Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI TRẺ EM VÀ GIA ĐÌNH - PHẦN 5 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.55 KB, 30 trang )



65
PHẦN V

Công tác xã hội với gia đình


1. Làm việc với gia đình như là một nhóm nhỏ

1.1. Gia đình là một nhóm nhỏ sơ cấp

Gia đình là một nhóm sơ cấp trong đó các thành viên có trách nhiệm và sống
chung với nhau, một cách hỗ tương, cùng chia sẻ nếp sống, các quy tắc có liên quan
đến những hành vi mà xã hội mong đợi.

Trong gia đình, các thành viên có ảnh hưởng với nhau rất mạnh so với người bên
ngoài. Nhân viên xã hội có thể phân tích gia đình theo nhiều cách khác nhau như
phân tích theo chức năng của từng người, trách nhiệm của từng người hoặc theo cấu
trúc gia đình. Trước hết, nhân viên xã hội xem gia đình như là một tổ chức có chức
năng xã hội hóa con người và chức năng kiểm soát xã hội.

Gia đình là nhóm xã hội đầu tiên quan trọng nhất cung cấp cơ hội học hỏi đầu
tiên của con người. Chính trong giai đoạn thời niên thiếu, trẻ thâu nhận được những
nền tảng cơ bản của sự dạy dỗ đễ trẻ có được những niềm tin, những hành vi và
những thái độ cơ bản về những người xung quanh và về cuộc sống của trẻ. Đó là nơi
mà trẻ bắt đầu học cách tương tác với người khác, gia đình dạy cho trẻ những hành
vi nào được chấp nhận và hành vi nào không phù hợp, không được xã hội chấp nhận.

1.2. Vai trò của cha mẹ


Khó mà xác định vai trò của cha mẹ trong quá trình phát triển của trẻ em, vai rò
và sự tác động của gia đình có ý nghĩa rất quan trọng. Cha mẹ vừa cho trẻ tấm gương


66
để noi theo, vừa tạo điều kiện cho trẻ lớn lên và phát triển hài hòa. Từ khi sinh ra đời
cho đến khi tự lập được, đứa trẻ phải trải qua nhiều bước như đã nêu ở các phần đầu
trong giáo trình này. Quá trình lớn lên về mặt sinh học luôn gắn liền với quá trình
phát triển về văn hóa của đứa trẻ.

Có ba cách làm cha mẹ :

a) Cha mẹ dễ dãi : Cha mẹ cho phép trẻ tự lập, không hướng dẫn rõ ràng, họ
tránh không kiểm soát con cái…
b) Cha mẹ dùng quyền lực, độc đoán : Cha mẹ sử dụng quyền lực để dạy con
cái. Cha mẹ có những ý tưởng rõ ràng buộc trẻ phải cư xử như thế nào, họ
đặt ra những quy định và trẻ phải tuân thủ lý lẽ của họ.
c) Cách trung gian : Cha mẹ có sự kiểm soát, có sự hỗ trợ một cách liên tục
đối với con cái. Con cái được quyền tham gia và theo cách này cha mẹ giúp
con cái phát triển sự tự lập của mình.

Vai trò là những cái gia đình giao cho các thành viên để hành xử với nhau trong
các nhiệm vụ của gia đình. Vai trò là tổng hợp các nhiệm vụ trong gia đình. Vai trò
là những gì văn hóa đòi hỏi các thành viên, xuyên qua vai trò đó và gia đình là một
môi trường mà các vai trò được học hỏi, được giao phó và được thực hiện. Vai trò
được thay đổi theo tuổi, khả năng và nhu cầu của từng giai đoạn đời sống. Vai trò có
thể rõ hoặc hiểu ngầm, có thể dưới hình thức tình cảm, quan hệ đến giới, có thể uyển
chuyển qua lại hoặc cứng ngắc tùy theo cách sống của gia đình. Vai trò được phát
sinh ra từ mối liên hệ giữa những người trong gia đình, từ sự mong đợi giữa này đối
với người kia. Không có một vai trò nào hiện hữu một cách đơn độc không có sự

phân vai để giữ sự quân bình trong gia đình.

Nếu trong một gia đình yếu mà sự phân vai không được rõ ràng, tự phát, khi gia
đình bị căng thẳng hoặc bị một áp lực từ bên ngoài sẽ dễ dàng bị phá vỡ. Đồng thời
có những vai trò không được phân vai một cách hợp lý như trường trẻ em phải đi
kiếm tiền để nuôi gia đình.


67
Ngoài ra, ranh giới gia đình giúp các thành viên hiểu và thực hiện chức năng của
mình (bố mẹ ốm thì con lớn giữ trách nhiệm như bố mẹ). Các ranh giới (của cha mẹ,
của con cái, của ông bà) phải rõ ràng, phải thấm thấu được, không phải lúc nào cũng
khép kín. Có ba loại gia đình dựa trên các loại ranh giới :

• Gia đình ranh giới mở : Đó là ranh giới rõ ràng nhưng dễ thâm nhập, những gia
đình này khách đông, họ trao đổi thông tin một cách tự do.
• Gia đình ranh giới khép kín : ranh giới này khó thâm nhập, cửa luôn khóa, gia
đình rất ngại với người lạ, cha mẹ kiểm soát con ghê gớm. Nhân viên xã hội khó
mà thâm nhập được.
• Gia đình không ranh giới : ai muốn làm gì thì làm.

Cuộc sống có nhiều trắc trở và trong gia đình, đứa trẻ cũng dễ nhận ra là cuộc
sống có nhiều trở ngại, khó khăn, và không phải lúc nào cũng dễ chịu. Cuộc sống có
những phút giây hạnh phúc và cũng có những lúc thất vọng chán chường. Bất cứ gia
đình nào cũng có ba khát vọng : ước vọng của người cha, ước vọng của người mẹ và
ước vọng của đứa trẻ. Và chính những khát vọng đó đã giúp cho đứa trẻ có khả năng
đối mặt được với những khó khăn của cuộc đời. Đứa bé mới sinh còn yếu đuối rất
cần sự nâng đỡ, chăm sóc về tình cảm, về cảm xúc…để phát triển, khác với người
trưởng thành ở nhân cách chưa hình thành, chưa xác định đó là một cá thể. Sự tiếp
nhận của môi trường sống và sự khích lệ có vai trò hết sức quan trọng đối với đứa

trẻ. Môi trường xung quanh ne81u không tốt thì đứa trẻ cảm thấy bị ruồng bỏ. Trong
sự phát triển của giai đoạn đầu, trẻ cần có người mẹ hoặc người thay thế có được khả
năng dung hòa giữa thực trạng và đứa trẻ. Người ta nhận thấy tác động của lời nói
của cha mẹ sẽ thấm vào da thịt của trẻ và trở thành tiềm thức ở đứa trẻ.

Bs Winnicott, nhà phân tâm học người Anh, đã cố gắng định nghĩa khái niệm “bà
mẹ vừa đủ tốt” (good enough mother), là một bà mẹ không quá tốt, không quá đầy
đủ. Nếu bà mẹ quá tốt, quá hoàn hảo sẽ trở thành “độc hại” đối với trẻ vì người mẹ
đó luôn đáp ứng được trước mọi yêu cầu của trẻ mà không dành cho trẻ khoảng thời
gian cần thiết để thực hiện yêu cầu đòi hỏi của mình. Chì khi đối mặt trực tiếp với


68
yêu cầu đòi hỏi không thỏa mãn, đứa trẻ mới phát triển được về mặt tinh thần.
Nhưng những bà mẹ không gần gũi trẻ, không quan tâm đến trẻ tuy vẫn gần con
hoặc thường xuyên vắng mặt, hoặc trầm cảm cũng sẽ không thực hiện được vai trò
người mẹ của mình. Khi vắng mặt nhiều, trẻ dần dần quên đi sự có mặt của người
mẹ, sự tồn tại của người mẹ. Khi bầu vú mẹ hoặc bình sữa của mẹ đưa không đúng
lúc trẻ cần thì trẻ sẽ hình dung ngóm tay là bầu sữa để đưa lên miệng đã là một minh
chứng về sự quan tâm hay không của người mẹ.

