủ là một
quá trình lâu dài, đi từ thấp đến cao, ngày càng hoàn chỉnh, ngày càng bền vững.
Trong thời đại ngày nay, nói độc lập tự chủ về kinh tế không ai hiểu đó là một nền
kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, mà đặt trong mối quan hệ biện chứng với mở cửa, hội
nhập, chủ động tham gia sự giao lưu, hợp tác và cạnh tranh quốc tế trên cơ sở phát huy
tốt nhất nội lực và lợi thế so sánh của quốc gia, từng bước xây dựng một cơ cấu sản

xuất đáp ứng được cơ bản nhu cầu thiết yếu về đời sống của nhân dân và có khả năng

7


trang bị lại ở mức cần thiết cho nhu cầu phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng - an
ninh.
1.2. Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay
Trước hết phải kể đến mức tăng trởng cao.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) trong thời kỳ 1991-2000 đã tăng bình quân
hàng năm là 7,4%, theo đó tổng giá trị GDP đạt gấp đôi năm 1990, GDP theo đầu người
tăng 1,8 lần.
Nông nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá và toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Giá trị
sản lượng toàn ngành tăng bình quân hàng năm 5,6%. Trong đó nông nghiệp tăng 5,4%,
thuỷ sản tăng 9,1%, lâm nghiệp tăng 2,1%.
Nổi bật nhất là sản 1ợng lơng thực tăng bình quân mỗi năm 1,1 triệu tấn. Sản lợng
lương thực năm 2000 đạt 34 triệu tấn, đa mức lương thực bình quân đầu người từ 294,9
kg năm 1990 lên trên 436 kg năm 2000. Việt Nam từ nước nhập khẩu lương thực hàng
năm, trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới.
Sản lượng của một số cây công nghiệp trong thời kỳ 1999-2000 đã tăng khá cao:
cà phê tăng 4,7 lần, cao su 4,5 lần, chè tăng 2 lần, mía tăng 3 lần, bông tăng 9,7 lần.
Sản lượng thuỷ sản tăng bình quân trong 10 năm là 8,85%: Giá trị sản lượng công
nghiệp tăng bình quân trong 10 năm qua là khoảng 12,8 – 13%/năm.
Công nghiệp chế biến đã có tốc dộ tăng trưởng khá và đã chiếm tới 60,6% giá trị
toàn ngành công nghiệp năm 1999.
Dầu khí có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong toàn ngành công nghiệp. Sản lượng
dầu thô năm 2000 đã tăng gấp 6 lần so với năm 1990.
Sản lượng điện phát ra năm 2000 so với năm 1990 đã tăng gấp 3 lần, sản lượng
thép cán gấp 16 lần, xi măng gấp 5,3 lần, phân hoá học 4,2 lần, giầy dép da 14,9 lần,
giầy vải 4,9 lần, bột giặt 4,6 lần, đường 3,6 lần, bia 7,3 lần...

Giá trị sản phẩm công nghiệp xuất khẩu tăng trung bình hàng năm là 20%.
Các ngành dịch vụ đã tăng trưởng nổi bật trong các ngành thương mại, du lịch, bưu chính viễn thông.

8


Giá trị hàng hóa bán ra trên thị trường trong nước năm 1999 đã gấp 11,3 lần năm
1990.
Khách du lịch quốc tế từ 1992 đến 1997 đã tăng bình quân hàng năm là 26,5%.
Mật độ điện thoại năm 1999 đã tăng 13,8 so với năm 1991 và là nước có tốc độ phát
triển viễn thông đứng thứ hai thế giới.
Vận chuyển hàng hoá tăng bình quân trong 10 năm qua là 9,2%, vận chuyển hành
khách - 14,25%.
Hoạt động xuất khẩu cũng có mức tăng trưởng nổi bật. Tổng kim ngạch xuất khẩu
10 năm qua đã tăng bình quân hàng năm 18,2%, tăng gấp 5,3 lần so với năm 1990. Tốc
độ tăng trưởng giá trị nhập khẩu bình quân hàng năm 10 năm qua là 17,5%. Tổng giá trị
xuất nhập khẩu năm 2000 đã tương đương tổng GDP.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã tăng rất đáng kể. Tính đến quý I năm
1999 đã có 2624 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đăng ký là 35,8 tỷ USD,
nếu tính cả vốn bổ sung là 40,3 tỷ USD. Trong 10 năm qua, vốn FDI đã chiếm khoảng
28% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế đã có những chuyển biến tích cực. Tỷ trọng nông, lâm,
ngư nghiệp trong GDP đã giảm từ 38,7% năm 1990 xuống còn 25,4% năm 1999; công
nghiệp và xây dựng đã tăng từ 22,6% lên 34,9%; dịch vụ từ 35,7 lên 40,1%.
Trong nông nghiệp, cơ cấu cây trồng và vật nuôi được dịch chuyển theo hướng
tăng tỷ trọng một số cây công nghiệp và ăn quả có tiềm năng xuất khẩu và sức cạnh
tranh quốc tế như cà phê, điều, chè, tiêu, rau quả, cao su..., tốc độ phát triển chăn nuôi
tăng nhanh hơn trồng trọt.
Trong công nghiệp, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã được xây đựng, nhiều ngành công nghiệp mới đã được hình thành như ô tô, xe gắn máy,
điện tử...

