Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Phân tích nội dung phát triển Giáo viên, liên hệ thực tế trong nhà trường nơi anh chị công tác về vấn đề phát triển giáo viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.42 KB, 17 trang )

Họ tên:
Vũ Văn Tuấn
Bài kiểm tra số 3
Môn: Đại cương Khoa học quản lý và Quản lý Giáo dục
Câu hỏi: Phân tích nội dung phát triển Giáo viên, liên hệ thực tế trong nhà
trường nơi anh chị công tác về vấn đề phát triển giáo viên hiện nay?
Trả lời:
Ta từng biết, ngành giáo dục là ngành được Nhà nước coi trọng là Quốc
sách hàng đầu, dành hơn 20% GDP cho sự nghiệp phát triển giáo dục chính vì
vậy ngành giáo dục phải có kỳ vọng đáp ứng được chủ trương của Nhà nước.
Ý Bác Hồ đã từng nói, dân tôc Việt Nam có sánh vai được với 5 châu hay không
là công lao của giáo dục, chính vì vậy vai trò của nhà trường( giáo dục) càng trở
nên quan trọng, nhưng nhân tố làm nên bộ mặt nhà trường lại chính là giáo viên,
những người được xã hội giao phó trọng trách đào tạo thế hệ trẻ người chủ
tương lai của xã hội.
“ Cũng như trong một bộ phim được công chúng đón nhận ngoài kế hoạch
của đạo diễn ra thì thành công hay không chính là những diễn xuất của diễn
viên” Dù kịch bản có hay đến đâu diễn xuất tồi thì bộ phim đó sẽ không được xã
hội chấp nhận.
Còn về giáo dục dân tộc ta có 1 câu: Đào tạo ra một người đàn ông thì
chúng ta được một người khỏe mạnh giúp ích cho xã hội càng mạnh, đào tạo ra
một người phự nữ thì họ sẽ giúp cho cả một gia đình khỏe mạnh, còn đào tạo ra
một giáo viên “tồi” thì làm cho cả thế hệ suy vong.
Chính vì những kinh nghiệm ông cha ta đúc kết và thực tế đã chứng minh
việc phát triển giáo viên là rất cần thiết và rất cấp bách, nhưng câu hỏi? Phát
triển như thế nào? vận dụng ra sao? ...lại là vấn đề mấu chốt của vấn đề giáo dục
Năm học 2014 - 2015 chủ trương của Bộ Giáo dục là phát triển toàn diện
về giáo dục trong đó có phát triển về đội ngũ giáo viên, nghĩa là phát triển giáo
viên phải chú trọng cả 3 mặt: Nhận thức, hành vi và thái độ
+ Về mặt nhận thức: Phải hiểu xu thế giáo dục và xu thế đổi mới giáo dục,
chịu trách nhiệm về kết quả giáo dục học sinh...


- Giáo viên phải nắm bắt được xu thế giáo dục và xu thế đổi mới giáo dục
trên thế giới và trong nước
- Mỗi giáo viên phải chịu trách nhiệm về kết quả giáo dục học sinh ở góc
độ nhiệm vụ của mình, như môn học do mình giảng dạy, học sinh lớp mình chủ
nhiệm,...
+ Về Hành vi: Phải tăng thêm kiến thức, kỹ năng dạy và học, đổi mới
phương pháp dạy học, ủng hộ và giúp đỡ đồng nghiệp...
Mỗi giáo viên phải luôn tự giác, chủ động học tập nâng cao kiến thức
khoa học về bộ môn và các kiến thức liên quan, có phương pháp giảng dạy phù
hợp với từng bộ môn, từng bài, kiểu bài; thường xuyên đúc rút kinh nghiệm để
giảng dạy tốt hơn; quan tâm ủng hộ và giúp đỡ đồng nghiệp
1


+ Về Thái độ: Phải tự tin về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao
tinh thần hài lòng với công việc tăng thêm tinh thần trách nhiệm đối với công
việc..
Việc đánh giá sự phát triển giáo viên một cách nghiêm túc là đòn bảy thúc
đẩy sự phát triển chuyên môn của giáo viên. Để đạt mục đích này đánh giá phải
bảo đảm các yêu cầu:
- Có tiêu chuẩn khoa học, công khai rõ ràng
- Đánh giá nhằm trọng tâm vào giờ giảng trên lớp
- Khuyến khích nhân tố tích cực, khích lệ đổi mới đánh giá vì sự phát triển của
giáo viên
- Thường xuyên quan tâm đến việc phát triển sự nghiệp của giáo viên, tạo điều
kiện cho họ thành công và khẳng định chỗ đứng của mình trong tập thể sư phạm.
Trong các yêu cầu trên yêu cầu: Đánh giá nhằm trọng tâm vào giờ giảng trên lớp
là rất quan trọng ta cần nắm được các tiêu chí của giờ dạy:
- Phát triển chương trình như thế nào, kỳ vọng của sự phát triển
- Tạo môi trường học tập ra sao? kỳ vọng thu được từ học sinh, sản phẩm có như

mong muốn
- Phương pháp và cách thức trình bày bài giảng như thế nào là hợp lý: Kỳ vọng
của mỗi phương pháp sẽ cho một kết quả cao nhất, người giáo viên phải kết hợp
nhiều phương pháp để kích thích tham gia học tập của học sinh, tạo cho học sinh
sự tự tin và trình bày hiểu biết của mình.
- Cách quản lý lớp học: đây là khâu rất quan trọng lớp học hưng phấn hay lớp
học ồn ào trầm cảm cũng là do cách quản lý của giáo viên
- Đánh giá việc học: khâu tổng hợp sẵn sàng hợp tác trong tổ/ nhóm trong học
tập.
Ở đơn vị tôi đang công tác: Việc phát triển giáo viên là nhiệm vụ rất
được quan tâm từ lãnh đạo huyện, đến cấp trường học đó cũng là chương trình
mục tiêu của huyện:
- Việc bố trí, phân bổ cán bộ, giáo viên cũng được tuyển chọn nghiêm túc, đúng
người, đúng việc, đúng nhu cầu phát triển của địa phương, đúng chuyên môn do
1 phòng ban( Phòng nội vụ) đảm nhận và chị trách nhiệm trước UBND huyện.
- Việc đánh giá chuyên môn, nghiệp vụ giáo viên được phân cho 1 phòng
(phòng GD & ĐT), phòng luôn thực hiện chủ trương về đổi mới của Bộ, của Sở,
thường xuyên tập huấn bồi dưỡng cho cán bộ giáo viên, định kỳ kiểm tra chuyên
môn rút ra trình độ chuyên môn hợp lý của giáo viên để có phương pháp phát
triển giáo viên cho từng đơn vị, từng vùng trong huyện.
- Bố trí về cơ sở vật chất, thiết bị đầy đủ cho việc dạy và học..........
Tuy chương trình là như vậy nhưng vẫn có một số hạn chế: Việc bố trí
con người của phòng Nội vụ chưa sát, chưa đúng với sự phát triển của giáo viên,
còn nể nang ...từ đó làm tư duy giáo viên ức chế, hạn chế không muốn phát triển
Ví dụ: Một trường học có 4 lớp nhưng vẫn bố trí 3 giáo viên tiếng anh....có
trường 12 lớp cũng chỉ có 3 giáo viên tiếng anh. Trình độ chuyên môn, kinh
nghiệm của các giáo viên chỉ có phòng Giáo dục mới biết rõ, thế nhưng vẫn điều
chuyển giáo viên là phòng nội vụ dẫn đến sự phát triển giáo viên cũng cập rập
và bất cập. Hoặc việc tập huấn chuyên đề, để nâng cao trình độ giáo viên đang
2



