11
PHẦN II
♣
BỐI CẢNH CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI TRẺ EM
1. CHÍNH SÁCH CHĂM SÓC TRẺ EM, QUYỀN TRẺ EM VÀ ĐẠO LUẬT
TRẺ EM
Khởi đầu từ thế kỷ 19 và được tăng cường vào thế kỷ 20, quyền trẻ em được
bảo vệ ngày càng được làm sáng tỏ, mang tính cưỡng chế. Trong những năm qua,
quan điểm bảo vệ này đã được bổ sung bằng sự thúc đẩy quyền trẻ em để trẻ tham
gia vào những quyết định ảnh hưởng đến đời sống của trẻ.
Trong câu nói nổi tiếng đương thời của nữ thẩm phán Butler Sloss, có một sự
chuyển hướng trong việc đối xử với trẻ như “một con người chứ không phải là đối
tượng của sự quan tâm”.
Mục đích của chương này là đặt thực hành công tác xã hội hiện tại trong bối
cảnh luật pháp và lịch sử. Chương này có 2 phần:
1. Tìm hiểu sự phát triển của chính sách đối với trẻ em và quyền trẻ em trên
2 thế kỷ qua, xem xét công tác xã hội với trẻ em trong bối cảnh của
khuynh hướng chính sách rộng lớn hơn.
2. Những hiểu biết đương đại về quyền trẻ em làm nền tảng cho công tác xã
hội với trẻ em.
1.1. Trẻ em và quyền trẻ em :
♣
D ựa theo”Social Work with children” c ủa Marian Brandon, Gillian Schofield v à Liz Trinder, Mac. Press
LTD, 1998
12
Trẻ em có nghĩa là gì, tuổi thơ là gì, đều được hình thành do xã hội, và mỗi xã
hội hình thành những ý nghĩa này một cách khác nhau. Mặc dù các sự kiện sinh học
cơ bản của đời người có thay đổi chút ít theo thời gian nhưng không có gì cố định
trong cách mà xã hội ứng phó với những khác biệt về sinh học này. Theo James và
Prout (1990) :
Sự non nớt của trẻ em là một sự kiện sinh học của đời người nhưng những
cách hiểu biết sự non nớt này và làm cho nó quan trọng lại là một sự kiện văn
hóa.
Sự giải thích của Disneyland Western của người da trắng về tuổi thơ an toàn
khác với thực trạng của từng quốc gia . Mọi xã hội đều có những tư tưởng và luật lệ
khác nhau về thời gian của tuổi thơ. Các xã hội tạo điều kiện cho trẻ em tham gia vào
việc lấy các quyết định về chúng đều khác nhau. Có một số xã hội không bao giờ
bằng lòng cho trẻ tham gia. Vì thế sự hiểu biết về sự hình thành tuổi thơ cũng khác
nhau, tạo ra những mong đợi và diễn dịch khác nhau về hành vi của trẻ em. Trong
quá khứ, các nhà sử học về tuổi thơ đã tranh luận mạnh mẽ về ý nghĩa của tuổi thơ.
Nhà sử học pháp Philippe Aries khởi xướng cuộc tranh luận trong những năm 1960
bằng cách tuyên bố rằng tình trạng tách biệt của tuổi thơ không thực sự tồn tại trước
thế kỷ 17, mà trẻ em được đối xử như người lớn thu nhỏ. Trên thực tế, có thể có
nhiều dạng tuổi thơ, với những khác biệt ở ý nghĩa thế nào là trẻ em giữa các tầng
lớp và khu vực. Các thái độ mâu thuẫn đối với trẻ em vẫn còn phổ biến, trẻ em lần
lượt được xem như những thiên thần nhỏ ngây thơ và những quỷ nhỏ từ bản chất có
thể làm những điều tệ hại nhất cho đến khi được người lớn xã hội hóa đầy đủ.
Việc thay đổi ý nghĩa của tuổi thơ, đôi khi mâu thuẫn, rõ ràng trong tài liệu xã
hội học và lịch sử được phản ảnh trong sự phát triển chính sách chăm sóc trẻ em, vừa
phản ảnh vừa đưa ra những giải thích khác nhau về tuổi thơ. Sự hiểu biết về quyền
trẻ em có liên quan chặt chẽ tới các khuynh hướng tri thức và chính trị rộng lớn hơn.
Thí dụ như một trong những chủ đề quan trọng nhất của thời đại là tăng quyền lực,
13
và điều này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự diễn dịch đương đại về quyền trẻ em như
quyền tham gia.
Trong phần sau đây nhân viên xã hội sẽ xem xét hai yếu tố này - bối cảnh
chính trị xã hội và những tư tưởng khác nhau về trẻ em và tuổi thơ - đã tạo ra những
hiểu biết khác nhau về quyền trẻ em trong luật pháp và thực tế.
1.2. Quan điểm ban đầu: Trẻ lao động tự do và cứu trợ trẻ em
Ở thế kỷ 19, một khái niệm phổ biến và giống nhau hơn về tuổi thơ đã hình
thành. Lúc đó, số trẻ em đã đóng góp vào lợi tức gia đình thông qua việc trả lương và
không trả lương. Trái lại, tuổi thơ “lý tưởng” đã hình thành từ từ trên nền tảng trên
“lý tưởng trong khuôn khổ” của gia đình trung lưu đầu thế kỷ thứ 19 (Hendrick
1990). Lý tưởng này là thời tuổi thơ mà trẻ em được xem như khác với người lớn về
tính chất và bản chất vì nếu không trẻ em có thể dễ dàng trở nên hung bạo, và nguy
hiểm nếu như chúng được phép trở thành như người lớn và bước vào thế giới của
người lớn. Khi thế kỷ thứ 19 đã phát triển, một loạt các biện pháp bảo vệ trẻ em
được đưa ra để trả lại cho trẻ em sự phụ thuộc và đưa chúng ra khỏi thế giới công
việc của người lớn sang thế giới trường học và gia đình của đứa trẻ.
Luật pháp kiểm soát lao động trẻ em và việc giới thiệu giáo dục phổ cập ở thế
kỷ thứ 19 đã nhận ra nhu cầu cần được bảo vệ của trẻ và hiểu rằng trẻ em có quyền
đó. Học tập làm cho mối liên kết giữa tuổi thơ và lao động yếu đi. Vì trường học dần
dần chiếm chỗ của lao động và học tập chính quy trở thành bắt buộc (khoảng 1900
khắp Châu Âu), thái độ về vị trí và vai trò của trẻ em cũng thay đổi. Tuổi thơ có thể
kéo dài lâu hơn và trẻ em có thể trở nên phụ thuộc hơn. Lần đầu tiên đối với các bậc
cha mẹ là có thể không xem trẻ là người đóng góp cho gia đình và tài sản kinh tế.
Lúc bấy giờ hàng hóa được mong đợi là sẽ từ cha mẹ đến con cái thay vì từ con cái
đến cha mẹ.
