Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

công tác xã hội với trẻ em trong các gia đình sau ly hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.08 KB, 86 trang )

Phần I - mở đầu
I. Tính cấp thiết của đề tài.
ôn nhân gia đình và trẻ em gắn bó với nhau, luôn luôn đóng một vai trò
quan trọng và có ý nghĩa chiến lược trong quá trình phát triển của các
quốc gia. Khi đứa trẻ cất tiếng khóc chào đời, báo hiệu thêm một con người
trên trái đất, thêm một vị trí trên bản đồ xã hội, báo hiệu một quan hệ thiêng
liêng nhất trong một giáo dục: quan hệ “mẫu tử”. Đó cũng là kết quả ban đầu
của hôn nhân, hình thành một gia đình đầy đủ. Lúc này, “chồng - vợ và con”,
là những thành viên cốt lõi của một gia đình hai thế hệ - nói như P.H.
Chambart de Lauwe rất đúng rằng: Chồng - vợ và con - đó là ba người, ba
diễn viên, phân tích trong đó cuộc sống riêng có cả cuộc sống của toàn xã
hội
(1)
.
H
Đứa trẻ sinh ra, lớn lên và trưởng thành từ trong gia đình, hưởng thụ, kế
thừa và sau đó tham gia vào quá trình sáng tạo không ngừng. Quá trình trưởng
thành này cũng chính là quá trình xã hội hoá cá nhân con người, quá trình
hình thành nhân cách, tạo lập nhiều mối quan hệ tốt đẹp, ổn định, lâu bền theo
các loại hình gia đình truyền thống hoặc gia đình hiện đại trong mỗi giai đoạn
lịch sử khác nhau của sự phát triển xã hội. Quá trình này cũng tạo lập nên
nhiều mô hình, nhiều khuôn mẫu gia đình, từ mô hình hôn nhân đến mô hình
nuôi dạy con cái. Nhiều câu hỏi được đặt ra trong các cuộc sống gia đình, từ
gia đình nghèo khó đến gia đình giàu sang, từ gia đình viên chức đến gia đình
buôn bán, từ gia đình đầy đủ đến gia đình có khuyết tật. Gia đình đã trở thành
một biểu tượng văn hoá, chính trị trong nhiều quốc gia. Năm 1992, gia đình
chính thức được công nhận như một trong các thang giá trị của xã hội Mỹ,
trong đó vấn đề “thiên chức” của người mẹ đã được đề cao. Gia đình gắn bó
với xã hội thông qua nhiều mối quan hệ, hỗ trợ cho cuộc sống hàng ngày của
xã hội, từ việc tái sản sinh ra giống nòi đến việc nuôi dưỡng, duy trì lực lượng
lao động và các công việc cơ bản khác mà xã hội và cộng đồng giao phó. Vì



đụ à ữẫủệ !ệ"#ạ"
$ụ%&'(ố)*%ảị+Đ%&',
Trang 1
vậy, nếu nảy sinh những bối cảnh khủng hoảng, ly hôn, khuôn mẫu gia đình
ổn định bị suy tàn sẽ tạo nên biết bao những vấn đề phức tạp trong cuộc sống
của mỗi con người.
Ngày nay, cùng với sự đa dạng về chính trị, kinh tế, văn hoá trên thế
giới, nhiều quan niệm khác nhau về hôn nhân, gia đình và nuôi dạy con cái
cũng đã xuất hiện. Tính bền vững của gia đình ngày càng giảm, ly hôn ngày
càng tăng, tạo nên nhiều cái giá phải trả về mặt xã hội, về cá nhân và cộng
đồng. Ly hôn không phải là tạo nên sự tự do đơn giản của hai vợ chồng mà là
tạo nên sự nghèo khổ vật chất và tinh thần, và con cái lang thang không nơi
nương tựa, làm tan vỡ nhiều mối quan hệ xã hội. Nhiều nước đã ban hành đạo
luật về ly hôn. Bất cứ nước nào, đạo luật ly hôn thông thoáng hơn cũng sẽ làm
cho tỷ lệ ly hôn cao.
Trong những năm gần đây, ở nước ta hàng năm các toà án phải xử lý
trên 20.000 vụ ly hôn. Trong tổng số 35.000 vụ đã thụ lý hồ sơ, gần đây có
đến 21.013 vụ do mâu thuẫn gia đình, người vợ bị đánh đập, ngược đãi (An
ninh Thủ đô số 379, 28/11/1999).
Theo thống kê của Toà án Hà Nội từ 1978 đến 1994 có 23.738 vụ kiện ly
hôn
(2)
; còn ở thành phố Hồ Chí Minh từ 1985 đến 1990 có 21.814 vụ ly hôn.
Theo Toà án Nhân dân tối cao, từ 1996 đến 2001, hàng năm có tới hàng nghìn
vụ ly hôn trong cả nước và những vụ ly hôn này đã tạo nên biết bao khó khăn
cho các gia đình, cộng đồng và xã hội. Mọi người đều khẳng định rằng, ly hôn
gây tác hại trước hết cho con cái, làm căng thẳng các mối quan hệ bố mẹ - con
cái, nó định hình lại các mối quan hệ họ hàng, gia tộc, xóm làng.
Một số nghiên cứu đã được công bố, cho rằng ly hôn đã làm thất vọng

mọi người, đã làm xấu đi thực sự các điều kiện sinh hoạt kinh tế và văn hoá
và đời sống tinh thần, làm tan vỡ nhiều mối quan hệ truyền thống tốt đẹp.
Chính R. Arons đã cho rằng “ly hôn là cuộc khủng hoảng của sự biến đổi gia
đình gây ra những thay đổi trong hệ thống gia đình”
(3)
.
*
-ạ"$.ọềụữ(ố/&&0
1
2((3&,4562((7789(#:8938(*&
;<11%<)4$8ạừ-ươủđ%ảị%=+>-?*44*
Trang 2
Trong hoàn cảnh của xã hội Việt Nam, cùng với sự tăng lên của các gia
đình ly hôn, nhất là ở các đô thị, số lượng trẻ em trong các gia đình ly hôn
cũng tăng lên và rơi vào hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Trong số tỷ lệ 65%-70%
gia đình ly hôn, có tới hàng nghìn trẻ em chưa đến tuổi trưởng thành đã sống
trong hoàn cảnh không có cha, hoặc không có mẹ, hoặc không có cả cha lẫn
mẹ, phải sống với ông, bà, chú, bác nội ngoại, dì ghẻ hoặc bố dượng. Nhiều
em rơi vào hoàn cảnh lang thang đường phố để kiếm sống, lao động sớm,
hoặc rơi vào tình trạng nghiện hút, bị lạm dụng tình dục, mất mát những quan
hệ thiêng liêng như mẹ con, quan hệ huyết thống trong một gia đình truyền
thống. Vì vậy, ngày nay, hơn bao giờ hết, mặc dù trước mắt chúng ta, những
phát minh mới về khoa học và công nghệ đã mở rộng tầm hiểu biết và kỹ
năng của chúng ta, đã tạo nên những xã hội tri thức, nhưng xã hội cũng dường
như ngày một phức tạp thêm. Với những chiếc đài và vô tuyến nhỏ xíu cung
cấp thông tin suốt 24 giờ hàng ngày, thu nhỏ thế giới thành một cộng đồng
nhỏ, Camera tự động, vi mạch điện tử máy tính, Internet đang hàng ngày biến
đổi to lớn về tri thức, về giáo dục và giải trí. Nhưng cũng trước mắt chúng ta,
trên toàn cầu, không có nơi nào chưa bị tấn công, nhiều nơi đã bị khủng bố
gây tang thương, vũ khí hạt nhân sẵn sàng nổ khi có tín hiệu. Hàng ngàn,

