Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NHÓM DÂN TỘC ÍT NGƯỜINGƯỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.7 KB, 10 trang )

CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI DÂN TỘC ÍT NGƯỜI
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÌNH HÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ
I. Khái niệm dân tộc.
Hiện nay, trong ngôn ngữ diễn đạt hay trong nhận thức, quan niệm
của chúng ta, khái niệm dân tộc được hiểu rất đa nghĩa, đa cấp độ. Khái
niệm này được sử dụng trong nhiều ngành khoa học bởi dân tộc không
chỉ là đối tượng riêng của ngành dân tộc học ở mức độ khác nhau, dân
tộc và các vấn đề dân tộc đều được các khoa học như: sử học, tâm lý
học, văn hoá học… nghiên cứu. Tuy nhiên, các dân tộc là đối tượng
nghiên cứu trực tiếp của khoa học dân tộc học - một ngành khoa học ra
đời từ thế kỷ XIX và ngày càng phát triển, đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay. Một khái niệm trong khoa học xã hội và nhân văn được định nghĩa,
được hiểu khác nhau là hiện tượng phổ biến, với tư cách là đối tượng
của một ngành khoa học cụ thể, ở nước ta cần sớm có quan niệm thống
nhất dựa trên những tiêu chí chung của khái niệm dân tộc, bởi vấn đề
không chỉ liên quan đến nhận thức khái niệm dưới góc độ khoa học mà
còn liên quan đế nhận thức trong hoạt động thực tiễn. Khái niệm dân tộc
liên quan trực tiếp đến việc xác định thành phần dân tộc trong một quốc
gia đa dân tộc, giải quyết các quan hệ dân tộc mà trực tiếp là việc đưa
ra và thực hiện đúng chính sách dân tộc.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì: dân tộc được hiểu theo 4 nghĩa:
Thứ nhất: Trước hết dân tộc là cộng đồng người hình thành trong
lịch sử có chung một lãnh thổ, các quan hệ kinh tế, một ngôn ngữ văn
học và một số đặc trưng văn hoá và tính cách, ví dụ như: Dân tộc Việt,
dân tộc Nga…
Thứ hai, dân tộc là tên gọi chung những cộng đồng người cùng
chung một ngôn ngữ, lãnh thổ, đời sống kinh tế và văn hoá, hình thành
trong lịch sử từ sau bộ lạc. Việt Nam là một nước có nhiều dân tộc,
đoàn kết các dân tộc để cứu nước.
Thứ ba, dân tộc nói tắt có nghĩa là dân tộc thiểu số.


Thứ tư, dân tộc là cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân
một nước, có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi
quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu
tranh chung.


Trong từ điển bách khoa Việt Nam, khái niệm dân tộc được định
nghĩa: “ Dân tộc (nation) hay quốc gia dân tộc là cộng đồng chính trị - xã
hội được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất
định, ban đầu do sự tập hợp của nhiều bộ lạc và liên minh bộ lạc, sau
này của nhiều cộng đồng mang tính tộc người ( ethnie) của bộ phận tộc
người. Tính chất của dân tộc phụ thuộc vào những phương thức sản
xuất khác nhau. Bước vào giai đoạn công nghiệp, rõ rệt nhất là ở các
nước phương Tây, do yêu cầu xoá bỏ tính cát cứ của các lãnh địa trong
một dân tộc, nhằm tạo ra một thị trường chung, nên cộng đồng dân tộc
được kết cấu chặt chẽ hơn. Kết cấu của cộng đồng dân tộc rất đa dạng,
phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội trong khu vực và bản
thân. 2. Dân tộc (ethnie) còn đồng nghĩa với cộng đồng mang tính tộc
người, ví dụ dân tộc Tày, dân tộc Bana…Cộng đồng có thể là bộ phận
chủ thể hay thiểu số của một dân tộc (nation) sinh sống ở nhiều quốc
gia dân tộc khác nhau được liên kết với nhau bằng những đặc điểm
ngôn ngữ, văn hoá và nhất là ý thức tự giác tộc người”
Khi đưa ra khái niệm dân tộc - tộc người, các nhà dân tộc học đều
quan tâm đến những tiêu chí xác định dân tộc. Cũng như việc xác định
các tiêu chí khác nhâu dẫn đến các định nghĩa hay quan niệm chưa
hoàn toàn thống nhất. Về phương diện dân tộc học, theo cách hiểu
truyền thống thì dân tộc là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng người
ổn định được hình thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử nhất
định với một số đặc trưng cơ bản là:
Có một lãnh thổ chung.