14
Khi các tổ chức công tác xã hội / an sinh nhi đồng đang phát triển thì mối
quan tâm nổi bật là “cứu vớt” trẻ em để trẻ em có thể hưởng được tuổi thơ. Tất cả
các hội thiện nguyện, như TS. Barnardos đã dành hết thời gian cho việc cứu trẻ em
ra khỏi môi trường xấu, ảnh hưởng xấu của người lớn và cha mẹ không tốt và cung
ứng cho chúng một sự khởi đầu thuận lợi nơi mà chúng đáng được gọi là trẻ em
(Cleaver và Fretrean 1995 ; Colton và các đồng tác giả 1995). Mục đích của việc cứu
giúp trẻ em là tái xã hội hóa trẻ em trong tầng lớp lao động ra khỏi tình trạng suy đồi
về mặt đạo đức.
Mặc dù thế kỷ 19 đã chứng kiến một sự chuyển biến quan trọng trong tư
tưởng về trẻ em và tuổi thơ nhưng mức độ thúc đẩy chuyển biến còn hạn chế. Về
chính sách chăm sóc trẻ, thế kỷ thứ 19 được mô tả là tốt nhất bằng cái mà Lorraine
Fox Harding (1991) gọi là “quan điểm gia trưởng và tự do”, dựa vào sự bảo đảm tính
riêng tư của gia đình và sự can thiệp tối thiểu của nhà nước vào gia đình. Từ quan
điểm này đã có một chỗ nhỏ cho chính sách an sinh : tất cả trách nhiệm trao cho gia
đình. Cleaver và Fretrean (1995) tranh luận rằng sự can thiệp phần lớn thu hẹp trong
những tình huống bên ngoài gia đình. Vai trò của nhà nước trong chăm sóc trẻ bị chi
phối bởi Luật người nghèo đã minh họa cho giá trị tự do của sự can thiệp tối thiểu,
điều này nhằm giảm chi phí và cũng nhằm gìn giữ sự thiêng liêng của đời sống gia
đình. Khi sự can thiệp xảy ra là nó nhằm cứu giúp trẻ em khỏi sự khốn đốn và nghèo
khó tuyệt đối (Cleaver và Fretrean 1995). Mãi cho đến năm 1889, Hội quốc gia
phòng ngừa bạo lực đối với trẻ em được thành lập thì gia đình và những điều vụn vặt
riêng tư thuộc về mối quan hệ gia đình có thể là mục tiêu của sự xem xét phần nào.
Trong gia đình, các quyết định của nội bộ gia đình về nuôi nấng trẻ v.v là trách
nhiệm của những thành viên có quyền lực nhất trong gia đình, đó là cha mẹ, nhất là
người cha. Thật ra, mãi cho tới 1886 lần đầu tiên luật pháp Anh đặt sự an sinh của
đứa trẻ lên hàng đầu, trước sự thực hiện và mong ước của cha mẹ (Hoggest 1993).
Cho đến cuối thế kỷ 19, đời sống đối với đa số trẻ em rất khác với trẻ em
trước đó. Sự phát triển chính trị và khoa học, y khoa đã đảm bảo cuộc sống đối với
phần lớn trẻ em chứ không chỉ đấu tranh cho sự sống còn. Năm 1901 số trẻ em chết
15
là 161 trên 1000 đứa trẻ sinh ra và giữa 1928 và 1931 thì hạ xuống còn 66 trên 1000
trẻ sinh ra (Hardymart 1983).
2. CHẾ ĐỘ GIA TRƯỞNG CỦA NHÀ NƯỚC VÀ BẢO VỆ TRẺ EM CỦA
PHƯƠNG TÂY
Khoảng cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 ở phương Tây đã có một thay đổi lớn,
dù không hoàn toàn, từ các cách tiếp cận tự do đến an sinh nhi đồng với một khái
niệm mới về tuổi thơ kèm theo. Về chính sách chăm sóc trẻ, Fox Harding (1991) gọi
là “chế độ gia trưởng của quốc gia và bảo vệ trẻ em” đã đặt cơ sở trên sự can thiệp
rộng lớn của nhà nước vào gia đình nhằm bảo vệ trẻ em khỏi sự thiếu chăm sóc của
cha mẹ (như các nhà chuyên nghiệp đã giải thích). Xây dựng trên sự phát triển của
thế kỷ 19, tuổi thơ được xem như một giai đoạn riêng biệt và dễ bị tổn thương trong
đời sống, cần đến sự bảo vệ và quyết định của người lớn. Một quan điểm chung về
trẻ em là trẻ có khả năng hạn chế về tự quyết và lấy quyết định. Sự khác biệt chủ yếu
trong thế kỷ 20 là sự tham gia của các nhân viên xã hội và những nhà chuyên môn
khác, ngày càng ở bên cạnh các bậc cha mẹ như những người quyết định và bảo vệ
của trẻ em, vì nhà nước và các chuyên gia chăm sóc trẻ em ngày càng đòi quyền
chỉnh đốn gia đình. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học xã hội và y khoa đã
cung ứng kiến thức an sinh nhi đồng để làm nền tảng cho công tác này. Các nhà xã
hội học, nhất là những người từ ngành tâm lý trẻ em đang nổi lên, càng ngày càng tỏ
ra quan trọng trong việc giải thích những hạn chế của đời sống gia đình “bình
thường” và tuổi thơ “bình thường”. Bất chấp nhiều sự bất đồng ý kiến, tác phẩm của
Burt, Isaacs, Klein, Winnicott và Bowlby rất có ý nghĩa vì lần đầu tiên làm nổi bật sự
quan trọng của đời sống tâm lý của đứa trẻ và vai trò của gia đình và cha mẹ
(Hendrick 1990).
Đạo luật trẻ em 1948 đã quy định bổn phận của chính quyền địa phương trong
việc thúc đẩy những lợi ích tốt nhất cho trẻ em và cung ứng những “cơ hội để phát
triển nhân cách và khả năng của trẻ”. Công tác của Sở trẻ em đã được thành lập,
chuyển đổi từ dịch vụ cứu vớt, chửa trị của thế kỷ 19 sang sự cổ vũ gần như vô hạn
16
về việc thúc đẩy sự an sinh của trẻ em bằng cách làm việc với gia đình như một tổng
thể (Colton và các đồng tác giả 1995 : 7). Khái niệm “phòng ngừa“ đã được hình
thành trong thập niên 1950 đã được đẩy mạnh qua công tác xã hội cá nhân, đã chứng
tỏ rằng hầu hết các Sở Trẻ em đang cố gắng ngăn cản việc nhận trẻ em vào nhà chăm
sóc đặc biệt (Packman 1993). Đạo luật Thiếu niên và trẻ em 1963 giao cho chính
quyền địa phương bổn phận giúp đỡ gia đình của những trẻ em không ở trong nhà
chăm sóc đặc biệt của chính quyền địa phương.