còn rất chung chung, chưa quán triệt nghiêm túc, giáo viên chưa muốn thay đổi,
độ ì còn lớn, chương trình chuyên đề còn nhiều chồng chéo....
Tóm lại: Việc phát triển giáo viên của huyện cũng như của đất nước phải
mang tính toàn diện nghĩa là phải quan tâm cả 3 mặt: Nhận thức; hành vi và thái
độ của giáo viên như phân tích ở trên.
Họ và tên: Hoàng Linh
Lớp: Bổ sung kiến thức chuyên ngành quản lý giáo dục
Bài kiểm tra số 3
MÔN ĐẠI CƯƠNG VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Câu hỏi 1. Phân tích nội dung phát triển giáo viên. Liên hệ thực tế trong nhà
trường nơi anh, chị công tác về vấn đề phát triển giáo viên hiện nay.
Bài làm
Trong xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá đang phát triển mạnh mẽ. Sự phát
triển đội ngũ giáo viên trong các nhà trường ở mọi quốc gia đều rất quan trọng,
vì họ là những người được xã hội giao phó trọng trách đào tạo các thế hệ người nhân tố hàng đầu của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nội dung phát triển giáo viên mang tính toàn diện, cả về mặt nhận thức, hành
vi và thái độ.
Về nhận thức, đòi hỏi giáo viên phải hiểu xu thế giáo dục, xu thế đổi mới
giáo dục, chịu trách nhiệm về kết quả giáo dục học sinh,...Cụ thể:
Thứ nhất, giáo viên phải nắm bắt được xu thế giáo dục và xu thế đổi mới
giáo dục trên thế giới và trong nước
Trên thế giới hiện nay có bảy xu thế giáo dục chủ yếu, đó là:
Một là, giáo dục thế giới mang tính đại chúng mạnh mẽ, thể hiện như: phổ
cập giáo dục đang diễn ra ở nhiều nước (thậm chí Mỹ, Canađa đã phổ cập đại
học), nhiều quốc gia coi giáo dục là giáo dục cho mọi người.
Hai là, giáo dục là một nền giáo dục suốt đời. Hiện nay học tập suốt đời trở
thành ưu tiên cao cho mọi người. Vì học để biết, học để làm, học để cùng chung
sống và học để tự khẳng định, việc học suốt đời để mọi người thực hiện đầy đủ

tính công dân trong xã hội tri ithức.
Ba là, giáo dục là sự nghiệp hàng đầu của mỗi quốc gia, mở rộng mạnh mẽ
xã hội hoá giáo dục, thu hẹp bất bình đẳng về giáo dục Hiện nay, giáo dục được
coi là nhân tố hàng đầu làm cho con người đứng ở trung tâm của sự phát triển.
Bốn là, chất lượng mới của giáo dục hướng vào phát triển con ngườì, phát
triển nguồn nhân lực, hình thành những năng lực cơ bản mà thời đại mới đòi hỏi.
Năm là, sự thay đổi sứ mạng người thầy và quan hệ giữa dạy và học. Người
thầy ngày nay phải là người hướng dẫn, tổ chức học sinh học tập và tự học, tự
đánh giá.
Sáu là, yêu cầu đổi mới mạnh mẽ quản lý giáo dục, về: tầm nhìn, chính sách,
quản lý và cung cấp tài chính, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm xã hội, tinh thần
hợp tác, sử dụng công nghệ thông tin để hỗ trợ cho công tác quản lý nhà
trường,...
3


Bảy là, áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin – một hướng đổi mới giáo dục
có hiệu quả,
Đối với Việt Nam. Nền kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay phát triển theo các
xu thế như:
- Xu thế hợp tác và phát triển ngày càng trở thanh xu thế chính;
- Xu thế phát triển công nghệ chuyển sang nền kinh tế tri thưc;
- Xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế phát triển nhanh.
Chúng ta đang tiến hành CNH, HĐH đất nước. Thực hiện CNH, HĐH phải
dựa vào con người, nguồn lực con người. Đây là nhân tố quyết định thăng lợi
của sự nghiệp CNH, HĐH. Tuy nhiên nhìn chung, chất lượng nguồn nhân lực
nước ta còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của CNH, HĐH. Vì vậy, đòi hỏi
cấp thiết là phải phát triển nguồn nhân lực, cho nên phải đỏi mới giáo dục, chấn
hưng nền giáo dục, biến cả nước thành xã hội học tập, mọi người đều học, học
suốt đời.

Thứ hai, mỗi giáo viên phải chịu trách nhiệm về kết quả giáo dục học sinh ở
góc độ nhiệm vụ của mình, như môn học do mình giảng dạy, học sinh lớp mình
chủ nhiệm,...
Về hành vi, giáo viên phải tăng thêm kiến thức, kỹ năng dạy và học, đổi mới
phương pháp dạy học, ủng hộ và giúp đỡ đồng nghiệp,...
Mỗi giáo viên phải luôn tự giác, chủ động học tập nâng cao kiến thức khoa
học về bộ môn và các kiến thức liên quan, có phương pháp giảng dạy phù hợp
với từng bộ môn, từng bài, kiểu bài; thường xuyên đúc rút kinh nghiệm để giảng
dạy tốt hơn; quan tâm ủng hộ và giúp đỡ đồng nghiệp
Về thái độ, giáo viên phải tự tin về trình độ chuyên môn, nghiêp vụ, nâng
cao tinh thần hài lòng với công việc, tăng thêm tinh thần trách nhiệm đối với
công việc,...
Mỗi giáo viên để giảng bài tốt, trước hết phải tự tin về trình độ chuyên môn
của mình, muốn vậy phải có kiến thức vững vàng về bộ môn minh đảm nhiệm
và các kiến thức liên quan. Mặt khác, phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, thực
hiện tốt nhiệm vụ được giao
Liên hệ tại đơn vị
Ở Trường Cao đẳng Y tế Thanh Hóa, trong những năm gần đây, Đảng uỷ,
Ban Giám hiệu nhà trường luôn quan tâm tạo mọi điều kiện để phát triển đội
ngũ giáo viên về mọi mặt, cụ thể như: tạo điều kiện tối đa về mặt thời gian và
kinh phí để giáo viên được đi học nâng cao nhận thức về lý luận chính trị, trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ; mở các lớp học ngoại ngữ miễn phí tại trường và
mời giáo viên là người nước ngoài về dạy cho giáo viên của trường học, những
Bác sỹ, dược sỹ trẻ mới về trường làm giảng viên mặc dù chưa được biên chế
chính thức nhưng được nhà trường tạo điều kiện hết mức, với tổng thu nhập
hàng tháng phải đạt từ 5 triệu đồng trở lên, những bác sỹ tham gia trực tại các
bệnh viện ngoài tiền trực theo chế độ qui định do các bệnh viện trả, về nhà
trường thanh toán tiền trực cho các bác sỹ này thêm một lần nữa.
Vì vậy đội ngũ giáo viên nhà trường đã 100 % đạt chuẩn và 60% trên
chuẩn; hiện tại nhà trường đang cử gần 30 giảng viên trẻ đi đào tạo Thạc sỹ,

Tiến sỹ trong nước và nước ngoài, đồng thời hàng tháng đều cấp phúc lợi, tăng
4


cường kinh phí và thời gian để giáo viên đầu tư nghiên cứu khoa học. Song song
với đó là hàng năm tổ chức Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp trường, lựa chọn giáo
viên dự thi Giáo viên giỏi cấp tỉnh và kết quả đạt nhiều giải cao cấp Tỉnh, cấp
Toàn quốc Thông qua đó đội ngũ giáo viên nhà trường được cọ xát, học hỏi, đúc
rút kinh nghiệm nâng cao trình độ và đổi mới phương pháp giảng dạy. Nhà
trường dành 30% giờ giảng để mời các Cán bộ có năng lực, trình độ tiến sĩ tại
các đơn vị trong ngành y tế tham gia giảng dạy, đồng thời mời một số cán bộ
tham gia làm trưởng, phó các bộ môn trong nhà trường, các cán bộ giáo viên nhà
trường tham gia trực tại bệnh viện, đi lâm sàng, giao ban cùng với các khoa của
bệnh viện để thực hiện tốt công tác kết hợp viện, trường nhằm nâng cao tay
nghề, trình độ chuyên môn cho cán bộ giáo viên.
Về phía đội ngũ giáo viên: đại đa số giáo viên nhà trường đều có ý thức cao
trong học tập, tự học tập bổ sung kiến thức lý luận, kiến thức chuyên môn và
kinh nghiệm thực tiễn nên ngày càng nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của Xã hội.
Họ và tên: Hoàng Linh
Lớp: Bổ sung kiến thức chuyên ngành quản lý giáo dục
Bài kiểm tra giữa kỳ
MÔN ĐẠI CƯƠNG VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Câu hỏi 2. Thế nào là nhà trường hiệu quả? Phân tích mối quan hệ hiệu quả
trong và hiệu quả ngoài của nhà trường.
Bài làm
Nhà trường là thiết chế chuyên biệt của xã hội, nơi tổ chức, thực hiện và
quản lý quá trình giáo dục. Quá trình này được thực hiện bởi hai chủ thể: người
được giáo dục (người học) và người giáo dục (người dạy). Trong quá trình giáo
dục, hoạt động của người học và hoạt động của người dạy luôn gắn bó, tương