Mối quan hệ mẹ-con phát triển theo thới gian giúp trẻ hình thành thế giới nội
tâm, một khi cha mẹ dành cho trẻ một sự tồn tại riêng biệt với những điều thầm kín
riêng tư của trẻ. Winnicott cho rằng chút riêng tư của trẻ với sự có mặt của một
người lớn bên cạnh là dấu hiệu quan trọng của sự phát triển tâm thần. Sự xa cách đối
với trẻ chỉ có được khi đã hình thành được mối liên hệ chặt chẻ với cha mẹ. Nhà
phân tâm J.M. Dougan người Úc, chuyên nghiên cứu về tác động của nghiện ma túy
đối với trẻ em và vai trò “vật trung gian”
đối với trẻ, ngay cả người lớn khi gặp khó
khăn cũng phải chống đỡ bằng một một vật trung gian như một ly rượu, hoặc một

điếu thuốc lá. Đối với trẻ nghiện ma túy thì ma túy được dùng thay thế cho mối quan
hệ đối với cha mẹ đã bị thiếu vắng. những trẻ này khi gặp khó khăn, thất vọng đau
khổ thay vì suy nghĩ để tìm cách vượt khó thì lại đơn giản tìm đến ma túy để
đến”một thế giới tốt đẹp hơn”

Khác với con vật, đứa trẻ thành người phải được dạy dỗ bằng nhiều phương cách,
nhiều quy định và phong tục khác nhau tùy từng dân tộc, từng nền văn hóa, được lưu
truyền bằng miệng, bằng phong tục tập quán của xã hội. Dù như thế nào trẻ đều phải
được sinh trong một gia đình cụ thể, trong một nền văn hóa cụ thể. Tên của đứa trẻ là
biểu tượng của một dòng họ. Đối với các nhà nhân chủng học hay tâm lý học thì một
đứa trẻ ra đời có liên quan nhiều đến văn hóa hơn là một sự kiện sinh học đơn thuần.

Gia đình, cha mẹ là nơi thực hiện cà hai nhiệm vụ đặt vị trí đứa trẻ trong gia tộc
và tình cảm đối với bé. Nếu vì lý do nào đó, cha mẹ không thể thực hiện được hai


69
nhiệm vụ đó, thì lúc đó sẽ có những ‘người tài nguyên” của xã hội sẽ thay thế vai trò
của họ, đó là những người có chuyên môn như nhân viên xã hội vậy…

2. Sự rối loạn trong vai trò làm cha mẹ

Sự kiện một đứa trẻ chào đời luôn gợi lại ở cha và mẹ những ký ức xa xưa của
thời thơ ấu của họ tưởng đã xóa nhòa trong dĩ vãng. Nếu lúc ấy, họ bị ngược đãi, đau
khổ, họ luôn bị ám ảnh trong các ký ức đó và họ sẽ đối xử tồi tệ với con cái của
mình. Bao giờ cũng tồn tại một hình ảnh một đứa bé đau khổ trong tất cả mọi người
đau khổ. Vì thế khi nhân viên xã hội giúp đỡ một người cha hay người mẹ để không
còn ngược đãi con cái nữa thì bao giờ nhân viên xã hội cũng phải biết lắng nghe
được những nỗi niềm đau khổ mà họ phải chịu đựng trong thời thơ ấu. Đó là vấn đề
thừa hưởng chứ không phải là vấn đề di truyền. Bà Francoise Doltand cho rằng việc

thừa hưởng này chỉ có thể có được khi họ phải trải qua 3 thế hệ liên tục mới có thể
đưa đến những rối loạn trong chức năng làm cha mẹ của mình. Sự thừa hưởng về
ngược đãi con cái ngày nay bắt nguồn từ những thiếu vắng : thiếu vắng sự can thiệp,
thiếu vắng những giới hạn, thiếu vắng những quy định trong gia đình và ngoài xã hội
(lễ giáo gia đình, tục lệ xã hội). Khi nuôi dạy con cái, các bậc cha mẹ cũng phải biết
lúc nào phải nói “không” với con cái chứ không phải lúc nào cũng chiều theo con cái
một cách tuyệt đối và người cha cũng phải biết lúc nào đó cần can thiệp thể hiện vai
trò cắt đứt mối liên hệ mẹ - con khi cần thiết.

Trẻ có ý thức về thời gian hay không còn tùy thuộc vào mối liên hệ với mẹ. Mối
liên hệ này sẽ bị cắt cắt đứt khi trẻ được gởi nhà trẻ hay một người giữ trẻ dài ngày
và sẽ hình thành mối gắn bó của trẻ với người đó. Nếu người mẹ lại thay đổi người
giữ trẻ hay nhà trẻ thì trẻ lại phải bị “xa cách”, điều này nhân viên xã hội không được
xem thường. Vì thế, trước đây những trẻ thường bị thay đổi người trông nom hay
thay đổi chỗ, thay đổi nhà trẻ thì ngày nay người ta cố hết sức tránh vì nó có hại cho
đứa trẻ. Làm như thế những hình ảnh gắn bó với bé luôn bị mất đi không thể hình
thành môi trường sống thân thuộc của trẻ. Nếu phải thay đổi nhà trẻ hay người giữa
trẻ thì bao giờ cũng cần phải có một thời gian “chuyển tiếp”, chia tay với người cũ


70
và phải giải thích cho bé hiểu dù rằng bé chưa thể hiểu được lời nói của mình. Để
giảm bớt sự lo âu, đau khổ của bé khi đến nới mới, nhân viên xã hội cần mang theo
chăn gối, đồ chới của bé. Đôi khi sự phản ứng của trẻ đối với sự xa cách có thể được
thể hiện ngay, nhưng có khi không thể hiện ngay và đó mới là điều đáng lo ngại.

Thường vì lý do nào đó mà cha mẹ phải gửi con cho người khác nuôi thì khi cho
mẹ gặp trẻ lần đầu nên có mặt người thứ ba để tránh sự lo âu của cả hai mẹ con, để
dần dần khôi phục lại mối quan hệ. Đứa trẻ thường sẽ do dự một lúc mới nhận ra
được mẹ của mình. Trong những trường hợp này nhân viên xã hội có mặt ở đó cũng

sẽ phải nói với trẻ về hoàn cảnh của người mẹ của trẻ phải gửi con và nay mẹ lại về
với trẻ, giải thích cho trẻ dù có thể trẻ chưa hiểu hết được. Khi trẻ đã quen rồi nhân
viên xã hội mới để người mẹ gặp riêng trẻ. Những đứa trẻ một hai tuổi rất cần sự gần
gũi với người mẹ để có chỗ dựa về tình cảm ổn định lâu dài và để có người noi theo,
bắt chước.