2.1. Sự tham gia và phương thức tham gia
Thập niên 1970 có lẽ là thời kỳ cao độ chế độ gia trưởng của nhà nước trong
an sinh nhi đồng. Từ lúc đó, công tác xã hội an sinh nói chung đã phải tự định nghĩa
lại nhằm đáp ứng những thách thức và phê phán từ bên trong lẫn bên ngoài. Sự phát
triển lũy tiến trong chi phí cộng đồng bị cắt giảm bất ngờ do khủng hoảng kinh tế
giữa thập niên 1970. Từ đó trở đi an sinh nhi đồng được cơ cấu trong bối cảnh thiếu
thốn về mặt kinh tế Quyền lực của chế độ an sinh và chủ nghĩa tập thể đã được
thiết lập sau thế chiến thứ 2 đã bị đẩy lùi bởi đợt thủy triều của chủ nghĩa tự do và cá
nhân mới tràn tới. Càng ngày sự can thiệp giúp đỡ càng quan liêu và áp đặt. Quyền
được tranh luận ngày càng nhiều để ủng hộ cho tự do cá nhân và gia đình.
Công tác xã hội với trẻ em trên 20 năm qua được nổi bật nhờ tăng cường tập
trung vào chi tiết thủ tục chặt chẽ, tìm hiểu chấn thương hay ngược đãi là chủ đề
chính. Từ những cái chết của trẻ do bạo hành trong gia đình đã đưa đến những cuộc
tranh luận khởi đầu cho sự phê phán về công tác xã hội “hỗ trợ”. Ngược đãi trẻ em
được “nhận diện, tiên đoán và ngăn ngừa” (Parton 1991 : 58) theo phương cách khoa
học hơn. Đồng thời, phương hướng của phần lớn công tác với trẻ em được chuyển từ
công tác phòng ngừa trẻ em tại gia đình sang việc đảm bảo an toàn cho “cha mẹ về
mặt tâm lý”.
Cuộc điều tra Cleveland khi đánh giá sự can thiệp của nhà chuyên môn trong
trường hợp nghi ngờ có sự lạm dụng tình dục trẻ em không giống như cuộc điều tra
17
về cái chết của trẻ, qua đó người ta cho rằng hoạt động của nhà chuyên môn quá
nhiệt tình và kết quả là sự than phiền của cha mẹ. Trẻ em cần được bảo vệ khi có sự
can thiệp sai lầm. Sự bảo vệ trẻ em phải được tiến hành theo cách thức không vi
phạm quyền của cha mẹ và nếu không thì những đau buồn không cần thiết sẽ đến với
chính đứa trẻ mà nhân viên xã hội muốn giúp đỡ. (Minister of State Tong Newton,
Parton 1991 : 114).
Báo cáo Cleverland về sau đưa đến sự thay đổi quan trọng trong công tác đối
tác với cha mẹ. Cư xử với trẻ em “như một con người” thay vì như là một “đối tượng
của sự quan tâm”, sự hiểu biết chủ quan của đứa trẻ về thế giới của riêng trẻ trước
tiên phải được thăm dò và được hiểu rõ. An sinh của trẻ em không thể chỉ được thúc
đẩy bằng sự ứng dụng tiến trình khoa học và sự đánh giá.
Trái ngược với bối cảnh mà nhân viên xã hội hiểu biết về sự xuất hiện của hai
quan điểm chăm sóc trẻ em khác được nhận ra bởi Fox Harding, cả hai đều nhấn
mạnh sự tham gia. Giống như quan điểm tự do bỏ mặc, “quan điểm quyền cha mẹ”
coi trọng sự toàn vẹn của ranh giới gia đình và chống lại sự can thiệp bên ngoài vào
các vấn đề của gia đình. Không giống quan điểm tự do, quan điểm này nhấn mạnh ở
vai trò giúp đỡ tiềm ẩn của nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ hỗ trợ cho cha
mẹ thực hiện vai trò của họ. Trọng tâm đặt vào đơn vị gia đình như một tổng thể hơn
là phần chia nó ra nhiều thành viên hình thành gia đình. Sự đòi lại quyền quyết định
cho cha mẹ từ các nhân viên chuyên nghiệp được coi trọng hơn sự tôn trọng tính độc
lập của đứa trẻ.
Quan điểm thứ 4 là một quan điểm hiểu biết nhiều về cuộc tranh cãi đương
thời về quyền trẻ em được Fox Harding gọi là “quyền của trẻ em và sự giải phóng
của trẻ em”. Trọng tâm chuyển đổi từ nhu cầu của trẻ em cần được sự bảo vệ của cha
mẹ sang quyền trẻ em tham gia và độc lập. Quan điểm này nói lên một khái niệm
tuổi thơ trái ngược. Trẻ em được xem như là nhóm bị áp bức, bị phân biệt đối xử
(một cách sai lầm) trên cơ sở tuổi tác. Thay vào đó, các tác giả trong quan điểm này
nhấn mạnh đến sự hợp lý, khả năng và sức mạnh của trẻ em và giảm thiểu sự khác
18
biệt giữa trẻ em và người lớn hoặc sự lệ thuộc và sự dễ bị tổn thương của trẻ em. Ở
đây trẻ em trở thành tác nhân độc lập, với những lợi ích riêng biệt trong gia đình. Trẻ
em không thể và không cần dựa vào cha mẹ hay nhân viên chuyên nghiệp để hành
động vì lợi ích tốt nhất của chúng mà phải nói và hành động vì chính trẻ.
Ở cấp độ chính sách và thực hiện, quan điểm quyền trẻ em càng ngày rõ ràng
trong thập niên 1980. Một loạt các phát triển dẫn đến trẻ em được có quyền như là
con người đúng nghĩa. Hệ thống “người giám hộ” đã cung ứng một nhân viên làm
việc độc lập nhân danh trẻ em làm việc ở tòa án. Do vậy trẻ em được công nhận như
những con người độc lập với những quyền lợi của mình cần đến sự đại diện và tư
vấn. Những kỹ thuật trị liệu bằng vui chơi và xây dựng mối quan hệ được phổ biến
qua các tài liệu như bộ tài liệu giảng dạy BAAF “Tiếp xúc với trẻ em” (1984) và qua
các tác giả như Fahlberg (1988) và Oaklander (1978). Mục đích của những tài liệu
này là khuyến khích nhân viên đóng vai trò tích cực nhiều hơn nữa trong việc giúp
đỡ trẻ em bày tỏ những cảm xúc bên trong của chúng (Aldgate và Simmonds 1988 :
14). Trong khi Những quyết định của Công tác xã hội trong chăm sóc trẻ em
không có chỗ đặc biệt cho quan điểm của trẻ em vào năm 1985 thì 3 năm sau đó một
hướng dẫn Đánh giá bảo vệ trẻ em tiếp theo của sở y tế Bảo vệ trẻ em : sách hướng
dẫn cho nhân viên xã hội thực hiện sự đánh giá toàn diện (1988) có nhiều tuyên
bố rõ ràng hơn về nhu cầu tư vấn trẻ em và về quyền của chúng :
Trẻ em và thanh thiếu niên đến với nghề nghiệp giúp đỡ vì họ và gia đình họ
trải qua những khó khăn, họ có quyền nhận sự can thiệp và giúp đỡ nhạy bén.
Họ có quyền được tư vấn và quan điểm của họ phải được quan tâm, cũng như
tuổi tác, sự hiểu biết của họ về những vấn đề và những quyết định có ảnh
hưởng đến đời sống của họ. (Sở y tế : 1988 : 9).