tác, hỗ trợ nhau, tựa vào nhau để thực hiện mục tiêu giáo dục theo yêu cầu của
xã hội.
Nhà trường hiệu quả là nhà trường mà trong đó học sinh có tất cả các năng
lực thực hiện được đầy đủ mọi tiềm năng của mình (theo Thomas và Martin).
Nhà trường hiệu quả có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, trường áp dụng tiếp cận “lấy học sinh làm trung tâm”;
Thứ hai, trường dạy các chương trình giàu tính học thuật;
Thứ ba, trường dạy để khuyến học (quá trình dạy học được coi là quá trình
day – tự học);
Thứ tư, trường có không khí sư phạm tích cực;
Thứ năm, trường khuyến khích hoạt động tương tác đồng đẳng;
Thứ sáu, trường luôn luôn quan tâm đến sự phát triển giáo viên;
Thứ bảy, trường chú ý chia sẻ quyền lãnh đạo;
Thứ tám, trường khuyến khích giải quyết vấn đề một cách sáng tạo;
Thứ chín, trường huy động được sư tham gia của cha mẹ học sinh và cộng
đồng.
5


Nhà trường hiệu quả thể hiện trong tất cả các hoạt động giáo dục. Nhưng cao
nhất, cơ bản nhất, quan trọng nhất là hiệu quả đào tạo người học. Vấn đề này
liên quan đến hiệu quả trong và hiệu quả ngoài của giáo dục nhà trường.
* Hiệu quả trong của giáo dục nhà trường là kết quả hình thành nhân cách
toàn diện: đức, trí, thể, mỹ,... (cho học sinh) theo mục tiêu giáo dục do hoạt động
giáo dục mang lại trong điều kiện xác định thể hiện mức độ hiệu quả trong lưu
chuyển học sinh qua chu trình học.
Hiệu quả trong của giáo dục cao hay thấp được đo bằng các chỉ số sau:
- Tỷ lệ xếp loại hạnh kiểm;
- Tỷ lệ lên lớp, tỷ lệ lưu ban, tỉ lệ bỏ học, tỉ lệ tốt nghiệp;
- Hiệu suất đào tạo;

- Tỷ lệ duy trì: tỉ lệ khối học sinh vẫn còn học tới năm cuối của bậc học.
* Hiệu quả ngoài của giáo dục nhà trường chỉ mức độ hữu ích của giáo dục
nội dung, chất lượng, thành tích học tập, kĩ năng cần thiết đối với:
- Tương lai của học sinh liên quan tới:
+ Việc theo học chính quy ở các bậc học cao hơn;
+ Theo học các khoá đào tạo nghề, chuyên môn;
+ Tham gia thị trường lao động;
+ Kiếm sống trong các ngành nghề không chính thức trong nền kinh tế.
- Nhu cầu nhân lực của nền kinh tế
Hiệu quả ngoài của giáo dục thể hiện ở sự đóng góp của nhà trường vào sự
nghiệp kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước. Thường nó được xem xét ở
tỉ lệ học sinh học tiếp ở bậc cao hơn, ở tác dụng của nhà trường trong việc nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế, xã hội của địa phương và đất nước, hoặc xem xét qua mối tương quan giữa
trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động (được đào tạo) với
năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động của họ tại cơ sở lao động. Hiệu quả
ngoài chú ý đến mục tiêu của cả hệ thống giáo dục: nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Hiệu quả trong và ngoài có quan hệ với nhau: hiệu quả trong tốt là cơ sở cho
hiệu quả ngoài.
Câu 3: Hãy chứng minh khoa học quản lý là khoa học liên ngành. Lấy ví dụ
minh họa.
Trả lời:
Khoa học quản lý là khoa học liên ngành thể hiện:
Khoa học quản lý có quan hệ với nhiều khoa học khác nhau: Toán học, điều
khiển học, giáo dục học, xã hội học, tâm lý học… Vì vậy các nhà quản lý, các
nhà nghiên cứu phải thấy được tính liên ngành, mối liên hệ của khoa học quản lý
với các khoa học khác. Muốn quản lý thành công phải biết vận dụng tổng hợp tri
thức, thành tựu nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học. Để đảm bảo sự sâu sắc
khoa học của kết quả nghiên cứu về quản lý cần thiết phải sử dụng tri thức khoa

học của các lĩnh vực khoa học có liên quan giải thích các kết quả nghiên cứu
trong quản lý.
6


Mặt khác, làm được điều này còn thể hiện được tính biện chứng mácxít
khi nhìn các khoa học trong mối quan hệ với nhau, đồng thời tạo được độ sâu
sắc, khách quan của khoa học quản lý.
Ví dụ minh họa:
Xuất phát từ tính tổng hợp trong lao động quản lý, khoa học quản lý là
một khoa học liên ngành. Trong quá trình phát triển của mình khoa học quản lý
đã kết hợp với nhiều môn khoa học khác, sử dụng những luận điểm và những
thành tựu của các khoa học để giải quyết nhiều vấn đề của lý luận và thực tiễn
quản lý.
Khoa học quản lí đã dựa trên cơ sở lý luận của triết học, kinh tế học để
phát triển và gắn bó chặt chẽ với nhiều môn khoa học cụ thể trong lĩnh vực kinh
tế như: Kinh tế nông nghiệp, kinh tế thương nghiệp, Tổ chức lao động khoa học
….
Khoc học quản lý cũng phát triển trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với
khoa học thống kê, hoạch toán kế toán, phân tích hoạt động kinh doanh,
marketinh, kinh tế quốc dân…
Khoa học quản lý sử dụng nhiều thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa
học kỹ thuật như: Toán học, điều khiển học, công nghệ học, tin học….
Khoa học quản lý sử dụng nhiều luận điểm và kết quả nghiên cứu của các
môn khoa học xã hội nghiên cứu về con người như xã hội học, giáo dục học, tâm
lý học, luật hoc, thể dục thể thao…….
Câu 4/. phân tích mặt ưu điểm và hạn chế trong lý thuyết quản lý khoa học
của Taylor.
Em làm bài cho mình cái xem tài liêu trên mạng môn học :Đại cương về quản lý
giáo dục

Trả lời
Vào đầu thế kỷ XX, lý luận quản lý một cách khoa học đã ra đời ở Mỹ trường phái cổ điển. Đại diện chủ yếu của trường phái này là F. W Taylor, người
được các học giả về quản lý ở phương Tây mệnh danh là người cha của lý luận
quản lý một cách khoa học, Nội dung chủ yếu của thuyết Taylor gồm:
1. Cải tạo các quan hệ quản lý: Taylor đưa ra 4 nguyên tắc về hệ thống quản
lý theo khoa học:
- Vấn đề trung tâm của quản lý là nâng cao năng suất lao động vì vậy cần:
Xác định một cách khoa học khối lượng công việc hàng ngày của công nhân với
các thao tác và thời gian cần để bố trí quy trình công nghệ phù hợp, xây dựng
định mức cho từng phần việc.
- Lựa chọn công nhân thành thạo từng việc, thay thế cho công nhân “vạn
năng”(là những công nhân biết nhiều việc nhưng không thành thục). Các thao
tác được tiêu chuẩn hoá cùng với các thiết bị, công cụ vật liệu cũng được tiêu
chuẩn hoá và môi trường làm việc thuận lợi. Mỗi công nhân được gắn chặt với
1vị trí làm việc theo nguyên tắc chuyên môn hoá cao độ.
- Xây dựng và thực hiện chế độ trả tiền lương theo số lượng sản phẩm (hợp lệ
về chất lượng) và chế độ thưởng vượt định mức nhằm khuyến khích nỗ lực của
công nhân.
7