Có những bà mẹ không làm được vai trò khi không thể nuôi con, gửi con cho
người khác nuôi suốt ngày đêm như trường hợp của những người mẹ hoạt động mại
dâm. Khi chấp nhận xa lìa con để hành nghề thì đó cũng tái hiện lại ký ức của mình
lúc bé cũng đã bị mẹ bỏ rơi để đi hành nghề trước đây. Khi chấp nhận xa lìa con để
bảo vệ cuộc sống tương lai đứa trẻ sau này là người mẹ đó đã muốn đoạn tuyệt với
quá khứ và mặc dù rất yêu con thì bà mẹ đó cũng đã “chết” trong tình cảm của trẻ.
Đối với những trường hợp tương tự thì nhân viên xã hội vừa phải giữ gìn, tăng
cường mối quan hệ tình cảm mẹ - con, đồng thời vẫn phải giũ mối liên hệ tình cảm
giữa người nuôi trẻ với trẻ vì họ có vai trò quan trọng với đứa trẻ, thay thế cho người
mẹ nhưng không chiếm vai trò người mẹ đó.

3. Vấn đề của gia đình

Nhân viên xã hội khó xác định đâu là vấn đề trầm trọng và làm thế nào để
đánh giá một hành vi lệch lạc hoặc khác thường, nói một cách khác khi nào cho rằng
khi nào một vấn đề thành một vấn đề thật sự?


71
Khó mà trả lời câu hỏi này. Câu hỏi này thúc đẩy nhân viên xã hội đi tìm
những phân biệt tuyệt đối giữa các tính chất của cha mẹ của trẻ như có vấn đề đến
nhờ sự hỗ trợ của nhà phân tâm học hoặc nhân viên xã hội và những cha mẹ bình
thường khác. Phê phán cái gì lệch lạc (lệch lạc so với chuẩn mực) chì là một phê
phán của xã hội. Có những người lớn có những hành vi cha mẹ phù hợp nh

ưng lại
không đạt được những điều mong đợi. Sau đây là các loại hành vi cha mẹ :




Sau đây là các chi tiết của hành vi của trẻ em chịu ảnh hưởng bởi hai tính chất
chính của cha mẹ : làm cha mẹ “giới hạn” và làm cha mẹ “cho phép” :


Tính chất “giới hạn” Tính chất “cho phép”
A - Dễ phục tùng B - Tích cực
Nhiệt tình - Lễ phép, ngăn nắp - Sáng tạo, độc lập
-
Gây hấn nhẹ, - Quy tắc tuân thủ tối thiểu
Độc lập
dễ dãi, cho phép
Tách rời
Tự do
Thờ ơ
Dân chủ
Bỏ rơi
Hợp tác
Chối bỏ Chấp nhận
C B
Thù
nghịch
D A Yêu thương
Kiểm soát
Chiếm

hữu
Đối kháng
Quá nuông
chiều
Quyền uy
Độc tài
Bảo vệ quá
mức
Giới hạn


72
- Quy tắc tuân thủ tối đa - dễ đảm nhận vai trò người lớn
- Tùy thuộc, ít thân thiện - Thân thiện
- Ít sáng tạo, hài lòng cao - Tự hây hấn thấp (trẻ nam)

D - Có vấn đề “thần kinh” C - Phạm pháp
Thù địch - Dễ gây sự, nhút nhát với bạn - Không hài lòng, bất mãn
cùng l
ứa tuổi - Gây hấn cao
- Tự gây hấn cao (trẻ nam)
- Lãnh đạm

4. Chu kỳ sống của gia đình

4.1. Biểu đồ sinh thái (eo-map)

Sinh thái ở đây là nghiên cứu đối tượng và gia đình trong môi trường sống
của gia đình và mối tương quan của gia đình với các cơ cấu khác. Nhân viên xã hội
muốn biết những mối liên kết giữa gia đình đối với những hệ thống khác nhân viên

xã hội có thể hiểu được qua biểu đồ sinh thái.Nhân viên xã hội dùng các ký hiệu để
xác định mối liên hệ nầy. Nếu đường nối của nhân viên xã hội là một đường đậm thì
có nghĩa là mối liên kết nầy chặt chẽ. Một hệ thống khác mà gia đình có thể kết cấu,
đó là trường hợp gia đình nầy có trẻ nhỏ còn đi học mà sự kết cấu nầy lại thiếu một
bà mẹ thì có thể có vấn đề, gia đình có cả ông bà hay họ hàng, nếu ta thấy các đường
nối có dấu gạch chéo thì nhân viên xã hội biết mối quan hệ giữa gia đình với họ hàng
hai bên có vấn đề căng thẳng. Có những hệ thống khác như là hàng xóm, tôn giáo, hệ
thống chính trị Dấu hiệu tốt giữa gia đình với hàng xóm là đường gạch đậm, dấu
nầy càng tốt hơn nếu có những mũi tên hai chiều, điều nầy chứng tỏ có quan hệ tốt
giữa gia đình với hàng xóm.Nếu trong gia đình lớn cùng có hoạt động, có mũi tên
một chiều thì ta phải đặt câu hỏi, có thể gia đình lớn nầy rất hào phóng.

Khi nhân viên xã hội thực hiện bản đồ sinh thái, nhân viên xã hội cùng ngồi
với thân chủ. Khi gia đình cùng tham gia, họ sẽ hiểu và nhận thức được những vấn
đề mà trước đây họ không hiểu một cách rõ ràng. Trong vòng tròn lớn nhất là gia
đình, ta cùng tìm hiểu mối quan hệ giữa gia đình và hàng xóm, nếu mối quan hệ nầy


73
chặt chẽ thì ta cũng nên tìm hiểu người hàng xóm nầy là ai, bởi vì nhân viên xã hội
cần phải tìm hiểu mối quan hệ đối với mọi người xung quanh của gia đình nầy vì
nhân viên xã hội cần tìm hiểu về gia đình nầy nhiều hơn. Ta có thể không thâm nhập
được vào gia đình nầy, nhưng qua những hình ảnh, ta thấy mối quan hệ giữa gia đình
nầy với người hàng xóm là đường thẳng đậm nét, và thông qua người hàng xóm ta
có thể hiểu rõ về gia đình nầy (bởi vì người hàng xóm nầy qua mối liên hệ họ đã
thâm nhập vào gia đình nầy). Nếu nhân viên xã hội biết người nào đó trong gia đình
có mối liên hệ rất chặt chẽ với thầy giáo hay một cá nhân nào đó ở trường, nhân viên
xã hội có thể tìm người đó để tiếp cận với gia đình nầy. Nếu nhân viên xã hội biết là
gia đình nầy rất tôn trọng tín ngưỡng và nếu biết tên người lãnh đạo tôn giáo của họ,
nhân viên xã hội có thể nhờ người lãnh đạo nầy để qua đó giúp đỡ nhân viên xã hội

biết thêm thông tin về gia đình nầy.Trong khu phố, tổ trưởng dân phố là ai, nếu nắm
được những người có uy tín trong hệ thống này thì tôi càng có nhiều tài nguyên để
mà sử dụng những công việc của mình. Khi nhân viên xã hội làm việc với gia đình,
nhân viên xã hội muốn sử dụng các công cụ của gia đình nầy, nhân viên xã hội nên
dành thời gian đến gia đình nầy để họ trực tiếp nói cho bạn nghe, họ diễn tả mối
quan hệ của gia đình họ.

Khi làm công tác xã hội, dù làm việc một ngày, nhân viên xã hội cũng nên có
bản đồ để cùng với đối tượng làm việc với nhân viên xã hội. Đôi khi nhân viên xã
hội cũng nên để cho đối tượng có một bản đồ để họ đem về nhà nghiên cứu. Khi họ
gặp lại nhân viên xã hội, họ sẽ trình bày cho nhân viên xã hội biết mối liên hệ mà họ
sống trong gia đình và họ tự nhìn thấy vấn đề của gia đình họ và họ sẽ cải thiện mối
quan hệ trong gia đình tốt hơn. Đây cũng là công cụ dùng trong trị liệu gia đình.