Tuy nhiên trong thực hiện, đa số nhân viên xã hội đã dành ít thời gian với trẻ
em. Trong khi một số nhân viên xã hội thời trước Đạo luật trẻ em 1989 đã thực hành
những kỹ năng công tác xã hội cá nhân với trẻ em thì hầu hết các nhân viên xã hội
hiếm khi nhìn trẻ em như chúng nó là. Quyết định của công tác xã hội trong chăm
19
sóc trẻ (HMSO 1985) đã bình luận rằng nhân viên xã hội dường như thiếu thời gian
và kỹ năng để làm việc trực tiếp với trẻ em và công việc này được dành cho những
người khác :
Hầu như không có chứng cớ rõ ràng để thấy rằng nhân viên xã hội tham gia
nhiều trong tiếp xúc trực tiếp với trẻ em Những người chăm sóc ban đầu
của trẻ em, cha mẹ nuôi hộ và nhân viên ở các trung tâm nuôi dưỡng được
xem là có nhiều cơ hội hơn. Trường hợp nào cần đến những kỹ năng này thì
nhân viên xã hội thường chuyển đến cho một nhà chuyên môn có hiểu biết về
phát triển trẻ em, sức khỏe hay giáo dục (văn phòng Trẻ em quốc gia, trong
HMSO 1985 : 14).
Do vậy, cho tới thập niên 1980 một loạt vấn đề và mối quan tâm đã ảnh
hưởng đến chính sách chăm sóc trẻ em và công tác xã hội với trẻ em. Một loạt những
tư tưởng đã hình thành về cách thức làm thế nào để có cách bảo vệ trẻ em tốt nhất
cùng lúc với những nguồn lực chịu sức ép nghiêm trọng và nhân viên xã hội chịu sự
giám sát kỹ càng của quần chúng. Tiến đến cuối thế kỷ, sáng kiến về quyền của cha
mẹ và quyền của trẻ em xuất hiện không mấy dễ dàng cùng với sự nhấn mạnh về thủ
tục hóa trong công tác xã hội.
2.2. Về quyền trẻ em
Trong khoảng thời gian của thập niên 1970 và 1980, đã có một sự phát triển đầy ý
nghĩa về quyền trẻ em. Ở cấp độ lý thuyết, các tác giả bắt đầu xem xét khái niệm
quyền của trẻ em : ở cấp độ chính quyền hai sự triển khai quyền trẻ em có nhiều ý
nghĩa vào cuối thập niên 1980 là Công Ước Quốc Tế và Quyền Trẻ em và Đạo Luật
Trẻ em 1989.
Thảo luận về quyền trẻ em có vẻ bị mắc trong vòng lẩn quẩn : giữa trẻ em có
khả năng, không có khả năng, giữa sự giải phóng và chế độ gia trưởng, giữa sự độc
lập và an sinh, giữa người giải phóng và người chăm sóc. Đối với “những người giải
20
phóng”, sự khác biệt giữa người lớn và trẻ em ít được nói ra, kết quả dẫn đến là trẻ
em cần phải được đối xử tương tự như người lớn. Tự quyết định là tất cả. Đối với
“người chăm sóc” trẻ em được xem là khác với người lớn về tính chất. Trẻ có ít khả
năng và dễ bị tổn thương hơn người lớn và do vậy đòi hỏi sự bảo vệ đặc biệt và các
quyết định được những người lớn chăm sóc trẻ đưa ra. (Archad 1933 : 55).
Trẻ em nhiều khi được định nghĩa và đối xử như thể chúng là người lớn thu
nhỏ chứ không có những đặc điểm trẻ em. Sự phức tạp và nhạy cảm về phát
triển tình cảm, thể chất và trí tuệ trở nên đơn giản hóa trong nhận thức và
việc hướng dẫn lấy quyết định theo kiểu thông thường (King và Piper 1995 :
144).
Các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực tuổi thơ ngày càng nhận thức sự phức tạp
về đời sống của trẻ em và mức độ trẻ em nhìn cũng như được nhìn về thế giới xã hội
của chúng (xem thí dụ James và Prout 1996). Trẻ em khác nhau về tuổi tác, giới,
chủng tộc và khuyết tật. Khả năng của trẻ em để định hình thế giới của chúng cũng
khác nhau tùy thuộc vào tình huống mà đứa trẻ sống. Cơ sở của trẻ em khác nhau về
thế giới vui chơi theo kiểu trẻ bị áp đặt và có cái nhìn theo đời sống trong lớp học
hay trong gia đình (James và Prout 1996). Tuy nhiên, ngay cả trong gia đình cuộc
nghiên cứu kỹ lưỡng cho thấy những mong đợi khác nhau của cha mẹ về trẻ em cùng
lứa tuổi tạo ra nhiều mức độ độc lập rất khác nhau ở trẻ em (Solberg 1990).
2.3. Các thuyết về quyền hội nhập
Hai thuyết nổi tiếng về quyền trẻ em thuộc về Michael Fretrean (1983) và
John Eekelaar (1986). Dù có những điểm trùng lắp đáng kể giữa hai thuyết nhưng có
thể nêu ra những nét đại cương của cả hai lý thuyết này vì chúng đặc biệt có ích cho
việc hình thành những khái niệm cơ bản về quyền.
a. Lý thuyết về chủ nghĩa kiểm soát người dân theo kiểu gia trưởng tự do
của Michael Fretrean
21
Fretrean ủng hộ tầm quan trọng của việc nghĩ đến trẻ em như những người có
quyền sở hữu quyền của mình hơn là vì yêu thương hay từ thiện. Lý thuyết về quyền
của ông được xây dựng trên việc đảm bảo rằng trẻ em cần phải tham gia trong việc
lấy quyết định càng nhiều càng tốt, kết hợp với chủ nghĩa quyền gia trưởng tự do,
dựa trên cơ sở.
Với tư cách là trẻ em, loại hành động hay hành vi nào nhân viên xã hội mong
muốn được bảo vệ dựa trên giả định rằng nhân viên xã hội muốn thành người
lớn độc lập một cách hợp lý và có khả năng quyết định về những hệ thống kết
quả như một con người có lý trí và tự do. Nhân viên xã hội sẽ chọn những
nguyên tắc khuyến khích trẻ em trở thành người lớn độc lập. (Fretrean 1983 :
57).
Trên cơ sở này, Fretrean đưa ra 4 loại quyền :
• Quyền an sinh. Đây là loại quyền rõ ràng nhất và chỉ ra một loạt những đòi hỏi
“tuổi thơ hạnh phúc” như đã được định ra trong Bản tuyên bố Liên hiệp quốc về
Quyền trẻ em (nay được thay bằng Công ước quốc tế). Những đòi hỏi này bao
gồm quyền được học hành, dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe, và không phân
biệt đối xử.