- Phân chia công việc hợp lý, phân biệt từng cấp quản lý. Cấp cao tập trung,
chức năng hoạch định, tổ chức và phát triển kinh doanh, còn cấp dưới làm chức
năng điều hành cụ thể. Thực hiện sơ đồ tổ chức theo chức năng và theo trực
tuyến;tổ chức sản xuất theo dây chuyền liên tục. Cái gắn bó giữa công nhân và
thợ là lợi nhuận của doanh nghiệp và chính năng suất là yếu tố tạo ra nhiều lợi
nhuận.
2. Tiêu chuẩn hoá công việc: qua quan sát, phân tích động tác của công nhân,
Taylor nhận thấy có những động tác thừa, trùng nhau, và mất nhiều sức khiến
năng suất lao động bị hạn chế; từ đó rút ra kết luận cần phải hợp lý hoá lao

độngtrên cơ sở định mức cụ thể với những tiêu chuẩn định lượng như một cách
thức tối ưu để phân chia công việc thành những công đoạn, những khâu hợp lý;
định ra chuẩn mực để đánh giá kết quả lao động.
Việc xây dựng các định mức lao động chủ yếu được thực hiện bằng phương
pháp thực nghiệm: chọn công nhân khoẻ, hướng dẫn họ những thao tác chuẩn
xác, bấm giờ thực hiện từng động tác; lấy đó làm mức khoán chung. Đó là mức
cao đòi hỏi người lao động phải làm cật lực song được bù đắp bằng thu nhập từ
tăng năng suất lao động.
3. Chuyên môn hoá lao động: Lao động theo nghĩa khoa học đòi hỏi sù chuyên
môn hoá trong phân công nhằm đạt yêu cầu “ tốt nhất” (do thành thục trong thao
tác) và “rẻ nhất” (do không có động tác thừa và do chi phí đào tạo thấp). Việc
này trước hết phụ thuộc nhà quản lý trong tổ chức sản xuất. Tổ chức sản xuất
theo dây chuyền là hệ quả của hướng chuyên môn hoá lao động trong đó mỗi
công nhân chỉ thực hiện thường xuyên, liên tục mét ( hoặc vài) động tác đơn
giản. Từ đó, việc đào tạo công nhân hướng vào sự thành thạo hơn là tay nghề
“vạn năng”. Taylornhấn mạnh phải tìm những người thợ “giỏi nhất” theo hướng
chuyên sâu, dựa vào năng suất lao động cá biệt đó để xây dựng mức lao động.
Việc chuyên môn hoá lao động kéo theo yêu cầu cải tiến công cụ lao động để dễ
sử dụng nhất, tèn Ýt sức nhất và đạt năng suất cao nhất.
4. “Con người kinh tế”:Taylor cho rằng động cơ làm việc của con người là theo
đuổi lợi Ých kinh tế cá nhân. Mong muốn của chủ xí nghiệp là có được lợi
nhuận tối đa, mong muốn của công nhân là có được mức lương cao nhất. Do đó
ông chủ trương thực hiện chế độ trả lương theo số lượng sản phẩm, dùng mức
lương cao để kích thích công nhân nâng cao hiệu quả sản xuất.
* Những ưu điểm và hạn chế của thuyết quản lý Taylor
1. ưu điểm
- Với việc bố trí lao động một cách khoa học, hợp lý đã phát huy được sở
trường của người lao động khiến họ có thể phát huy đầy đủ khả năng ở mức tốt
nhất nhằm đạt được yêu cầu nâng cao năng suất lao động trên tổng thể.; giảm
bớt được chi phí đào tạo và không có động tác thừa.

- Lựa chọn công nhân một cách khoa học, lựa chọn những người công nhân
đã có tay nghề trình độ cho nên kỹ thuật, cường độ làm việc của họ sẽ cao , đảm
bảo khối lượng công việc được hoàn thành.

8


- Thực hiện chế độ trả tiền lương theo sản phẩm đã khuyến khích người lao
động làm việc hoàn thành định mức và vượt định mức; người lao động say mê
làm việc hơn; đời sống của người lao động được cải thiện đáng kể.
- Phân công lao động đều giữa người quản lý và công nhân để có thể xác
định được rõ nhiệm vụ của người quản lý và công nhân. Đảm bảo mọi người
đều thực hiện công việc của mình một cách nghiêm túc, đầy đủ.
+ Sự phân công lao động này nếu trong điều kiện toàn bộ phân xưởng đều
sử dụng công cụ, thiết bị và phương pháp sản xuất theo tiêu chuẩn quy định do
đó người ta có thể quy định trước kế hoạch sản xuất, đưa ra chỉ lệnh sản xuất chi
tiết đối với tất cả mọi công việc.
+ Sù phân công lao động theo chức năng quản lý làm tăng kỷ cương lao
động trong doanh nghiệp. Ví dụ: trong các xí nghiệp theo Taylor: Mét nhân viên
quản lý chỉ cần hoàn thành toàn bộ nhiệm vụ quản lý còng có thể được hưởng
thêm phụ cấp, tiền thưởng và thu nhập tăng như công nhân. Còn khi không đạt
được mục tiêu thì có thể nhận được mức lương thấp hơn.
- Việc xác định định mức thời gian sản xuất tối ưu, nghiên cứu động tác là
nhằm tìm ra phương pháp thao tác tối ưu để đạt được định mức thời gian tối ưu
và thông qua việc nghiên cứu hai vấn đề này để đạt được hiệu quả sản xuất tối
ưu.
Tất cả những điểm này, đã mở ra mét cuộc cải cách về quản lý doanh nghiệp tạo
được bước tiến dài theo hướng quản lý một cách khoa học trong thế kỷ XX.
2. Hạn chế
- Trước hết, với định mức lao động thường rất cao đòi hỏi công nhân phải

làm việc cật lực mới có thể hoàn thành định mức và vượt định mức.
- Hơn nữa người lao động bị gắn chặt với dây chuyền sản xuất tới mức họ
trở thành những “công cụ biết nói” , vai trò của người lao động không được chú
ý dẫn tới công việc trở nên đơn điệu. Những động cơ khác ngoài lợi Ých kinh tế
đã không được quan tâm nh:
∗ Người lao động bị “méo mó” về tâm sinh lý.
∗ Coi tiền thưởng là hình phạt, kỷ luật chứ không phải là động cơ mạnh mẽ
thúc đẩy người lao động làm việc.
- Tính dân chủ, sự công bằng về cơ hội trong các xí nghiệp chưa được quan
tâm, đây là hạn chế làm ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý người lao động và làm cho
năng suất lao động sẽ giảm đi đáng kể vì mỗi cá nhân đều có cơ hội như tất cả
mọi người để phát huy hết năng lực, khả năng của mình ở mức cao nhất.
Câu 5 Tại sao nói: Quản lí, lãnh đạo là nhân tố quan trọng nhất của sự phát triển kinh
tế xã hội trong bất kỳ hình thái xã hội nào? Cho ví dụ minh họa
Trả lời:
Khi xã hội loài người xuất hiện, một loạt các quan hệ: quan hệ giữa con người với con
người, giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với xã hội … xuất hiện theo. Điều này
làm xuất hiện nhu cầu về quản lí, lãnh đạo. Trải qua tiến trình lịch sử phát triển từ xã hội lạc
hậu đến xã hội văn minh, trình độ sản xuất, tổ chức, điều hành xã hội cũng phát triển theo. Đó
là tất yếu của lịch sử, tất yếu khách quan.

