Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Hòa nhập xã hội của trẻ em trong các gia đình nghèo ở thành phố hồ chí minh”(nghiên cứu trường hợp quận 7, thành phố hồ chí minh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN THỊ NGỌC HÂN

HÒA NHẬP XÃ HỘI CỦA TRẺ EM TRONG CÁC
GIA ĐÌNH NGHÈO Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP QUẬN 7,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH)

Chuyên ngành

: Xã hội học

Mã số

: 60 31 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM VĂN QUYẾT

HÀ NỘI - 2016


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
Chương 1: Một số khái niệm cơ bản................................................................14
1.1. Một số khái niệm cơ bản...............................................................................14


1.2. Lý thuyết vận dụng........................................................................................17
1.3. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu.......................................................................21
Kết luận chương 1..............................................................................................23
Chương 2: CÁC CHIỀU ĐO LƯỜNG HÒA NHẬP XÃ HỘI CỦA TRẺ EM
NGHÈO QUA NGHIÊN CỨU.........................................................................24
2.1. Nhóm quyền phát triển...............................................................................24
2.2. Nhóm quyền được bảo vệ.............................................................................34
2.3. Nhóm quyền sống còn..................................................................................47
2.4. Nhóm quyền của trẻ......................................................................................54
Kết luận chương 2...............................................................................................56
Chương 3: YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ HÒA NHẬP XÃ HỘI CỦA TRẺ
NGHÈO................................................................................................................57
3.1. Các yếu tố từ phía gia đình............................................................................57
3.2. Các yếu tố từ cộng đồng................................................................................62
3.3. Các yếu tố từ chính quyền, đoàn thể..............................................................63
Kết luận chương 3...............................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................89


DANH MỤC BẢNG, HỘP
Bảng 2.1. Tỷ lệ trẻ được chăm lo thẻ bảo hiểm y tế: ………………………. 25
Bảng 2.2.Bệnh của trẻ em nghèo:…………….. …………………………

27

Bảng 2.3. Tình trạng đi học của trẻ nghèo: ………………………………

28

Bảng 2.4. Mức độ quan tâm và hỗ trợ của gia đình, chính quyền về giáo

dụccho trẻ em

29

nghèo............................................................................................
Bảng 2.5. Mối quan hệ bạn bè của trẻ nghèo.................................................. 31
Bảng 2.6. Các cấp độ về nhà ở của trẻ em nghèo đô thị................................. 34
Bảng 2.7. Tỷ lệ nhà ở của trẻ được đảm bảo theo quy định………………… 37
Bảng 2.8. Tình trạng nhà thuê của trẻ nghèo đang sống................................ 37
Bảng 2.9. Trẻ em nghèo đô thị được quan tâm về trang phục....................... 39
Bảng 2.10. Các hình thức trả lương cho trẻ..................................................... 42
Bảng 2.11. Môi trường làm việc của trẻ......................................................... 43
Bảng 2.12. Những nguy cơ đối với trẻ nghèo.................................................. 46
Bảng 2.13. Bữa ăn của trẻ em nghèo.............................................................. 48
Bảng 2.14. Lựa chọn nơi vui chơi của trẻ trong các ngày nghỉ, lễ, tết........... 51
Bảng 2.15. Trẻ không vui chơi........................................................................ 53
Bảng 2.16. Trẻ hiểu biết quyền và tham gia đóng góp ý kiến........................ 54
Bảng 3.1. Những yếu tố tích cực giúp trẻ hòa nhập xã hội............................. 57
Bảng 3.2. Xu hướng lựa chọn trang phục của trẻ........................................... 59
Bảng 3.3. Gia đình quan tâm đến vấn đề học tập của trẻ................................ 59
Hộp 2.1. Chăm sóc sức khỏe của trẻ nghèo................................................... 26
Hộp 2.2. Tình trạng bệnh của trẻ em nghèo..................................................

27

Hộp 2.3. Trẻ nghèo được tạo điều kiện học ngoại khóa................................

30

Hộp 2.4. Hỗ trợ của bạn bè trẻ em nghèo..................................................


31

Hộp 2.5. Mong muốn của phụ huynh trẻ nghèo. ..........................................

31

Hộp 2.6. Nhận xét của phụ huynh trẻ nghèo.................................................. 32


Hộp 2.7. Tình trạng nhà tạm của trẻ em nghèo đang ở ................................. 35
Hộp 2.8. Những khó khăn của trẻ ở nhà tạm.................................................. 36
Hộp 2.9. Trẻ em nghèo được quan tâm đến trang phục................................. 40
Bảng 2.10. Các hình thức trả lương cho trẻ.................................................... 42
Hộp 2.11. Chi thu nhập của trẻ nghèo............................................................ 42
Hộp 2.12. Môi trường làm việc của trẻ em nghèo.........................................

43

Hộp 2.13. Mức độ trẻ em nghèo được quan tâm đến dinh dưỡng.................. 49
Hộp 2.14. Trẻ em nghèo đô thị với số lượng bữa ăn.....................................

49

Hộp 2.15.Trẻ em nghèo không vui chơi.. .....................................................

53

Hộp 3.1. Ý thức trẻ nghèo trong giúp đỡ gia đình......................................... 58
Hộp 3.2. Khó khăn của gia đình trẻ nghèo..................................................... 68



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Hồ Chí Minh từng là một “Sài Gòn” đô hội rất hoa lệ, được
chính quyền Đông Dương mệnh danh là “hòn ngọc viễn đông”. Nơi đây đã hội tụ
rất nhiều dòng chảy văn hóa trong lịch sử hình thành và phát triển; từng đón nhận
những ảnh hưởng của văn hóa Pháp, Mỹ qua các thời kỳ thăng trầm của đất nước,
được đánh dấu bằng những di tích lịch sử đặc trưng như: Bưu điện, Bến Nhà Rồng,
dinh Thống Nhất, chợ Bến Thành...
Thành phố mang tên Bác có nhiều ưu điểm ở chỗ các tổ chức tôn giáo, tín
ngưỡng cùng chung sống hòa bình, êm đẹp, họ đã cùng tương trợ và giúp đỡ nhau
để sống tốt đời đẹp đạo với những việc làm mang đậm tính nhân văn. Cho đến thời
điểm hiện nay chắc cũng chưa có tỉnh thành nào chứa đựng nhiều dân tộc cùng
chung sống như nơi đây và cũng chưa có nơi nào tình người cũng nhiều như nơi đây
được thể hiện thông qua những hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, “ủng hộ” người
nghèo và tương trợ với tinh thần quốc tế.
Nơi đây chiếmgiữ vị trí địa lý quan trọng của cả nước, vì là đầu mối giao
thông nối liền các tỉnh trong vùng;lại là đường cửa ngõ quốc tế để giao thương và
trao đổi văn hóa, kinh tế. Thành phố phát triển trên tất cả các lĩnh vực, hoạt động
văn hóa rất đa dạng vùng miền, tình hình an ninh chính trị ổn định và an toàn trật tự
xã hội được bảo đảm. Là nơi an tâm để tập trung kinh doanh, sản xuất, học tập, sinh
hoạt và vui chơi giải trí.
Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển chung vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần
phải khắc phục, đòi hỏi cần phải có một sự nỗ lực lớn của lãnh đạo thành phố, sự
đồng thuận ủng hộ của nhân dân. Đặc biệt cần chú ý đến những lĩnh vực có liên
quan đến phát triển an sinh xã hội, trong đó “nghèo” là vấn đề bức thiết đã được đề
ra và giải quyết từ những năm sau đổi mới. Để có kết quả như ngày hôm nay, đòi
hỏi cần phải có một chính sách toàn diện, phủ rộng đến từng hộ dân nghèo với các
giải pháp đồng bộ. Qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc giảm nghèo, đến nay cơ