• Quyền được bảo vệ. Trái với quyền an sinh, loại thứ hai này liên quan tới việc
bảo vệ trẻ em khỏi sự nguy hại, chẳng hạn như ngược đãi, thiếu chăm sóc và bóc
lột, lạm dụng. Quyền được bảo vệ là quyền cho trẻ em được hưởng tiêu chuẩn
chăm sóc tối thiểu. Quyền này dựa trên giả định rằng trẻ em là nhóm dễ bị tổn
thương cần sự bảo vệ của cha mẹ hoặc của nhà nước nếu cha mẹ không làm
được.
• Quyền được đối xử như người lớn. Fretrean thuyết phục rằng sự đối xử khác
nhau giữa trẻ em và người lớn dựa trên sự khác biệt tuyệt đối về tuổi tác là phân
22
biệt đối xử. Ông cho rằng trẻ em cần được đối xử như người lớn dựa trên nền
tảng công bằng xã hội. Ông không theo lập trường chủ nghĩa giải phóng của các
tác giả thập niên 1970, những người đã hủy bỏ tất cả sự phân biệt giữa trẻ em và
người lớn. Thay vào đó ông cho rằng sự khác biệt về tuổi tác cần phải được xem
xét liên tục, những quyết định về khả năng của từng cá nhân trẻ phải được thực
hiện từng trường hợp một. Như nhân viên xã hội sẽ thấy, đây là cách tiếp cận
tương tự với sự hình thành khả năng theo Gillick đã được phát triển trên thập kỷ
qua.
• Quyền chống lại cha mẹ. Loại quyền thứ tư này đặt cha mẹ vào vai trò của người
đại diện cho trẻ em. Fretrean cho rằng trong những quyết định chính yếu thì
quyết định của cha mẹ cần có quyền lực và ảnh hưởng nhưng chỉ khi nó phù hợp
với sự lượng giá “khách quan” xem những quyết định đó có ngang hàng với “sản
phẩm xã hội ban đầu” của trẻ em hay không, đó là những gì mà bất cứ một người
nào có lý trí cũng muốn theo đuổi. Nếu không thì một cơ quan bên ngoài phải
thay thế vai trò đại diện của cha mẹ.
b. Lý thuyết về quyền trẻ em của John Eekelaar
Cũng như Fretrean, John Eekelaar (1986) hình thành một khuôn mẫu về quyền dựa
trên việc suy đoán “nhìn lại cái gì đứa trẻ đã từng muốn khi nó đạt tới vị trí trưởng
thành” (1981 : 170). Eekelaar nhận diện 3 loại quyền lợi làm nền tảng cho quyền :
• Quyền lợi cơ bản nói đến tiêu chuẩn chăm sóc tối thiểu (thể chất, tình cảm, trí
tuệ). Cha mẹ / người chăm sóc được yêu cầu phòng ngừa để tránh những nguy
hại đến sự phát triển của trẻ em. Nơi nào cha mẹ không hoàn thành được trách
nhiệm của mình, thí dụ trong những trường hợp ngược đãi hay bỏ bê, thì nhà
nước có thể can thiệp.
23
• Quyền lợi phát triển đòi hỏi cha mẹ và nhà nước đảm bảo rằng tất cả mọi trẻ em
đều có cơ hội như nhau để tiếp cận tối đa với những nguồn lực sẵn có trong thời
tuổi thơ.
• Quyền độc lập nói đến “sự tự do lựa chọn cách sống và quan hệ xã hội theo
khuynh hướng không bị kiểm soát bởi uy quyền của thế giới người lớn, dù đó là
cha mẹ hay cơ sở chăm sóc”. Eekelaar cho rằng quyền độc lập dù quan trọng
cũng phải đi sau quyền phát triển và cơ bản dựa trên cơ sở là trẻ em, khi chúng là
người lớn, sẽ ủng hộ quyền căn bản và phát triển trước quyền độc lập nếu có sự
xung đột, mâu thuẫn giữa các quyền.
Khuôn mẫu quyền trẻ em được hình thành do Fretrean và Eekelaar thật thú vị
bởi vì họ nhấn mạnh đến loại quyền mà trẻ em được hưởng. Trẻ em có quyền độc lập
và tham gia cũng như phát triển và bảo vệ. Cả hai đều nhận ra quyền độc lập và
những quyền khác có thể đụng nhau và họ cho rằng trong những trường hợp như thế
sự quyết định của người lớn về điều tốt nhất cho trẻ sẽ có giá trị hơn ước muốn của
trẻ. Như nhân viên xã hội sẽ thấy Công ước của Liên hiệp quốc và Đạo luật trẻ em
1989 sẽ lại cho trẻ em “quyền an sinh” và quyền tham gia, sau cùng thì quyền an
sinh là quyền có quyền lực và ảnh hưởng nhất.
c. Công ước của Liên Hiệp Quốc
Sau 10 năm bàn thảo và cân nhắc, Công ước được Đại Hội Đồng Liên hiệp
Quốc chấp thuận vào ngày 20 tháng 10 năm 1989. Cho đến nay, Công ước đã được
phê chuẩn bởi hơn 150 quốc gia trên khắp thế giới ; đó là một Công ước quốc tế
được phê chuẩn nhanh nhất và rộng rãi nhất. Công ước gồm 41 điều khoản về các
vấn đề ảnh hưởng đến trẻ em. Những quyền này được chia thành 4 nhóm : quyền
được chăm sóc hay bảo vệ, tham gia, chống phân biệt đối xử và quyền được phát
triển tốt nhất. (Hammarberg 1995).
d. Quyền an sinh/được bảo vệ
24
Điều khoản 3 của Công ước của Liên Hiệp quốc quy định quyền an sinh và
được bảo vệ của trẻ em. Điều khoản có hai thành phần chủ yếu. Thành phần thứ nhất
nhấn mạnh rằng nhà nước và các định chế tư nhân phải có sự quan tâm trước tiên vì
lợi ích tốt nhất của trẻ em trong công tác của họ. Thành phần thứ hai là nhà nước
đảm bảo rằng trẻ em được bảo vệ và chăm sóc đầy đủ, quy định có liên quan tới
quyền và bổn phận của người chăm sóc trẻ. Điều khoản 19 đòi hỏi nhà nước phải có
biện pháp về pháp luật, quản trị, giáo dục và xã hội thích hợp để bảo vệ trẻ em chống
lại sự bóc lột lạm dụng, ngược đãi, bỏ bê của cha mẹ hay người chăm sóc. Nó cũng
đòi hỏi nhà nước phải có các thủ tục hữu hiệu để ngăn ngừa, nhận diện, điều tra và
trị liệu những trường hợp nêu trên.
e. Quyền được phát triển tốt nhất
Công ước của Liên Hiệp Quốc còn đi xa hơn những nỗ lực bảo vệ trẻ em,
điều khoảng 6.2 đòi hỏi nhà nước thúc đẩy sự phát triển tốt nhất của trẻ em :
Các quốc gia thành viên phải đảm bảo đến mức tối đa có thể được sự sống
còn và phát triển của trẻ em.