9


Có thể khẳng định: Quản lí, lãnh đạo là nhân tố quan trọng nhất của sự phát triển
kinh tế xã hội trong bất kỳ hình thái xã hội nào. Điều này được thể hiện qua vai trò của
quản lí, lãnh đạo, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Vai trò của quản lí đối với sự phát triển xã hội.
C. Mác coi quản lí là một đặc điểm vốn có, bất biến về mặt lịch sử của đời sống xã
hội. Ông viết: “Bất cứ lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào mà tiến hành trên

một quy mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá
nhân. Sự chỉ đạo đó phải là những chức năng chung, tức là những chức năng phát sinh từ sự
khác nhau giữa sự vận động chung của cơ thể sản xuất với những vận động cá nhân của
những khí quan độc lập hợp thành cơ thể sản xuất đó. Một nhạc sĩ độc tấu thì tự điều khiển
lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng”.
Quản lí phối hợp các bộ phận, các hoạt động riêng lẻ của xã hội tạo nên hiệu quả
mang cấp số nhân cho sự phát triển xã hội. A. Smith – Nhà kinh tế lỗi lạc cũng nhận thấy
rằng, hiệu quả hoạt động chung của một nhóm người được tổ chức thành một tập thể sẽ lớn
hơn tổng số hiệu quả của các hoạt động riêng lẻ. Ông cho rằng phần hiệu quả lớn hơn này là
do phân công lao động đem lại, tức là do quản lí, lãnh đạo. Hệ thống tổ chức càng lớn thì vấn
đề tổ chức, quản lí nó càng quan trọng.
Ví dụ: Trong những năm chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều đoàn chuyên gia Anh
sang thăm Mỹ nghiên cứu kinh nghiệm của Mỹ trong lĩnh vực công nghiệp. Họ nhanh chóng
hiểu rằng, mặc dù Anh lạc hậu không nhiều lắm so với Mỹ trong lĩnh vực kỹ thuật, công
nghệ, nhưng năng xuất lao động của Anh lại thua xa Mỹ. Và họ đã chứng minh một cách
thuyết phục rằng: nguyên nhân chủ yếu do trình độ tổ chức, quản lí, lãnh đạo ở anh thấp hơn
nhiều so với Mỹ.
Tác động quản lí là tác động khoa học có tính đến quy luật khách quan của tất cả các
yếu tố có liên quan trong xã hội, đặc biệt là con người. Do đó quản lí gắn bó chặt chẽ với sự
phát triển xã hội. Quản lí phù hợp thì xã hội phát triển, quả lý không phù hợp sẽ kìm hãm sự
phát triển xã hội.
Quản lí tạo ra sự ổn định cho sự phát triển xã hội, muốn phát triển phải chú trọng đúng mức
đến quản lí để đảm bảo tạo ra các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đúng quy luật và vững
chắc. Sự phát triển của xã hội tỉ lệ thuận với trình độ tổ chức và hiệu quả, chất lượng của quản
lí.
Thứ hai: Vai trò của quản lí đối với các hoạt động và hoạt động lao động của các tổ
chức xã hội
Quản lí tạo ra sự thống nhất ý chí trong tổ chức, giữa các thành viên với nhau (các
quan hệ quản lí) để tập trung sức lực và giảm chi phí mà hiệu quả cao.
Định hướng sự phát triển của tổ chức trên cơ sở xác lập rõ mục tiêu chung và hướng mọi sự

nỗ lực của cá nhân, của tổ chức vào mục tiêu chung đó. Nếu không có định hướng và mục
tiêu chung thì sẽ không có lộ trình hợp lý và dẫn đến chỉ có biện pháp giải quyết tình thế
mang tính chắp vá, may rủi.
Tổ chức, điều hòa, phối hợp và hướng dẫn hoạt động của cá nhân trong tổ chức nhằm
đạt được mục tiêu quản lí đã xác định.
Tạo động lực cho mọi cá nhân trong tổ chức thông qua sử dụng các đòn bẩy, kích
thích, đánh giá, khen thưởng hợp lý và uốn nắn những lệch lạc, xử lý sai sót của các thành
viên nhằm giảm bớt những thất thoát, sai lệch trong quản lí.
Trong hoạt động của tổ chức có 4 yếu tố tạo thành kết quả: nhân lực, vật lực, tài lực,
thông tin. Quản lí phối hợp tất cả các nhân tố trên tạo thành một nhân tố tổng lực, đưa đến
hiệu quả của hoạt động đạt chất lượng cao hơn so với sức mạnh của từng nhân tố riêng lẻ.
Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cá nhân và tổ chức, đảm
bảo sự phát triển ổn định và có hiệu quả.
Tổ chức và quản lí sản xuất hợp lý sẽ tận dụng được sức mạnh của con người và các
yếu tố đảm bảo cho hiệu quả lao động sản xuất.

10


Quản lí tốt sẽ tạo động lực kích thích người lao động tích cực làm việc, phát huy tiềm
năng sáng tạo công việc.
Như vậy có thể nói rằng quản lý là một nhân tố cơ bản để tạo nên chất lượng hoạt
động của tổ chức xã hội và chất lượng lao động. Quản lý yếu kém sẽ là nguyên nhân chủ yếu
tạo ra sự thụt lùi của tổ chức và giảm chất lượng của hoạt động.
Ví dụ: Các nhà kinh tế Pháp phân tích trách nhiệm trước những tổn thất do chất lượng
kém trong hoạt động của một tổ chức như sau: 25% thuộc giáo dục và đào tạo người lao động
không đến nơi đến chốn, 50% thuộc nhà quản lý và 25% thuộc các nguyên nhân khác. Một số
nhà kinh tế Mỹ thì thấy: nguyên nhân gây nên sự phá sản của một doanh nghiệp xảy ra như
sau: 20% do chiều hướng bất lợi của ngành, 10% do tai nạn rủi ro, 10% do các yếu tố khác,
còn 60% là do quản lý tồi.

Như vậy, nguyên nhân gây nên sự xuống cấp của một tổ chức hoặc phá sản của một doanh
nghiệp thì quản lý đứng hàng đầu. Do đó, tổ chức lại hoạt động của một tổ chức hoặc một xí
nghiệp thì việc đầu tiên cần nghĩ đến là thay thế các nhà quản lý yếu kém, đào tạo các nhà
quản lý có năng lực lãnh đạo các tổ chức đó.
Thứ ba: Quản lý nhằm đảm bảo kỷ cương, trật tự của các bộ máy tổ chức và xã hội.
Bằng các quy định, quy ước và các tác động quản lý, chủ thể quản lý điều chỉnh hành
vi của người dưới quyền, tạo ra sự thống nhất trong bộ máy, trật tự hoạt động.
Các tác động quản lý có tác dụng điều chỉnh những sai sót, lệch lạc, thậm chí cưỡng
chế những người làm sai để đưa bộ máy đi đúng quỹ đạo.
Những tác động khuyến khích, động viên có vai trò khuyến khích hành vi tốt, ngăn chặn hành
vi sai trái, làm gương cho những người khác nên có tác dụng xác lập trật tự trong hoạt động
của bộ máy.
Như vậy quản lý hết sức cần thiết và đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực hoạt động và
cho toàn bộ sự phát triển của xã hội. Có thể khẳng định việc quản lý là thiết yếu trong mọi sự
hợp tác có tổ chức, cũng như ở mọi cấp độ của tổ chức và trong sự phát triển xã hội, hay nói
cách khác Quản lí, lãnh đạo là nhân tố quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế xã hội
trong bất kỳ hình thái xã hội nào./.
Câu 6 : Tại sao nói thiếu công tác kiểm tra nhà quản lý khó tránh sai lầm và thất bại trong
quản lý. Đánh giá công tác kiểm tra của các nhà quản lý hiện nay
1. Khẳng định quan niêm trên là đúng vì:
* Kiểm tra là quá trình áp dụng những cơ chế và phương pháp đảm bảo rằng những hoạt động
và thành quả đạt được phù hợp với các mục tiêu, kế hoạch và chuẩn mực của tổ chức.
* Kiểm tra có vai trò:
- Ngăn chặn các sai sót, sai phạm trong quá trình hoạt động và quản lý hoạt động của tổ chức.
- Kiểm tra có tác dụng gắn tổ chức với môi trường thông qua các quan hệ đối ngoại với tổ
chức khác
- Thông qua kiểm tra có bức tranh toàn cảnh về tổ chức và các hoạt động của tổ chức, vị trí tổ
chức trong hệ thống các quan hệ.
- Hoàn thiện các quyết định quản lý về nhiều mặt, khẳng định sự đúng đắn của hoạt động,
hướng đi, mục tiêu của tổ chức.