Phương thức sinh hoạt kinh tế chung.
Ngôn ngữ giao tiếp chung.
Tâm lý chung biểu hiện trong văn hoá dân tộc.
Quan niệm này cho đến nay vẫn tồn tại trong nhiều công trình
nghiên cứu trong và ngoài nước. Tuy nhiên, vấn đề xác định các tiêu chí
tộc người là rất phức tạp. Ở Việt Nam, nhiều quan điểm về tiêu chí xác
định thành phần dân tộc đã được tập hợp trong cuốn sách Vấn đề xác
định thành phần các dân tộc thiểu số ở Miền Bắc Việt Nam.
Đa số các nhà dân tộc học Việt Nam cho rằng, cộng đồng tộc
người hay là dân tộc phải được coi là đơn vị cơ bản để tiến hành xác
minh thành phần các dân tộc. Khi nêu lên tầm quan trọng của lãnh thổ
như là một điều kiện quan trọng của lãnh thổ như là một điều kiện quan
trọng làm xuất hiện và tồn tại tộc người, nhưng trong tình hình biến động


về lãnh thổ diễn ra phức tạp, ở nhiều quốc gia đa dân tộc, vấn đề lãnh
thổ tộc người rất khó xác định. Bởi vậy, lãnh thổ hay địa vực cư trú
không được coi là tiêu chí khi xác định thành phần tộc người ở Việt
Nam. Thông qua các hội thảo khoa học, hầu hết các ý kiến đều tán
thành ba tiêu chí xác định thành phần dân tộc, đó là những đặc trưng về
tiếng nói, về đặc điểm sinh hoạt văn hoá và ý thức tự giác tộc người
được coi là tiêu chuẩn chủ yếu. Đây cũng là quan điểm của dân tộc học
hiện nay.
Như vậy, từ quan niệm truyền thống, coi cộng đồng tộc người hay
dân tộc là một tập đoàn người tương đối ổn định hoặc ổn định, được
hình thành trong quá trình lịch sử dựa trên những mối liên hệ chung về
địa vực cư trú, sinh hoạt kinh tế, tiếng nói, những đặc điểm sinh hoạt –
văn hoá, và dựa trên ý thức về thành phần và tên gọi chung, các nhà
khoa học đã thống nhất đưa ra một quan niệm về dân tộc, làm cơ sở để
xác định các thành phần dân tộc ở nước ta là: Dân tộc là một cộng đồng

người tương đối ổn định hoặc ổn định, được hình thành và phát triển
trong lịch sử với ba đặc trưng làm tiêu chí cơ bản:
1/ Cộng đồng về ngôn ngữ.
2/ Các đặc điểm chung thuộc bản sắc văn hoá.
3/ Ý thức tự giác tộc người.
- Cộng đồng ngôn ngữ:
Ngôn ngữ là tiêu chí cơ bản để phân biệt các tộc người khác nhau,
bởi là phương tiện giao tiếp và gắn kết các thành viên trong một cộng
đồng tộc người thống nhất, nhờ có ngôn ngữ mà văn hoá tộc người
được bảo tồn và phát triển.
Vấn đề xem xét tiêu chí ngôn ngữ của mỗi dân tộc cần phải được
cụ thể: có dân tộc sử dụng tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp chung, cũng có
dân tộc dùng ngôn ngữ của các dân tộc khác như tiếng mẹ đẻ hoặc sử
dụng nhiều ngôn ngữ cùng một lúc bên cạnh ngôn ngữ mẹ đẻ. Trong
quá trình hình thành và phát triển của dân tộc - tộc người, sự bảo tồn và
phát triển ngôn ngữ là một đặc trưng quan trọng.
Tình hình phổ biến là đa số các dân tộc đều sử dụng ở mức độ
khác nhau ngôn nhữ tiếng mẹ đẻ của mình, một số ít dùng ngôn ngữ
của dân tộc khác làm tiếng mẹ đẻ trong những điều kiện hoàn cảnh đặc
biệt. Trên thế giới cũng như ở nước ta, đặc trưng ngôn ngữ đều được
coi là tiêu chí rất quan trọng để xác định tộc người.