bản cả thành phố đã hoàn thành bốn giai đoạn và tiến hành triển khai đo lường
1


nghèo đa chiều phù hợp với thực tiễn tình hình phát triển, cũng như xu hướng hội
nhập của đất nước.
Vấn đề nghèo tại thành phố cần có cách nhìn mới để xây dựng những thang
đo thích hợp hơn, trong đó đối tượng đặc biệt cần chăm lo là trẻ em nghèo. Vì nhìn
chung các trẻ này bị thiếu hụt về năng lực và khả năng liên kết mật thiết với việc
tiếp cận các dịch vụ xã hội.Trẻ em nghèo đô thị cần nhất là chiều đo về thiếu hụt xã
hội mà hiện nay vẫn chưa có những chuẩn đo cụ thể để giúp đỡ cho các em. Những
thiếu hụt đa chiều làm cho trẻ mất đi những cơ hội, hạn chế các nhu cầu về mặt xã
hội làm cho trẻ thiếu tự tin, hạn chế hiểu biết về quyền cơ bản của mình. Qua khảo
sát ban đầu, các chiều đo về những nhu cầu cơ bản của trẻ nghèo còn chưa được bảo
đảm hết, trong đó có những lĩnh vực chiếm tỷ lệ không cao nhưng nó minh chứng
cho việc một số ít trẻ chưa được tạo điều kiện tối thiểu về nơi ở, việc học hành,
chăm sóc sức khỏe cơ bản, vấn đề về lao động trước tuổi, biết và thực hiện quyền
của trẻ. Trẻ nghèo đô thị bị thiếu hụt về vấn đề chăm sóc sức khỏe, giáo dục, dinh
dưỡng, trang phục, hạn chế những hiểu biết và thực hiện các quyền của bản thânvà
phải lao động trước tuổi.
Có nhiều lý do để trẻ thiếu hụt đa chiều mà trong đó các công cụ đo lường
đơn chiều không thể đo hết được các chiều thiếu hụt khác. Nếu không có các tiêu
chí đo lường phù hợp với thực tế nhu cầu của trẻ sẽ dẫn đến những thiệt thòi cho trẻ
em nghèo đô thị và làm cản trở sự phát triển toàn diện của một lực lượng lớn vốn xã
hội trong tương lai. Những cản trở trên có những nhân tố tác động từ phía gia đình,
chính quyền và cộng đồng, từ những chính sách dành cho trẻ.
Đã có nhiều nghiên cứu, báo cáo về vấn đề hòa nhập cho người nhập cư,
người lao động hay chotrẻ em nhưng đa phần là những nghiên cứu tập trung vào trẻ
có hoàn cảnh khuyết tật, trẻ trong trường giáo dưỡng hay trẻ bị nhiễm HIV/AIDS
chứ chưa có nghiên cứu riêng cho trẻ em nghèo sống trong các đô thị. Vì vậy tôi

chọn đề tài “Hòa nhập xã hội của trẻ em trong các gia đình nghèo ở thành phố
Hồ Chí Minh”(Nghiên cứu trường hợp quận 7, thành phố Hồ Chí Minh) nhằm
tìm hiểu về sự hòa nhập của trẻ em nghèo trong thành phố, làm rõ hơn cơ sở lý
2


thuyết cho việc tiếp cận và lý giải vấn đề về hòa nhập xã hội của trẻ em trong các
gia đình nghèo trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Các nghiên cứu về hòa nhập xã hội của người nghèo đô thị
Đô thị hóa giúp cho kinh tế nước ta ngày càng tăng trưởng, là động lực
thúc đẩy đất nước phát triển thoát khỏi nhóm quốc gia kém phát triển. Sự tăng
trưởng về kinh tế còn là cơ sở, nền tảng của đô thị hóa và là điều kiện tiên quyết để
thực hiện công tác giảm nghèo của nước ta. Tuy nhiên, mặt trái của đô thị hóa với
những hệ lụy cần nhiều giải pháp hạn chế các tác động làm nghèo khổ ngày càng
tăng lên.
Nói đến nghèo đô thị thì đã có nhiều công trình nghiên cứu, báo cáo đề cập
đến và có những khuyến nghị, những giải pháp nhằm hỗ trợ người nghèo hòa nhập
xã hội thuận lợi hơn.
Vì bản chất phức tạp và nhạy cảm của vấn đề nghèo nên tác giả Nguyễn
Duy Thắng với bài viết “Nghèo khổ đô thị các nguyên nhân và yếu tố tác động”
yêu cầu phải có cách tiếp cận tổng thể để thấy được toàn vẹn bức tranh nghèo đô thị
có những nguyên nhân và yếu tố tác động phổ biến như: thiếu thu nhập, nghèo vốn
con người và vốn xã hội, tốc độ đô thị hóa và toàn cầu hóa nhanh, khủng hoảng
kinh tế. Điều này cũng tùy thuộc vào quy mô dân số, kích cỡ đô thị, cơ cấu chính
trịxã hội, mối quan hệ với thị trường bên ngoài. Thành phố càng lớn thì mức độ ảnh
hưởng toàn cầu hóa càng cao, trường hợp phục hồi có khả năng nhanh và ngược lại
đối với các thành phố nhỏ [22, tr. 75].Ngoài ra, tác giả Nguyễn Duy Thắng còn
nhấn mạnh nghèo đô thị làm nảy sinh vấn đề tăng khoảng cách giữa giàu nghèo,
phân tầng trong xã hội qua bài viết “Tác động của đô thị hóa đến nghèo khổ và

phân tầng xã hội: nghiên cứu trường hợp vùng ven đô Hà Nội”. Tác giả cho thấy
nghèo là một trong những rào cản phát triển của các đô thị và đòi hỏi cấp thiết phải
có những giải pháp giúp cho người nghèo tiếp cận các nguồn lực, các dịch vụ đô thị
bằng nhiều chính sách ưu đãi[23, tr. 75].