Các ngành dịch vụ phát triển, đặc biệt là ngành bưu chính viễn thông, du lịch, thương mại... đã nâng đợc tỷ trọng lên trên 40% GDP.
Cơ cấu vùng kinh tế đã thay đổi theo hướng tập trung phát triển ba vùng trọng
điểm - Hồ Chí Minh - Vũng Tàu, Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, Đà Nẵng - Quảng
9


Ngãi, đồng thời đã dành sự quan tâm cần thiết tới những miền núi, vùng xa, vùng sâu,
những xã nghèo.
Cơ cấu vốn đầu tư phát triển đã chuyển từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
sang ưu tiên nhiều hơn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển kết cấu hạ
tầng, các ngành xuất khẩu, các lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội.
Trong thời kỳ 1991-2000, vốn đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn tăng bình
quân hàng năm là 22,9%, vốn đầu tư phát triển cho kết cấu hạ tầng giao thông vận tải,
thông tin liên lạc đã tăng bình quân hàng năm là 24,5%, vốn đầu tư phát triển cho các
ngành công nghiệp tăng bình quân hàng lăm là 27,1%, vốn đầu tư cho lĩnh vực khoa
học công nghệ giáo dục, đào tạo, y tế và văn hoá đã tăng bình quân hàng năm là 23,6%.
Thứ ba, các vấn đề xã hội bức xúc đã có những chuyển biến tích cực.
Mức sống của dân cư cả thành thị và nông thôn nhìn chung đã được cải thiện một
bước rõ rệt thể hiện trên các mặt: GDP theo đầu người: trong 10 năm qua đã tăng 1,8
lần thu nhập bình quân mỗi người 1 tháng đã tăng 3,2 lần. Số học sinh đi học các cấp
học khác nhau từ tiểu học đến đại học đã tăng khoảng 2,3 - 4,3 lần trong 10 năm qua;
chỉ số HDI đã được nâng lên từ thứ 122/174 nước năm 1995 lên 110/174 nước năm
1999.
Tỷ lệ tăng dân số năm 1988 là 2,28% đã giảm xuống còn 1,53% năm 2000; năm
1998 Việt Nam đã được Liên hợp quốc tặng giải thưởng về công tác dân số.
Công tác chăm sóc sức khỏe củ nhân dân đã có nhiều tiến bộ. Năm 1990 tỷ lệ trè
dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng là hơn 50%; tỷ lệ chết của trẻ em dưới 1 tuổi là 46%,
dưới 5 tuổi là 69,5%; tuổi thọ trung bình là 64; chiều cao trung bình của thanh niên là
1,6m. Đến năm 1998 các chi tiết tương ứng trên đây đã được cải thiện rõ rệt: 38,9%;
39%; 48,5%; 68 tuổi; 1,62m.

Số hộ đói nghèo đã giảm rõ rệt từ 30,0% năm 1992 xuống còn 10,6% năm 2000.
Đến cuối năm 1998 cả nước đã có 15 tỉnh thành phố có tỷ lệ hộ đói nghèo dưới 10%;
21 tỉnh có tỷ lệ đói nghèo khoảng 11 – 19%.