74






























4.2. Chu kỳ sống của gia đình

Đây là một khía cạnh khác của gia đình, là một hệ thống luôn chuyển biến,
nhân viên xã hội nhìn vào chu kỳ phát triển của gia đình cũng như sự tiến hoá của
gia đình. Gia đình sống trong trạng thái vừa đổi mới vừa vẫn như cũ, một chu kỳ

sống của gia đình theo hệ thống, tác độ
ng âm dương, có hai lực lượng thúc đẩy lẫn
nhau: một là vẫn như thế, hai là thay đổi.

Gia đình hạt nhân: bắt đầu là cuộc hôn nhân của hai người và nó nới rộng dần
và trở nên phức tạp hơn khi có con cái vì phải lao động, có trách nhiệm hơn về mặt
tài chính. Và gia đình trở lại tình trạng đơn giản khi con cái lớn lên và rời gia đình.
Một gia đình đang lớn lên rồi sau đó teo lại dầ
n, điều nầy xảy ra khi một thành viên
GIA ĐÌNH/HỘ
GIA ĐÌNH
MỞ
R

NG
AN SINH
XÃ HỘI
CÔNG
VIỆC
CHĂM SÓC
SỨC KHOẺ
HỘI LIÊN
HIỆP PHỤ
NỮ
TỔ DÂN
PHỐ
VUI CHƠI
GIẢI TRÍ
TRƯỜNG
HỌC

HÀNG
XÓM
BẠN BÈ
TÔN
GIÁO


75
bước vào giai đoạn chuyển tiếp. Gia đình thường phải đối phó với sự căng thẳng khi
gia đình lớn lên hoặc khi gia đình teo lại. Khi hai vợ chồng mới có đứa con đầu tiên
họ cũng rất căng thẳng và khi con họ lớn lên họ cũng gặp không ít khó khăn. Cha mẹ
già phải chăm sóc phụng dưỡng hay bệnh tật thì gia đình cần phải tăng cường khả
năng để xử lý vấn đề đó.

Có hai lý thuyết mô tả đỉnh cao của sự căng thẳng và cảm xúc trong gia đình
trong đó có sự thay đổi về tài chính, khi có biến đổi như ly hôn, bệnh tật, sự căng
thẳng lên tới tột đỉnh mà người ta gọi là đỉnh cao của đời sống tình cảm. Và sự nghèo
đói cũng có thể tạo ra sự căng thẳng.

Lý thuyết chu kỳ của gia đình:

Gia đình luôn cố giữ quân bình giữa trạng thái và khà năng trong khi bị tác
động bởi bên ngoài. Điều nầy thật khó khăn giữa hai ý tưởng, một bên là muốn thay
đổi và một bên muốn giữ nguyên trạng. Gia đình có khi phải nới rộng, có khi phải
bước tới, có khi phải trở lùi và khả năng thích ứng nầy rất là cần thiết cho gia đình.
Mỗi gia đình có khả năng thích ứng khác nhau.Một gia đình không hoạt động tốt,
không có khả năng thích ứng là một gia đình không thể có sự thay đổi diễn ra trong
gia đình và ngoài xã hội.

Tính chất của hệ thống là khả năng giữ nguyên trạng của sự việc đó là các luật

lệ trong gia đình, những ý nghĩa mà mọi người hiểu nhau một cách thống nhất những
giá trị mà họ trông chờ lẫn nhau. Không có yếu tố nầy thì gia đình không giữ vững
được sự sống của mình Khả năng của gia đình là để thay đổi. Muốn vậy, nó tùy
thuộc vào sự cởi mở của gia đình. Để đối phó với vấn đề và tìm ra giải pháp thì các
gia đình phải có tính chất cởi mở. Sự cấu kết trong gia đình thông qua các luật lệ, hệ
thống giá trị và liên thế hệ của gia đình, là những nhân tố giúp gia đình giữ vững
trạng thái nguyên trạng và khả năng giúp cho gia đình thay đổi và thích ứng.



76
Trong gia đình có người nghiện rượu thì luôn luôn bị xáo trộn. Trong gia đình xáo
trộn, đứa trẻ hay bị sợ hãi, chúng không biết là cha mẹ nó có thể trở lại trạng thái
bình thường để tiếp tục chăm sóc nó hay không? Đối với những gia đình này nhân
viên xã hội có thể sắp xếp lại chỗ ở và tìm việc làm.

Ví dụ về một trường hợp :

Có một thân chủ 40 tuổi sống chung với mẹ và người mẹ luôn nói chuyện với
anh ta như lúc anh ta lên 10 tuổi và bà mẹ nầy không thích với những bạn gái của
anh ta và cũng không thích anh ta ra khỏi nhà. Anh ta đã tạo ra sự thay đổi bằng cách
đi uống rượu và hay đi chơi vì anh ta không thể chấp nhận một tình trạng như vậy
mãi. Nhân viên xã hôi phải giúp cả hai mẹ con chấp nhận sự đổi mới. Bà mẹ hàng
ngày luôn trông chờ những cú điện thoại của con gọi về. Nhân viên xã hội giúp bằng
cách để cho anh ta mỗi ngày gọi điện thoại cho mẹ giảm dần để bà quen dần với sự
thay đổi này. Nhân viên xã hội thường đến nhà trò chuyện để giúp cho bà quen dần
với tình trạng mới.

4.3. Quyền lực trong gia đình:


Ai có quyền lực trong cấu trúc quyền lực? Có quyền lực liên quan đến giao
tiếp trong gia đình, có những luật lệ trong gia đình qui định người nào được nói
chuyện với ai, về việc gì? Đôi khi luật đó được nêu ra rõ ràng, đôi khi chỉ là sự quy
định ngầm với nhau.

Ví dụ:
Đôi khi trong gia đình chỉ một số người được biểu lộ cảm xúc, còn những người
khác không có quyền.

Để hiểu một gia đình, nhân viên xã hội cần hiểu hai luật về giao tiếp trong gia
đình để tìm hiểu ai là người có quyền lực trong gia đình.


77
Khi ta tìm hiểu về một gia đình nhân viên xã hội tìm hiểu quan hệ qua lại
trong gia đình đó. Một trong những lý thuyết làm việc với gia đình là lý thuyết giao
tiếp. Nhân viên xã hội không thể nào không giao tiếp, tất cả các thành viên nhân viên
xã hội đều là một hình thức giao tiếp. Khi các thành viên nhân viên xã hội đang ngồi
đây đều là một hình thức giao tiếp.

Ví dụ:
Khi cãi nhau, người chồng tức bỏ đi và lý luận Tôi phải đi vì cô ta không để
cho tôi yên. Người vợ thì cho rằng Tôi không để yên vì anh ta không chịu nghe và bỏ
đi. Cách nhấn mạnh vấn đề của hai người có hai điểm nhấn khác nhau:

o Cách nhấn của vợ là hành vi của bà ta chỉ là phản ứng lại hành vi của
ông chồng
o Và cách nhấn của ông chồng chỉ phản ứng lại những hành vi của bà vợ.

Khi nhân viên xã hội giao tiếp thì chữ và nghĩa phải đi đôi với nhau. Khi ta

thấy một người có cử chỉ và hành động không đi đôi với nhau có nghĩa là chữ và
nghĩa không khớp nhau làm cho nội dung mất giá trị. Thí dụ người mẹ miệng nói
yêu con nhưng bà ta lại xô đứa con ra khi nó muốn quấn quít bà ta.