3


Nghèo đa chiều được Bộ Lao động Thương binh và Xã hội phối hợp cùng
tổ chức UNICEF Việt Nam thực hiện đo lường chất lượng sống của trẻ em nghèo
trong báo cáo “Trẻ em nghèo Việt Nam sống ở đâu?”. Bài viết chỉ ra rằng phương
pháp đo lường đơn chiều chỉ cho kết quả thu nhập rất thấp chứ chưa đề cập đến việc
được tạo điều kiện tiếp cận những quyền cơ bản của người nghèo. Trong đó việc áp
dụng các thang đo nghèo đa chiều đã bổ sung những tiêu chí để đo lường những nhu
cầu tối thiểu mà không thể đáp ứng bằng tiền[10, tr. 74].
Cùng quan tâm đến vấn đề nghèo nhưng nghiên cứu ở khía cạnh người
nhập cư có đồng tác giả tác giả Phạm Văn Quyết, Trần Văn Kham với bài viết “Sự
kỳ thị đối với người lao động nhập cư nghèo tại các đô thị Việt Nam” nhấn mạnh
người nghèo là một trong những nhóm yếu thế cần phải có những biện pháp bảo vệ,
hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để tham gia một cách tích cực vào đời sống xã hội
trong sự bình đẳng với các thành viên khác của xã hội[19, tr. 75]. Đồng tác giả trên
cũng có công trình nghiên cứu “Hòa nhập xã hội: Một số quan điểm và việc triển
khai nghiên cứu, đo lường” nhằm tìm ra những mức độ hội nhập xã hội của người
nghèo để tạo điều kiện cho họ tham gia, có chỗ đứng trong những lĩnh vực của đời
sống như những thành viên của xã hội [16, tr. 75]. Và bộ đôi tác giả này cũng đã
nghiên cứu về vấn đề “Hòa nhập xã hội của người di cư tại các đô thị ở Việt Nam:
Hướng đến một mô hình trợ giúp xã hội” nhằm đề xuất những giải pháp xóa bỏ kỳ
thị, thúc đẩy quá trình hội nhập của người nghèo nhập cư, tìm ra những mô hình trợ
giúp từ chính quyền đến các tổ chức xã hội, chính trị - xã hội để họ chủ động hòa
hòa mình vào những lĩnh vực sống tại đây[19, tr. 75].

Thành phố Hồ Chí Minhlà địa phương đầu tiên trong cả nước khởi xướng
công cuộc xóa đói giảm nghèo suốt 24 năm qua, trải qua 4 giai đoạn(1999-2003,
2004-2008, 2009-2013, 2014 -2015). Thành phố luôn hoàn thành mục tiêu giảm
nghèo trước từ 1 đến 2 năm với 7 lần điều chỉnh chuẩn nghèo và cận nghèo. Hiện
nay nhiều hộ không nghèo về thu nhập nhưng vẫn còn gặp khó khăn, thiếu hụt ở các
chiều cạnh khác và không nằm trong danh sách nghèo nên không được các chính
sách hỗ trợ. Như đã nói trên, các phương pháp đo lường nghèo đơn chiều không còn
4


đáp ứng nhu cầu thực tế tình hình nên khái niệm nghèo đa chiềubắt đầu xuất hiện từ
những năm 2013. Ấn phẩm “Tiếp cận của người nghèo đến các dịch vụ y tế và giáo
dục trong bối cảnh xã hội hóa hoạt động y tế và giáo dục tại Việt Nam” của Action
Aid cho thấy những hạn chế của người nghèo khi có chủ trương xã hội hóa 2 trong
số các chiều có trong thang đo nghèo đa chiều[1, tr. 74]cùng với những chính sách
về điều kiện nhà ở, việc làm, hỗ trợ tín dụng đã được gì, còn hạn chế gì cần phải
khắc phục qua báo cáo “Giảm nghèo ở Việt Nam: thành tựu và thách thức” của
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam [28, tr. 76]. Chuẩn bị triển khai cho giai đoạn giảm
nghèo của thành phố lần thứ 5, Ban Chỉ đạo chương trình giảm nghèo bền vững của
thành phố tham mưu cho UBND thành phố triển khai cuộc khảo sát hộ nghèo, hộ
cận nghèo của thành phố giai đoạn năm 2016-2020 vào tháng 3/2016 để tìm ra giải
pháp hỗ trợ các hộ nghèo đa chiều phù hợp với nhu cầu với thực tiễn cuộc sống.
Ngoài những vấn đề nêu trên bài viết “Bất bình đẳng giới trong giáo dục
Việt Nam” của tác giả Đỗ Thiên Kính còn nêu những chiều cạnh khác của nghèo đô
thị như: bất bình đẳng trong việc tiếp cận các dịch vụ, mà cơ bản nhất là vấn đề về
bất bình đẳng trong giáo dục giữa nông thôn với thành thị và giữa các cấp học, giữa
nam và nữ[15, tr. 75].Bất bình đẳng trong y tế làm cho cơ hội được tiếp cận với
dịch vụ chăm sóc sức khỏe ít đi, các cơ sở y tế xuất hiện nhiều dịch vụ phong phú
để phục vụ nhu cầu của bệnh nhân tùy vào khả năng chi trả. Điều này vô hình chung
đã tạo ra rào cản phân biệt giữa bệnh nhân có điều kiện chi trả với bệnh nhân nghèo,

điều kiện chi trả còn hạn chế. Các vấn đề về cơ sở hạ tầng bao gồm việc giao đất
cho nhân dân tự chủ trong sản xuất, thực hiện các chương trình xây dựng điện –
đường – trường – trạm ở vùng sâu vùng xa, biên giới khó khăn và xây dựng hệ
thống giao thông đường bộ ngày càng hiện đại đã góp phần cho việc di chuyển, giao
thương của người nông đân đến các thành phố, của nông dân đến các khu công
nghiệp, khu chế xuất đã phần nào giảm tải được tình trạng nghèo của nước ta. Để
biết rõ hơn những thiếu hụt của người nghèo đô thị, tác giả Nguyễn Thu Sa với bài
viết “Người nghèo ở thành phố Hồ Chí Minh: Thử phát họa một bức chân dung”

5


cho thấy xuất hiện nhu cầu bảo trợ xã hội của các nguồn lực từ bên ngoài và khả
năng tự tạo ra sự bảo trợ của nhóm nghèo nhằm làm giảm những nguy cơ bị tổn
thương trong quá trình sinh kế, cung cấp lưới bảo vệ cho họ tránh những nguy cơ bị
gạt ra bên lề xã hội[21, tr. 75].Làm hạn chế mặt trái của phân tầng xã hội, làm cho
khoảng cách giữa giàu nghèo ngày càng giãn rộng hơn và nhất thiết phải có những
giải pháp để hạn chế những nguy cơ xung độtxã hội xảy ra.
Các chiều cạnh khác nhau trong vấn đề nghèo đa chiều cần phải nhìn nhận,
lý giải một cách khách quan và từ đó đưa ra những giải pháp thực hiện triệt để, đồng
bộ để vấn đề nghèo đa chiều được giải quyết theo bản chất vốn có của nó. Từ đó mà
có những biện pháp giảm nghèo căn cơ nhất, cần thiết đầu tư cho công tác giảm
nghèo và nhất thiết phải bắt đầu từ những trẻ em trong các gia đình nghèo đa chiều
để đảm bảo được tính giảm nghèo bền vững.
2.2. Các nghiên cứu về hòa nhập xã hội của trẻ em nghèo đô thị
Trẻ em là một nguồn vốn, nguồn tài nguyên nhằm để đảm bảo một lực
lượng kế thừa duy trì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Chủ tịch Hồ Chí
Minh ví trẻ em như cái mầm, cái“mầm có xanh thì cây mới vững, cái búp có xanh
thì cái lá mới tươi, quả mới tốt. Con trẻ được nuôi dưỡng giáo dục hẳn hoi, thì dân
tộc mới có thể tự cường tự lập”. Nói như vậy có nghĩa là tất cả trẻ em cần phải được