hàng vạn gia đình tan vỡ. Các bà mẹ độc thân nuôi con trong những ngôi nhà
không có ông bố bên cạnh để cùng chăm sóc giáo dục. Cảnh bạo lực trên
truyền hình đang gia tăng, nhất là ở Mỹ. Trung bình một đứa trẻ xem truyền
hình 4 tiếng một ngày thì khi 16 tuổi nó đã xem trên 200.000 cảnh bạo lực,
trong đó có 50.000 là cảnh giết người. Ngày càng có nhiều vụ tự tử của trẻ vị
thành niên.
Vì vậy “Trẻ em hôm nay, Thế giới ngày mai” đang trở thành chủ đề có ý
nghĩa chiến lược trên toàn cầu. Công ước về quyền trẻ em đã được ghi nhận
trên toàn thế giới. Năm 1924, tuyên bố Giơnevơ về quyền trẻ em đã ghi rõ: tất
cả đàn ông và phụ nữ của mọi dân tộc có trách nhiệm tạo cho trẻ em điều tốt
đẹp nhất, tuyên bố và chấp nhận đó là nhiệm vụ của mình, vượt lên trên mọi
sự quan tâm về chủng tộc, quốc tịch và nòi giống; phải tạo cho trẻ em những
phương tiện tiên quyết để phát triển một cách bình thường cả thể chất và tinh
thần.
Trang 3
Đến năm 1959, tuyên bố của Liên Hiệp Quốc về Quyền trẻ em đã quy
định: “Loài người có trách nhiệm trao cho trẻ điều tốt đẹp nhất”, “vì sự phát
triển đầy đủ và đồng bộ về nhân cách, trẻ cần có sự yêu thương và hiểu biết. ở
bất cứ đâu có thể, trẻ sẽ lớn lên trong sự chăm sóc và với trách nhiệm của cha
mẹ, và trong bất cứ trường hợp nào phải được chăm sóc trong bầu không khí
yêu thương và an toàn về mặt vật chất và tinh thần: trẻ trong thời kỳ được
chăm sóc sẽ không được tách khỏi mẹ của trẻ (nguyên tắc 1, 6 - Tuyên bố
Liên hợp quốc về Quyền trẻ em 1959).
Người mẹ và người con trong gia đình ngày càng được xã hội và luật
pháp quan tâm. Đứa trẻ không mẹ, không gia đình sẽ báo hiệu biết bao sự cố
nảy sinh trong cuộc sống xã hội? Chính vì vậy “để phát triển đầy đủ và hài
hoà nhân cách của mình, trẻ em cần được trưởng thành trong môi trường gia
đình… trong bầu không khí hạnh phúc,yêu thương và thông cảm”
(4)
.

Việt Nam, kế tục truyền thống dân tộc “Con hơn cha là nhà có phúc”,
Đảng và nhà nước Việt Nam, ngay từ khi mới giành được độc lập, đã khẳng
định “Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà” và “dân tộc
ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc và giáo dục các cháu bé
cho tốt”, “Trước hết, các gia đình (tức là ông, bà, cha mẹ, anh chị) phải làm
thật tốt công việc ấy”
(5)
. Năm 1960 đã có phong trào “Toàn dân chăm sóc,
giáo dục, thiếu niên, nhi đồng” và từ 1979 bắt đầu thực hiện “Pháp lệnh bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”. Việt Nam trở thành quốc gia đầu tiên ở
châu á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền trẻ
em (1990). Trong chương trình hành động nhằm thực hiện tuyên bố Thế giới
về sự sống còn, bảo vệ và phát triển của trẻ em vào những năm 90, đã nêu rõ
“Gia đình có trách nhiệm hàng đầu đối với việc nuôi dưỡng và bảo vệ trẻ em
từ lúc tuổi thơ cho tới lúc trưởng thành”
(6)
“Phụ nữ với những chức năng khác
nhau của họ đóng một vai trò chủ yếu đối với hạnh phúc của trẻ em”
(7)
.
)
!ướủ@ệ"?ốề?9ềẻ%-!A 9*4//&,& Bà à ệ8ựừ 9*%à
&%&&4
<
ồ$C6- à ậ"%=D$ị?ốDấả8ầ* =à ộ&&0*)<%)04
0

'
.ếạ à độằựệ-9@ố-ếớ … ủẻ à ữă&4#%Eệ
= Eà ă ệAốếề?9ềẻ=D$ị?ố%&&'*14%*1

Trang 4
Rõ ràng là, gia đình và trẻ em đã không chỉ được in đậm nét trên các văn
bản pháp quy trong nước và quốc tế, và là vấn đề được toàn xã hội quan tâm,
mà còn trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, nhiều nhà
khoa học. Gia đình và trẻ em đã trở thành chủ đề trung tâm trong các nghiên
cứu của xã hội học, tâm lý học, giáo dục học, nhân chủng học. Đặc biệt, gia
đình còn là “trường hợp” trong công tác xã hội. Các nhà công tác xã hội thế
giới đã khẳng định: “mặc dù gia đình hiện đại đang thay đổi và nhiều mô hình
mới về đời sống gia đình và hôn nhân xuất hiện, gia đình vẫn là hình thức cơ
bản nhất của tổ chức trong xã hội và là một yếu tố trọng tâm của công tác xã
hội”
(8)
. Những người làm công tác xã hội luôn luôn tìm hiểu các nguyên tắc
làm cơ sở nền tảng cho sự tương tác gia đình, với tư cách là một đơn vị cơ sở,
nâng cao chức năng xã hội để giải quyết các vấn đề xã hội xuất hiện trong các
gia đình không cân bằng hoặc có sự khủng hoảng làm cho gia đình bị rạn nứt,
tan vỡ.
Gia đình và trẻ em là đối tượng thường trực của Công tác xã hội. Công
tác xã hội nhấn mạnh tầm quan trọng của gia đình trong việc uốn nắn những
lệch chuẩn và các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của trẻ. Gia đình là cơ sở để
khôi phục những mất mát các chức năng xã hội của trẻ, nhất là trẻ trong các
gia đình ly hôn.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu về gia đình
và trẻ em trong hoàn cảnh khó khăn. Một số nghiên cứu về ảnh hưởng của gia
đình ly hôn đến trẻ em đã được công bố trên thế giới, mặc dù còn nhiều quan
điểm và ý kiến khác nhau.ở Việt Nam, những nghiên cứu trong vấn đề này
chưa được chú ý. Đồng thời vận dụng các phương pháp và kỹ năng của công
tác xã hội trong lĩnh vực này còn bỏ ngỏ. Vì vậy, dựa trên thực tiễn xã hội, đề
tài “Công tác xã hội với trẻ em trong các gia đình sau ly hôn” sẽ góp phần
nhỏ bé trong việc mô tả thực trạng cuộc sống của trẻ em trong các gia đình rơi

vào hoàn cảnh ly hôn và vai trò của công tác xã hội trong lĩnh vực này.
,
FG8 
Trang 5
II. ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
II.1. ý nghĩa khoa học:
Chuyên đề này sẽ góp phần tìm hiểu sâu hơn về “gia đình là trường hợp”
trong công tác xã hội. Thông qua đó tìm hiểu những vấn đề xã hội đối với trẻ
em sau thời kỳ ly hôn và việc vận dụng phương pháp, kỹ năng của công tác xã
hội để góp phần trị liệu.
II.2. ý nghĩa thực tiễn:
Trên cơ sở hiểu rõ sự mất mát một số chức năng xã hội của các em do
thiếu hụt gia đình, chuyên đề vận dụng một số phương pháp trị liệu để khôi
phục và phát triển một chức năng xã hội của các em.
iii. mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
III.1. Mục đích nghiên cứu.
III.1.1. Tìm hiểu thực trạng trẻ em trong các gia đình sau ly hôn thuộc
các hoàn cảnh khác nhau.
III.1.2. Đưa ra một kế hoạch trị liệu đối với một số em thuộc các gia đình
sau ly hôn.
III.2. Nhiệm vụ của chuyên đề.
a) Tìm hiểu về gia đình, về hôn nhân, về vai trò, chức năng của gia đình.
- Tìm hiểu về quyền trẻ em, về trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
b) Khảo sát và thu thập thông tin, phân tích tình hình ly hôn hiện nay:
- Các hoàn cảnh ly hôn và các loại gia đình ly hôn
- Hậu quả sau ly hôn:
+ Cơ cấu xã hội gia đình thay đổi.
+ Quan hệ gia đình thay đổi.
- Thực trạng đời sống của trẻ em trong các gia đình ly hôn.
- Cơ cấu xã hội trẻ em trong các gia đình sau ly hôn:

+ Quan hệ về kinh tế
Trang 6
+ Quan hệ cha con, mẹ con, ông bà
+ Quan hệ các thành viên trong gia đình, họ hàng của các em
+ Quan hệ bạn bè, học đường, cộng đồng.
+ Xu hướng tư tưởng, tình cảm của các em.
+ Những thay đổi trong hành vi giao tiếp
+ Xu hướng hình thành nhân cách của các em.
- Một số vấn đề về giải pháp và chính sách xã hội.
IV. Đối tượng nghiên cứu, khách thể, phạm vi nghiên cứu và trị liệu.
IV.1. Đối tượng nghiên cứu: Một số vấn đề của trẻ em trong các gia
đình sau ly hôn.
IV.2. Khách thể nghiên cứu:
+ Thực trạng cuộc sống của các em trong gia đình sau ly hôn.
+ Các gia đình nuôi dưỡng số trẻ em này như bố dượng, mẹ kế, người
thân, các “mái ấm”…
+ Bố, mẹ đẻ các em.
+ Cộng đồng nơi các em thuộc các gia đình ly hôn đang sống.
+ Hệ thống thiết chế có liên quan.
IV.3. Phạm vi nghiên cứu:
- Giới hạn trong phạm vi tìm hiểu thực trạng đời sống vật chất, tinh thần,
sức khoẻ của trẻ em trong gia đình sau ly hôn.
- Chỉ khảo sát theo mẫu thuộc một số cơ sở.
V. phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
V.1. Cơ sở phương pháp luận.
Trẻ em trong các gia đình sau ly hôn là một hiện tượng xã hội phức tạp
liên quan đến nhiều yếu tố, thành phần xã hội và điều kiện kinh tế - văn hoá -
xã hội của một xã hội cụ thể. Vì vậy, để nghiên cứu vấn đề này có hiệu quả,
tác giả đã vận dụng một trong các quan điểm của triết học Mác-Lênin làm cơ
sở phương pháp luận khoa học cho đề tài, đó chính là quan điểm toàn diện,

lịch sử, cụ thể và phát triển. Quan điểm này được rút ra từ hai nguyên lý phổ
Trang 7
biến của triết học Mác - Lênin, đó là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và
nguyên lý về sự phát triển của các sự vật, hiện tượng. Phương pháp luận này
đòi hỏi khi xem xét thực trạng trẻ em trong các gia đình sau ly hôn, cần đặt
các em trong các hoàn cảnh cụ thể khác nhau thuộc các gia đình khác nhau,
các giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội. Phương pháp luận này cũng đòi
hỏi khi nhìn nhận bối cảnh của các em cần nhìn nhận theo quan điểm phát
triển, không nên nhìn nhận theo “số phận” theo bức tranh “bi quan, tuyệt
vọng” tách rời sự phát triển chung của xã hội và của mỗi cá nhân.
Cùng với việc vận dụng phương pháp luận nói trên, đề tài cũng đã vận
dụng lý thuyết về gia đình và hệ thống (system), cấu trúc chức năng (function
- structuralism) và lý thuyết vai trò để phân tích đề tài chuyên đề.
V.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể.
- Phương pháp phân tích tài liệu: Phân tích một số tài liệu về gia đình,
về quyền trẻ em, về ly hôn và một số tài liệu thuộc về trị liệu gia đình và các
em thuộc các gia đình ly hôn.
Chuyên đề cũng đã sử dụng một số tài liệu thống kê, tài liệu xét xử của
một số toà án, một số báo cáo của Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, một số
tài liệu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.
Chuyên đề cũng sử dụng một số tài liệu trong một số tạp chí “Khoa học
về phụ nữ” từ năm 2000 đến năm 2001.
Chuyên đề này đã khai thác một phần nguồn tư liệu điều tra xã hội học
thực nghiệm về gia đình mà tác giả đã tham gia với Thạc sĩ Lê Xuân Hoàn và
nhóm nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Thanh niên, chủ yếu là nghiên cứu
trường hợp tại Hà Nội kết hợp so sánh với Hà Nam và Sơn La.
- Phương pháp khảo sát theo mẫu bằng bảng hỏi:
Phương pháp phỏng vấn dựa trên phỏng vấn cấu trúc. Bảng hỏi được xây
dựng thống nhất đối với các địa danh. Thông tin thu được từ bảng hỏi được
xử lý theo chương trình SPSS for Window 10.05. Mỗi điểm nghiên cứu được

xử lý thành tập dữ liệu riêng, sau đó kết hợp phân tích, tổng hợp và so sánh
Trang 8
với những tương quan về việc trẻ em sống với ai và sống như thế nào sau khi
bố mẹ ly hôn.
- Phương pháp phỏng vấn sâu:
Phương pháp này sẽ phỏng vấn một số em thuộc một số gia đình ly hôn,
một số cha mẹ, người thân có liên quan đến các em thuộc gia đình ly hôn, một
số cán bộ địa phương, cộng đồng hiểu sâu về vấn đề này.
Trong các phương pháp nghiên cứu, tác giả chú trọng phương pháp
nghiên cứu định tính, bởi vì nghiên cứu về ly hôn và các em trong các gia
đình sau ly hôn đòi hỏi đi sâu tìm hiểu và phân tích mới có hiệu quả. Trong
nghiên cứu định tính, tác giả sử dụng phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm, kết
hợp phỏng vấn chuyên gia.
Ngoài ra, việc kết hợp nghiên cứu và khảo sát bổ sung tại một xã ở Hà
Nội có ý nghĩa sâu sắc trong việc nghiên cứu đề tài này. Nghiên cứu và khảo
sát tại một số xã được tiến hành toàn diện: bao gồm tất cả các gia đình ly hôn
trong xã, các trẻ em thuộc các gia đình đó và vai trò các tổ chức chính quyền
địa phương, tổ chức cộng đồng, các tổ chức xã hội trong vấn đề này.
Căn cứ vào mô hình phân tích đã trình bày trên đây, tác giả sử dụng các
biến số sau đây để tìm hiểu thực trạng trẻ trong các gia đình sau ly hôn:
- Biến số độc lập.
+ Nơi ở và điều kiện kinh tế nơi ở, tuổi, trình độ học vấn, khoảng thời
gian bố mẹ ly hôn.
- Biến số phụ thuộc: Thực trạng đời sống của các em trong các gia đình
sau ly hôn: ăn ở, sức khoẻ, học hành, văn hoá tinh thần, quan hệ xã hội.
- Biến số can thiệp: vai trò của các tổ chức chính quyền, đoàn thể, tổ
chức xã hội ở địa phương.
Địa bàn nghiên cứu: chuyên đề chọn địa bàn Hà Nội kết hợp so sánh với
địa bàn Hà Nam và Sơn La. Riêng Hà Nội, khảo sát toàn diện xã Đa Tốn,
huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội và đây cũng là cơ sở lựa chọn để xây