Thí dụ:
Tôi nói với sinh viên của tôi là bạn có thể nói một cái gì đó rất là bộc phát rất
là tự nhiên, thì tôi cho bạn điểm xuất sắc môn học. Bây giờ bạn muốn nói cái gì đó
hết sức bộc phát. Sinh viên nói: Hôm nay vui quá. Tôi trả lời: điều đó bạn đã nghĩ tới
rồi, bởi vì bạn không có tự nhiên, không có bộc phát, ý tôi muốn bạn không nghe lời
tôi. Nghĩa là bạn không thể thắng tôi.

Nếu gia đình có tình trạng nầy thì rất là tiêu cực cho đứa trẻ. Thí dụ: Người
cha than vãn là con không có công ăn việc làm, ông mắng con: “Con phải là người
đàn ông, con phải làm việc chứ” Và người mẹ trả lời: “Công việc gì nó làm đều
nguy hiểm, dưới sức của nó”. Đứa con trả lời là nó “chán quá”. Cả hai cha mẹ đều


78
nói “Con ngu lắm”. Nếu mà nó không làm việc thì cha nó la nó, còn nếu nó chọn
một công việc thì mẹ nó lại chê công việc đó, và nếu đứa trẻ than phiền về việc nầy
thì cha mẹ nói là nó ngu.

Điều này có xảy ra trong gia đình Việt Nam không? Khi làm việc với gia
đình, nhân viên xã hội nên quan sát sự truyền thông giao tiếp trong gia đình và các
bạn làm sao tìm cách để họ truyền thông có hiệu quả nghĩa là sự truyền thông trước
sau như một, có sự phản hồi, song song đó, nhân viên xã hội cũng cần phát hiện
những loại truyền thông có vấn đề.

Nếu giúp gia đình về mặt truyền thông giao tiếp thì nhân viên xã hội giúp họ
truyền thông một cách rõ ràng, tránh những sự hiểu lầm và tìm cả những cái méo mó

để giúp họ thẳng thắn chia sẻ ý tưởng và cảm xúc với nhau, nhân viên xã hội tìm
hiểu cả nghĩa rộng lẫn nghĩa bóng của vấn đề, giúp họ cách diễn giải vấn đề của
nhau, giúp họ xử lý những mâu thuẫn của nhau, tránh kéo thêm một thành phần thứ
ba vào cuộc.

Chung quanh các thế hệ, nhân viên xã hội phát hiện một mô hình với những
sự thay đổi. Các mô hình ứng xử nầy được truyền từ thế hệ nầy sang thế hệ khác như
thế nào? Thế hệ trước đã ảnh hưởng lên gia đình như thế nào? Cách gia đình thiết kế,
xây dựng và giải thích ra sao? Ngày nay, người ta nhìn vào thực tế để lý giải. Các
thành viên trong gia đình cùng chia sẻ những kỳ vọng với nhau. Những sự chia sẻ
nầy là sự kết hợp kinh nghiệm của gia đình trong thế hệ của mình.

Thí dụ:
Các thế hệ bị bách hại nhiều thì gia đình thường hay nghi ngờ. Hệ thống niềm
tin của gia đình sẽ ảnh hưởng đến gia đình và cách gia đình tạo mối quan hệ giao tiếp
với môi trường xung quanh và ảnh hưởng đến cả hành vi của các thành viên trong
mối quan hệ với nhau. Nhân viên xã hội có thể phát hiện được cách ứng xử của gia
đình thông qua các dịp lễ tiệc.



79
4.4. Những vấn đề của gia đình

Một vấn đề của gia đình có thể liên quan đến một số áp lực. Một áp lực có thể
do chu kỳ phát triển tiến hóa của gia đình đó. Thí dụ gia đình mới có thêm một đứa
trẻ. Ông hay bà không thể sống độc lập hoặc là một đứa con ở tuổi mới lớn, có thể
một vấn đề cá nhân trong gia đình hạt nhân hay trong gia đình lớn cũng có thể tạo
nên rắc rối trong gia đình.


Mỗi chu kỳ thay đổi của gia đình có thể đem đến một sự hụt hẫng, mất mát
nào đó, có thể là tang tóc, và có một vài dấu hiệu thoái hóa ở một vài thành viên
trong gia đình.

Ví dụ:
Một gia đình có thêm một đứa con mới thì đứa lớn cũng có thể có nhiều biểu
hiện muốn bắt chước hành vi của em nó (Thí dụ như đứa lớn không muốn vào nhà
cầu mà nó muốn tiểu tiện như em nó).

Khi một thành viên trong gia đình bị tai nạn, bị bệnh thì các thành viên trong
gia đình phải tái thích ứng về vai trò để bù đắp cho khó khăn này, cũng có thể áp lực
đó từ bên ngoài vào gia đình. Ví dụ người cha bị khủng hoảng trong việc làm, hoặc
người mẹ mất một người bạn tốt, hoặc cha đánh bạc bị mắc nợ. Và có một áp lực
khác là áp lực bên ngoài lên toàn gia đình. Ví dụ gia đình phải dời nhà khi người cha
không còn làm việc ở chỗ cũ nữa, lũ lụt, cháy nhà, không có chỗ cư ngụ. Trước tất cả
áp lực này gia đình phải có khả năng thích nghi.

Một áp lực từ bên ngoài thí dụ như ông bà dọn về ở chung, tái kết hôn cha mẹ
ghẻ hay anh em ở dòng khác. Đó là những áp lực từ bên ngoài ảnh hưởng đến cấu
trúc gia đình. Có những vấn đề nhân viên xã hội tưởng tượng nó chỉ ảnh hưởng đến
một hành vi, điều đó không đúng, và đôi khi nhân viên xã hội thấy một hành vi
khủng hoảng đối với gia đình thì đã có những thay đổi trong hệ thống mà nhân viên
xã hội phải tìm hiểu hệ thống đó đáp ứng với gia đình đó như thế nào.


80
Nhân viên xã hội cần tạo niềm tin, tạo hy vọng cho người để họ tiếp tục sống và
hành động.

BIỂU ĐỒ THẾ HỆ:


Đây là công cụ để đánh giá gia đình, để nhìn ra hệ thống tình cảm gia đình, để
tìm ra những yếu tố tìm hiểu văn hoá của gia đình nầy, là cách để tổ chức và phân
định các thành viên trong gia đình, qua các thế hệ. Các biểu đồ nầy có thể đúc kết
các hoạt động thông tin của gia đình trong một giai đoạn nào đó rất hiệu quả. Nhân
viên xã hội có thể lấy ra những mẫu (mô hình) trong gia đình nầy. Thí dụ việc uống
rượu có thể ở thế hệ này, có thể ở thế hệ trước hoặc ở những thế hệ trước. Biểu đồ
nầy ít nhất có 3 thế hệ và trong biểu đồ nầy ta cần ghi lại những nguồn gốc về tôn
giáo của gia đình, sắc tộc của gia đình và cũng như trong chu kỳ đời sống gia đình ta
cần ghi lại những biến cố quan trọng trong gia đình như sự mất mát, chết chóc trong
gia đình, nếu gia đình di chuyển chổ ở cũng ghi chú vào mối liên hệ giữa các thành
viên trong gia đình. Các bạn có thể tìm ra khi nào nó có mối liên hệ tay ba, hay sự
gần gũi cấu kết của các thành viên hay là ghi nhận lại bằng dấu hiệu mà những người
đã không còn liên hệ với nhau nữa. Đây là những dấu hiệu được dùng trong biểu đồ.

Xuyên qua những dấu hiệu nầy không chỉ nhìn thấy mối liên hệ giữa hai người với
nhau mà còn thấy rõ mối liên hệ của nhiều người với nhau.