10


1.3. Khó khăn và thử thách khi xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
Cơ bản nền kinh tế Việt Nam hiện nay lạc hậu về khoa học kỹ thuật nhiều chục
năm so với các nước công nghiệp phát triển. Sản xuất, xuất khẩu của ta chủ yếu gồm
các nông khoáng sản thô và các mặt hàng công nghiệp thứ cấp, khi sản xuất phải nhập
khẩu máy và vật tư phụ tùng, nông nghiệp lệ thuộc vào phân bón, xăng dầu, thuốc sauu,
nông cơ; công nghiệp lệ thuộc vào máy vật ư, linh kiện rời. các nông khoáng sản thô
như gạo, cao su, cà phê, hàng thủy sản, than đá – dầu thô, và các mặt hàng thứ cấp
khác: hàng may mặc và giày dép là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu Việt Nam vấp
phải sự cạnh tranh rất mạnh của các nước kém mở mang khác, các hạn định nhập khẩu
của nước ngoài, giá cả bấp bênh và có khuynh hướng giảm, thị trường hạn chế. Trong
nhiều năm, gạo, cao su, hàng may mặc của Việt Nam không xuất khẩu được hết trên thị
trường thế giới, khiến cho giá sụt và làm giảm thu nhập của công nhân, nông dân trong
các ngành liên quan. Trong khi đóm nhập khẩu lại hướng về máy, các vật ư, linh kiên
rời giá đắt và các hàng tiêu dùng cao cấp giá rất đắt.
Tình hình này làm cho vị thế của ra trên thị trường quốc tế yếu đi và dẫn đến nhiều
nguy cơ lớn về kinh tế tài chính.
Thứ nhất là nguy cơ bán rẻ như cho và mua phải trả giá cao, tỷ lệ giao hoán bất
lợi, xuất phát từ việc xuất khẩu nông khoáng sản thô giá rẻ và nhập khẩu hàng cao cấo
giá cao. Sự thiệt thòi triền miên năm này qua năm khác mỗi năm ước hàng nhiều tỷ
USD khiến cho nước ta nghèo càng nghèo thêm.
Thứ hai là nguy cơ siêu đưa đến thâm hụt cán cân thương mại buộc phải vay tiền
nước ngoài. Trong các năm 1995 đến 1998 chúng ta nhập siêu trên dưới 3 tỷ USD, nợ
quốc tế tăng khoảng 2-3 tỷ USD/năm để trám vào thâm hụt của cán cân thương mại và

các chi phí khác về ngoại tệ.
Thứ ba là nợ quốc tế tăng gia với tốc độ nhanh hàng năm đưa đến tình hình nợ đáo
hạn và vốn lời phải trả mỗi năm mỗi tăng. Muốn trả nợ quốc tế, chỉ có 2 phương pháp:
(a) xuất siêu để có dư cân thương mại để trả nợ, (b) hoặc vay nợ mới có ngoại tệ trả nợ
cũ. Trong thập niên 90, chúng ta không có xuất siêu vật phải áp dụng biện pháp vay nợ
mới trả nợ cũ, cả vốn lẫn lãi, khiến cho nợ quốc tế tăng gia nhanh theo định luật lãi kép.
11


Nợ quốc tế, nếu ước hơn 15 tỷ USD thì bằng đến khoảng 50% GDP của nước ta, ước
khoảng 30 tỷ USD.
Nợ quốc tế tăng, đến một mức nào đó, co thể dẫn đến tình hình khủng hoảng tài
chính – tiền tệ như đã xảy ra tại Thái Lan. Khi ấy, cơ quan tiền tệ quốc tế đã đề nghị với
Thái Aln những biện pháp ‘trọn gói” trong đó có nhiều biện pháp mà Thái Lan cho
rằng vi phạm nền độc lập tự chủ kinh tế quốc gia, nhưng sau đó chính phủ Thái Lan đã
buộc phải nhận. Tình hình nợ quốc tế của nước ta so với Thái Lan ít hơn nhiều, nhưng
bài học Thái Lan cho thấy là nợ quốc tế tăng có thế đưa đến việc ngân hàng trung ương
không còn khả năng thanh toán quốc tế, đặc biệt là các trang trải nhập khẩu thông
thường và lúc bấy giờ sẽ xảt ra khủng hoảng kinh tài chính, tiền tệ.
Thứ tư: hội nhập quốc tế giúp Việt Nam thanh thủ ký thuật, khoa học, vốn quốc tế.
Tuy nhiên các công ty nước ngoài chỉ đầu tư ở Việt Nam nếu họ có lợi. Như vậy, chúng
ta ở trong thế yếu, chỉ có khả năng hạn chế họ bớt lợi mà thôi, nhưng nếu đầu tư mà chỉ
thu lợi ít, họ sẽ ngưng hay giới hạn lượng đầu tư. Kinh nghiệm cho thấy, trong thập
niên 90, những thiết bị được đầu tư ở Việt Nam, thường là những thiết bị cũ, thị phần
các doanh nghiệp Việt Nam giảm nhanh trong khi thị phần các công ty vốn nước ngoài
tăng nhanh, nhiều công ty phía Việt Nam có phần hùn khoảng 30% nhờ đóng góp mặt
bằng, nhà đất đã chuyển thành công ty có vốn nước ngoài 100% do nhiều lý do, trong
số có lý do phía nước ngoài đè nghị tăng vốn nhưng bên Việt Nam không có kảh năng
đáp ứng. Nếu tình hình này tiếp tục, người nước ngoài sẽ làm chủ dần dần hầu hết các
doanh nghiệp lớn ở Việt Nam, khi ấy, sẽ khó giữ được độc lập tự chủ kinh tế quốc gia.