dựng và thực hiện kế hoạch trị liệu trong công tác xã hội.
Trang 9
Mẫu nghiên cứu: Cùng với việc sử dụng kết quả thống kê của cơ quan
nhà nước, một số báo cáo của cơ quan nhà nước, tác giả dùng phương pháp
chọn mẫu phi ngẫu nhiên, dung lượng mẫu, cơ cấu mẫu cụ thể như sau:
Về địa danh:
Nơi ở Tần suất Tỉ lệ %
Hà Nam 29 32,2
Hà Nội 31 34,4
Sơn La 30 33,3
Tổng 90 100
Về khoảng tuổi:
Khoảng tuổi Tần suất Tỉ lệ %
Dưới 6 tuổi 5 5,6
Từ 6-11 tuổi 34 37,8
Từ trên 11-15 tuổi 42 46,7
Trên 15 tuổi 9 10
Tổng 90 100
Trang 10
VI. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết
VI.1. Giả thuyết nghiên cứu
VI.1.1. Gia đình ly hôn tất yếu dẫn đến sự thay đổi cơ cấu gia đình, quan
hệ gia đình và tạo nên sự khủng hoảng toàn diện đến đời sống trẻ em, hạn chế
nhiều mặt trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của các em.
VI.1.2. Gia đình ly hôn ngày càng tăng làm cho trẻ em trong các gia đình
ly hôn ngày càng tăng và trở thành vấn đề xã hội.
VI.2. Khung lý thuyết
Khung lý thuyết trên đây là sự tổng hợp các mối tương quan giữa các sự
kiện xã hội, các khái niệm và các biến số. Trong đó, đặc điểm kinh tế - văn
hoá - xã hội là biến số độc lập, nó chi phối các biến số phụ thuộc. Các loại gia

đình là biến số trung gian, còn các loại hình ly hôn và thực trạng đời sống trẻ
em các gia đình ly hôn là biến số phụ thuộc.
Trang 11
Đặđểđề ệ ế%ă%DH
ộ
8ạđ89! à ấđề+ả9
(
8ạ89! à ựạ
đờ(ốẻ
đ(89!
Gứ ẻ
ẻ
ọậ"
ủ
Đờ(ố
ă
ầ
Đờ(ố
ậấ
?ệ
DHộ
ả"" $(à
Phần II - nội dung nghiên cứu
Chương I:
Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
I.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu và trị liệu.
Gia đình, ly hôn, trẻ em nói chung, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn nói
riêng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu với nhiều góc độ khác
nhau: xã hội học, dân tộc học, sử học, nhân chủng học, luật học…
Goode, William J. trong “Force and Violence in the Family” “Sức mạnh

và bạo lực trong gia đình” (1971) đã đưa ra một số chuẩn mực để xác định gia
đình dựa trên các mối quan hệ bên trong gia đình.
A.G. Kharchep trong “Hôn nhân và gia đình” cũng đã coi “gia đình là
một hệ thống cụ thể lịch sử của các quan hệ qua lại giữa vợ chồng, cha mẹ và
con cái”.
Bà E.K. Vaixilieva và bà N.A. Maliarova đã nghiên cứu và đề cập nhiều
đến lối sống gia đình. Các nhà nghiên cứu đã đề cập đến lối sống gia đình cho
phép hiểu được mối tương quan của sự hoạt động của các thành viên trong gia
đình, lối sống gia đình cũng gắn liền với lối sống cá nhân với tư cách là thành
viên gia đình.
Khi nói về gia đình Mỹ trong sự quá độ, Tamara K. Hareven đã đề cập
nhiều vấn đề. Tamara cho rằng, trong suốt lịch sử nước Mỹ, gia đình được
xem như điểm then chốt của trật tự xã hội và cơ sở để kiểm soát sự ổn định.
Tamara đã đề cập đến tính đa dạng văn hoá và tộc người của gia đình Mỹ. Sự
đa dạng này là sự liên tục của lịch sử và sự hiểu biết những biến đổi lịch sử
tạo nên những quan điểm khác nhau về đời sống gia đình. Tamara cũng cho
rằng gia đình Mỹ trải qua những thay đổi quan trọng, thể hiện sự tan vỡ của
Trang 12
gia đình. Sự tăng tỷ lệ li dị là những triệu chứng phá vỡ gia đình. Đó là do
chưa chú ý đến hôn nhân và đời sống gia đình.
Với góc độ tiếp cận khác, một số nhà xã hội học Trung Quốc như Phan
Doãn Khang và Lâm Nam đã đề cập đến các mối quan hệ gia đình ảnh hưởng
đến xã hội Trung Quốc: Lôi Mộng Đức, Phất Vư cho rằng “Tam giác thực sự
trong kết cấu xã hội là con cái và bố mẹ của họ kếthợp nên từ những tình cảm
chung”. Sự chi phối của bố mẹ đối với hôn nhân của con cái rất chặt chẽ.
Trong xã hội phong kiến Trung Quốc, bố mẹ không những chỉ sắp đặt hôn
nhân cho con cái mà còn sắp đặt sự ly hôn cho con cái. Ngày nay, Trung
Quốc đã chủ trương hôn nhân lấy tình yêu làm cơ sở, nhưng phần lớn các gia
đình Trung Quốc đều là các gia đình kiểu nghĩa vụ: nghĩa vụ thứ nhất, tình
yêu thứ hai.

Đề cập đến sự thay đổi về gia đình ở Thụy Điển, Divia Popemo đã đưa
ra nhiều cách tính khác nhau về sự tan vỡ của gia đình và cho rằng: tỷ lệ
người ly hôn trên tổng số người của một lứa tuổi.
Trong quá trình nghiên cứu về gia đình, trẻ em ở Việt Nam đã xuất hiện
nhiều công trình có giá trị. GS.TSKH. Hồ Ngọc Đại, nhà tâm lý học đưa ra
“Tam giác gia đình, những nghiên cứu về gia đình Việt Nam” (Nxb KHXH,
Hà Nội, 1996), Hoàng Thiệu Khang với công trình “Gia đình là tế bào xã hội,
những nghiên cứu về gia đình Việt Nam” (Nxb KHXH, Hà Nội, 1996). Cố
GS. Trần Đình Hượu “Gia đình và giáo dục gia đình”. TS. Vũ Tuấn Huy
“Những khía cạnh của sự biến đổi gia đình”, C. Hirschman và Vũ Mạnh Lợi
“Gia đình và cơ cấu hộ gia đình Việt Nam”, Thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh với
“Gia đình nhìn từ góc độ xã hội học” (1996), Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Văn,
Nguyễn Linh Khiếu với “Gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong gia đình
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá” (Nxb KHXH, 2002). TS. Trần Thị
Kim Xuyến “Gia đình và những vấn đề về gia đình hiện đại” của ThS
Nguyễn Thị Oanh; “Gia đình nhìn từ góc độ xã hội học”. TS. Vũ Quang Hà
(biên dịch); “Tương lai của gia đình”, Nguyễn Thanh Tâm “Ly hôn” (nghiên
cứu trường hợp Hà Nội), PGS.TS. Đặng Cảnh Khanh “Gia đình, trẻ em và sự
kế thừa các giá trị truyền thống”, PGS.TS. Mai Quỳnh Nam với “Gia đình
Trang 13
trong tấm gương xã hội học” (Nxb KHXH, 2002). “Tham vấn trẻ em” (tài
liệu dịch), “Phòng chống buôn bán và mại dâm trẻ em” (Vũ Ngọc Bình),
“Trẻ em đường phố, trẻ em lao động” (Fudith Emen), “Lao động trẻ em”…
Qua các công trình của các tác giả trên đây, đã đề cập khá toàn diện, các
khía cạnh về gia đình. Những công trình trên đã giúp cho sự kế thừa hết sức
quý báu trong việc thực hiện đề tài khoá luận.
I.2. Một số lý thuyết và khái niệm làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài.
I.2.1. Lý thuyết cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài.
I.2.1.1. Lý thuyết cấu trúc - chức năng - một trong những lý thuyết cơ
bản nghiên cứu về gia đình - hôn nhân - ly hôn và trẻ em.