chăm lo, giáo dục, tạo các điều kiện tối đa để đảm bảo rằng trẻ được thực hiện
quyền của mình. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn một số ít trẻ vẫn chịu thiệt thòi và
đòi hỏi phải có những giải pháp cấp thiết để hỗ trợ, tạo điều kiện cho trẻ tham gia,
phát triển toàn diện các mặt để đảm bảo lực lượng vốn xã hội cần thiết cho sự phát
triển bền vững của quốc gia.
Báo cáo “Trẻ em nghèo Việt Nam sống ở đâu?”được phát hành bởi sự kết
hợp giữa Bộ Lao động Thương binh và Xã hội với UNICEP Việt Nam nêu ra các lý
do để tất cả các quốc gia hay các tổ chức tập trung nghiên cứu và tìm giải pháp để
bảo vệ, chăm sóc, tạo điều kiện tối đa cho trẻ nghèo, đặc biệt là trẻ nghèo tại các đô
thị được thực hiện các quyền cơ bản của mình. Vì đối tượng này thường phải chịu
những nguy cơ cao hơn và bị ảnh hưởng do nghèo khác biệt hơn so với người
6


trưởng thành, các em phải phụ thuộc phần lớn vào môi trường sống trực tiếp của
mình trong việc đáp ứng những nhu cầu cơ bản và dựa vào sự phân bổ nguồn lực
của cha mẹ, gia đình và cộng đồng. Chính vì thế nên trẻ có nhiều khả năng tiếp tục
phải chịu cảnh nghèo khi trưởng thành bởi nghèo được vận hành như một vòng tròn
lẩn quẩn mà trẻ rơi vào từ khi mới ra đời và không thoát ra được. Do đó, giảm
nghèo trẻ em tuy là một mục tiêu ngắn hạn nhưng lại giúp giảm tỷ lệ nghèo ở người
trưởng thành trong dài hạn [10, tr. 74].
Ở Việt Nam, công cuộc xóa đói giảm nghèo đã đạt được những thành tựu
mà thế giới công nhận. Nhưng vẫn còn một bộ phận trẻ em vẫn phải sống trong
nghèo đói, không được đảm bảo các quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng và học tập,
thiếu sự bảo vệ để sống an toàn, lành mạnh. Một bộ phận trẻ này chịu rất nhiều thiệt
thòi, có nguy cơ bị bóc lột, buôn bán, bị lạm dụng, tai nạn thương tích...Thực tế cho
thấy trẻ cần phải được tạo điều kiện để được hưởng thụ những nhu cầu cơ bản tối
thiểu về ăn, ở, chăm sóc sức khỏe, học tập, vui chơi giải trí, tham gia vào các lĩnh
vực khác.
Đối với vấn đề hỗ trợ cho trẻ, tạo điều kiện cho trẻ tham gia vào những dịch

vụ cơ bản của xã hội đã được quy định trên nhiều văn bản quy phạm pháp luật.
Nhưng trên thực tế thì việc đảm bảo quyền lợi cho trẻ em tham gia chỉ dừng lại ở
hình thức chứ chưa thật sự đi vào thực tiễn cuộc sống của các em để đảm bảo cho
trẻ được tham gia, tiếp cận những dịch vụ xã hội cơ bản, những phúc lợi cho mình.
Tuy có những thành tích đạt được trong việc tạo điều kiện, hỗ trợ cho trẻ từ những
khung pháp lý, những chương trình bảo vệ trẻ tuân thủ theo quy định của Liên Hiệp
Quốc nhưng do thực tế tình hình đất nước nên vẫn còn một tỷ lệ trẻ nghèo đô thị
chưa được tạo điều kiện triệt để trong việc thực hiện quyền,chủ động tham gia được
nêu trong báo cáo “Điều tra Nghèo đô thị ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh” do
tổ chức phi chính phủ UNDP thực hiện[26, tr. 76].
Bên cạnh đó, một vấn đề đặt ra ở đây là từ góc độ phụ huynh của trẻ do
mưu sinh, còn hạn chế về trình độ nên kiến thức khoa học để nuôi dạy con còn hạn
chế và chưa kịp thời cập nhật những văn bản Pháp luật đã ban hành để bảo vệ cho
7


trẻ nên chưa có những ứng xử phù hợp với những biểu hiện của trẻ trong mỗi giai
đoạn thay đổi tâm, sinh lýkhác nhau góp phần dẫn đến những hệ lụy của trẻ nghèo
và làmnảy sinh tệ nạn xã hội.
Nhằm thực hiện có hiệu quả chiến lược giảm nghèo đa chiều giai đoạn 5
(2016-2020), thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành khảo sát các hộ nghèo trên địa
bàn thành phố với những thang đo cụ thể có liên quan đến những nhu cầu cơ bản
của trẻ nghèo, trên cơ sở những chỉ báo qua cuộc khảo sát, thành phố sẽ xây dựng
những giải pháp thiết thực để hỗ trợ, tạo điều kiện cho trẻ nghèo đa chiều được
thuận lợi thụ hưởng những nhu cầu cơ bản, được tham gia các hoạt động xã hội và
được có nhu cầu trợ giúp xã hội.
Đã có nhiều nghiên cứu, báo cáo nhận dạng việc hỗ trợ người nghèo, nhưng
riêng về vấn đề hỗ trợ trẻ em nghèo hòa nhập xã hội thì cần phải làm rõ hơn, cần có
những giải pháp thực hiện thiết thực hơn, đồng bộ hơn để trẻ được thụ hưởng những
hỗ trợ từ gia đình, nhà trường, cộng đồng xã hội để phát triển toàn diện hơn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm nghiên cứu về mức độ hòa nhập của trẻ em trong các hộ
gia đình nghèo tại thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó đánh giá chung về đời sống vật
chất và tinh thần của trẻ em nghèo cũng như xây dựng giải pháp giải quyết những
bất cập trong quá trình thực hiện giảm nghèo đa chiều với đối tượng trẻ em.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
Hình thành cơ sở lý thuyết cho việc tiếp cận và lý giải vấn đề về hòa nhập
xã hội của trẻ em trong các gia đình nghèo trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Làm rõ thực trạng hòa nhậpxã hội của trẻ em trong các hộ gia đình nghèo.
Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến sự hòa nhập xã hội của trẻ.
Đề xuất những giải pháp thúc đẩy hòa nhập xã hội của trẻ em trong các gia
đình nghèo trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
8


Hòa nhập xã hội của trẻ em trong các gia đình nghèo ở thành phố Hồ Chí
Minh.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Là những trẻ em sống trong những hộ gia đình nghèo và cận nghèo giai
đoạn 2014 - 2015. Lý do chọn những trẻ em nghèo trong giai đoạn này vì bắt đầu từ
tháng 3/2016 thành phố triển khai đo lường nghèo theo tiêu chí đa chiều, nên luận
văn chưa có số liệu chính thống làm căn cứ thực hiện.
Trẻ em được xác định trong Điều 1, Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ
em năm 2004: Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới mười
sáu tuổi;
Là hộ gia đình nghèo và cận nghèo theo quyết định số: 09/2011/QĐ-TTg về
việc ban hành chuẩn hộ nghèo, cận nghèo áp dụng trong giai đoạn 2011- 2015.