Sự phối hợp 4 nguy cơ trên có khả năng đưa đến tình hình mất độc lập tự chủ kinh
tế, tài chính, tiền tệ, gây ra tình cảnh lệ thuốc vào nước ngoài. Đồng chí Tổng Bí thư đã
xác định độc lập tự chủ kinh tế là nền tảng cơ bản bảo đảm sự bền vững của độc lập tự
chủ về chính trị, do đó cần phải có biện pháp xây dựng nền kinh tế tự chủ và chủ động
trong việc hội nhập kinh tế quốc tế.
2. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

2.1. Thế nào là hội nhập kinh tế quốc tế?

12


Ngày nay hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên mọi châu lục, chi phối đời
sống kinh tế mọi quốc gia. Hội nhập kinh tế quốc tế là hiện tượng xảy ra trong quan hệ
giữa các quốc gia. Cách hiểu phổ biến nhất hiện nay về hội nhập kinh tế là xóa bỏ sự
khác biệt kinh tế giữa những nền kinh tế thuộc các quốc gia khác nhau.
2.2. Bối cảnh quốc tế và khu vực liên quan tới chủ trương hội nhập kinh tế
quốc tế ở nước ta:
Đại hội lần thú VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế
nước ta trên trường quốc tế”. Đại hội lần thứ IX khẳng định chủ trương “phát huy cao
độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”. Chủ trương hội nhập được đề ra trong
bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường
trước về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và khoa học – kỹ thuật, với những đặc điểm
nổi bật sau:
2.2.1. Trong hơn một thập kỷ qua, kinh tế thế giới nhìn chung phát triển không ổn
định và không đồng đều, về tốc độ thấp hơn thập ký trước (trên 2%/năm so với 3,2%) ;
đã xảy ra mấy cuộc khủng hoảng lớn, sâu rộng hơn cả là cuộc khủng hoảng kinh tế - tài
chính nổ ra năm 1997; vịt trí các nước và các khu vực thay đổi theo hướng: kinh tế Mỹ

phát triển nhanh và ổn định liên tục trong nhiều năm và đến 2002 bắt đầu suy giảm;
kinh tế Tây Âu hiện không cogn phst triển nhanh như các thập kỷ trước; kinh tế Nhật
suy thoái chưa có lối ra; các nước Liên Xô trước đây và Đông Âu rơi vào tình trạng suy
thoái trầm trọng và kéo dài; vài năm gần đây đã tăng trưởng tương đối khá; trong khi đó
kinh tế Trung Quốc phát triển “ngoạn mục”; Đông Á và Đông Nam Á phát triển nhanh
vào bậc nhất thế giới trong những thập kỷ trước, vừa qua đã rơi vào suy thoái và nay
đang hồi phục; Nam Á và nhất là châu Phi vẫn chưa thoát khỏi tình trạng trì trệ kéo dài;
kinh tế Mỹ La-tinh có khá hơn song không ổn định.
“Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với tốc độ ngày càng cao,
tăng nhanhh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội”. Dưới tác động của những chiều
13


hướng đó, kinh tế thế giới trải qua những biến đổi về chất, các ngành công nghệ cao,
đặc biệt là những kĩnh vực có hàm lượng chất xám cao, nhất là công nghệ thông tin và
sinh học phát triển nhanh chóng làm thay đổi sauu sắc cơ cấu sản xuất, tiêu dùng, trao
đổi… cũng như phương thức làm ăn và cả sinh hoạt, giao lưu.
2.2.2. Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa phát triển ngày càng nhanh
Vòng đàm phán U-ru-goay kết thúc, Hiệp định Ma-ra-két được ký kết, Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) ra đời từ 01-01-1995 thu hút tới 136 và nay là 144 quốc
gia và lãnh thổ, chiếm gần 100% kinh ngạch buôn bán quốc tế, theo hướng giảm mạnh
hàng rào quan thuế và ph quan thuế, mở cửa thị trường hàng hóa, đầu tư, dịch vụ,…
Bên cạnh sự ra đời của WTO, xuất hiện nhiều tổ chức tiểu vùng, khu vực, liên khu vực
như các tam, tứ giác phát triển, các kh vực mật dịch tự do (AFTA, NAFTA), những tổ
chức liên kết toàn châu lục (EU) hoặc giữa các châu lục (APEC).
Các nước lớn, nhỏ đều dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, theo đuổi chính sách
kinh tế mở. Ngay những nước có tiềm năng và thị trường rộng lớn như Trung Quốc,
Nga, Ấn Độ, Mỹ,… và cả một số nuwóc vốn
‘khép kín”, theo mô hình tự cung tự cấp cũng dần mở cửa, từng bước hội nhập vào nền