Cộng đồng văn hoá.
Những đặc điểm chung về văn hoá hay bản sắc văn hoá tộc người
cũng là tiêu chí quan trọng để xem xét, phân định một dân tộc. Những
biểu hiện cụ thể của văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần ở mỗi một
dân tộc phản ánh những giá trị truyền thống, lối sống, phong tục, tập
quán, tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc đó. Lịch sử phát triển của các
tộc người gắn liền với lịch sử văn hoá, truyền thống văn hoá của họ. Rất

nhiều dân tộc trải qua hàng ngàn năm phát triền vẫn không bị đồng hoá
về văn hoá nhờ sức sống trường tồn của văn hoá dân tộc. Ngày nay
cùng với xu thế giao lưu văn hoá vẫn song song tồn tại xu thế bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hoá của mỗi một dân tộc như là su thế tất yếu
đối với sự phát triển dân tộc.
Ý thức tự giác tộc người.
Đây là tiêu chí quan trọng nhất trong các tiêu chí xem xét, phân
định một dân tộc. Đặc trưng nổi bật ở các dân tộc, tộc người là luôn luôn
tự ý thức về dân tộc mình: Từ nguồn gốc đến tộc danh. Đó cũng là ý
thức tự khẳng định sự hiện tồn và phát triển của mỗi dân tộc dù có
nhiều tác động hoặc thay đổi về địa bàn cư trú, lãnh thổ hay tác động
ảnh hưởng của giao lưu kinh tế, văn hoá…Sự hình thành và phát triển
của ý thức tự giác tộc người liên quan trực tiếp đến các yếu tố của ý
thức dân tộc, tình cảm dân tộc, tâm lý dân tộc. Tuỳ thuộc vào nhiều yếu
tố khách quan và chủ quan khác nhau ở mỗi dân tộc, mà ý thức tự giác
tộc người được biểu hiện sinh động và đa dạng. Nhưng đây vẫn là tiêu
chí quan trọng, có vị trí quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của
mỗi tộc người.
Ba tiêu chí vừa nêu đã tạo ra sự ổn định trong mỗi cộng đồng dân
tộc trong quá trình phát triển tộc người. Dân tộc là sản phẩm của lịch sử.
Vấn đề dân tộc vốn đã rất phức tạp do tính phức tạp của quá trình phát
triển của các tộc người, khái niệm “dân tộc” vì vậy là khái niệm đa nghĩa,
đa cấp độ được sử dụng trong nhiều ngành khoa học, đặc biệt là trong
các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Nhận thức, sử dụng khái niệm
dân tộc đòi hỏi phải đặt trong những cảnh huống cụ thể. Dưới góc độ
của dân tộc hay lý luận về dân tộc và chính sách dân tộc, khái niệm
“dân tộc” được xác định dựa trên những tiêu chí cơ bản vừa nêu trên. Ở
nước ta, những tiêu chí cơ bản đó cũng là cơ sở để xác định các thành
phần dân tộc hay các tộc người với các đặc điểm, sắc thái rất đa dạng
trong mỗi tộc người.