* Nội dung kiểm tra
- Kiểm tra quy chế hoạt động của tổ chức
- Kiểm tra nghĩa vụ, trách nhiệm được giao của các thành viên
- Kiểm tra mục tiêu của tổ chức
- Kiểm tra các mặt hoạt động của tổ chức.
VD: Trong quá trình tổ chức dạy, học của nhà trường mà không tổ chức kiểm tra thường
xuyên, định kỳ, tổ chức thi kết thúc môn học thì sẽ không đánh giá được năng lực của học
sinh, không đánh giá được chất lượng đào tạo và từ đó không điều chỉnh được mục tiêu, nội
dung và phương pháp giảng dạy phù hợp.
Do đó nếu trong công tác mà thiếu công tác kiểm tra nhà quản lý sẽ khó tránh được sai lầm.
2. Đánh giá công tác kiểm tra của các nhà quản lý hiện nay
11


• Ưu điểm
- Công tác kiểm tra được triển khai thường xuyên, liên tục
- Tương đối toàn diện
- Phối hợp được nhiều lực lượng, nhiều hình thức kiểm tra
• Hạn chế
- Kế hoạch kiểm tra chưa xây dựng tốt
- Một số nơi công tác kiểm tra còn hình thức, lỏng lẻo
- Chưa toàn diện
- Còn mang tính chủ quan
- Chưa kiên quyết trong xử lý
- Chưa chuẩn
- Một số nhà quản lý thiếu trách nhiệm, quan liêu
• Nguyên nhân hạn chế
- Bộ máy quản lý còn cồng kềnh, công tác chỉ đạo chưa đồng bộ, sát sao
- Năng lực, trách nhiệm củ các nhà ql chưa cao
• Biện pháp khắc phục

- Nâng cao trình độ CM, Nghiệp vụ
- Tăng cường ý thức, trách nhiệm trong công tác kiểm tra, đánh giá
- Thực hiện tốt công tác kiểm tra: Đảm bảo khách quan, công bằng, chính xác.
Câu 7 : QLGD . Nêu các nguyên tắc QLGD . Phân tích vai trò các nguyên tắc
QLGD trong quản lí hoạt động dạy học ở nhà trường .
BÀI LÀM
Nguyên tắc quản lý giáo dục là những luận điểm cơ bản, những yêu cầu,
những tiêu chuẩn chỉ đạo cho việc xây dựng và tổ chức hoạt động của các cơ quan
quản lý giáo dục.Nguyên tắc quản lý giáo dục là những tiêu chuẩn, quy tắc cơ bản,
nền tảng, những yêu cầu, những luâân điểm cơ bản cần phải tuân theo trong tổ chức
và hoạt đôâng quản lý giáo dục nhằm đạt được mục tiêu phát triển giáo dục đã đề ra.
Các nguyên tắc do con người đặt ra nhưng không phải do sự suy nghĩ chủ
quan, mà phải tuân thủ các đòi hỏi khách quan như
- Nguyên tắc phải thể hiện được yêu cầu của các quy luật khách quan.Các nguyên
tắc phải phù hợp với mục tiêu của quản lý.Các nguyên tắc phải phản ánh đúng đắn
tính chất và các quan hệ quản lý.Các nguyên tắc quản lý phải đảm bảo tính hệ
thống, tính nhất quán và phải được đảm bảo bằng pháp luật.Nhiều tác giả khác nhau
có sự phân chia khác nhau. Nhìn chung có thể gộp lại thành ba nhóm có quan hệ với
nhau:
Nhóm thứ nhất: những nguyên tắc chính trị-xã hội. Đây là nhóm nguyên tắc chung
biểu thị những đặc điểm chính trị, biểu thị tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong
hoạt động quản lý giáo dục, đồng thời phản ánh các quy luật, các quan hệ và quá
trình khách quan của giáo dục và quản lý giáo dục.
Nhóm thứ hai: những nguyên tắc về tổ chức quản lý giáo dục. Các nguyên tắc này
phản ánh việc tổ chức của chủ thể quản lý giáo dục, tức là phản ánh sự tổ chức bên
trong của chủ thể quản lý. Đó là các nguyên tắc xây dựng bộ máy quản lý nhà nước
về giáo dục ở tất cả các cấp quản lý.
Nhóm thứ ba: những nguyên tắc về hoạt động quản lý giáo dục. Đây là những
nguyên tắc phản ánh hoạt động quản lý của toàn bộ bộ máy quản lý cũng như của
từng cán bộ quản lý giáo dục. Các nguyên tắc này đều có quan hệ, tác động lẫn

12


nhau. Chúng đề cập đến việc tổ chức cụ thể hoạt động quản lý hay là lao động quản
lý của cơ quan hay cán bộ quản lý giáo dục.
Vai trò của các nguyen tắc QLGD trong hoạt động dạy học ở các nhà trường hiện
nay
1. Nguyên tắc tính Đảng, tính giai cấp của quản lý nhà nước về giáo dục.
- Nguyên tắc này có nghĩa là quản lý nhà nước về giáo dục phải bảo đảm lợi ích của
nhân dân lao động. Các quyết định phải xuất phát từ lợi ích đó, biến các lợi ích, các
nguyện vọng của nhân dân, các nguyện vọng của nhân dân lao động thành hiện
thực.Tính giai cấp còn thể hiện ở chỗ trong quản lý giáo dục phải thừa nhận vai trò
lãnh đạo của Đảng CSVN.
- Như vậy, theo tinh thần trên đây, các chủ trương, chính sách của chủ thể quản lý
giáo dục các cấp phải theo đường lối của Đảng, cụ thể hóa đường lối đó trong sự
nghiệp phát triển giáo dục, làm cho sự nghiệp giáo dục giữ vững mục tiêu xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị
trường đối với giáo dục, chống khuynh hướng “thương mại hóa”, đề phòng khuynh
hướng phi chính trị hóa giáo dục và không truyền bá tôn giáo trong giáo dục. Không
chỉ là quan điểm chính trị, mà còn là các biện pháp, các hình thức để thực hiện chính
trị. Chẳng hạn, tổ chức và quản lý việc dạy thêm, học thêm như thế nào chính là thể
hiện quan điểm chính trị và hình thức thực hiện chính trị trong giáo dục.
2. Nguyên tắc kết hợp nhà nước và nhân dân trong quản lý giáo dục
.- Quản lý giáo dục là sự kết hợp giữa yêu cầu quản lý có tính chất nhà nước với
quản lý có tính chất xã hội.
- Quản lý giáo dục có tính chất nhà nước dựa theo cơ chế chỉ huy-chấp hành. Căn
cứ vào các quy phạm pháp luật, các chủ thể quản lý sử dụng sức mạnh cưỡng chế
của nhà nước, các đối tượng chịu sự quản lý buộc phải chấp hành
.- Quản lý giáo dục có tính chất xã hội là hoạt động của nhân dân và tổ chức xã hội
của họ thực hiện những chức năng xã hội nhất định độc lập hoặc phối hợp với các

cơ quan nhà nước tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục.
- Các tổ chức tham gia xây dựng giáo dục: Đoàn TNCSHCM, Đội TNTPHCM, Hội
HS-SV, Hội đồng giáo dục các cấp…
3. Nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Nguyên tắc xuất phát từ bản chất XHCN của Nhà nước ta “Quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc tập trung dân chủ” (Điều 6, HP1992).
- Hai khía cạnh của nguyên tắc: một mặt phải tăng cường quản lý tập trung, thống
nhất trong toàn quốc trong việc quản lý triển khai những chủ trương lớn, trọng yếu về
giáo dục; mặt khác, phát huy và mở rộng đến mức cao nhất quyền chủ động của các
cấp, các ngành, các địa phương, các cơ sở giáo dục và quần chúng nhân dân trong
việc giải quyềt các vấn đề trọng yếu nói trên bằng nhiều hình thức, phương tiện tiềm
tàng của mình. “Dân chủ” trong quản lý giáo dục bao hàm sự nghiệp giáo dục là của
toàn dân, nhân dân tham gia xây dựng và quản lý giáo dục (phải sử dụng nhiều hình
thức).
- Quan hệ giữa dân chủ và tập trung là quan hệ biện chứng.
- Nguyên tắc này đòi hỏi trong quản lý giáo dục phải kết hợp tập trung và dân chủ
trong việc tổ chức các cơ quan quản lý giáo dục và cả trong việc chỉ đạo thực hiện
quá trình giáo dục nói chung, quá trình quản lý giáo dục nói riêng. Liên quan đến
nguyên tắc này là vấn đề phân cấp trong quản lý giáo dục (còn gọi là phi tập trung
hóa, phi trung ương hóa trong giáo dục).
4. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.