4.3. Phạm vi nghiên cứu
+ Không gian: Địa bàn quận 07, thành phố Hồ Chí Minh.
+ Thời gian: từ tháng 1/2016 đến tháng 6/2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
Trẻ em trong các hộ gia đình nghèo ở thành phố Hồ Chí Minh có thuận lợi
khi hòa nhập xã hội không?
Gia đình, nhà trường và cộng đồng có là yếu tố ảnh hưởng đến sự hòa nhập
xã hội của trẻ em trong các hộ gia đình nghèo không?
Trẻ em trong các hộ gia đình nghèo ở thành phố Hồ Chí Minh có được các
khung pháp lý bảo vệ không?
Trẻ em trong các hộ gia đình nghèo ở thành phố Hồ Chí Minh có bị kỳ thị
không?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
Trẻ em trong các gia đình nghèo trên địa bàn thành phố còn khó khăn, chưa
thuận lợi trong việc thụ hưởng đầy đủ các dịch vụ cơ bản so với trẻ khác.

9


Trẻ em nghèo chịu ảnh hưởng của những nhân tố từ gia đình, nhà trường và
cộng đồng xã hội khi hòa nhập xã hội.
Được thừa nhận và bảo vệ của các khung pháp lý nhưng nhận thức của gia
đình của trẻ còn chưa thật rõ ràng dẫn đến việc trẻ thụ động trong việc hòa nhập xã
hội và chịu nhiều thiệt thòi trong quá trình hòa nhập.
Trẻ thiếu tự tin trong việc hòa nhập xã hội khi bị đối xử kỳ thị.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
5.3.1. Phương pháp thu thập thông tin
- Phương pháp phân tích tư liệu có sẵn
Với phương pháp phân tích tư liệu sẵn có, đề tài tập hợp và phân tích các tài

liệu như sách báo, số liệu thống kê, các văn bản...có liên quan đến nghèo đa chiều,
giúp luận văn có cái nhìn tổng quát về những vấn đề hòa nhập xã hội của trẻ em tại
đô thị.
- Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi
Đây là phương pháp nghiên cứu chính của đề tài. Phương pháp nhằm thu
thập thông tin định lượng giúp kiểm định các giả thuyết. Bảng hỏi là công cụ thu
thập thông tin chủ yếu trong cuộc điều tra này.
Triển khai nghiên cứu 200 trẻ em thuộc các hộ gia đình nghèo tại 4 phường
trên địa bàn quận nhằm thu thập thông tin theo yêu cầu và mục đích của cuộc
nghiên cứu.
Khi tiến hành khảo sát, điều tra viên đã nhờ Bí thư Đoàn và Chuyên trách
giảm nghèo tăng hộ khá của 4 phường hỗ trợ dẫn đến nhà từng em để thực hiện
bảng hỏi. Trong quá trình hỏi, có những thông tin cần đến sự hỗ trợ từ phía phụ
huynh, bạn cùng xóm của trẻ và từ phía chính quyền để khai thác hết thông tin trong
bảng hỏi đề ra.
- Phương pháp phỏng vấn sâu
Để có thông tin sâu hơn về đối tượng nghiên cứu, đề tài cũng tiến hành
phỏng vấn sâu 7 trường hợp. Trong đó phỏng vấn 4 học sinh, 2 phụ huynh đại diện
cho 4 phường. Ngoài ra còn phỏng vấn 1 Chuyên trách giảm nghèo tăng hộ khá
10


nhằm tìm hiểu sâu hơn các nội dung mà phương pháp điều tra định lượng không
phù hợp hoặc bổ sung cho cách tiếp cận này.
5.3.2. Chọn mẫu và quy mô
Khung mẫu là danh sách các hộ gia đình trong Chương trình giảm nghèo,
tăng hộ khá giai đoạn (2014-2015).
Sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên: trong 10 phường bốc thăm
chọn ngẫu nhiên 4 phường có trẻ em nghèo ở độ tuổi từ 6 đến 16 tuổi mang tính đại
diện gồm phường: Tân Kiểng, Tân Thuận Đông, Tân Hưng, Tân Quy.

Phương pháp chọn mẫu như trên cho phép thỏa mãn được tính đại diện cho
các hộ gia đình trên toàn địa bàn, từ đó cho thấy được mức độ hòa nhập xã hội của
trẻ em nghèo trên địa bàn thành phố. Tổng số trẻ nghèo được khảo sát định lượng là
200 em (đối tượng trả lời bảng hỏi là 97 nam và 103 nữ trong độ tuổi từ 6 đến 16
tuổi). Ngoài ra, để có thông tin sâu về vấn đề nghiên cứu và đảm bảo được tính
khách quan với nhiều góc nhìn từ phía chính quyền, phụ huynh, cộng đồng đề tài đã
tiến hành phỏng vấn sâu thêm 4 trường hợp từ 200 thiếu nhi được nghiên cứu, 2 phụ
huynh của trẻ nghèo và 1 chuyên trách giảm nghèo tăng hộ khác trong Ban giảm
nghèo quận.
5.3.3. Phương pháp xử lý thông tin
Ghi âm, ghi chép nội dung cuộc phỏng vấn sâu (kết hợp quan sát), sau đó
gỡ băng và ghi chép lại toàn bộ nội dung cuộc phỏng vấn.
Đối với các bảng hỏi: sử dụng thống kê mô tả để xử lý và tổng hợp các số
liệu phục vụ làm tư liệu phục vụ cho luận văn.

11


5.3.4. Khung phân tích

Sự quan tâm,
chăm sóc từ phía
gia đình

Sự hỗ trợ, giúp đỡ của
cộng đồng, chính quyền
và các đoàn thể

Các chính sách
xã hội với trẻ em

nghèo

Hòa nhập xã hội của trẻ em trong các hộ
gia đình nghèo

1/
Nhóm
Quyền phát
triển,
đo
lường
các
chiều cạnh:
được hỗ trợ
về giáo dục,
được tạo điều
kiện để vui
chơi giải trí,
được chăm
sóc sức khỏe.

2/ Nhóm Quyền
bảo vệ nhằm đo
lường các chiều
cạnh: trẻ được hỗ
trợ nhà ở; trang
phục; lao động
trước tuổi của trẻ,
nguy cơ vướng
vào TNXH và trẻ

được hộ trợ từ
cộng đồng, tổ chức
chính trị - xã hội.

12

3/
Nhóm
Quyền sống
còn: Đo các
chiều cạnh
về
dinh
dưỡng của
trẻ.

4/ Nhóm Quyền
tham gia, đo
lường chiều cạnh
trẻ hiểu biết về
các quyền và
quyền
được
tham gia của trẻ.


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu về hòa nhập xã hội của trẻ bị khuyết tật, trẻ em bị nhiễm
HIV/AIDS, trẻ tự kỷ, trẻ ở các trung tâm cai nghiện...đã được nhiều nhà nghiên cứu

quan tâm, tìm hiểu. Tuy nhiên, vấn đề hòa nhập xã hội cho trẻ em nghèo tại đô thị
hiện nay chưa có những nghiên cứu mang tính riêng cho khách thể này, chưa có
những thang đo cụ thể để phản ánh những chiều thiếu hụt của các nhu cầu của trẻ.
Do đó, đề tài góp phần làm rõ hơn mức độ hòa nhập xã hội của trẻ em
nghèo đô thị hiện nay trong tiêu chí nghèo đa chiều và làm sáng tỏ hơn một số lý
thuyết xã hội học khi vận dụng vào nghiên cứu thực tiễn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Hòa nhập xã hội là nhu cầu của các cá nhân, các nhóm trong xã hội. Đề tài
có ý nghĩa: Liệt kê những nhu cầu cơ bản của trẻ nghèo chưa được hòa nhập xã hội,
qua đó cung cấp cho gia đình, chính quyền và cộng đồng xã hội biết được các chiều
thiếu hụt của trẻ nghèo. Mô tả mức độ được tạo điều kiện hòa nhập xã hội của trẻ
trước những nhân tố gia đình, chính quyền và cộng động xã hội, từ các chính sách
dành cho trẻ.
Qua những thông tin thu thập được, hy vọng đề tài luận văn là tài liệu tham
khảo có ích cho các nhà hoạch định chính sách và những người quan tâm đến lĩnh
vực này.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tham khảo, luận văn gồm có 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2:Các chiều do lường hòa nhập xã hội của trẻ em nghèo qua nghiên
cứu
Chương 3: Yếu tố tác động đến sự hòa nhập xã hội của trẻ nghèo