II. Đặc điểm của mối quan hệ dân tộc.


Vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc phản ánh quan hệ xã hội nói
chung. Sự xuất hiện cộng đồng dân tộc cũng làm nảy sinh các quan hệ
cần giải quyết. Các ngành khoa học xã hội và nhân văn, trong đó có dân
tộc học khi nghiên cứu dân tộc như là đối tượng của mình cũng chính
nhằm mục đích góp phần giải quyết các quan hệ liên quan đến dân tộc
nói chung và dân tộc - tộc người nói riêng. Vậy quan hệ dân tộc là gì?
Những đặc điểm, khuynh hướng phát triển của nó ra sao?
1. Về quan hệ dân tộc. Nếu như bản thân khái niệm dân tộc đã đa
nghĩa, đa cấp độ, thì cũng tương tự, quan hệ dân tộc cũng bao hàm
những nội dung đa nghĩa và cũng được nhận thức theo những cảnh
huống cụ thể. Nếu quan niệm dân tộc heo nghĩa rộng (nation - dân tộc quốc gia) thì quan hệ dân tộc chính là quan hệ giữa các quốc gia, dân
tộc nói chung trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo góc độ tiếp
cận thì quan hệ dân tộc gắn bó chặt chẽ với quan hệ quốc tế, với chính
sách đối ngoại của một nhà nước, một thể chế chính trị. Bởi nó liên
quan đến giải quyết các quan hệ giữa các quốc gia dân tộc trên thế giới.
Tuy nhiên đây là lĩnh vực rộng lớn liên quan đến nhiều ngành khoa học
xã hội và nhân văn.
Đối với khoa học dân tộc học cũng như lý luận về dân tộc và chính
sách dân tộc thì quan hệ dân tộc được xem xét trong tương quan dân
tộc- tộc người.
Theo nghĩa hẹp có thể hiểu quan hệ dân tộc là quan hệ giữa các
dân tộc- tộc người (hay giữa các thành phần dân tộc) trong một quốc gia
đa dân tộc, cũng như quan hệ giữa các thành viên trong nội bộ một dân
tộc, cũng như quan hệ giữa các thành viên trong nội bộ một dân tộc- tộc
người. Đây là mối quan hệ tổng hợp, đan xen của các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hoá…Quan hệ dân tộc bao hàm cả sự giao lưu, giao tiếp
và tác động ảnh hưởng lẫn nhau giữa các dân tộc- tộc người. Những

quan hệ này tuỳ thuộc vào thái độ của chính đảng cầm quyền và nhà
nước, tuỳ thuộc vào chính sách dân tộc của một thể chế chính trị hay
một nhà nước cụ thể.
Các mối quan hệ liên quan đến vấn đề dân tộc –tộc người vốn đã
rất đa dạng và phức tạp trong lịch sử nhân loại và ngày nay càng bộc lộ
tính nhạy cảm chính trị- xã hội mang tính đặc thù của nó.
Trong những năm gần đây, những xung đột sắc tộc, chủng tộc,
hàng loạt mâu thuẫn và vấn đề nảy sinh, đã dẫn đến tình trạng căng
thẳng giữa các quốc gia, khu vực hay trong nội bộ từng nước. Trong
nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân có nguyên nhân trực tiếp bắt


nguồn từ việc giải quyết các quan hệ dân tộc chưa phù hợp, chưa đúng
đắn. Xung đột sắc tộc, dân tộc diễn ra dưới nhiều dạng thức, biểu hiện
khác nhau nhiều khi đan xen cả trong xung đột tôn giáo, xung đột biên
giới, lãnh thổ…Do vậy, tính thời sự, cấp bách của vấn đề dân tộc và
giảo quyết tốt các quan hệ dân tộc đang là nhu cầu chung của ổn định,
hoà bình, hợp tác và phát triển của nhân loại và của quốc gia hiện nay.
2.2. Đặc điểm mối quan hệ dân tộc ở nước ta hiện nay.
Đặc điểm nổi bật trong quan hệ dân tộc - tộc người ở Việt Nam là
có truyền thống đoàn kết gắn bó từ lâu đời trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.
Do đặc điểm lịch sử của cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên
khắc nghiệt và chống giặc ngoại xâm, các dân tộc ở Việt Nam, thiểu số
cũng như đa số tuy trình độ kinh tế, văn hoá, xã hội, phong tục tập quán,
lối sống…khác nhau, nhưng đều có chung truyền thống đoàn kết thống
nhất, tương thân tương ái, đồng cam cộng khổ trong công cuộc dựng
nước và giữ nước. Do đó, bên cạnh những giá trị mang bản sắc văn
hoá tộc người của các dân tộc thiểu số còn có chung nhiều giá trị văn
hoá truyền thống của dân tộc - quốc gia Việt Nam, đó là truyền thống