13


- Nguyên tắc này đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động giáo dục cũng như quản lý giáo
dục phải dựa trên cơ sở pháp luật của Nhà nước. Nguyên tắc này có hai khía cạnh
liên quan chặt chẽ với nhau, đó là:
- Thứ nhất, thực hiện điều chỉnh bằng pháp luật về mặt tổ chức và hoạt động của các

cơ quan quản lý giáo dục. Chính vì vậy, cơ quan quản lý giáo dục mới thể hiện rõ
quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lý. Trách nhiệm và thẩm quyền của cơ
quan quản lý giáo dục là trách nhiệm và thẩm quyền nhà nước. Những tác động
quản lý đều dựa vào danh nghĩa nhà nước để điều hành hoạt động của hệ thống
giáo dục.
- Thứ hai, chấp hành và thực hiện nghiêm chỉnh những đòi hỏi của pháp luật. Đây là
yêu cầu bắt buộc đối với cả chủ thể quản lý cũng như đối tượng quản lý. Chẳng hạn,
việc thi tốt nghiệp đòi hỏi các cơ quan hữu quan, nhà trường, giáo viên và học sinh
thực hiện nghiêm chỉnh quy chế thi, đồng thời đòi hỏi việc kiểm tra, thanh tra thi phải
dựa vào qui chế để xem xét, đánh giá tình hình thi hoặc xử lý vi phạm (nếu có).
5. Nguyên tắc thống nhất của hệ thống của cơ quan quản lý giáo dục.
- Thẩm quyền của bất kỳ một cơ quan quản lý giáo dục nào, một cấp nào đều phải
xác định rõ. Đây là công việc rất phức tạp. Vì vậy, yêu cầu của việc bảo đảm sự
thống nhất của hệ thống quản lý là rất quan trọng.
- Có 3 cấp quản lý giáo dục: Bộ GD-ĐT (cấp TW), Sở GD-ĐT (cấp tỉnh/TP trực thuộc
TW), Phòng GD-ĐT (cấp huyện/quận). Thẩm quyền của từng cấp được xác định rõ.
6. Nguyên tắc kết hợp quản lý theo lãnh thổ và quản lý ngành.
- Trong lịch sử, nhà nước được xây dựng trên nguyên tắc lãnh thổ, tức là nhà nước
tập hợp những người trên lãnh thổ mà ở đó quyền lực nhà nước được thực hiện.
- Bên cạnh việc tổ chức quản lý theo lãnh thổ, còn có tổ chức quản lý theo ngành.
- Giữa ngành và lãnh thổ có mối tương quan, nhưng chúng lại được quản lý trên
những nguyên tắc hoạt động khác nhau.
Việc quản lý ngành giáo dục theo lãnh thổ tạo điều kiện phân cấp cho địa phương,
mở rộng quyền chủ động và nâng cao trách nhiệm của địa phương trên các mặt kế
hoạch, ngân sách, vật tư, lao động, cán bộ, tổ chức…
Quản lý theo địa phương làm cho quản lý theo ngành phù hợp với đặc điểm địa
phương, khai thác được thế mạnh của địa phương, có điều kiện phát huy sức mạnh
tổng hợp “Nhà nước và nhân dân cùng làm giáo dục”.
- Việc quản lý giáo dục theo ngành nhằm bảo đảm việc thực hiện quan điểm, đường
lối, chính sách giáo dục thống nhất trong cả nước; thống nhất mục tiêu, nội dung,

chương trình, các tiêu chuẩn giáo dục; thống nhất những vấn đề có tính chất khoa
học và chuyên môn; thực hiện sự hợp tác với các ngành khác trên quy mô cả nước.

Câu hỏi 8: Việc quản lý hoạt động dạy học trong nhà trường sử dụng những
công cụ quản lý nào? Tại sao?
Trả lời:
Những công cụ quản lý trong trường học:
Ta biết rằng: Công cụ quản lý giáo dục là những phương tiện, những giải
pháp của chủ thể quản lý nhằm định hướng, dẫn dắt, khích lệ, điều hòa, phối hợp
và đánh giá kết quả hoạt động của các thành viên trong tổ chức giáo dục hướng
vào việc thực hiện mục tiêu đề ra.
Trên thực tế có rất nhiều công cụ quản lý giáo dục nhưng suy cho cùng
người ta dùng 4 loại công cụ quan trọng và hiệu quả quản lý giáo dục như sau:
+ Công cụ có tính pháp lý
14


+ Công cụ theo lĩnh vực quản lý
+ Công cụ kinh tế, kỹ thuật
+ Công cụ quản lý theo nội dung và quản lý quá trính quản lý
Tại sao ta chọn 4 công cụ này? bởi vì
Công cụ có tính pháp lý như: Luật pháp, pháp lệnh, nghị quyết, các chính
sách, các văn bản của các cơ quan có chức năng và thẩm quyền nhà nước ban
hành( Ví dụ: Nghị quyết của Đảng về giáo dục và các vấn đề liên quan, Luật
Giáo dục, Nghị quyết của Quốc hội, Chỉ thị của Chính phủ, Điều lệ nhà trường,
Chính sách đối với giáo viên, học sinh, sinh viên…)
Công cụ theo lĩnh vực quản lý như: Công cụ quản lý nghành, công cụ
quản lí của các ngành liên quan đến giáo dục, công cụ quản lí liên ngành…do cơ
quan chức năng ban hành.
Công cụ kinh tế, kỹ thuật như: Các loại kế hoạch, công cụ hạch toán chi

tiêu trong giáo dục, công cụ thống kê, xác suất…( Ví dụ: Hướng dẫn chi tiêu
trong giáo dục, Hướng dẫn thống kê giáo dục…)
Công cụ quản lý theo nội dung và quá trình quản lý như: Công cụ quản lý
chuyên môn, công cụ kiểm tra đánh giá, công cụ điều chỉnh hoạt động…( Ví dụ:
Chỉ thị của Bộ trưởng về thi tốt nghiệp các cấp, Hướng dẫn tuyển chọn, bồi
dưỡng học sinh giỏi, Chỉ thị về tổ chức và quản lýdạy thêm, học thêm, Quy chế,
Nội quy, Quy định của hiệu trưởng nhà trường, Kế hoạch năm học…)
Ngoài ra trong thực tế còn nhiều loại công cụ quản lý khác dựa theo các
tiêu chí khác nhau:
Chẳng hạn:
- Hiến pháp;
- Luật Giáo dục;
- Các văn bản pháp quy dưới luật như: Văn bản cụ thể hóa luật và hướng
dẫn thực hiện luật, văn bản do cơ quan hành pháp có quyền lập quy ban
hành( Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp)
- Văn bản hành chính thông thường( như văn bản thể chế hóa văn bản của
cấp trên);
- Văn bản chuyên môn kỹ thuật ( như giáo trình, sách giáo khoa, hướng dân
thu chi tài chính, hướng dẫn thống kê…)
- Các văn bản pháp quy khác ( như các nghị quyết của Đảng CSVN)
Tóm lại: Việc sử dụng công cụ quản lý trong giáo dục chỉ mang tính tương
đối, vì có loại công cụ vừa thuộc nhóm này, lại vừa thuộc nhóm khác!