Khi làm việc với một gia đình, ai là thân chủ của ta thì ta khoanh tròn dấu
hiệu của người đó lại. Làm sao để thực hiện biểu đồ nầy? Nói chung phải có sự đồng
ý của thân chủ, và thân chủ cung cấp thông tin thì ta mới có thể ghi nhận đầy đủ
xuyên qua biểu đồ thế hệ.

Nhân viên xã hội cần phải có những ghi nhận bên cạnh các thành viên trong
gia đình, nếu có người trùng tên qua nhiều thế hệ thì xem xét coi những người trùng
tên này có những điểm đặc biệt nào giống nhau không. Khi vẽ biểu đồ thế hệ cần nói
rõ đặc điểm, tuổi tác, năm sinh, việc làm của từng người.


81


MẪU BIỂU ĐỒ THẾ HỆ











































5. Một số vấn đề của trẻ trong gia đình

5.1. Trẻ em bị ngược đãi và thiếu chăm sóc

Mar
y
John
Bob
Sue
Tina

CÁC KÝ HIỆU CỦA BIỂU ĐỒ THẾ HỆ



đàn ông đàn bà mất




cưới nhau thân thiết



ly dị xa cách




ly thân xung đột






82
Ở Mỹ, trong sự ngược đãi có sự ngược đãi về thể chất, không được chăm sóc
đầy đủ, không có được những dịch vụ y tế chăm sóc, không được khuyến khích và
giúp đỡ để học, bị bóc lột để làm những công việc nặng nhọc hoặc nhiều giờ, tiếp
xúc với những tình huống xã hội xấu: những vấn đề nhân viên xã hội thường nói là
những vấn đề trẻ em không được quan tâm, bị bỏ bê, ngoài ra còn có những trẻ em bị
ngược đãi, bị lạm dụng tình dục.

Vấn đề trẻ em không được chăm sóc đầy đủ, nội dung chính là do thiếu nguồn
tài nguyên, hoặc là lỗi của cha mẹ hay người chăm sóc có khả năng nhưng không
hoàn thành trách nhiệm để cho đứa trẻ có được sự chăm sóc tối thiểu, người chăm

sóc không thực hiện được cho trẻ hưởng thụ được nguồn tài nguyên như y tế, dinh
dưỡng, nhà ở, sự hướng dẫn, tình thương, và sự quan tâm. Đó là tình trạng trẻ hoàn
toàn không có người chăm sóc hay không được chăm sóc đầy đủ. Đó không phải là
hành động cố tình tạo nên sự thiệt hại cho trẻ và đó là việc thiếu hành động cần thiết
cho trẻ.

Trẻ thiếu nguồn để sống sót, bao gồm cả việc thiếu sự theo dõi và hướng dẫn,
thí dụ như khuyến khích trẻ đi học mỗi ngày và sự ủng hộ về mặt tình cảm đó là
những vấn đề do ảnh hưởng nạn nghèo đói, cái nghèo làm cho cha mẹ thiếu khả năng
cung cấp. Trẻ không được chăm sóc là trẻ tự kiếm sống lang thang, không ai kiểm
soát, một số trường hợp khác trẻ không được ai giám sát, ta thấy trẻ không được ăn
mặc sạch sẽ, dơ bẩn trông mất vệ sinh, những yêu cầu về sức khỏe, về nha khoa, về
dinh dưỡng không được đáp ứng và từ đó dẫn đến những hậu quả về thể chất nếu trẻ
không được chăm sóc ở mức độ nghiêm trọng.

Một trong những hậu quả của sự thiếu chăm sóc là trẻ không có khả năng lớn
hơn. Trẻ lớn không nổi khi còn trong nôi. Nó ảnh hưởng đến khả năng phát triển tâm
lý, vận động và một ảnh hưởng khác lên trẻ em là trẻ bé hoài không phát triển đầy đủ
về mặt tâm lý xã hội, và điều này có thể ảnh hưởng trẻ từ 18 tháng đến 16 tuổi. Và
người ta nghĩ rằng trẻ bị bỏ rơi về tình cảm tạo ra cho trẻ lớn chậm (được gọi những
chú lùn tâm lý xã hội, khi trẻ nhỏ hơn sự phát triển của trẻ bình thường, thấp nhất là


83
5%) có những trẻ bị bỏ bê nên bộ xương không tăng trưởng, sự trưởng thành về
xương, qui trình lớn lên và cứng cáp của xương chậm. Ngoài ra, trẻ có hành vi phản
xã hội như hành vi hoạt động một cách thoái hóa, chúng có thể có những khó khăn
trong khi nói chuyện, trong giao tiếp. Đó là những dấu hiệu của những trường hợp
nghiêm trọng. Có những đặc điểm biểu hiện của cha mẹ bỏ bê con cái là cha mẹ bị
sống cô đơn, cô lập. Vì sống cô độc nên cha mẹ có khó khăn trong việc tiến hành

công việc hàng ngày một mình không ai giúp đỡ, đặc biệt thứ hai là họ còn giận dữ
tức tối là lúc nhỏ họ không được chăm sóc đầy đủ. Vì vậy cha mẹ rất khó khăn để
nhìn thấy những nhu cầu của con cái. Những cha mẹ này thường sống một tâm trạng
rất trầm cảm, không đáp ứng được những nhu cầu của con cái.

5.2. Bạo hành trẻ em:

Bạo hành trẻ em là đánh đập đến nỗi trẻ bị thương tích. Cái lý do mà cha mẹ
đánh là quan trọng bởi vì có sự phân chia mơ hồ giữa kỷ luật con cái và đánh đập
con cái, giữa cố tình làm hại đứa nhỏ và lỡ đập con cái. Nếu cha mẹ lỡ tay thì không
kéo dài, còn cố tình thì sự đánh đập kéo dài.

Hậu quả là những vết bầm trên cơ thể, những lằn xước lên da trẻ, và đôi khi
cả dấu răng cắn và xương bị nứt, những vết thương trên đầu và những nội thương
bên trong của ngũ tạng đứa trẻ. Ở Mỹ có những trường hợp những đứa trẻ mới sanh
hay khóc làm cha mẹ bực bội, cha mẹ có thể lắc đứa trẻ quá mạnh thì đứa trẻ có thể
bị tổn thương cổ, não bộ lúc lắc, có thể bị tổn thương về não và đứa trẻ có thể chết.
Hiện có một case, cha là bác sĩ, bị đưa ra toà (người mẹ sau khi sinh con đứa trẻ mới
sanh khóc hoài). Hiện giờ người ta chưa xác định được ai là thủ phạm gây ra cái chết
cho con, cha hay mẹ. case này bị lôi ra ánh sáng vì có sự nghi ngờ gắn liền khi cặp
vợ chồng nầy đã yêu cầu cố giữ nó sống bằng hệ thống nhân tạo; đến khi đứa bé
chết, người ta mổ xác đứa bé để xét nghiệm thì thấy não bị vỡ vụn.

Với tư cách là nhà công tác xã hội để quyết định đứa trẻ có bị bạo hành hay
không nhân viên xã hội nên nghĩ đến những câu hỏi sau đây:


84

Điều thứ nhất:

- Có phải là đứa trẻ ở lứa tuổi đó bị đánh đập quá thường xuyên đối với lứa tuổi đó
hay không?
- Có phải là đứa trẻ không chỉ bị một vết thương mà thôi, mà cùng một lúc có nhiều
loại vết thương
- Có phải là loại thương tích đứa nhỏ bị là một mẫu mà thường được lập đi lập lại
hay không? (thí dụ như vết phỏng)
- Vết thương mà đứa trẻ bị, có thể cha mẹ cắt nghĩa một cách không hợp lý không?
- Hãy lắng nghe kỹ cách cha mẹ cắt nghĩa (lối giải thích của cha mẹ có hợp lý
không?)