yêu nước, yêu lao động, là ý thức tình cảm về quê hương Tổ quốc
chung. Trong lịch sử Việt Nam hiếm có những xung đột dân tộc gay gắt
hay tình trạng căng thẳng trong quan hệ dân tộc, mặc dù trong nhiều
thời kỳ bị xâm lược, đô hộ, các loại kẻ thù đều thực hiện chính sách
“chia để trị”, gây thù hằn, mâu thuẫn giữa các dân tộc Việt Nam.
Truyền thống đoàn kết, thống nhất trong cộng đồng các dân tộc ở
Việt Nam đã được phát huy cao độ trong các cuộc đấu tranh nhằm giải
phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đang được phát huy trong công
cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mà nhiệm
vụ trọng tâm hiện nay là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, để củng cố, xây dựng vững bền khối đoàn kết giữa các
dân tộc - tộc người đòi hỏi chúng ta phải giải quyết hàng loạt nhiệm vụ
nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc,
đồng thời phải thường xuyên nâng cao cảnh giác chống âm mưu, thủ
đoạn của các thế lực phản động và thù địch lợi dụng các vấn đề liên
quan đến dân tộc, quan hệ dân tộc- tộc người- vốn là lĩnh vực rất nhạy
cảm và phức tạp - nhằm thực hiện “diễn biến hoà bình”, chia rẽ sự
thống nhất đoàn kết vốn có trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Với
phương châm “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành
công, đại thành công” của chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện tốt chính


sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là tạo tiền đề, điều kiện
phát triển sự thống nhất, đoàn kết các dân tộc, xây dựng đất nước phồn
vinh đưa lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào tất cả các dân
tộc.
Hiện nay, giữa các dân tộc còn có sự chênh lệch lớn trên nhiều
phương diện. Trong cộng đồng 54 dân tộc anh em sinh sống trên đất
nước ta, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, tình trạng
chênh lệch còn rất lớn trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội…..Từ

sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, các miền dẫn tới tình trạng
chênh lệch lớn trong sinh hoạt kinh tế như trình độ tổ chức sản xuất,
phương thức canh tác, trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật… dẫn đến
năng xuất, sản lượng và hiệu quả kinh tế nói chung cũng chênh lệch.
Việc thực hiện, hoàn thành các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở các vùng núi, vùng
cao, vùng dân tộc thiểu số đang là những vấn đề nan giải do nhiều
nguyên nhân cần sớm được khắc phục.
Về văn hoá, trình độ văn hoá, trình độ dân trí nói chung, giữa các
vùng miền, giữa các dân tộc còn chênh lệch lớn. Phong tục tập quán,
luật tục, tâm lý, lối sống của các tộc người….bên cạnh những yếu tố tích
cực, còn lưu giữ nhiều yếu tố tiêu cực, lạc hậu ở các mức độ khác nhau.
Đời sống văn hoá ở các cơ sở, mức hưởng thụ về văn hoá cũng còn
chênh lệch lớn, đặt biệt nếu so sánh với các dân tộc cư trú ở vùng sâu,
vùng xa, vùng biên giới, hải đảo.
Về xã hội, quản lý xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội nhằm ổn
định đời sống, việc làm thực hiện các chính sách xã hội, chống tệ nạn
xã hội v.v…cũng biểu hiện rõ nét sự không đồng đều, thậm chí chênh
lệch rất lớn trong các tộc người thiểu số với đa số cũng như giữa các
tộc người thiểu số với nhau.
Sự phát triển không đồng đều, sự chênh lệch lớn trên các phương
diện vừa nêu trong các dân tộc- tộc người ở Việt Nam là một đặc điểm
lớn, tác động ảnh hưởng, thậm chí là trở ngại không nhỏ đối với quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, quá trình phát triển các
quan hệ dân tộc theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta. Đây cũng là
một trong những vấn đề cần được khắc phục nhằm phát triển từng
bước, xoá dần khoảng cách chênh lệch trên các phương diện của đời
sống xã hội giữa các dân tộc - tộc người ở nước ta hiện nay.
Mấy đặc điểm trên xét theo hai phương diện: dân số, dân cư và
quan hệ dân tộc chưa phải là tất cả, song đó là những đặc điểm nổi bật