15


Công tác kiểm tra, thanh tra
Về tầm quan trọng của công tác kiểm tra, từ khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền, Người đã
nhấn mạnh, công việc của Đảng và Nhà nước ngày càng nhiều. Muốn hoàn thành tốt mọi
việc, thì toàn thể đảng viên và cán bộ phải chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và chính sách

của Đảng. Để đạt được điều đó, các cấp ủy đảng phải tǎng cường công tác kiểm tra. Vì kiểm
tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối
với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân; do đó góp phần củng cố đảng về tư tưởng, về
tổ chức.
Theo Người, “Làm mà không kiểm tra thì không biết kết quả ra sao, không hiểu sai lệch thế
nào để kịp thời sửa chữa”(7). Như vậy, có thể thấy, kiểm tra, kiểm soát là một khâu không
thể thiếu trong quy trình lãnh đạo của Đảng. Nhưng đó là một khâu có ý nghĩa then chốt vì
những lý do sau:
Một là, kiểm tra để quyết định vấn đề cho đúng. Nhờ có công tác kiểm tra, Đảng nắm được
tình hình thực tế của đời sống xã hội đang diễn ra. Dựa trên cơ sở đó, Đảng ra quyết định, chỉ
thị, nghị quyết, đặt đường lối chính sách, pháp luật mới đúng. “Nếu không biết rõ tình hình
mà đặt chính sách thì kết quả là “nồi vuông úp vung tròn”, không ăn khớp gì hết”(8).
Hai là, kiểm tra để biết được đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được tổ
chức thi hành như thế nào, có thực sự đi vào cuộc sống để mang lại lợi ích cho nhân dân hay
không. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi.
Song từ nguồn gốc đi đến thắng lợi thực sự, còn phải tổ chức, phải đấu tranh. Khi đã có
chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức
công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng
mấy cũng vô ích”(9).
Nếu kiểm tra không tốt thì “nghị quyết một đằng, thi hành một nẻo” mà Đảng vẫn không hay
biết. Lúc đó, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước không những là những
lời nói suông vô ích mà còn hại đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Ngay từ năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận ra rằng, nhiều nơi cán bộ lãnh đạo chỉ lo
khai hội và thảo nghị quyết, đánh điện và gửi chỉ thị, sau đó, thì họ không biết gì đến những
nghị quyết đó đã thực hành đến đâu, có những sự khó khǎn trở ngại gì, dân chúng có ra sức
tham gia hay không. “Họ quên mất kiểm tra. Đó là một sai lầm rất to. Vì thế mà “đầy túi
quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc vẫn không chạy”(10).
Cũng qua kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chính sách mà biết rõ cán bộ và nhân
viên tốt hay xấu, biết ai ra sức làm, ai làm cho qua chuyện.“Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết
điểm lòi ra hết”(11).

Như vậy, kiểm tra không chỉ nêu ưu điểm mà còn chỉ rõ khuyết điểm, tìm người tốt, tìm cơ
quan, đơn vị thực hiện tốt và cũng tìm người, đơn vị làm chưa tốt. Do đó, kiểm tra còn cung
cấp những tư liệu quan trọng để uốn nắn, sữa chữa, làm cho cán bộ tốt lên, đồng thời đánh giá
đúng người, đúng việc; để tuyển chọn, đề bạt, cất nhắc cán bộ được chính xác, khách quan.
Mà công tác cán bộ bao giờ cũng là khâu quyết định sự thành bại của cách mạng. Cũng chính
vì kiểm tra góp phần quan trọng vào công tác đánh giá cán bộ nên còn có tác dụng thúc đẩy và
giáo dục cán bộ, đảng viên làm tròn nhiệm vụ đối với Đảng và Nhà nước. Do đó, “kiểm tra
khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”(12).

16


Ba là, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, có kiểm tra “Mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm
của các mệnh lệnh và nghị quyết”(13). Người thường xuyên nhắc nhở rằng: “Phải biết rằng
tình hình khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm
sau đã không hợp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng hành vi của ta để bỏ
đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp tình hình, ta sẽ bị bỏ rơi, bị
các bạn tỉnh táo nhanh nhẹn hơn vượt đi trước...”(14).
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy rõ, xã hội luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng để
ngày một phát triển. Cùng với đó, hệ tư tưởng, quan điểm, đường lối cũng phát triển theo. Do
đó, theo người, cần luôn xem xét, nắm bắt kỹ cái đang có, xem nó hay, nó dở ở chỗ nào để mà
khắc phục. Để từ đó, “năng lực của ta, sáng kiến của ta, tiến bộ của ta cũng phải luôn luôn
phát triển, tiến lên không ngừng. Không tiến, tức là thoái”(15).
Bốn là, việc kiểm tra và thực hành kỷ luật trong Đảng để ngăn chặn khuyết điểm, sai lầm, sửa
chữa thói hư, tật xấu, thải loại những kẻ thoái hóa, biến chất, hoặc những kẻ vụ lợi chui vào
trong Đảng, để xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với lòng tin yêu
của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào con người, đặc biệt là các đồng chí đảng
viên. Nhưng Người cũng thấy được sự không thuần nhất trong Đảng. Người phân
tích: “Đảng ta là một đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy có nhiều

tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập
tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng.
Nhưng không vì thế mà kinh sợ. Ta thấy rõ những bệnh ấy thì ta tìm được cách chữa”(16).
Đặc biệt, Người trăn trở với nguy cơ của Đảng cầm quyền, vì mặt trái của quyền lực sẽ làm
thoái hóa đạo đức của người nắm quyền. Vì vậy, khi Đảng lãnh đạo chính quyền, Đảng phải
tăng cường công tác kiểm tra để tự chỉnh đốn và đổi mới, để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và
tẩy trừ mọi tệ nạn do thoái hóa, biến chất gây ra.
Kiểm tra giúp chúng ta biết được: “Ở cấp dưới, ở cơ sở, có những nơi cán bộ phụ trách
không tốt, thiếu tinh thần phục vụ nhân dân, làm những điều xấu xa”(17). Cũng chính nhờ có
sự đôn đốc, kiểm tra của Đảng và nhân dân thì những phần tử đầu cơ vào Đảng “sẽ bị lật ra
và Đảng sẽ thành trong sạch, kiểu mẫu, thành tâm thành ý phục sự nhân dân, cách mạng và
tất cả các đảng viên mới thành người kiểu mẫu, đoàn kết, giúp đỡ anh em ngoài Đảng”(18).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nếu tổ chức sự kiểm tra cho chu đáo, thì công việc
của chúng ta nhất định tiến bộ gấp mười, gấp trăm”(19). Kiểm tra đến nơi, đến chốn không
chỉ giúp cho lãnh đạo đi sát thực tế, nắm chắc tình hình, cảnh báo, nhắc nhở, ngăn ngừa
khuyết điểm, sai lầm, kịp thời phát hiện và phổ biến những kinh nghiệm tốt và kịp thời uốn
nắn những nhược điểm, những khuyết điểm; đồng thời, củng cố uy tín, lòng tin tưởng của
nhân dân đối với tổ chức Đảng.
Từ những luận điểm phân tích ở trên, có thể nhận thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm sáng tỏ
những yêu cầu khách quan trong việc thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát của Đảng. Người
khẳng định rằng, đó là một khâu không thể thiếu trong lãnh đạo của Đảng. Xuất phát từ thực
tế công tác kiểm tra, Đảng có thể đề ra chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn và tổ chức
thực hiện đạt kết quả cao. Trong giai đoạn hiện nay, việc kế thừa tư tưởng của Người để xây
dựng đội ngũ cán bộ và hệ thống cơ quan làm nhiệm vụ kiểm tra, giám sát có ý nghĩa hết sức
quan trọng, góp phần làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, là kiểu mẫu và lãnh đạo
thành công sự nghiệp cách mạng của dân tộc./.

17




×