Công ước nhận ra rằng trẻ em được chăm sóc tốt nhất trong gia đình của
chúng (Điều khoản 5 và 18) nhưng đòi hỏi nhà nước phải cung cấp “sự hỗ trợ thích
hợp” cho người chăm sóc và phát triển các dịch vụ chăm sóc trẻ em (Điều khoản
18.2). Sự bất bình đẳng to lớn trong an sinh vẫn còn tiếp tục giữa các nước nghèo và
nước giàu cho nên không phải nước nào cũng sẽ có thể cung ứng được các chính
sách xã hội hỗ trợ cho trẻ em ; những gì điều khoản 4 đòi hỏi là các chính phủ chịu
trách nhiệm có những biện pháp để thúc đẩy quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của trẻ
em ở “mức tối đa của các tài nguyên sẵn có của họ”.
f. Quyền tham gia.
25
Công ước Liên Hiệp Quốc thúc đẩy mạnh mẽ quyền trẻ em tham gia vào việc
lấy quyết định, dù rằng mức độ bày tỏ quan điểm của trẻ sẽ thay đổi tùy theo độ tuổi
và sự trưởng thành của trẻ. Điều khoản 12 nói rằng :
Các quốc gia thành viên phải đảm bảo cho trẻ em có đủ khả năng hình thành
quan điểm riêng của mình, được quyền bày tỏ những quan điểm đó về tất cả
mọi vấn đề có tác động đến trẻ em, những quan điểm của trẻ em phải được
coi trọng một cách thích đáng phù hợp với độ tuổi và độ trưởng thành của trẻ
em.
Công ước Liên Hiệp Quốc đưa ra một loạt quyền riêng tư khác, các quyền
củng cố vị thế của đứa trẻ như một chủ thể độc lập hơn là khách thể thụ động, và là
một thành tố cần thiết của quyền trẻ em. Các quyền này gồm quyền có bản sắc (tên
và quốc tịch lúc sinh ra ; Điều khoản 7 và 8), quyền tự do bày tỏ ý kiến và thông tin
(Điều khoản 13), quyền tự do tư tưởng và hội họp (Điều khoản 14 và 15), quyền
riêng tư (Điều khoản 16) và quyền về văn hóa (Điều khoản 30).
g. Quyền không phân biệt đối xử
Công ước Liên Hiệp Quốc đưa ra 2 quy định quan trọng về sự phân biệt đối
xử. Đầu tiên đòi hỏi những quyền được tuyên bố trong Công ước Liên Hiệp Quốc áp
dụng cho tất cả mọi trẻ em không phân biệt (Điều khoản 2). Để tăng cường sự thực
hiện này Công ước Liên Hiệp Quốc đưa ra những quy định cụ thể về những nhóm trẻ
em đặc biệt chịu thiệt thòi :
Các quốc gia thành viên thừa nhận rằng trẻ em khuyết tật về tinh thần hay thể
chất cần được hưởng một cuộc sống trọn vẹn và tử tế trong những điều kiện
đảm bảo nhân phẩm, thúc đẩy khả năng tự lực, và tạo điều kiện dễ dàng cho
trẻ tham gia tích cực vào cộng đồng. (Điều khoản 23.1).
và
26
Ở những quốc gia có tồn tại những nhóm thiểu số về chủng tộc, tôn giáo hay
ngôn ngữ hoặc có những người gốc bản địa, đứa trẻ thuộc một nhóm thiểu số
như thế hoặc là người bản địa sẽ không bị khước từ quyền, cùng với những
thành viên khác trong cộng đồng của mình, được hưởng nền văn hóa của
mình, được tuyên bố và được theo tôn giáo của mình và sử dụng tiếng nói của
mình.
Đã phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc, chính phủ Anh Quốc buộc phải
hành động theo quy định của Công ước. Tuy nhiên, Công ước Liên Hiệp Quốc chưa
kết hợp với luật pháp trong nước, cho nên những quyền cụ thể quy định trong Công
ước không thể thi hành được trong những phiên tòa của quốc gia (Bainham 1993 :
607 - 8). Tuy thế, Công ước Liên Hiệp Quốc yêu cầu các chính phủ làm những báo
cáo về sự tiến bộ của việc thực hiện Công ước cho Ủy ban Liên Hiệp Quốc về quyền
trẻ em. Trong khi chính phủ Anh Quốc làm những báo cáo theo yêu cầu của Công
ước Liên Hiệp Quốc năm 1994 thì các tổ chức tự nguyện cũng đã làm việc một cách
hiệu quả để phân tích mức độ chấp hành và tiếp tục vận động hành lang cho việc
thực hiện Công ước có hiệu quả (xem CEDRU 1994 về phân tích toàn diện mức độ
mà Anh Quốc chấp hành Công ước Liên Hiệp Quốc, và cả Newell 1991). Chính phủ
Anh quốc biện luận rằng Đạo luật trẻ em 1989 chấp hành và phù hợp với Công ước
Liên hiệp quốc nên nhân viên xã hội quay trở lại với Đạo luật trẻ em 1989.
h. Đạo luật trẻ em 1989
Giống như Công ước Liên hiệp quốc, Đạo luật trẻ em 1989 xuất hiện sau một
thời gian dài, thảo luận và cân nhắc dựa vào các nguồn (gồm điều tra quần chúng,
Hội đồng luật và quốc hội). Lại cũng giống Công ước Liên hiệp quốc, một số thành
viên có quan tâm gồm các nhóm người chuyên nghiệp và các tổ chức phong trào và
tự nguyện, tham gia vào việc vận động hành lang khi chuyển đạo luật qua quốc hội
(xem Parton 1991 về lịch sử chi tiết của Đạo luật). Những nguồn lực khác nhau này
được phản ảnh trong những quy định rộng rãi và mâu thuẫn tiềm ẩn của Đạo luật
27
(xem phần dưới). Tuy vậy, Đạo luật đã được chào đón như một bước chính yếu tiến
tới quyền trẻ em, nhất là quyền tham gia hay độc lập (Thí dụ Newell 1991 : xiii ;
Franklin 1995 : 3). Trong phần này nhân viên xã hội sẽ xem xét Đạo luật trẻ em
1989 đối với 4 nhóm quyền - bảo vệ, phát triển tốt nhất, tham gia và không phân biệt
đối xử - được Công ước Liên hiệp quốc thúc đẩy.
i. Quyền an sinh/được bảo vệ.
Một quan tâm chính của Đạo luật trẻ em 1989 là đảm bảo rằng trẻ em có
quyền được chăm sóc và bảo vệ đầy đủ. Điều này được xử lý bằng 2 cách : thứ nhất
là bằng cách đòi hỏi rằng sự an sinh của trẻ là sự quan tâm hàng đầu khi tòa án lấy
quyết định, và thứ hai là bằng cách quy định khung luật pháp để bảo vệ trẻ em.