13


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. 1.Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Hòa nhập xã hội
“Hòa nhập xã hội bao gồm một quá trình bảo đảm rằng những người có
nguy cơ đói nghèo và những người tách biệt biệt xã hội được những cơ hội và
nguồn lực cần thiết để tham gia đầy đủ các hoạt động kinh tế, xã hội, đời sống văn
hóa và tận hưởng một tiêu chuẩn sống hạnh phúc được coi là bình thường trong xã
hội họ đang sống”[3, tr.74].
Xã hội là một trong những nơi mà mọi người cảm thấy giá trị, sự khác biệt
của họ được tôn trọng và nhu cầu cơ bản của họ được đáp ứng để học có thể sống.
gồm: phân tầng xã hội, liên kết xã hội, bất bình đẳng, tách biệt xã hội. Cụ thể:
+ Tách biệt xã hội là một quá trình mà trong đó một số cá nhân được đẩy
qua bên lề của xã hội và bị ngăn cản tham gia do nghèo đói của họ hoặc thiếu cơ
bản những năng lực và cơ hội học tập suốt đời hoặc như là một kết quả của sự phân
biệt đối xử. Điều này là do khoảng cách từ các cơ hội việc làm, thu nhập và giáo
dục cũng như xã hội và cộng đồng mạng lưới hoạt động. Họ có rất ít cơ hội để truy
cập vào quyền lực và tiếp cận các cơ quan ra quyết định và do đó họ cảm thấy bất
lực, không thể kiểm soát các quyết định có ảnh hưởng đến cuộc sống của mình
hàng ngày.
+ Phân tầng xã hội là sự bất bình đẳng mang tính cơ cấu của xã hội loài
người (trừ xã hội sơ khai). Đó là sự phân chia xã hội thành các tầng khác nhau về
địa vị chính trị, kinh tế và xã hội, cũng như sự khác nhau về trình độ học vấn, nghề
nghiệp, phong cách sinh hoạt, kiển ăn mặc, nơi cư trú, thị hiếu nghệ thuật, mức độ
tiêu dùng....
+ Liên kết xã hội dùng để mô tả lợi ích mang lại cho mọi người với nhau.
Hòa nhập được thiết kế để đảm bảo rằng: tất cả mọi người có thể tham gia
trong xã hội bất kể nền tảng của họ hoặc các đặc tính cụ thể bao gồm: chủng tộc,
ngôn ngữ, văn hóa, giới tính, khuyết tật, tình trạng xã hội, tuổi tác và các yếu tố
14


khác. So với dân số nói chung, các nhóm với các đặc thù, đặc điểm đặc biệt như

vậy là rất nhiều khả năng phải đối mặt với học vấn thấp, thất nghiệp vô gia cư và
kết quả loại trừ nghèo đói, loại trừ xã hội. Mục tiêu là để cho tất cả mọi người một
cơ hội bình đẳng để tham gia trong xã hội, hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn bằng
việc loại bỏ các rào cản và loại bỏ những rủi ro.
Trong đề tài, hòa nhập xã hội được sử dụng gắn với hòa nhập xã hội của
trẻ em nghèo. Điều đó có nghĩa đồng thời với việc tạo ra một xã hội hòa nhập thông
qua các chính sách, các cơ chế tạo điều kiện cho trẻ em nghèo cố kết xã hội, là sự
tham gia của trẻ em vào các hoạt động sống của xã hội như với mọi trẻ em khác.
1.1.2. Trẻ em
Luật Bảo vệ,Chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 của Việt Nam quy
định trẻ em là người dưới 16 tuổi. Với góc độ nghiên cứu trẻ trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh thuộc lãnh thổ Việt Nam nên luận văn dùng Luật Bảo vệ, Chăm sóc
và Giáo dục trẻ em năm 2004 làm căn cứ để định nghĩa về “trẻ em” nhằm phù hợp
với thực tế.
1.1.3. Nghèo
“Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt động
xã hội. Nghèo có nghĩa là không có đủ ăn, đủ mặc, không được đi học, không được
khám chữa bệnh, không có đất đai để trồng trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi
sống bản thân, không được tiếp cận tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa là không an
toàn, không có quyền và bị loại trừ, dễ bị bạo hành, phải sống trong các điều kiện
rủi ro, không tiếp cận được nước sạch và công trình vệ sinh” (Tổ chức Liên hợp
quốc UNDP). Trong vấn đề nghèo hiện nay được chia thành 2 dạng gồm:
- Nghèo tiền tệ
Được hiểu dựa trên nguyên tắc mỗi cá nhân với sức mua nhất định có thể
thỏa mãn nhu cầu cơ bản của họ. Thuộc tính thõa mãn nhu cầu cơ bản có thể mua
được bên ngoài thị trường và thể hiện bằng tiền. Phương pháp đo lường này được
sử dụng rộng rãi nhất trong việc phân tích nghèo trên thế giới nhưng nó có hạn chế
trong việc đo lường nghèo đối với trẻ em[10, tr. 74].
15



- Nghèo đa chiều
Vấn đề nghèo đa chiều có thể đo bằng tiêu chí thu nhập và các tiêu chí phi
thu nhập. Sự thiếu hụt cơ hội, đi kèm với tình trạng suy dinh dưỡng, thất học, bệnh
tật, bất hạnh và tuyệt vọng là những nội dung được quan tâm trong khái niệm nghèo
đa chiều.Thiếu đi sự tham gia và tiếng nói về kinh tế, xã hội hay chính trị sẽ đẩy các
cá nhân đến tình trạng bị loại trừ, không được thụ hưởng các lợi ích phát triển kinh
tế - xã hội và do vậy bị tước đi các quyền con người cơ bản[2, tr. 74].
Nội dung nghiên cứu trong luận văn này xin được giới hạn về vấn đề hòa
nhập xã hội của trẻ ở phương pháp đo lường nghèo đa chiều vìtrong cùng một thời
điểm, trẻ nghèo có thể phải đối mặt với nhiều bất lợi khác nhau, có thể là những
khó khăn trong khám chữa bệnh, học hành, nhà ở, vui chơi giải trí, quyền tham gia.
Chính những bất lợi trên làm cho quyền cơ bản của trẻ bị khước từ,trẻ bị đẩy sang
lề xã hội mà phương pháp nghèo tiền tệ không đo lường hết được. Nhữngbiến cố
xảy ra bất ngờ trong cuộc sống đã đẩy gia đình trẻ rơi vào hoàn cảnh nghèo hoặc
gia đình không nằm trong chuẩn được công nhận là hộ nghèo theo quy định từ đó
mà trẻ trở nên thiệt thòi, thiếu cơ hội hơn so với các bạn cùng trang lứa.
1.1.4. Trẻ em nghèo
Bao gồm các đối tượng dưới 16 tuổi không được hưởng các quyền quy
định trong Công ước năm 1989của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em và không được
tiếp cận các nhu cầu cơ bản của con người[10, tr. 74]. Trong đề tài, để đảm bảo việc
thu thập thông tin, trẻ em nghèo được xác định là số trẻ em dưới 16 tuổi đang sinh
sống trong các gia đình nghèo được xác định trên cơ sở Chương trình giảm nghèo
tăng hộ khá giai đoạn 2014 – 2015.
1.1.5. Hộ gia đình nghèo
Căn cứ vào những quy định của Quyết định số: 09/2011/QĐ-TTg ngày
30/01/2011, Việt Nam đưa ra chuẩn nghèo thuộc phạm vi của chương trình quốc gia
để áp dụng cho thời kỳ 2011 – 2015: “Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập
bình quân từ 500.000 đồng/người/tháng (6 triệu đồng/người/năm) trở xuống. Hộ cận