kinh tế khu vực và thế giới.
Mặt khác, cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu: suy thoái môi
trường, bùng nổ dân số, nghèo đói, các bệnh tật hiểm nghèo, các vấn đề xã hội “xuyên
quốc gia”,…, không một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết được mà cần phải có sự
hợp tác đa phương.
Tình hình trên làm nảy sinh và thúc đẩy xu thế hội nhậo để phát triển. Trong xu
thế chunh đó, các nước công nghiệp phát triển, trước hết là Mỹ, do có ưu thế về thị
trường, nắm được tiến bộ khoa học – công nghệ, có nền kinh tế phát triển cao, đã ra sức
thao túng, chi phổi thị trường thế giới, áp đặt điều kiện đối với các nước chậm phát
triển hơn, thậm chí dùng nhiều biện pháp thô bạo như bao vây, cấm vận, trừng phạt,
làm thiệt hại lợi ích các nước đang phát triển và chậm phát triển. Trước tình hình đó,
các nước đang phát triển đã từng bước tập hợp nhau lại, đấu tranh chống chính sách
cường quyền áp đặt của Mỹ để bảo vệ lợi ích của mình vì một trậttự kinh tế quốc tế
14


bình đẳng, công bằng. Điều đó chứng tỏ xu thế hội nhập phản ánh cục diện vừa đẩy
mạnh hợp tác, vừa đấu tranh khốc liệt.
2.2.3. Ở khu vực Đông Nam Á đã diễn ra những biến đổi sâu sắc.
Sau nhiều thập kỷ chiến tranh, đối đầu, Đông Nam Á đã có hòa bình, tuy còn tiềm
ẩn một số nhân tố có thể gây bất ổn định, xu thế hợp tác để phát triển không ngừng gia
tăng. Mặc dù trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính trầm trọng 1997-1998, song
đây vẫn là khu vực có nhiều tiềm năng do vị trí địa – chính trị và địa – kinh tế của
mình, dung lượng thị trường lớn, tài nguyên phong phú, lao động dồi dào, được đào tạo
tốt, có quan hệ quốc tế rộng rãi.
Toàn bộ tình hình trên đem lại nhiều thuận lợi to lớn, đồng thời cũng đặt ra nhiều
thử thách gay gắt đối với nước ta trong quá trình phát triển đất nước nói chung và quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
2.3 Những kết quả đạt được khi Việt Nam tham gia quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế

Quá trình hội nhập với nền kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại thời gian đã
mang lại cho chúng ta những kết quả quan trọng:
2.3.1. Chúng ta đã làm thất bại chính sách bao vây, cấm vận, cô lập nước ta của
các thế lực thù địch, tạo dựng được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế nước ta trên chính trường và thương
trường thế giới.
2.3.2. Không những chúng ta đã khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị
trường do Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã gây nên, mà còn mở
rộng được thị trường xuất nhập khẩu.
Trong quá trình hội nhập, chúng ta đã nhanh chong mở rộng xuất nhập khẩu, thúc
đẩy sản xuất trong nước phát triển, tạo thêm việc làm, tăng thu ngân sách. Nếu năm
1990 kim ngạch xuất khẩu mới đạt 2,404 tỷ USD và nhập khẩu 2,752 tỷ USD thì năm
USD thì năm 2001, kim ngạch xuất khẩu đã dạt 15,1 tỷ USD (nếu tính cả dịch vụ thì đạt
17,6 tỷ USD, tăng trung bình trên 20% mỗi năm, có năm tăng 30%; riêng năm 2001 do

15


ảnh hưởng của tình hình kinh tế kho khăn trên thế giới và ở khu vực và giá cả các mặt
hàng xuất khẩu chủ yếu giảm mạnh, nên xuất khẩu chỉ tăng gần 5%.
2.3.3. Thu hút được nguồn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), bổ sung cho
nguồn vốn trong nước, kết hợp nội lực với ngoài lực, tạo được những thành tựu kinh tế
to lớn, quan trọng.
Tháng 12-1987, chúng ta đã ban hành Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ đó
đến nay đã thu hút được trên 42 tỷ USD vốn đầu tư, với trên 3000 dự án, đã thực hiện
khoảng 21 tỷ USD trong số đó. Nguồn đầu tư trực tiếp của nước ngàoi giữ một vị trí
quan trọng trong nền kinh tế nước ta: gần 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất
công nghiệp, 20% xuất khẩu, giải quyết việc làm cho khoảng 40 vạn lao động trực tiếp
cà hàng chục vạn lao động gián tiếp.
2.3.4. Tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thứ (ODA) ngày càng lớn,