Phần tương ứng của Đạo luật trẻ em với nguyên tắc vì “lợi ích tốt nhất cho trẻ
em” trong Công ước Liên hiệp quốc là nguyên tắc an sinh đòi hỏi rằng “an sinh của
trẻ phải là quan tâm đầu tiên của tòa” khi nào tòa quyết định những vấn đề chăm sóc
hay nuôi nấng trẻ. Nguyên tắc an sinh áp dụng trong chăm sóc trẻ và các vụ kiện
nguy cấp, các cuộc tranh chấp giữa cha mẹ. Trong khi tòa án có thể xem xét tới
những yếu tố khác thì các vấn đề phải được quan tâm đặc biệt là :
a) Ước mơ và cảm xúc có thể xác minh được của đứa trẻ (được xem xét theo độ tuổi
và sự hiểu biết) ;
b) Những nhu cầu học tập, tình cảm và thể chất của trẻ ;
c) Tác dụng có thể có đối với trẻ do bất kỳ thay đổi nào trong hoàn cảnh của trẻ ;
d) Tuổi tác, giới tính, trình độ và bất kỳ đặc điểm nào của trẻ mà tòa án cho là có
liên quan ;
e) Bất kỳ sự nguy hại nào mà trẻ phải chịu hoặc có nguy cơ sẽ chịu ;
f) Khả năng của mỗi cha mẹ, và bất kỳ người nào khác có liên quan mà tòa án xem
xét vấn đề có liên quan, đáp ứng nhu cầu của trẻ như thế nào.
g) Các loại quyền lực có sẵn đối với tòa án dưới đạo luật này trong các vụ kiện. [
mục 1 (3) ]
28
Có điều xác đáng vững vàng là tòa án tin rằng trẻ em được chăm sóc và bảo
vệ tốt nhất trong gia đình của chúng. Khái niệm mới về “trách nhiệm của cha mẹ”
nói lên nỗ lực vượt ra khỏi quan điểm xem em trẻ như vật sở hữu theo khái niệm cũ
về “quyền của cha mẹ”. Trách nhiệm của cha mẹ được định nghĩa là “tất cả quyền,
bổn phận, quyền lực, trách nhiệm, và quyền hành mà luật pháp quy định một người
cha của đứa trẻ trong quan hệ với đứa trẻ và quyền sở hữu của trẻ. Sự chăm sóc trẻ
và quyền riêng tư mà tòa cho là đúng đắn được tăng cường thêm nữa bởi quy định
“can thiệp tối thiểu” [mục 1 (5)], để ngăn ngừa tòa án ra những lệnh có liên quan tới
trẻ trừ trường hợp ra những lệnh như thế sẽ tốt hơn cho đứa trẻ.
k. Quyền được phát triển tốt nhất
Những quy định trong Đạo luật trẻ em 1989 thúc đẩy quyền trẻ em được phát
triển tốt nhất được hình thành hạn chế hơn quyền trẻ em được bảo vệ. Tiếp cận ở
nhà, giáo dục, sức khỏe và hỗ trợ thu nhập phần lớn nằm ngoài phạm vi của Đạo luật
trẻ em, dù rằng tiết 27 cho phép chính quyền địa phương yêu cầu sự giúp đỡ của các
cơ quan bao gồm các lĩnh vực giáo dục, nhà ở, y tế cung ứng những dịch vụ hỗ trợ
theo phần III của Đạo luật. Như nhân viên xã hội đã thấy cũng giống như Công ước
Liên hiệp quốc, Đạo luật trẻ em nhấn mạnh rằng cha mẹ thường là người chăm sóc
tốt nhất cho con cái của mình. Đây là một hành động tích cực cho trẻ em. Điều kém
vui là vai trò bị hạn chế tiếp nhận các dịch vụ để hỗ trợ những nỗ lực của cha mẹ tạo
những cơ hội phát triển tốt nhất có thể được cho con cái họ. Eekelaar (1991) trong
cuộc thảo luận ban đầu về Đạo luật trẻ em đã nêu ra ý nghĩa của “trách nhiệm của
cha mẹ” thay đổi như thế nào từ trách nhiệm của cha mẹ làm đầy đủ bổn phận đối
với trẻ sang trách nhiệm chăm sóc trẻ thuộc về cha mẹ thay vì thuộc về nhà nước. Do
vậy, trong khi nhà nước nhận ra tầm quan trọng của gia đình đối với trẻ em thì lại ít
nhận ra sự quan trọng của các dịch vụ đối với gia đình - Sự chăm sóc của trẻ em
phần lớn vẫn là trách nhiệm riêng tư và cá nhân.
Bất hạnh được định nghĩa là :
29
a) Trẻ không thể thành đạt hay duy trì hoặc không thể có cơ hội để thành đạt hay
duy trì, tiêu chuẩn hợp lý về sức khỏe hay phát triển mà không có sự hỗ trợ các
dịch vụ cho trẻ do chính quyền địa phương thuộc khu vực này ;
b) Sự phát triển và sức khỏe của trẻ có thể bị tổn thương đáng kể, nhiều sự tổn
thương mà không có sự hỗ trợ dịch vụ nào cho trẻ ; hoặc
c) Trẻ bị khuyết tật.
Đối với trẻ em được xem là không “bất hạnh”, thì Đạo luật không có nhiệm
vụ cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, dầu vậy chăm sóc ban ngày có thể được cung ứng
cho trẻ không bất hạnh dưới 5 tuổi. Trên thực tế, sự thiếu hụt tài nguyên có nghĩa là
“bất hạnh” được diễn dịch một cách hạn chế gồm số nhỏ trẻ em có nguy cơ liên quan
tới việc thực hiện vai trò cha mẹ hơn là những nguy hiểm về kinh tế, xã hội hay môi
trường .
l. Quyền tham gia
Đạo luật trẻ em 1989 được xem như một bước tiến quan trọng trong việc thúc
đẩy quyền tham gia của trẻ em. Một cách tổng thể, Đạo luật ủng hộ phong cách lấy
quyết định hòa nhập, đặc biệt nhấn mạnh đến sự tham gia của cha mẹ như những
người đồng hành trong việc lấy quyết định. Song song với điều này, có sự nhấn
mạnh đến sự tham gia của trẻ em trong những quyết định có ảnh hưởng đến trẻ em.
Bainham biện luận rằng Đạo luật “hỗ trợ một cách tổng quát khái niệm lấy quyết
định có tham gia giao cho người trẻ một mức độ tự quyết định. Nguyên tắc chung
này có chú ý đến quan điểm của trẻ em đánh dấu sự điều chỉnh quan trọng trong sự
cân bằng quyền lực giữa trẻ em và xã hội người lớn” (1993 : 60).
Ngay cả sự mở rộng quyền tham gia trong việc lấy quyết định cũng không
nhất quán trong suốt đạo luật. Quyền của trẻ em không những chỉ tùy thuộc vào
những yếu tố chủ yếu như tuổi tác và sự trưởng thành mà còn tùy vào vấn đề có nguy
cơ.
30
Những quy định của Đạo luật liên quan tới quyền tham gia tạo cho trẻ em có
những vai trò và vị thế khác nhau.
• Người không tham gia. Trong một số trường hợp, theo Đạo luật trẻ em không có
quyền tham gia lấy quyết định. Những thí dụ rõ ràng nhất là những trẻ em mà cha
mẹ ly hôn hay ly thân thỏa thuận về sự xếp đặt đối với con cái của họ. Trong các
vụ kiện riêng tư không phán quyết, cha mẹ và tòa án không có bổn phận tham
khảo ý kiến trẻ em về sở thích của trẻ đối với việc cư trú và gặp gỡ.