16


nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000 đồng đến 650.000
đồng/người/tháng”.
1.2. Lý thuyết vận dụng
1.2.1 Lý thuyết về hòa nhập xã hội
Các vấn đề của xã hội không được giải quyết bằng các giải pháp thuần túy
về kinh tế, mà đòi hỏi phải có những giải pháp mang tính toàn diện và dựa trên các
chiều cạnh về văn hóa, xã hội nhằm mục đích định hướng tạo được sự phát triển bền
vững của xã hội cũng như tạo được sự bao phủ của các vấn đề xã hội, đặc biệt
những vấn đề xã hội thuộc về các nhóm bị thiệt thòi, tổn thương trong xã hội.
Đây là một trong những định hướng để thúc đẩy vai trò của Nhà nước trong
việc tạo dựng xã hội công bằng và có khả năng giải quyết vấn đề của xã hội. Vì đó
là một chủ đích xây dựng nên xã hội mà trong đó mọi cá nhân được tham gia vào
các hoạt động chung của xã hội, được thể hiện vai trò và sự ảnh hưởng của cá nhân,
cũng như phát huy được cái chung của xã hội.
Theo quan điểm của các nhà chức năng luận tiêu biểu là Durkheim xã hội
có một ý thức tập thể được coi như cơ sở của đạo đức xã hội, nó giúp liên kết các cá
nhân lại với nhau tạo ra hội nhập xã hội.
Theo quan điểm hiện nay thì “hòa nhập xã hội là nói về sự đảm bảo chắc
chắn rằng tất cả trẻ em, người lớn đều chú ý, tôn trọng, có chỗ đứng giống nhau,
đồng thời đều có khả năng tham gia vào đời sống xã hội ở cả mức độ quốc gia và
cộng đồng”. Những chiều cạnh chính trong nội dung hòa nhập xã hội đối với người
nghèo nên hướng đến cách tiếp cận đa chiều và sự hòa nhập cần được xem xét bao
trùm hầu hết các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội [19, tr. 75].
1.2.2. Lý thuyết về xã hội hóa cá nhân
Theo quan niệm của Xã hội học thì xã hội hóa cá nhân là quá trình hình
thành ý thức trong cách ứng xử của con người. Là một quá trình mà con người tiếp
nhận nền văn hóa của xã hội, có thể học được cách suy nghĩ và ứng xử phù hợp với

những đặc trưng của xã hội. Cá nhân thu thập kinh nghiệm của xã hội và học các
chuẩn mực, khuôn mẫu một cách tự nhiên mà không thể chống lại được.
17


Theo quan niệm của các nhà Xã hội học mà tiêu biểu là G. Andreeva – nhà
xã hội học người Nga thì “Xã hội hóa là một quá trình 2 mặt: một mặt cá nhân tiếp
nhận kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập vào xã hội, vào hệ thống xã hội; mặt
khác cá nhân tái sản xuất một cách chủ động bằng việc họ tham gia các hoạt động
xã hội, thâm nhập vào các quan hệxã hội.
Xã hội hóa cá nhân thông thường trải qua ba giai đoạn:
+ Giai đoạn đầu tiên là môi trường gia đình
Đây là môi trường xã hội hóa quan trọng bậc nhất đầu tiên của cá nhân bởi
vì hầu hết các cá nhân đều được sinh ra và lớn lên trong gia đình. Trong môi trường
này cá nhân sẽ tiếp nhận thông tin một cách có chủ đích và không có chủ đích từ
cha mẹ, người lớn trong gia đình về những giá trị, niềm tin, chuẩn mực, thái độ và
cả những tri thức đối với thế giới xung quanh. Quá trình này được thực hiện qua
giao tiếp trực tiếp, nó được theo dõi một cách chặc chẽ và có sự điều chỉnh rất kịp
thời. Tất nhiên những đứa trẻ sinh ra trong những gia đình khác nhau sẽ có những
quá trình xã hội hóa khác nhau. Tuy nhiên sự ảnh hưởng của gia đình thường là
không chính thức và không có chủ đích vì nó là sự tương tác qua lại giữa người
sống gần gũi với nhau về mặt tinh thần, thể chất và sự tiếp thu cũng không đơn
thuần thông qua những lời răn dạy mà còn thông qua những hành vi của các thành
viên trong gia đình. Hiện nay, do xã hội phát triển hiện đại nên vai trò của gia đình
dần dần bị thay thế bằng các phương tiện truyền thông đại chúng và tổ chức xã hội.
+ Giai đoạn tiếp theo là môi trường học đường
Đây là môi trường xã hội hóa chính yếu vì đứa trẻ không chỉ tiếp thu những
kiến thức từ học đường mà còn tiếp thu những quy tắc, cách thức quy định hành vi,
cách thức quan hệ với những người xung quanh, cách nhìn nhận về những giá trị,
khuôn mẫu mà xã hội quan tâm. Ở nhà trường cá nhân được tiếp xúc với tính đa

dạng xã hội, là nơi để cá nhân tương tác với những thành viên không phải là gia
đình. Tính đa dạng xã hội ở nơi này giúp cho cá nhân có những nhận thức rõ ràng
hơn về vị trí của mình trong cấu trúc xã hội đã được hình thành sẵn từ gia đình. Nhà