Các nhà công tác xã hội sử dụng lý thuyết cấu trúc - chức năng nhiều
hơn các lý thuyết khác khi nghiên cứu về gia đình và hôn nhân. ở đây chỉ sử
dụng lý thuyết này để phân tích khả năng của gia đình trong việc thực hiện
chức năng giáo dục - xã hội hoá của gia đình. Trong việc phân tích mối quan
hệ các thành viên trong gia đình và quan hệ giữa gia đình với xã hội. Vậy lý
thuyết cấu trúc - chức năng là gì?
Lý thuyết cấu trúc chức năng, Niklas Luhman đã gọi lý thuyết này là một
biến thể của lý thuyết hệ thống xã hội học. Vì vậy nghiên cứu lý thuyết chức
năng không nên tách rời với lý thuyết hệ thống.
T. Parsons đã khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa cấu trúc và chức
năng, trong đó cấu trúc giữ vai trò quyết định. Sự thay đổi về mặt chức năng
sẽ làm hoàn thiện cấu trúc của nó. Cấu trúc xã hội đảm bảo tính cân bằng cho
xã hội về mặt chức năng.
Còn theo R. Merton: các chức năng xã hội có tính thống nhất thể hiện ở
cấp độ xã hội và cá nhân.
Trong lý thuyết cấu trúc chức năng, xã hội được nhìn như một hệ thống
hoàn chỉnh của các quan hệ qua lại của các bộ phận, mỗi bộ phận lại liên quan
với bộ phận khác.
Trang 14
Thuyết cấu trúc - chức năng cho thấy những hành vi cá nhân luôn luôn
nằm trong cấu trúc nhất định, mặc dù cá nhân luôn có sự lựa chọn những ứng
sử trong một tình huống cụ thể. Ví dụ: trong khi xem xét quan hệ kinh tế và
gia đình, chúng ta thấy phụ nữ không lao động dường như có liên quan đến
hôn nhân không hạnh phúc nhiều hơn so với những phụ nữ có việc làm bởi vì
họ hoàn toàn lệ thuộc vào kinh tế của người chồng.
Lý thuyết cấu trúc chức năng như là một trong những lý thuyết chủ đạo
xem xét các chức năng của gia đình, trong đó có chức năng giáo dục - xã hội
hoá của gia đình. Tất nhiên, các chức năng của gia đình không thể tách rời
nhau mà nằm trong một cấu trúc thống nhất.
Gia đình có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách đứa

trẻ. Đây là môi trường cơ bản, chính thức đầu tiên của xã hội hoá cá nhân.
Với chức năng của mình, gia đình là công cụ truyền lại cho con cháu các giá
trị văn hoá truyền thống và văn hoá hiện đại, đặc biệt là các giá trị xã hội, đạo
đức… Đối với những người chưa trưởng thành, chưa đến tuổi đi học thì đạo
đức, lối sống, nhân cách đã chịu sự chi phối nhiều nhất của quá trình xã hội
của gia đình.
Không những thế, sự giáo dục - xã hội hoá của gia đình còn truyền lại,
khắc sâu vào các cá nhân của thế hệ tiếp theo những tinh hoa của văn hoá của
các thế hệ trước, tạo nên sự nối tiếp giữa các thế hệ trong sự phát triển.
Theo A.G. Chavezew: “Gia đình không chỉ uỷ nhiệm mà còn tạo ra
những giá trị tinh thần như tình yêu vợ chồng, tình yêu bố mẹ, sự kính trọng
của con cái đối với bố mẹ, tình đoàn kết gia đình, những giá trị được tạo ra
này cũng tham gia vào quá trình xã hội hoá vào các nội dung được hậu thế
tiếp thu”.
Trong gia đình Việt Nam, nông thôn cũng như đô thị, quan hệ giữa gia
đình truyền thống và gia đình hiện đại có ảnh hưởng lớn đến việc giáo dục các
thế hệ. Chính vì vậy, thế hệ trẻ vẫn chịu ảnh hưởng của các giá trị truyền
thống. Từ khi còn sống chung với gia đình truyền thống đến khi tách ra sống
Trang 15
riêng với gia đình hạt nhân, con cái vẫn có trách nhiệm chăm sóc bố mẹ và
mọi người trong gia đình, họ hàng, coi đó như là chức năng của mình.
Trong gia đình, tuỳ theo vị trí của các thành viên (ông, bà, cha, mẹ, anh,
chị, em), mỗi người có vị trí và vai trò của mình nhưng đều có trách nhiệm
thực hiện chức năng giáo dục - xã hội hoá của gia đình. Ông bà nội ngoại giáo
dục các cháu rất quan trọng (46,2% người được hỏi), truyền thụ cho các cháu
cái hay, cái đẹp của văn hoá truyền thống. Cha mẹ và các thành viên khác, với
trình độ văn hoá, nghề nghiệp, công tác xã hội khác nhau cũng tham gia giáo
dục - xã hội hoá trẻ em theo các phương thức khác nhau. Trình độ học vấn và
văn hoá của cha mẹ có liên quan mật thiết tới việc học tập của con cái. Trong
khi công nhân tham gia vào việc học tập của con cái có 18,9% thì ở trí thức

lên tới 42% (điều tra xã hội học ở Hà Nội).
Mặt khác, giáo dục - xã hội hoá còn được thể hiện cụ thể trong việc giáo
dục đạo đức, giáo dục giới tính, định hướng nghề nghiệp, giáo dục pháp luật,
giáo dục lao động. Đặc biệt, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường và giao
lưu văn hoá quốc tế với nhiều phương tiện hiện đại, con cái trong gia đình cần
được giáo dục, hướng dẫn chọn lọc những tinh hoa, phát triển nhân cách đúng
hướng. Điều quan trọng là việc gia đình phối hợp với học đường, với cộng
đồng, với xã hội thực hiện chức năng giáo dục - xã hội hoá có kết quả, để cho
thế hệ trẻ từ trong gia đình đến xã hội nhận thức đúng vàhọc đóng các vai trò
của mình để gia nhập vào xã hội một cách chủ động và sáng tạo.
Gia đình không tách rời khỏi xã hội, nó gắn bó với các quan hệ xã hội
liên quan với các chức năng của chính nó. Lý thuyết cấu trúc chức năng đã
tạo cơ sở cho sự phân tích, sự biến đổi cơ cấu và chức năng gia đình gắn liền
với biến đổi cơ cấu xã hội. Mặt khác lý thuyết này cũng cho phép phân tích
mối quan hệ giữa gia đình và hôn nhân, giữa cha mẹ và con cái, giữa đời sống
kinh tế và đời sống văn hoá, tinh thần. Gia đình, cộng đồng và các thiết chế xã
hội luôn luôn tương tác trong một cơ cấu thích hợp. Lý thuyết này cũng chỉ ra
cha mẹ ly hôn và trẻ em trong các gia đình ly hôn không tách rời nhau mà
Trang 16
nằm trong một cơ cấu phức tạp. Vì vậy khi giải quyết một vấn đề nào liên
quan đến hôn nhân, ly hôn đều phải đặt trong một cơ cấu tương ứng.
I.2.1.2. Lý thuyết gia đình học.
Từ nhiều thế kỷ, có thể hàng nghìn năm, nhiều ngành khoa học đã quan
tâm nghiên cứu gia đình, từ triết học đến văn học, sử học, nhân chủng học,
tâm lý học, luật học, xã hội học, công tác xã hội, gia đình học…
H.T. Christensen (1965) cũng cho rằng, thời kỳ nghiên cứu gia đình có
hệ thống nhất cũng chỉ mới bắt đầu từ giữa thế kỷ thứ 19. Ngoài thời kỳ tiền
nghiên cứu về gia đình, ông phân biệt ra 3 giai đoạn phát triển của các công
trình nghiên cứu về gia đình: giai đoạn thứ nhất ở vào khoảng giữa thế kỷ 19,
giai đoạn thứ hai vào nửa đầu thế kỷ 20 và giai đoạn thứ ba kéo dài cho đến