cần được xem xét, tính đến trong giải quyết các vấn đề về dân tộc, và
quan hệ dân tộc, hoạch định và thực hiện tốt chính sách dân tộc của
đảng và nhà nước ta trên con đường đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
/>Thực trạng kinh tế xã hội của dân tộc ít người ở Việt Nam
Tăng trưởng kinh tế nhanh ở Việt Nam diễn ra trong suốt thập niên
90 và những năm đầu thập niên 2000 đã đem đến những kết quả ngoạn
mục về giảm nghèo. Tuy nhiên trong giai đoạn này, sự giảm nghèo của
nhóm đồng bào dân tộc thiểu số diễn ra với tốc độ chậm hơn. Nghèo,
tuổi thọ, tình trạng dinh dưỡng và những chỉ số đo mức sống khác của
nhóm đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn còn ở mức thấp dù có rất nhiều
chính sách đã được đưa vào thực hiện nhằm hỗ trợ các nhóm dân tộc
này.
Ở Việt Nam có 54 nhóm dân tộc sinh sống, trong đó người Kinh
chiếm tới gần 87%. Trừ người Hoa, người Khơ-me và người Chăm, 50
nhóm dân tộc còn lại chủ yếu sinh sống ở vùng nông thôn hoặc miền núi
xa xôi và chịu những bất lợi về xã hội và kinh tế ở những mức độ khác
nhau. Tỉ lệ nghèo của nhóm đồng bào các dân tộc thiểu số cao hơn 4,5
lần so với đồng bào người Kinh và Hoa. Nhóm đồng bào dân tộc thiểu
số cũng có tỉ lệ suy dinh dưỡng, mù chữ và bệnh tật cao hơn. Tuy chỉ
chiếm 1/8 số dân cả nước, song các dân tộc thiểu số chiếm đến 40%
tổng số người nghèo năm 2004. Một số cơ quan chính phủ dự báo rằng
đến năm 2010, đồng bào dân tộc thiểu số sẽ chiếm hơn một nửa số
người nghèo của Việt Nam.
Tổng lược các Chính sách và Chương trình
Việt Nam có rất nhiều chính sách và chương trình được thiết kế và
thực hiện nhằm hỗ trợ cho sự phát triển của các dân tộc thiểu số.
Những chương trình và chính sách này chú trọng giải quyết nhiều vấn

đề kinh tế xã hội có liên quan đến sự phát triển của dân tộc thiểu số và
hướng vào thực hiện nhiều mục tiêu. Một số chương trình (như hợp
phần cơ sở hạ tầng thuộc Chương trình 135 và 143, hợp phần nước
thuộc Chương trình 134) tập trung vào xây dựng hạ tầng cơ sở cơ bản
ở các vùng đặc biệt khó khăn (Vùng 3). Nhà nước cũng áp dụng trợ cấp
về giá và cước vận chuyển cho các xã khó khăn và ở vùng xa. Các
chương trình và chính sách khác (như hợp phần khuyến nông thuộc


Chương trình 143, hợp phần đào tạo thuộc Chương trình 135, miễn
giảm viện phí và nhà ở thuộc Chương trình 134) đã hỗ trợ kỹ thuật canh
tác, tay nghề, chăm sóc sức khỏe, phổ cập kiến thức và nhà ở cho các
hộ thuộc dân tộc thiểu số hoặc các hộ nghèo. Loại chương trình thứ 3,
điển hình là Chương trình Hỗ trợ Các hộ dân tộc thiểu số có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn và một số sáng kiến ở các tỉnh nhằm hỗ trợ cho các
nhóm dân tộc thiểu số, thường là các dân tộc có ít người và mức sống
rất thấp. Theo thời gian, do tăng trưởng kinh tế nhìn chung giúp nâng
cao mức sống người dân Việt Nam, dường như đã có sự chuyển hướng
từ hỗ trợ theo địa bàn sang các chính sách và chương trình được định
hướng trực tiếp vào các nhóm đồng bào dân tộc thiểu số và các nhóm
người nghèo khác.
Khuyến nghị chính sách
Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Đồng bào Kinh hay Thổ,
Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc
thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng
ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau.”
Đã hơn 30 năm trôi qua kể từ ngày Việt Nam thống nhất đất nước
và 20 năm kể từ công cuộc Đổi mới được thực hiện. Quá trình tăng
trưởng kinh tế nhanh chóng rõ ràng đóng vai trò quan trọng hàng đầu
trong giảm nghèo và cải thiện mức sống của người dân Việt Nam trên