đồng thời giảm đáng kể nợ nước ngoài.
Từ năm 1993, hằng năm đều có hội nghị các nhà tài trợ cho nước ta gồm một số
nước và một số định chế tài chính – tiền tệ quốc tế. Cho đến nay, các nhà tài trợ đã cam
kết dành cho nước ta gần 20 tỷ USD, chủ yếu là cho vay ưu đãi với lãi suất từ 0,75%
đến 2,5% tùy thưo mỗi đối tác; một phần là viện trợ không hoàn lại.
2.3.5. Tiếp thu khoa học và công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo một đội
ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh năng động, sáng tạo.
Quá trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội để Việt Nam tiếp cận với
những thành quả của cuộc sống cách mạng khao học – công nghệ đang phát triển mạnh
mẽ trên thế giới. Nhiều công nghệ và dây chuyền sản xuất hiện đại được sử dụng đã tạo
nên bước phát triển mới trong các ngành sản xuất. Đồng thời, thông qua các dự án liên
doanh hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều
kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
2.3.6. Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào mô
trường cạnh tranh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh.

16


Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại, nhiều doanh
nghiệp đã nỗ lực đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao năng suất và chất
lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển; khả năng cạnh
tranh của nhiều doanh nghiệp đã được nâng lên; đã có hàng trăm doanh nghiệp đạt tiêu
chuẩn.
ISO-9000. Một tư duy mới, một nếp làm ăn mới, lấy hiệu quả sản xuất và kinh
doanh làm thước đo, một đội ngũ các nhà doanh nghiệp mới năng động, sáng tạo có
kiến thức quản lý đang hình thành.

2.4. Những mặt yếu kém và tồn tại khi Việt Nam tham gia vào quá trình hội

nhập kinh tế quốc tế
Tuy nhiên, qua quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cũng bộc lộ nhiều mặt
yếu kém:
2.4.1. Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế đã được khẳng định trong nhiều nghị
quyết của Đảng và văn kiện của Nhà nước và trên thực tế đã được thực hiện từng bước,
nhưng nhận thức về nội dung, bước đi, lộ trình hội nhập còn giản đơn: các ngành, các
cấp và khá đông cán bộ chưa nhận thức đầy đủ những thách thức, nắm bắt thời cơ để
phát triển; không ít chủ trương, cơ thể, chính sách chậm được đổi mới cho phù hợp với
yêu cầu hội nhập.
2.4.2. Công tác hội nhập kinh tế quốc tế mới được triển khai chủ yếu ở các cơ
quan Trung ương và một số thành phố lớn, sự tham gia của các ngành, các cấp, của các
doanh ngiệp còn yếu và chưa đồng bộ. Vì vậy, chưa tạp được sức mạnh tổng hợp cần
thiết bảo đảm cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đạt hiệu quả cao.
2.4.3. Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh
tế quốc tế, một lộ trình hợp lý thực hiện các cam kết quốc tế.
2.4.4. Nhiều doanh nghiệp còn ít hiểu biết về thị trường thế giới và luật pháp
quốc tế, năng lực quản lý kém, trình độ công nghệ còn lạc hậu, hiệu quả sản xuất kinh

17


doanh và khả năng cạnh tranh còn yếu, tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự bao cấp và bảo
hộ của Nhà nước còn nặng.
2.4.5. Môi trường kinh doanh ở nước ta tuy đã được cải thiện đáng kể song chưa
thật thông thoáng: hệ thống luật pháp còn thiếu, chưa đồng bộ, chưa đủ rõ ràng và nhất
quán; kết cấu hạ tầng phát triển chậm; trong bộ máy hành chính còn nhiều biểu hiện của
bệnh quan liêu và tệ tham nhũng, trình độ nghiệp vụ còn yếu kém, nguồn nhân lực chưa
được đào tạo đến nơi đến chốn.
2.4.6. Đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại còn thiếu và yếu; tổ chức
chỉ đạo chưa sát và kịp thời; các cấp, các ngành chưa quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện

cho các doanh nghiệp chuẩn bị tham gia hội nhập. Đây là nguyên nhân sâu xa của
những yếu kém, khuyết điểm trong hợp tác kinh tế với nước ngoài.
2.5. Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh
tế quốc tế
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế có mối liên hệ
khăng khít, biện chứng cho nhau. Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế đã trở thành một
xu thế khách quan, chi phối sự phát triển của các nước trên thế giới, để phát triển bền
vững, hiệuu quả mỗi quốc gia phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đồng thời thực
hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Có xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ
thì mới tạo được cơ sở kinh tế, cơ sở vật chất – kỹ thuật của chế độ chính trị độc lập, tự
chủ. Độc lập tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất để đảm bảo cho sự độc lập tự chủ,
bền vững về chính trị. Thực tế nhiều nước cho thấy không thể có độc lập tự chủ về
chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế.
Có lẽ sau khi nghiên cứu kỹ đề tài chúng ta có thể nhận ra rằng không thế có độc
lập tự chủ khi không có hội nhập kinh tế quốc tế, giữa chúng có mối liên hệ biện chứng
với nhau. Chỉ có xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ chúng ta mới có đầy đủ tư
cách và tự lực để chủ động hội nhập đúng hướng và có hiệu quả, và ngược lại chỉ có
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta mới nhanh chóng bổ sung cho nội lực còn
khiếm khuyết thiếu hụt rút con đường phát triển nhằm không ngừng tự hoàn thiện mình
để giữ vững nền độc lập tự chủ. Hơn nữa chúng ta chủ động hội nhập chính là chúng ta
18


chủ động bảo vệ và quyết tâm bảo vệ bằng được mục tiêu độc lập tự chủ trong phát
triển. Độc lập tự chủ để mở cửa chủ động hội nhập để bảo vệ độc lập tự chủ. Mối quan
hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế là mối quan hệ
tương hỗ, có tính biện chứng; hội nhập càng chất lượng thì độc lập tự chủ càng cao.Độc
lập tự chủ càng cao thì càng có điều kiện chủ động, tích cực hội nhập. Việc xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ hiện nay không hề mâu thuẫn với quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế và xu thế toàn cầu hóa kinh tế.


CHƯƠNG III
NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
1. ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ

1.1. Mục tiêu: phấn đấu xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong phát triển
kinh tế thị trường và chủ động mở cửa hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới;
tích cực tham gia vào sự giao lưuu, hợp tác, phân công lao dộng quốc tế, trên cơ sở phát
huy tốt nhất nội lực, lợi thế so sánh của quốc gia để cạnh tranh có cạnh tranh có hiệu
quả trên thương trường quốc tế.
1.2. Một số điều kiện để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
Một là, có đường lối, chính sách độc lập tự chủ về phát triển kinh tế - xã hội theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh nghiệm phát triển của thế giới rất phong phú, có giá
trị tham khảo đối với nước ta, song không thể áp dụng máy móc, rập khuôn, giáo điều
mà cầnt ính tới điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và lợi ích của nước ta. Hơn nữa, nếu thiếu
độc lập lập tự chủ về đường lối hoặc để phụ thuộc vào sự áp đặt đường lối và chính
sách từ bên ngoài thì sẽ dẫn tới những tai hại khó lường. Đây là một bài học lớn mà
chũng ta đã tổng kết và khẳng định.
Hai là, phải có thực lực kinh tế đủ mạnh, không chỉ có tiềm lực kinh tế, khoa
học và công nghệ, mà còn phải có cơ sở vật chất – kỹ thuật đủ mạnh:

19


- Giá trị sản xuất trong nước đáp ứng được đầy đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân
dân và có mức tích lũy ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế. Trong những năm chiến
tranh trước đây, cho đến hết thập kỷ 80 của thế kỷ trước, nền kinh tế nước ta thực hiện
được tái sản xuất mở rộng xã hội, mà một phần của quỹ tiêu dùng xã hội và toàn bộ quỹ
tích lũy vẫn còn phải dựa vào viện trợ của bên ngoài. Từ thập kỷ 90 đến nay, nền kinh
tế đã bắt đầu thoát ra khỏi tình trạng đó và được cải thiện khá nhanh, đến năm 2000 đã