ngày nay.
Theo F. Ăngghen, việc nghiên cứu lịch sử gia đình bắt đầu từ 1861, tức
là từ khi cuốn “Mẫu quyền” của Bachofen ra đời (T.31 - MAT
2
- T.6).
Morgan (Moocgan) là người được Mác và Ăngghen đánh giá cao trong
nghiên cứu lịch sử tiến hoá nhân loại và nghiên cứu về gia đình.
Ngay từ thế kỷ thứ XIX, Moocgan, qua cuốn “Xã hội Cổ đại”, ông cho
rằng: “Gia đình là một yếu tố năng động, nó không bao giờ đứng nguyên ở
một chỗ, khi xã hội phát triển từ một trình độ thấp lên một trình độ cao, thì gia
đình cũng tiến từ một hình thức thấp lên một hình thức cao”
(9)
.
Gia đình và quá trình phát triển của nó gắn liền với quá trình phát triển
xã hội. Chính Moocgan đã đặt vấn đề gia đình gắn liền với các giai đoạn tiến
hoá của xã hội. Moocgan đã phân lịch sử nhân loại làm 3 thời đại: mông
muội, dã man và văn minh.
Theo Moocgan, lúc đầu là chế độ quần hôn, gia đình huyết tộc.
Từ gia đình huyết tộc phát triển ra gia đình Punaluan. Ông cho rằng, gia
đình Punaluan hình thành do sự cấm tính giao giữa chị em và anh em. Loại
gia đình này thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thời đại
&
Ă=ồốủđủếđộưữ#
Trang 17
mông muội, khi người ta sử dụng những công cụ bằng đá thô sơ, phổ biến
dùng lửa và ăn cá.
Thay cho gia đình Punaluan là gia đình đối ngẫu: ở đây, người đàn ông
sống với một người đàn bà nhưng vẫn có quyền lấy nhiều vợ và ngoại tình,
còn người đàn bà thì phải triệt để trung thành với chồng.
Chế độ một vợ một chồng là một trong những dấu hiệu của buổi đầu của

thời đại văn minh. Gia đình này có quan hệ vợ chồng chặt chẽ hơn nhiều.
Theo Ăngghen, “trong tất cả các hình thức gia đình mà chúng ta đã biết,
chế độ một vợ, một chồng là chế độ duy nhất trong đó tình yêu nam nữ hiện
đại có phát triển được” (tr.112)
(10)
.
Ăngghen đã khẳng định luận điểm của Moocgan và cho rằng: “Sự phát
triển hơn nữa của gia đình một vợ một chồng là một bước tiến đến gần sự
hoàn toàn bình đẳng về quyền lợi giữa nam nữ”
(11)
.
Là sản vật của một chế độ xã hội nhất định, hình thức của gia đình sẽ
phản ánh trạng thái phát triển của chế độ xã hội đó. Ăngghen cho rằng: “trong
tương lai xa xôi sau này, gia đình một vợ một chồng sẽ không có thể đáp ứng
được những yêu cầu của xã hội, thì cũng không thể nào dự đoán trước được là
gia đình tiếp theo sau đó sẽ có tính chất như thế nào”
(12)
.
Có thể nói rằng, Ăngghen đã nêu lên một cách toàn diện vấn đề gia đình
gắn liền với sự phát triển xã hội. Trong tác phẩm “Tình cảnh của giai cấp
công nhân ở Anh” (1845), Ăngghen đã viết những bài đầu tiên về xã hội học
gia đình.
Một số các nhà xã hội học tiền bối cũng quan tâm đến vấn đề gia đình và
đưa ra nhiều quan điểm lý thuyết khác nhau về vấn đề này. Nhà xã hội học
Pháp (August Comte) (1798-1857), nhà triết học thực chứng và là nhà sáng
lập môn xã hội học đã cho rằng quan niệm gia đình là tổ chức xã hội cơ bản
và sự hợp tác trong lao động của các thành viên là rất quan trọng. Ông cho
rằng gia đình mang tính lịch sử và là công cụ xã hội hoá cá nhân, chuẩn bị
cho họ bước vào cuộc sống trong xã hội. Ông phân biệt hai mối quan hệ cơ
4


*
Gđ
Trang 18
bản trong gia đình là mối quan hệ giới và quan hệ giữa các thế hệ. Đó là mối
quan hệ vợ chồng và mối quan hệ cha mẹ và con cái.
Trong nửa cuối thế kỷ thứ XIX xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu
nhân chủng học tự nhiên và nhân chủng học xã hội theo khuynh hướng tiến
hoá tự nhiên liên quan đến gia đình (H. Spencer, J. Bachofen, J. Morgan…).
Trong đó, L.H. Morgan (1818-1881) đã đóng vai trò quan trọng.
Khi đề cập đến vấn đề vị thế xã hội của gia đình, Leplay, nhà xã hội học
người Pháp đã đưa ra nhiều ý kiến về địa vị gia đình, phương pháp duy trì gia
đình, ngân sách, gia đình, các giai đoạn quan trọng nhất của gia đình. Ông cho
rằng môi trường địa lý có ý nghĩa quan trọng đến các hình thái của đời sống
gia đình.
Trong tác phẩm “Nhập môn xã hội học gia đình” do E. Durkheim viết và
xuất bản năm 1888, Durkheim đã trình bày khá sâu sắc và toàn diện về xã hội
học gia đình.
Sau này, trong lĩnh vực lý thuyết về gia đình, nhiều nhà xã hội học đã đề
cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về gia đình, nhất là xã hội học gia đình và
công tác xã hội với gia đình. Các lý thuyết này chú ý nhiều đến mối quan hệ
của gia đình đối với cấu trúc xã hội, biến đổi chức năng gia đình, những vấn
đề liên quan đến gia đình như tiền hôn nhân, hôn nhân, vấn đề giáo dục trẻ em
về đời sống gia đình.
Khi xem xét gia đình là một nhóm xã hội, “gia đình là một nhóm xã hội
gồm hai hay nhiều người gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân, quan hệ
huyết thống (hoặc nhận con nuôi), vừa nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng tư
của họ, vừa nhằm thoả mãn những nhu cầu của xã hội và tái sản xuất dân cư
cả nghĩa thể xác và tinh thần”.
Khi xem xét gia đình như một thiết chế xã hội, người ta cho rằng cần tập