nhiều phương diện. Tuy nhiên, trên cơ sở phân tíchđịnh lượng được
thực hiện trong dự án nghiên cứu này, có thể thấy rằng tác động của
quá trình tăng trưởng kinh tế đến mức sống của các nhóm dân tộc là
không đồng đều. Chi tiêu của người Kinh tăng lên nhanh hơn so mới
mức trung bình ở nông thôn, còn chi tiêu của 6 nhóm còn lại thấp hơn
và tăng chậm hơn. Chênh lệch chi tiêu giữa các dân tộc sống ở nông
thôn Việt Nam cũng là đáng kể và khoảng cách này có xu hướng gia
tăng trong những năm gần đây. Một phần của chênh lệch này là do
nguồn lực hạn chế của đồng bào dân tộc thiểu số hoặc do các đặc tính
của xã nơi họ sinh sống. Điều này cho thấy các giải pháp cải thiện cơ sở
hạ tầng cấp xã và cải thiện nguồn lực của đồng bào dân tộc thiểu số dù
quan trọng nhưng sẽ không đủ để xóa bỏ chênh lệch chi tiêu nói trên.
Bên cạnh việc hỗ trợ các xã nghèo ở vùng xa, nên tăng cường thêm các
giải pháp hỗ trợ trực tiếp các nhóm đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn.
Bảy nhóm dân tộc như dự án nghiên cứu này phân loại và nghiên cứu
có thể cung cấp những thông tin hữu ích. Cũng cần có các chính sách
và chương trình nâng cao hiệu quả thu nhập từ các nguồn lực của dân
tộc thiểu số. viii Chênh lệch hiệu quả thu nhập từ các nguồn lực giữa


đồng bào Kinh và đồng bào các dân tộc thiểu số cho thấy những khó
khăn liên quan đến văn hóa, ngôn ngữ, địa lý và thị trường nên đồng
bào dân tộc thiểu số đã không tận dụng hết được những cơ hội mà sự
tăng trưởng nhanh chóng của kinh tế Việt Nam mang lại. Do vậy các
chính sách giúp tăng hiệu quả thu nhập từ các nguồn lực của đồng bào
dân tộc thiểu số có vai trò càng ngày càng quan trọng. Một số ưu tiên
trước mắt có thể là:
• Mở rộng các chương trình khuyến nông, dịch vụ thị trường tập
trung vào khuyến khích mở rộng và nâng cao hiệu quả canh tác tại các
vùng trung du và miền núi.

• Nâng cao chất lượng giáo dục dành cho con em đồng bào dân
tộc thiểu số.
• Cải thiện khả năng tiếp cận đối với việc làm có thu nhập cho đồng
bào dân tộc thiểu số.
• Bồi dưỡng khả năng sử dụng tiếng Việt, đặc biệt là cho các nhóm
dân tộc thiểu số ở vùng núi phía Bắc và Tây nguyên.
Thực hiện những ưu tiên này cộng với các giải pháp giúp tăng
cường sự tham gia và tận dụng cơ hội từ tăng trưởng kinh tế của đồng
bào dân tộc trở nên hết sức cấp thiết. Các giải pháp như vậy chắc chắn
sẽ giúp thực hiện được ý nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công
bằng và tương hỗ lẫn nhau giữa các dân tộc anh em ở Việt Nam

CHƯƠNG II
CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI DÂN TỘC ÍT NGƯỜI Ở ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG



×