Điều thứ hai là quan sát đến hành vi của đứa trẻ, đây là những hành vi mang tính
cực đoan.

- Đứa trẻ có hành vi quá sức tuân thủ ý kiến cha mẹ: thí dụ đứa trẻ lúc nào cũng
ngồi yên lặng một chỗ, đứa trẻ tránh mọi sự đụng chạm xung đột với cha mẹ, tránh
không làm cha mẹ giận, lúc nào cũng quan sát canh chừng cha mẹ.

- Đứa nhỏ có tính hay gây hấn, rất đòi hỏi, sống động và đứa trẻ làm bất cứ điều gì
để cha mẹ quan tâm đến nó.
- Hành vi đứa trẻ bị thay đổi vai trò, nó có những hành vi như cha mẹ lo lắng cho
con cái.
- Trẻ có những hành vi rất là phụ thuộc cha mẹ để cha mẹ không có phản ứng gì cả.
- Những đứa trẻ thuộc 4 dạng vừa rồi, sự phát triển năng lực của nó chậm vì năng
lực của nó đã dồn vào sự đối phó với cha mẹ. (Ví dụ như ngôn ngữ của nó không
được phát triển tốt).

- Những đứa trẻ bị bạo hành có cách ứng đối với người lạ bằng một trong hai cách:


85

- Có thể đối với mọi người nó rất thân thiện hoặc hay gây hấn, nó dễ dàng làm quen
với mọi người.
- Nó ngồi yên lặng thinh không tiếp xúc với ai, nó nghi ngờ mọi người.
- Dấu hiệu về vấn đề ăn uống bị rối loạn.

Ta có thể thấy hành vi ăn uống của trẻ rất bình thường. Thí dụ đứa trẻ ngồi ăn
uống rất lịch sự, rất hợp lý chỉ vì nó sợ bị đòn.

Cách chơi của trẻ có thể cho thấy nó bị bạo hành. Nó có thể diễn tả tình cảm của
nó xuyên qua các trò chơi, nó có thể ngồi yên một chổ, tránh giao tiếp vơi trẻ khác,
hoặc là chơi nhưng có tính gây hấn như để diễn tả những bực tức mà nó mang đến từ
nhà. Một dấu hiệu đó là nó không thể kiểm soát được sự tiểu tiện của nó (tiểu trong
quần hay đái dầm vào đêm) hoặc nó không thể kềm chế được những sự bực tức, nằm
vạ, làm mình làm mẩy, làm trận làm thượng và có thể có những hành động rất bất
thường.

Đặc điểm của những cha mẹ hay đánh đập con cái:

Những người này thường có những nhu cầu quan trọng là được chăm sóc vì
họ chưa được chăm sóc. Họ tự đánh giá mình rất thấp, họ khiến cho người khác
ruồng bỏ họ, khinh thường họ, vì họ không biết làm sao để kiếm được sự hỗ trợ và
họ thấy họ không xứng đáng nhận được sự hỗ trợ khác.

Tình trạng của họ là tình trạng của cha mẹ mong muốn sự hỗ trợ của người
khác. Trong khó khăn đó, họ không thể đáp ứng nhu cầu của con cái. Thường những
cha mẹ này lúc bé, chính họ bị bạo hành hay bỏ rơi, họ sống cô độc, họ tự đánh giá
họ thấp, họ không có được sự hỗ trợ nên sự căng thẳng này càng ngày càng cao và
đổ trút sự căng thẳng lên đầu trẻ con. Và có khi cha mẹ bạo hành khó khăn nghiêm
khắc với con cái, đứa nhỏ bị kiểm soát ngặt nghèo và khó khăn, đó là một phần cha
mẹ tự muốn kiểm soát mình thông qua đứa nhỏ. Trong trường hợp những cha mẹ

như vậy, những đứa trẻ bị tàn tật thì nếu đứa trẻ này có nguy cơ bị bạo hành nhiều


86
hơn vì cha mẹ phải lo âu trong sự đáp ứng của trẻ này nhiều hơn. Thêm vào đó cha
mẹ thường bị bạo hành lúc nhỏ cho nên họ cũng không biết cách để đáp ứng nhu cầu
của trẻ như thế nào. Nếu họ không được chăm sóc lúc nhỏ thì bây giờ họ cũng không
biết cách chăm sóc đứa nhỏ. Trong môi trường sống cũng có những ảnh hưởng đến
những cha mẹ bạo hành trẻ con. Và trong mối liên hệ vợ chồng cũng có ảnh hưởng
đến trẻ con, thường là mối quan hệ tay ba, mối liên hệ hai vợ chồng không tốt đẹp,
họ dùng đứa con coi như vật tế thần để giải quyết vấn đề của họ. Trong trường hợp
sự căng thẳng đến mức độ tột đỉnh và có những biến cố rất nghiêm trọng (nghèo đói
triền miên, cha mẹ đơn thân, mất việc ) Trong trường hợp căng thẳng như vậy cha
mẹ cảm thấy căng thẳng và bạo hành con cái. Có khi cha mẹ bạo hành con cái vì họ
chưa được học kỹ năng cần thiết tối thiểu để làm cha mẹ, không biết thức ăn dinh
dưỡng cần thiết và chăm sóc y tế như thế nào cả. Có nhiều cha mẹ cứ nghĩ cho ăn
cho ngủ là đủ mà không quan tâm đến nhu cầu tâm lý tình cảm của trẻ. Có nhiều cha
mẹ không được sự chỉ dẫn là nên nói chuyện với trẻ chứ không nên đánh trẻ.

Và những cha mẹ không có khả năng nhìn mình tách biệt ra khỏi đứa con,
hoặc ngược lại. Họ thường đổ lỗi cho con. Và những cha mẹ này thiếu khả năng lý
giải vấn đề cái nào được, cái nào không được. Họ khó quyết định, họ không biết
chọn hướng nào để thay đổi. Và có những cha mẹ không thể nào kiểm soát được họ,
họ rất nóng vội, không chờ đợi được và đánh con ngay tức thì. Nếu cha mẹ nghiện
rượu hay nghiện thuốc và sự nghiện ngập của những người này làm họ bị thu hút hết
sự quan tâm đến con cái, gây nên nạn bạo hành con cái.

Trong trường hợp những case bạo hành đối với con cái nhân viên xã hội phải làm
gì?


- Tìm cách thu thập thông tin càng nhiều càng tốt
- Thẩm định hoàn cảnh này
- Có chương trình mục tiêu để làm việc, tìm ra cách trị liệu để coi trị liệu này có
hiệu quả không? Nếu không có hiệu quả, phải đổi cách trị liệu khác. Đôi khi chỉ
cần trị liệu một thời gian ngắn, đôi khi cần một thời gian dài để giáo dục.


87
- Những cái nhân viên xã hội cần tìm là:
- Có bằng cớ rõ ràng về nạn bạo hành con và nạn bạo hành này nguy hiểm cho trẻ,
cần phải thẩm định mức độ nguy cơ của trẻ, cần phải coi đứa trẻ trong giai đoạn
này có những hành vi tự hủy hoại cuộc đời nó không? Tìm ra thật sự của nạn bạo
hành này xảy ra lâu chưa. Cần thẩm định xem cha mẹ có ý định sửa đổi hay không,
cha mẹ này có muốn ruồng bỏ con cái họ không hay họ khổ sở về bạo hành? Cha
mẹ có bị khủng hoảng về mặt tình cảm tâm lý không? Cha mẹ có hợp tác tốt với
bạn hay không? Cha mẹ có những vấn đề tâm lý xã hội quá nghiêm trọng không?
Cha mẹ có bị cô lập và không được hỗ trợ hay không? Chính khi qui tụ được hết
những yếu tố này ta có thể kết luận đứa trẻ có nguy cơ bị bạo hành hay không?