trung vào các vai trò đã được quy định trong gia đình gắn liền với sự phát
triển nhu cầu của xã hội, nhu cầu xã hội trong quan hệ hôn nhân gia đình,
chức năng xã hội của gia đình, các chuẩn mực và giá trị trong lĩnh vực hôn
nhân và gia đình. Các chuẩn mực này dựa trên quy định pháp lý về ly hôn:
Trang 19
tính chất của thủ tục ly hôn, quyền lợi và nghĩa vụ của các cặp vợ chồng đã ly
hôn đối với việc chăm sóc con cái, sở hữu tài sản sau ly hôn. Chuẩn mực của
hôn nhân gia đình thay đổi đối với thời gian và chu kỳ sống khác nhau của gia
đình.
Lý thuyết về gia đình cũng đòi hỏi việc tiếp cận gia đình như “một nhóm
xã hội” gắn liền với cơ cấu của gia đình như cơ cấu thành viên trong gia đình:
gia đình đầy đủ, gia đình không đầy đủ, gia đình hạt nhân và gia đình mở
rộng, gia đình thuần nhất và gia đình không thuần nhất, quan hệ các thế hệ
trong gia đình: quan hệ vợ chồng, quan hệ cha mẹ - con cái, quan hệ ông bà -
cha mẹ - con cái, quan hệ anh chị em, quan hệ họ hàng thân tộc.
Với các cách tiếp cận khác nhau của các ngành khoa học, gia đình đã
được giải thích và định nghĩa khác nhau. Theo H.T. Christensen, có 4 cách
tiếp cận khi nghiên cứu gia đình như:
- Những nghiên cứu về tổ chức gia đình
- Những nghiên cứu về cấu trúc chức năng
- Những nghiên cứu về tác động qua lại trong gia đình
- Những nghiên cứu về sự phát triển gia đình.
Sự chuyển biến của gia đình, dù dưới hình thức nào đi nữa, đều là kết
quả của sự tương tác giữa các thành viên bên trong gia đình và tương tác giữa
gia đình và cơ cấu xã hội. Chính vì vậy, sự tác động của môi trường, của kinh
tế - chính trị - văn hoá, của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh
tế đã dẫn đến biến đổi cấu trúc, chức năng của gia đình.
Gia đình là sản phẩm của lịch sử xã hội, phản ánh nền kinh tế - văn hoá -
chính trị, phong tục tập quán, thói quen, tâm lý, tình cảm, lối sống của một xã
hội, của một dân tộc và một thời đại lịch sử nhất định.

Công nghiệp hoá đã làm cho cấu trúc của gia đình thay đổi, xuất hiện
nhiều loại gia đình khác với gia đình truyền thống. Nền văn minh công nghiệp
đem lại cho gia đình phương thức hoạt động, nuôi dạy con cái, lối sống mới
tác động tích cực đến tàn dư của chế độ gia trưởng trong gia đình.
Trang 20
Cùng với các lý thuyết về gia đình, một số luận điểm về hôn nhân, về ly
hôn đã nảy sinh trong quá trình nghiên cứu về gia đình.
“Hôn nhân là một dạng liên kết khác giới được tập quán và luật pháp
công nhận, có giá trị lâu dài. Dù tất cả sự khác biệt văn hoá thì hôn nhân bất
cứ ở đây, dù có sự khác biệt về mức độ trách nhiệm vẫn được công nhận là
thể chế xã hội để đảm bảo sự kế tục hợp pháp, thường được xã hội bảo vệ ở
mức độ nhiều hay ít chịu sự điều tiết của xã hội, lý giải sự tiếp tục thừa kế và
đòi hỏi sự tương trợ và hợp tác lẫn nhau của cả đôi bên”
(13)
.
Do thực tiễn xã hội của sự khủng hoảng trong hôn nhân, tỷ lệ ly hôn cao
nên một số người cho rằng thiết chế hôn nhân sẽ suy vong dần và ly hôn đã
trở thành sự kiện xã hội phổ biến. Các nhà xã hội học đã nêu ra rất nhiều tác
động của ly hôn đối với cả đôi lứa và con cái. Các ảnh hưởng này bao gồm:
các nguy cơ chán nản, tuyệt vọng, tuyệt mệnh. Chính Emile Durkheim, một
trong số nhà xã hội học tiền bối nước Pháp, qua tác phẩm nổi tiếng “Sự tự
sát” đã chỉ ra rằng, nam giới chịu tác động về mặt xã hội và sự cô độc hơn
phụ nữ rất nhiều”. Nhưng phụ nữ lại chịu cảnh sa sút nặng nề về nhiều mặt.
R. Aron đã chỉ ra rằng “ly hôn là cuộc khủng hoảng của sự biến đổi gia
đình gây ra những thay đổi trong hệ thống gia đình”. Sự ly hôn của gia đình
diễn ra trong những bối cảnh khác nhau nhưng thường xuất phát từ nhiều
xung đột và trải qua một quá trình phức tạp đầy mâu thuẫn.
Ăngghen đã nói rằng: “Nếu chỉ riêng hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu
mới là hợp đạo đức thì cũng chỉ riêng hôn nhân trong đó tình yêu được duy trì
mới là hợp đạo đức mà thôi. Nhưng sự thôi thúc của tình yêu cá nhân giữa

nam nữ thì lại tuỳ từng người mà lâu dài rất khác nhau, nhất là đối với đàn
ông, và nếu tình yêu đã hoàn toàn phai nhạt hoặc bị một tình yêu say đắm mới
át đi thì ly hôn sẽ là điều hay cho cả đôi bên cũng như cho xã hội. Chỉ cần
tránh cho người ta khỏi sa chân vô ích vào những vũng bùn kiện tụng để ly
hôn mà thôi”
(14)
.
1
-ừđể+Hộọ%>ảịếĐứ(ếEệ%=+>-ếớ*44*
)

<0
Ă=ồốủđủếđộưữ  à à ướ#
Trang 21
Ăngghen nói tiếp: “… Điều này sẽ được giải quyết khi một thế hệ mới sẽ
lớn lên: một thế hệ đàn ông không bao giờ phải dùng tiền hoặc dùng những
phương tiện quyền lực xã hội khác để mua sự hiến thân của người đàn bà, và
một thế hệ đàn bà không bao giờ phải hiến mình cho đàn ông vì một lý do nào
khác ngoài tình yêu chân chính, hoặc phải từ chối không dám hiến mình cho
người yêu vì sợ những hậu quả kinh tế của sự hiến thân đó”
(15)
.
Ăngghen cũng vạch rõ ràng, trong điều kiện chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất, hôn nhân bao giờ cũng là hôn nhân có tính toán đối với người chủ sở
hữu.
I.2.1.3. Một số quan điểm và lý thuyết về trẻ em.
Erik Erikson (1902-1994), khi trẻ thuộc gia đình cha mẹ ly hôn, không
còn tiếp xúc với cha mình nữa, lang thang nhập cư vào Mỹ và rơi vào cuộc
“khủng hoảng bản sắc”, sau này trở thành nhà phân tâm học nổi tiếng. Ông đã
phê phán lý thuyết của S. Freud vì Freud đã không đánh giá sự tác động của

xã hội đến sự phát triển nhân cách. Erikson đã xem xã hội là một sức mạnh
định hướng cho sự phát triển của cái “tôi”.
Thuyết Xã hội - Tâm lý của Erikson đã mô tả sự phát triển nhân cách
qua suốt cả cuộc đời của con người. Ông phân chia đời người ra làm 8 giai
đoạn. Mỗi giai đoạn đều diễn ra những sự chuyển hoá trong các mối quan hệ
xã hội. Sự chuyển hoá liên quan đến việc giải quyết quan hệ giữa nhu cầu, lợi
ích, giá trị giữa xã hội và cá nhân.
Trẻ em liên quan đến 5 giai đoạn đầu:
- Giai đoạn 1 - Sơ sinh (0-1,5 tuổi): cần phát triển cảm giác - chỉ có
người mẹ mới đáp ứng được nhu cầu này. Nếu đứa trẻ, vì nguyên nhân nào
đó, không được đáp ứng nhu cầu thích hợp với mình dẫn đến hình thanh cảm
giác mất tin tưởng, rơi vào tình trạng sợ hãi, rối loạn đáng thương vì không có
mẹ bên cạnh ấp ủ, chăm sóc.
- Giai đoạn 2 - Nhà trẻ (1,5-3 tuổi): đứa trẻ tập đi, tập tự định hướng cho
mình. Nhiệm vụ của gia đình và nhà trẻ là hình thành sự tự chủ cho trẻ (hoặc
mức độ cảm giác). Có thể xuất hiện những nguyên nhân làm cho trẻ trì trệ.
Trang 22
- Giai đoạn 3 - Mẫu giáo (từ 3-6 tuổi): hình thành năng lực của đứa trẻ
và tránh khỏi tội lỗi do nhiều lý do gây nên. Vai trò của cha mẹ rất quan trọng
trong giai đoạn này.
- Giai đoạn 4 - Đi học (từ 6 - đến tuổi dậy thì): hình thành sự chăm chỉ,
cần cù, kỹ xảo hành động của trẻ.
- Giai đoạn 5 - Vị thành niên (từ dậy thì đến 20 tuổi): diễn ra cuộc “cách
mạng sinh lý”. Trẻ đi tìm bản sắc riêng của mình.
- Giai đoạn 6 - người lớn trẻ tuổi (gần 20 đến 40 tuổi): tìm kiếm cái bản
sắc sẵn sàng phát triển với sự gắn bó với người khác. Tình yêu nam nữ xuất
hiện…
(17)
.
Tính chất khoa học của lý thuyết E. Erikson là đã trình bày quá trình