có mức tích lũy khoảng 27% GDP,trong đó tích lũy từ nội bộ gần 20%. Đây là một điều
kiện rất quan trọng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo đảm độc lập tự chủ
về kinh tế. Không có nguồn vốn này thì không thể tiếp nhận và phát huy nguồn vốn bên
ngoài. Tuy nhiên, so với những nước đang phát triển ở thời ký tăng tốc đã có mức tích
lũy tới 35 – 40% như Hàn Quốc, Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á, thì trong
thời kỳ tới, chúng ta còn phải nâng mức tích lũy này lên cao hơn, đến hơn 30%. Mặt
khác, vẫn phải đảm bảo có mức tăng cần thiết quỹ tiêu dùng xã hội hằng năm (khoảng
5%/năm) để tiếp tục cải thiện từng bước đời sống của nhân dân.
- Có thể chế kinh tế - xã hội bền vững, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và
sức cạnh tranh. Trong mô hình công nghiệp hóa mới hiện nay, vấn đề xây dựng cơ cấu
kinh tế theo hướng ngày càng có sức cạnh tranh cao hơn, có hiệu quả lớn hơn là một
yếu tố quan trọng hàng đầu. Thực tế cho thấy, trong cuộc khủng hoảng tài chính – tiền
tệ vừa qua, nước nào có sức cạnh tranh cao hơn thì sẽ có sức chịu đựng và hạn chế
được tác động và khủng hoảng nhiều hơn (như Xin-ga-po,…). Sức canh tranh đó phụ
thuộc vào việc phát huy những lợi thế so sanh và lợi thế cạnh tranh về các mặt: con
người và nguồn nhân lực, vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là việc vận dụng
những yếu tố tiến bộ khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa, tổ chức và
quản lý… dựa tên một cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp nhu cầu của thị trường trong
nước và thị trường quốc tế. Cơ cấu kinh tế này phải luôn luôn được hoàn chỉnh nâng
cấp, gắn với một cơ cấu công nghệ ngày càng tiến bộ, tạo ra và phát triển năng lực nội
sinh về khoa học và công nghệ của đất nước. Cho đến nay, iệc tạo dựng một cơ cấu
kinh tế, trước hết là cơ cấu ngành kinh tế và gây dựng một năng lực nội sinh về khoa

20


học và công nghệ như thế để bảm đảm cho sự độc lập tự chủ vững chắc về kinh tế của
nước ta, còn ở giai đoạn khởi đầu.
- Có kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và một số ngành công nghiệp nặng then
chốt. Kết cấu hạ tầng là nền tảng vật chất cơ bản của nền kinh tế và xã hội. Chúng ta

phải chăm lo xây dựng từng bước cả kết cấu hạ tầng kinh tế (giao thông thông, điện lực,
bưu chính viễn thông, thủy lợi, cấp – thoát nước…) và kết cấu hạ tầng xã hội (trường
học, bệnh viện, cơ sở nghiên cứu khoa học, văn hóa, thông tin, thể dục thể thao…) Yêu
cầu về lĩnh vực này thật sự to lớn, dù là ở mức tối thiểu, để tạo điều kiện tiền đề cho sự
phát triển. Do đó, phải khẩn trương xây dựng có hiệu quả góp phần đạt mục tiêu sớm
vượt qua tình trạng kém phát triển.
Sức mạnh kinh tế của nước chủ yếu và lâu dài phải dựa sức mạnh của nền công
nghiệp. Trong nền công nghiệp này, cần thiết và có thể phát triển một số ngành công
nghiệp nặng có tính chất nền tảng để tạo sức mạnh công nghiệp quốc gia. Phải có cơ sở
công nghiệp then chốt để sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng đáp ứng nhu cầu trang bị
cho các ngành kinh tế và quốc phòng
Ba là, giữ vững ổn định kinh tế tài chính vĩ mo, bảo đảm an ninh lương thực, an
toàn năng lượng, môi trường,…
Về kinh tế - tài chính: trong quá trình phát triển, cần luôn luôn duy trì các cân
đối kinh tế - tài chính vĩ mô thông qua công tác kế hoạch hóa đúng đắn và điều hành
chặt chẽ, nhạy bén các hoạt động ở tầm vĩ mô và tính chiến lược, xây dựng và vận hành
một hệ thống tài chính – tiền tệ lành mạnh. Một vấn đề cần đặc biệt coi trọng là phải có
một lượng dự trữ ngoại tệ cần thiết để bảo đảm an toàn cho các dịch vụ tả nợ đến hạn
dự phòng ứng phó với những thâm hụt về cán cân thanh toán quốc tế và những biến
động bất thường của thị trường tài chính, tiền tệ trong nước và ngoài nước.
Về an ninh lương thực quốc gia: nước ta có dân số đông thứ hai khu vực Đông
Nam Á, thứ 13 trên thế giới, gần 80% số dân cư sông ở nông thôn và chủ yếu dựa vào
sản xuất nông nghiệp. Do đó vấn đề đảm bảo an ninh lương thực trong cả nước và trên
từng vùng lớn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và lâu dài để giữ vững ổn định kinh tế - xã
hội và tạo tiền đề đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. An ninh lương thực không
21


×