Bạn cần chỉ cho cha mẹ nhận ra những cảm giác của chính họ và những sự kiện
nào xảy ra đã dẫn đến bạo hành; cần chỉ cho cha mẹ những dấu hiệu báo động trước
khi bạo hành xảy ra để họ có thể học được những kỹ năng khác thay thế, để ứng phó
với sự giận dữ trong lòng một cách khác đi. Chỉ cho họ biết cách phán đoán về mình.
Nếu cha mẹ dốt nát, ta cũng dạy cho họ cách dạy con. Đối với những cha mẹ có khó
khăn trong cách diễn tả bằng lời nói đối với con ta hướng dẫn cho họ cách nói
chuyện, trao đổi với con, nên dạy họ các kỹ năng quản lý con cái sao cho thích hợp
và điều duy nhất là dạy họ tổ chức một môi trường sống thích hợp hơn.

Ta có thể đem đến cho họ nguồn tài nguyên từ cấp vĩ mô, có thể đem đến cho họ
một bác sĩ để chăm sóc cho đứa trẻ.


Tìm cách để cha mẹ vươn lên không bị cô lập, giúp họ nói chuyện với cha mẹ bạn
bè, và dạy cha mẹ kỹ năng để kiểm tra chính mình để chống lại sự giận dữ và đồng
thời dạy cho trẻ em thấy những gì xảy ra không phải lỗi tại nó để nó có thể chấp
nhận được chuyện đó. Nếu sự giúp đỡ của họ không hiệu quả, bạn có thể nhớ tới sự
hỗ trợ của cộng đồng, tòa án.

5.3. Lạm dụng tình dục trẻ em



88
Định nghĩa: Lạm dụng tình dục bao gồm sự tiếp xúc (tương tác) giữa đứa trẻ và
người lớn, trong đó đứa trẻ bị kích thích tình dục cho người khác, trẻ từ 18 tuổi trở
xuống. Khi người lớn, lớn hơn trẻ 5 tuổi trở lên và người đó có quyền lực trên đứa
nhỏ. Người lớn có quyền lực trên đứa nhỏ này, sử dụng quyền lực của họ để thoả
mãn tình dục và giúp người khác thoả mãn tình dục.

Loạn luân là một hình thức đặc biệt của lạm dụng tình dục, là sự tiếp xúc, hay sự
giao hợp giữa một đứa nhỏ và một thành viên trong gia đình không phải là người
phối ngẫu. Lạm dụng tình dục cũng có thể là những hình ảnh khiêu dâm hay những
cử chỉ mang tính tình dục, hay người lớn phô bày bộ phận sinh dục của mình, hay
vuốt ve sờ mó bộ phận sinh dục, tình dục bằng miệng, giao hợp và bất cứ hình thức
tiếp xúc sinh dục nào khác. Trong mối quan hệ mang tính loạn luân, không chỉ là
những người có quan hệ máu mủ mà có thể là người không phải ruột thịt như cha
ghẻ, dượng ghẻ, cô dì chú bác, người tình của cha mẹ. Trẻ có nguy cơ nhiều hơn đối
với những người trẻ quen biết, tin cậy. Trẻ thì dễ bị lạm dụng tình dục vì chúng
không có cơ sở thông tin để hiểu biết, không có chỗ nào để dựa, vì chúng nhỏ nên
chúng sợ và đứa nhỏ nằm dưới sự kiểm soát của người lớn, nó muốn được làm vui
lòng người lớn, nó muốn được chăm sóc, muốn được có cảm giác an toàn. Ở Mỹ,

60% lạm dụng tình dục trẻ em xảy ra trong gia đình và phần lớn các trường hợp còn
lại là do những người quen biết và những người lạm dụng tình dục trẻ em thường là
những người thích làm tình với trẻ em. Trong gia đình có thể có mối quan hệ loạn
luân giữa anh em, có khi đứa trẻ bị đối phó với những căng thẳng từ nhiều người,
không có sự an ủi, có khi là anh truyền em nối, và thường là sự loạn luân giữa anh
em nghiêm trọng hơn là trường hợp vi phạm là người lớn. Mối quan hệ loạn luân
thực hiện theo các bước:

1. Bước đầu: người lớn (người vi phạm) thăm dò xem họ có thể tới gần đứa nhỏ
không và đứa nhỏ đáp ứng thế nào?
2. Nếu trẻ có vẻ cởi mở, họ bước tới một bước là giao hợp. Từ từ dần tới mối
quan hệ sâu sắc hơn về tình dục.


89
3. Và họ tìm cách làm cho đứa trẻ phải giữ bí mật, bằng cách họ hăm dọa hoặc
đổ tội cho đứa trẻ hoặc nói đây là chuyện riêng của mình để che dấu sự việc.

Và nếu trẻ cho biết tình hình này thì sẽ có sự phát hiện. Sự phát hiện này có thể
do sự tình cờ, đứa bé không nói nhưng một ai đó hay gia đình có thể phát hiện. Và sự
phản ứng của sự phát hiện này có thể tạo ra sự căng thẳng cho gia đình và trẻ. Người
phạm tội luôn luôn chối, đứa trẻ cảm thấy là đứa tội lỗi, bất an. Gia đình có thể giận
dữ với trẻ và người vi phạm. Cảm thấy tội lỗi vì không bảo vệ được trẻ. Có nhiều gia
đình lờ luôn không muốn quan tâm đến vấn đề.
Có những kết cấu trong gia đình đặt đứa trẻ trong cảnh nguy cơ. Gia đình này bị xã
hội cô lập, có khi ranh giới gia đình không rõ ràng, hành vi của người cha đối với
đứa trẻ không được bình thường lắm, hay là trong phòng không đóng cửa, hình như
trong gia đình này không ai tôn trọng sự riêng tư của người khác, hoặc ngược lại có
biểu hiện của sự bí mật, có sự che dấu. Có tình trạng những đứa con gái bị lạm dụng
tình dục nhưng không được sự quan tâm của chính người lạm dụng tình dục. Có khi

người cha lạm dụng tình dục đứa con mà người mẹ lại giận dữ với con. Người mẹ và
con có khoảng cách với nhau, có mâu thuẫn giữa cha và mẹ. Người cha và con gái
có sự quan hệ thân thiết dẫn đến có sự quan hệ tình dục. Vì mối quan hệ tâm lý giữa
mẹ và con đã thiếu rồi cho nên khi có chuyện quan hệ tình dục, đứa con không nói
với mẹ được nên người mẹ rất là giận con, cho nên không thể giúp con được.

Một nguy cơ khác là khi nào có người dượng ghẻ trong gia đình, khi mẹ bệnh
hoạn vắng nhà cũng là một yếu tố nguy cơ khác.
Rượu cũng là một yếu tố khác và có nhiều khi chính kẻ lạm dụng tình dục lại có một
lịch sử bị lạm dụng. Đó là một nhân tố lớn, nguy cơ lớn cho đứa trẻ bị lạm dụng tình
dục.

Đây là một vài đặc điểm của người cha lạm dụng tình dục:

Ông ta thường là người nhút nhát, khiếm khuyết kỹ năng giao tế, và ông ta có thể
có những khó khăn trong việc bộc lộ với vợ, thường đánh giá mình thấp hơn vợ, anh

×