18


trường ngày càng có tầm quan trọng càng tăng trong quá trình xã hội hóa của cá
nhân do thời gian phần lớn của mỗi cá nhân đều gắn với môi trường này.
+ Giai đoạn cá nhân bước vào môi trường xã hội
Giai đoạn này cá nhân tham gia xã hội dưới dạng thành viên của các nhóm
xã hội. Quá trình xã hội hóa giai đoạn này được thể hiện thông qua các chuẩn mực
chính thức hay không chính thức và nó chồng chéo, phức tạp hơn so với 2 giai đoạn
trước. Xã hội hóa giai đoạn này thường là một quá trình liên tục, kéo dài đến suốt
cuộc đời. Trong giai đoạn này, cá nhân thực hiện cùng một lúc nhiều vai trò khác
nhau trong các nhóm xã hội và trong toàn xã hội.
Ranh giới giữa 3 giai đoạn xã hội hóa cá nhân không phải lúc nào cũng rõ
ràng với mỗi cá nhân mà nó chỉ mang tính ước lệ. Tức là nó không được phân chia
rạch ròi, cụ thể theo cách giai đoạn này kết thúc thì sẽ đến giai đoạn tiếp theo mà nó
có sự đan xen lẫn nhau. Vì trong thực tế có những cá nhân không trải qua giai đoạn
xã hội hóa cá nhân thứ hai mà bước thẳng vào môi trường xã hội hoặc vì một lý do
nào đó mà cá nhân phải trải qua môi trường xã hội và quay lại giai đoạn xã hội hóa
cá nhân khi còn trong nhà trường, gia đình. Do vậy, xã hội hóa cá nhân chỉ chấm
dứt khi cuộc sống của mỗi cá nhân chấm dứt.
1.2.3.Lý thuyết về thang bậc nhu cầu củaAbraham Maslow
Theo nhu cầu của con người phù hợp với sự phân cấp từ nhu cầu thấp nhất
đến nhu Abraham Maslow cầu cao nhất.Khi một nhóm các nhu cầu được thỏa mãn
thì loại nhu cầu này không còn là động cơ thúc đẩy nữa.
Trong thang đo của Abraham Maslow có các cấp bậc từ thấp đến cao, thấp
nhất là thang bậc cơ bản và phổ biến nhất đối với nhu cầu của con người.Theo

thuyết A. Maslow, nhu cầu tự nhiên của con người được chia thành các thang bậc
khác nhau từ "đáy” lên tới “đỉnh”, phản ánh mức độ "cơ bản” của nó đối với sự tồn
tại và phát triển của con người vừa là một sinh vật tự nhiên, vừa là một thực thể xã
hội. Nếu không được đáp ứng các nhu cầu cơ bản này thì con người sẽ khó nảy sinh
ra những nhu cầu khác. Đó là:

19


Nhu cầu sinh lý (Vật Chất): Là những nhu cầu cơ bản để có thể duy trì bản
thân cuộc sống con người (Thức ăn, đồ mặc, nước uống, nhà ở…). A.Maslow quan
niệm rằng khi nhu cầu này chưa được thỏa mãn tới mức độ cần thiết để có thể duy
trì cuộc sống thì nhu cầu khác sẽ không thúc đẩy được mọi người.
Nhu cầu về an toàn: Là những nhu cầu tránh sự nguy hiểm về thân thể và
sự đe dọa mất việc, mất tài sản…
Nhu cầu xã hội (về liên kết và chấp nhận): Do con người là thành viên của
xã hội nên họ cần được những người khác chấp nhận. Con người luôn có nhu cầu
yêu thương gắn bó. Cấp độ nhu cầu này cho thấy con người có nhu cầu giao tiếp để
phát triển.
Nhu cầu được tôn trọng: Theo A.Maslow, khi con người bắt đầu thỏa mãn
nhu cầu được chấp nhận là thành viên trong xã hội thì họ có xu thế tự trọng và
muốn được người khác tôn trọng. Nhu cầu loại này dẫn tới sự thỏa mãn như: quyền
lực, uy tín, địa vị và lòng tự tin.Đây là mong muốn của con người nhận được sự chú
ý, quan tâm và tôn trọng từ những người xung quanh và mong muốn bản thân là
một “mắt xích” không thể thiếu trong hệ thống phân công lao động xã hội. Việc họ
được tôn trọng cho thấy bản thân từng cá nhân đều mong muốn trở thành người hữu
dụng theo một điều giản đơn là “xã hội chuộng của chuộng công”. Vì thế, con
người thường có mong muốn có địa vị cao để được nhiều người tôn vọng và kính
nể.
Nhu cầu tự hoàn thiện: A.Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong cách

phân cấp của ông. Đó là sự mong muốn để đạt tới chỗ mà một con người có thể đạt
tới. Tức là làm cho tiềm năng của một người đạt tới mức tối đa và hoàn thành được
một mục tiêu nào đó, đây là khát vọng và nỗ lực để đạt được mong muốn. Con
người tự nhận thấy bản thân cần thực hiện một công việc nào đó theo sở thích và chỉ
khi công việc đó được thực hiện thì họ mới cảm thấy hài lòng. Những nhu cầu ở cấp
cao hơn sẽ được thỏa mãn khi nhu cầu cấp thấp hơn được đáp ứng.
Lý do để luận văn chọn lý thuyết để làm căn cứ vì những nhu cầu của trẻ
nghèo hiện tại đang ở mức thấp nhất và mức thứ hai. Để đảm bảo rằng trẻ được tạo
20


điều kiện để ăn, ở, học hành, chăm sóc y tế và vui chơi giải trí. Đồng thời trẻ nghèo
sẽ có những rủi ro nên trẻ cần phải được bảo vệ và bảo đảm an toàn tính mạng cho
bản thân và những đảm bảo an toàn khác mà không có công cụ nào đo lường được
giá trị vô hình.
1.3. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
Quận 7 là một trong năm quận mới được thành lập năm 1997 của thành
phố Hồ Chí Minh. Trước kia là địa bàn của thành phố Sài Gòn, sau giải phóng được
nhập vào quận 8, ngày nay thì quận 7 được tách ra từ một phần đất phía Bắc của
huyện Nhà Bè, bao gồm một phần của Thị trấn Nhà Bè và 5 xã. PhíaBắc giáp với
quận 4 và quận 2 với ranh giới hành chính là kênh Tẻ và sông Sài Gòn. Phía Nam
giáp huyện Nhà Bè với ranh giới là rạch Đĩa và sông Phú Xuân. Phía Đông giáp với
quận 2 và tỉnh Đồng Nai với ranh giới là sông Sài Gòn và sông Nhà Bè. Phía Tây
giáp với quận 8 và huyện Bình Chánh với ranh giới là rạch Ông Lớn.
Chiếm giữ vị trí cửa ngõ của khu vực phía Nam thành phố, quận 7 có nhiều
điều kiện thu hút đầu tư cả trong, ngoài nước và khu chế xuất Tân Thuận, khu đô thị
mới Phú Mỹ Hưng là một trong những minh chứng cho sự phát triển vượt trội của
mình đối với thành phố Hồ Chí Minh. Đi đôi với sự phát triển về kinh tế là sự gia
tăng dân số đáng kể từ 90.920 nhân khẩu từ khi mới thành lập quận, đến nay đã tăng
lên thành 300.000 nhân khẩu, phân bổ không đều trên địa bàn quận và đa phần

làdân cư tạm trú.
Trên cơ sở hạ tầng được đầu tư, duy tu đáp ứng cho các hoạt động phát
triển kinh tế thì các hoạt động phát triển văn hóa xã hội cũng được chú trọng. Trong
đó, giáo dục có hệ thống trường lớp công lập và ngoài công lập từ bậc mầm non đến
Đại học, đã đạt chuẩn phổ cập trung học phổ thông; hệ công lập có 16 trường mầm
non, 16 trường tiểu học, 7 trường trung học cơ sở và 3 trường trung học phổ thông;
hệ tư thục có 46 trường mầm non, mẫu giáo và 5 trường phổ thông; các trường Đại
học trên địa bàn quận có: Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Sài Gòn, Đại học Cảnh
sát, Đại học RMIT.v.v...đã, đang được xây dựng và đưa vào sử dụng. Hệ thống y tế
của quận có 443 cơ sở Y dược tư nhân, có 1 Bệnh viện quận, 3 bệnh viện: Tim Tâm
21


×