phát triển nhân cách của trẻ gắn liền với sự chuyển hoá trong các mối quan hệ
xã hội trong suốt cuộc đời. Trong đó, mối quan hệ quan trọng nhất là mẹ - con
(giai đoạn từ 0 đến 1,5 tuổi), mỗi quan hệ cha mẹ - con cái (giai đoạn từ 1,5
tuổi đến 3 tuổi), mối quan hệ cha mẹ, gia đình và con cái (giai đoạn từ 3 đến 6
tuổi). Khi bắt đầu đến trường và trưởng thành sau này thì mối quan hệ nhà
trường, láng giềng, cộng đồng là rất quan trọng (từ 6 tuổi đến tuổi dậy thì) và
từ đó đến gần 20 tuổi, con người của lứa tuổi này hình thành các nhóm bạn
bè, nhiều cá tính và lúng túng về vai trò xã hội, muốn khẳng định mình là ai?
sẽ thành người như thế nào? để duy trì được lòng tự trọng.
Theo TS. Banaag Cornelio (thuộc Tổ chức Quốc tế về Dịch vụ gia đình
và Cộng đồng), cho rằng: trong phần lớn các xã hội, gia đình là môi trường
đầu tiên của trẻ em từ khi sinh ra. Không có tổ chức nào đóng được vai trò
quan trọng thay thế gia đình như một cơ sở cơ bản của con người. Gia đình là
cơ sở lâu dài có khả năng nhất để đáp ứng các nhu cầu về tâm sinh lý của trẻ
em
(18)
. từ gia đình, trẻ em được học các mối quan hệ, yêu thương, chơi và làm
việc và cách làm người như thế nào. Cấu trúc gia đình có thể là khác nhau
'
= à ẻ%- 8à ệ ảề!ớẻ8 ""8à ậIỷ>EJG-KE=
L3>&&0*4***
,
=ư@,%&
Trang 23
trong các nền văn hoá khác nhau, nhưng về cơ bản, quan hệ trong gia đình
vẫn là quan hệ cha mẹ và con cái.
Khi gia đình bị khủng hoảng, cha mẹ và các thành viên trong gia đình
không thực hiện các vai trò của họ, các em có hành vi trái ngược với các quy
định và các giá trị xã hội mà các em đang sống trong đó. Các em phát triển
theo nhiều mức độ khác nhau về tinh thần, về cảm xúc, rơi vào tình trạng rối

loạn hành vi, một số em bị đẩy ra đường phố…
I.2.2. Khái niệm - một trong những công cụ để nghiên cứu đề tài.
Khái niệm trong nghiên cứu khoa học có nhiều cấp độ khác nhau và
chức năng khác nhau. ở cấp độ trừu tượng hoá cao, khái niệm mang tính chất
lý thuyết. Lý thuyết dùng khái niệm để giải thích khái niệm. ở cấp độ đơn
giản hơn, khái niệm mang tính chất thao tác, khái niệm trở thành công cụ đo
lường quá trình thực nghiệm và trị liệu trong công tác xã hội. Một trong
những chức năng quan trọng của khái niệm, đó là cơ sở của giao tiếp. Khái
niệm là cơ sở để mọi người nhận thức và giải thích các sự kiện xã hội. Khái
niệm càng được “mài sắc” bao nhiêu, càng được thao tác hoá chặt chẽ bao
nhiêu, càng tạo cơ sở cho mọi người nhận thức sâu sắc các sự kiện xã hội bấy
nhiêu, tạo điều kiện cho sự chủ động trong giao tiếp xã hội, quan sát và đo
lường thực nghiệm, trị liệu.
Trong phần lý thuyết nghiên cứu, một số khái niệm liên quan trực tiếp
đến lý thuyết đã được trình bày. ở đây chỉ trình bày một số khái niệm có tính
chất công cụ, đưa ra các chỉ báo từ kết quả của thực nghiệm.
I.2.2.1. Khái niệm “trẻ em”.
Trẻ em cũng là đối tượng được nhiều khoa học nghiên cứu và có nhiều
định nghĩa khác nhau, nhất là trong tâm lý học, giáo dục học, công tác xã hội
và xã hội học. Trong tâm lý học, khái niệm “trẻ em” được dùng chỉ giai đoạn
đầu của sự phát triển tâm lý - nhân cách con người. Trong xã hội học, “trẻ
em” được xem xét như một nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi nhất định trong
giai đoạn đầu của sự phát triển nhân cách có vị trí xã hội, vai trò xã hội khác
với người lớn. Trẻ em là đối tượng được xã hội chăm sóc, bảo vệ, nuôi
Trang 24
dưỡng, tạo điều kiện cho sự trưởng thành và cũng là đối tượng quan trọng
nhất của công tác xã hội.
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc có quan điểm khác nhau trong việc xác định
tuổi của trẻ em. Một số tổ chức quốc tế như Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc, Tổ
chức Lao động quốc tế, Tổ chức Giáo dục văn hoá và khoa học quốc tế… xác

định trẻ em là những người dưới 15 tuổi. Công ước quốc tế về quyền trẻ em
năm 1990 quy định trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi trừ trường hợp luật
pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn. Luật Bảo vệ,
Chăm sóc và Giáo dục trẻ em của nước ta quy định “trẻ em là công dân Việt
Nam dưới 16 tuổi”.
Như vậy, các nhà khoa học, các tổ chức xã hội, các tổ chức quốc tế, mặc
dù với phương pháp tiếp cận khác nhau đã đưa ra quan niệm khác nhau về trẻ
em nhưng cũng đã dựa trên một số tiêu chí chung để làm căn cứ xác định trẻ
em là ai, đó chính là tuổi đời của các em (theo Erikson: từ 0 đến tuổi dậy thì).
Từ 13 đến 17 tuổi là giai đoạn cuối của tuổi mới lớn, là tuổi Erikson chú trọng
nhiều nhất. Mỗi giai đoạn khác nhau của trẻ em đều có sự thay đổi về nhân
cách, nhưng tất cả các giai đoạn đều rất cần đến bố mẹ để chăm sóc, nuôi
dưỡng và giáo dục. Trong đề tài này, tác giả quan tâm tất cả các trẻ em thuộc
các loại trẻ khác nhau.
Trẻ em trong các gia đình sau ly hôn: đó là những trẻ em từ lúc sinh ra
cho đến khi lớn lên đều ở với bố mẹ trong gia đình mở rộng hoặc gia đình hạt
nhân, được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục toàn diện về nhân cách, nay do bố
mẹ được toà án công nhận cho ly hôn, không được sống chung với bố và mẹ
nữa. Đây cũng là thân chủ được tác giả chuyên đề chấp nhận. Những trẻ em
này ở trong các hoàn cảnh sau đây:
- Tiếp tục ở với mẹ nhưng không còn bố sống bên cạnh như cũ.
- Tiếp tục ở với bố nhưng không còn mẹ sống bên cạnh như cũ.
- ở với bố dượng hoặc mẹ kế.
Trang 25

×