• Người nhận thông tin. Chính quyền địa phương có bổn phận công bố thông tin về
các dịch vụ hỗ trợ gia đình. Cụ thể hơn, có sự mong đợi rằng làm việc với trẻ em
không chỉ tìm hiểu quan điểm của trẻ mà còn giải thích cho trẻ bất kỳ quyết định
nào được đưa ra.
• Người được tham khảo. Đạo luật yêu cầu ý kiến của trẻ em cần phải được nhận
biết trong hàng loạt quyết định có ảnh hưởng đến trẻ em.
Trong khi Đạo luật đòi hỏi phải lắng nghe tiếng nói của trẻ em nhưng tiếng
nói của trẻ thì lại chẳng được lắng nghe chút nào, mà cũng chẳng có ảnh hưởng nào.
Quyền mà Đạo luật đưa ra nói chung chỉ là sự tư vấn ; bổn phận “quan tâm” đến
quan điểm của trẻ mà quan điểm thì khác với sự quyết định. Quyền tư vấn là quyền
đi sau quyền tối quan trọng an sinh (dù vậy không có sự loại trừ nhau). Tầm quan
trọng được đặt vào quan điểm của trẻ em là phải tùy thuộc vào “tuổi tác và sự hiểu
biết”, với mong đợi rằng sự quan trọng sẽ được đặt vào quan điểm của đứa trẻ trưởng
thành hơn (nhưng không chỉ đơn giản là trưởng thành theo thời gian).
• Người đồng ý. Có nhiều lĩnh vực của đạo luật trong đó trẻ em được trao quyền
xác định kết quả thực sự một quyết định. Điều này phải có sự đồng ý và tùy theo
sự thẩm định khả năng lấy quyết định của đứa trẻ. Trẻ em được Đạo luật làm tăng
năng lực để khước từ cuộc khám nghiệm tâm thần hay y khoa, thẩm định hay
31
chữa trị nếu được xem như có đủ năng lực. Trẻ em được chăm sóc cũng có thể
khước từ sự lựa chọn của chính quyền địa phương về người vãng gia độc lập đối
với trẻ em (hay khước từ cuộc hẹn đang diễn ra), tuy nhiên chỉ trong điều kiện trẻ
cho là đủ năng lực để đưa ra quyết định có hiểu biết.
• Người khởi xướng. Đạo luật trẻ em cho trẻ em quyền được phép có hành động
độc lập hợp pháp. Lúc này trẻ em có thể xin phép tòa án để ứng dụng cho các
lệnh theo mục 8 (đó là tiếp xúc, cư trú, các vấn đề cụ thể và các bước bị ngăn
cấm) hoặc được tham gia như những thành viên đối với các vụ kiện, cũng như thi
hành lệnh chăm sóc. Tòa án thỏa mãn chỉ khi nào đứa trẻ có đủ hiểu biết để thi
hành chứ không phải vì nguyên tắc an sinh được đáp ứng khi được phép (White
và các đồng tác giả 1995 : 1136). Tuy vậy, vấn đề thực sự là nguyên tắc an sinh
vẫn là quan trọng.
• Người có ý kiến. Trẻ em được chăm sóc, hoặc trẻ em bất hạnh, theo đạo luật,
được quyền nói lên hay có ý kiến về các dịch vụ của chính quyền địa phương.
Các tổ chức tự nguyện và các nhà nuôi trẻ đã đăng ký cũng được yêu cầu để hình
thành phong cách đóng góp ý kiến.
Vậy Đạo luật trẻ em ban đặc quyền tham gia cho trẻ em đến mức nào ? Điều rõ ràng
là mức độ quyền tham gia tùy thuộc vào hai yếu tố chính :
(a) Tuổi tác và sự hiểu biết của trẻ.
(b) Vấn đề có tình nguy cơ.
Đối với trẻ em lớn hơn có năng lực, đạo luật mở rộng quyền tư vấn thành
quyền có sáng kiến và quyền bày tỏ sự đồng ý.
Trong nhiều trường hợp trẻ em không được xem là có khả năng vẫn được hỏi
ý kiến và thông báo nhưng sẽ ít đặt nặng vào những mơ ước và tình cảm được trẻ
32
bày tỏ. Trẻ em không có năng lực Gillick không thể có sáng kiến của riêng chúng và
không thể có sự đồng ý.
Ngoài sự trưởng thành, yếu tố quan trọng trong việc xác định quyền tham gia
là vấn đề nguy cơ. Những nhóm trẻ em nào đó có nhiều quyền hơn các nhóm khác.
Đối với trẻ em mà phẩm chất của cha mẹ bị nghi ngờ và trẻ em lại được chăm sóc ở
đó thì việc lắng nghe trẻ được đặt nặng hơn trong những gia đình ly hôn, ly thân như
nhân viên xã hội đã thấy giả định rằng việc lắng nghe trẻ thuộc về trách nhiệm của
cha mẹ thì tiếng nói của trẻ chỉ được lắng nghe trong một số rất ít các trường hợp cha
mẹ bất đồng.
Lyon và Parton biện luận rằng Đạo luật nói lên một bước tiến tới việc nhận
thức rõ trẻ em là chủ thể độc lập hơn là đối tượng của an sinh : “Trẻ em được quyền
nói trong những vấn đề có liên quan đến trẻ nhưng đó không phải là tiếng nói cuối
cùng. Những quy định cho trẻ em sự độc lập nhưng lại ngưng đột ngột toàn bộ hậu
quả của hành động đó.
m. Quyền không phân biệt đối xử
Không giống trong Công ước Liên Hiệp Quốc, không có cam kết rõ ràng nào
trong Đạo luật trẻ em 1989 rằng các quyền được áp dụng cho tất cả trẻ em không kể
giới tính, sắc tộc hay khuyết tật. Thay vào đó, suy nghĩ đằng sau đạo luật phản ảnh
niềm tin rằng các nhóm trẻ em khác cần những nhu cầu khác phải được tòa án và
nhân viên chuyên môn quan tâm. Như vậy, thay vì nhấn mạnh cách đối xử bình đẳng
mà có thể dẫn đến chủ nghĩa đồng hóa, một cách tiếp cận nhạy cảm về văn hóa,
không để ý đến màu da / giới, thì có sự tập trung vào việc nhận diện và đáp ứng các
nhu cầu cụ thể của từng cá nhân trẻ em (Macdonald 1991).
Phần này cho nhân viên xã hội hiểu sự hình thành bối cảnh công tác xã hội
với trẻ em, nhấn mạnh sự năng động và bối cảnh thay đổi của chính sách chăm sóc
trẻ em. Hiện nay khung luật pháp trình bày cách tiếp cận “cân bằng” hơn đối với trẻ
33
em và gia đình, kết hợp với quyền tham gia và bảo vệ, không phân biệt đối xử và
phát triển tốt nhất. Những khó khăn hay thách thức đối với nhân viên xã hội là làm
sao biết duy trì được sự “cân bằng”này.