Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC TRÒ CHƠI DÂN GIAN NHẰM PHÁT TRIỂN TÍNH TÍCH CỰC VẬN ĐỘNG CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI QUA HOẠT ĐỘNG THỂ DỤC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.75 KB, 38 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................................................1
1. Đặt vấn đề......................................................................................................................................3
2. Trò chơi dân gian đối với sự phát triển tính tích cực vận động cho trẻ 5 – 6 tuổi ..........................5
2.1. Một số vấn đề về trò chơi dân gian.........................................................................................5
2.1.1. Khái niệm trò chơi dân gian..................................................................................................5
2.1.2. Đặc điểm của trò chơi dân gian............................................................................................5
2.1.3. Vai trò của trò chơi dân gian đối với trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ................................................7
2.1.4. Cấu trúc của trò chơi dân gian..............................................................................................8
2.1.5. Cách tổ chức trò chơi vận động dân gian cho trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi ..................................9
2.2. Một số vấn đề về phát triển tính tích cực vận động..............................................................11
2.2.1. Khái niệm tính tích cực.......................................................................................................11
2.2.2. Khái niệm vận động............................................................................................................12
2.2.3. Khái niệm tính tích cực vận động........................................................................................13
2.2.4. Đặc điểm vận động của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ..................................................................13
2.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển tính tích cực vận động........................................14
2.3. Đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ 5 -6 tuổi ...................................................................16
2.3.1. Đặc điểm phát triển tâm lý.................................................................................................16
2.3.2. Đặc điểm phát triển sinh lý của trẻ 5 – 6 tuổi .....................................................................19
2.3.3. Vai trò của trò chơi dân gian đối với sự phát triển tính tích cực vận động của trẻ .............19
3. Hoạt động thể dục ở trường Mầm non........................................................................................20
3.1. Khái niệm thể dục..................................................................................................................20
3.2. Đặc điểm giờ học thể dục của trẻ ở trường Mầm non...........................................................20
3.3. Cấu trúc của một giờ học thể dục..........................................................................................21
3.4. Nội dung hoạt động thể dục của trẻ 5 – 6 tuổi ......................................................................21
3.5. Cách tổ chức một hoạt động thể dục cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi .........................................22
4. Biện pháp......................................................................................................................................23
4.1. Cơ sở lựa chọn các biện pháp................................................................................................23

1



4.2. Các biện pháp........................................................................................................................23
4.2.1. Biện pháp 1: Lựa chọn, sưu tầm các trò chơi dân gian phù hợp với mục đích phát triển tính
tích cực vận động qua hoạt động thể dục cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi .........................................23
4.2.2. Biện pháp 2: Lập kế hoạch tổ chức cho trò chơi.................................................................24
4.2.3. Biện pháp 3: Tạo ra những tình huống chơi có vấn đề để cuốn hút trẻ vào các tình huống
chơi đó..........................................................................................................................................24
4.2.4. Biện pháp 4: Động viên, khen ngợi trẻ trong khi chơi.........................................................25
4.2.6. Biện pháp 6: Cho trẻ tự tổ chức chơi, luyện tập với các trò chơi dân gian mà trẻ đã biết
dưới nhiều hình thức khác nhau (cá nhân, nhóm,…)....................................................................26
5. Kết luận.........................................................................................................................................28

2


CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC TRÒ CHƠI DÂN GIAN NHẰM PHÁT
TRIỂN TÍNH TÍCH CỰC VẬN ĐỘNG CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI
QUA HOẠT ĐỘNG THỂ DỤC
Họ và tên: Đinh Thị Kim Hồng
Lớp: ĐHGD Mầm non A K54
Mã số sinh viên: DQB02120018

1. Đặt vấn đề
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn biết ngủ biết học hành là ngoan”
(Hồ Chí Minh)
Trẻ em là những chủ nhân tương lai của đất nước, là thế hệ của những con
người mới, là lớp người quyết định vận mệnh của một quốc gia. Chính vì vậy, trẻ em
có quyền được hưởng sự chăm sóc, bảo vệ, được vui chơi học tập từ gia đình và cộng
đồng xã hội.

Như chúng ta đã biết, hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ Mẫu
giáo. Một trong những phương thức giáo dục mang tính đặc thù cho đối tượng này
được cả thế giới thừa nhận là “Học mà chơi, chơi mà học”. Điều đó chứng tỏ hoạt
động vui chơi và trò chơi có vị trí cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp giáo dục thế hệ
trẻ ngay từ thuở ấu thơ. Xuất phát từ vai trò quan trọng của hoạt động vui chơi và nhu
cầu hưởng thụ hoạt động của trẻ, việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian là một
việc làm cần thiết và rất có ý nghĩa.
Trò chơi nói chung và trò chơi vận động dân gian nói riêng là hoạt động rất bổ
ích và lý thú, có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với trẻ em. Trò chơi đã trở thành phương
tiện quan trọng trong sự nghiệp giáo dục toàn diện nói chung và trong giáo dục thể
chất nói riêng.
Trên thế giới, không có một dân tộc nào lại không có trò chơi riêng cho trẻ em.
Từ xa xưa trẻ em Việt Nam đã có nhu cầu chơi, chúng nghĩ ra các trò chơi để chơi,
truyền cho nhau cách chơi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhờ đó trò chơi dân gian
được lưu truyền cho đến ngày nay, trò chơi dân gian thoả mãn nhu cầu tìm hiểu thế
giới xung quanh, nhu cầu giao tiếp, nhu cầu vận động, góp phần hình thành và giáo
dục toàn diện cho trẻ.
Trò chơi vận động dân gian có tác dụng rèn luyện thân thể, hình thành, rèn
luyện những kỹ năng kỹ xảo, phát triển vận động giúp trẻ có cơ thể khoẻ mạnh, có
thao tác vận động chính xác, có ý thức tổ chức kỷ luật.
3


Việc rèn luyện và phát triển tính tích cực vận động của trẻ Mầm non nói chung
và trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi nói riêng làm thoả mãn nhu cầu hoạt động của trẻ, tăng
cường thêm sức khoẻ, cơ thể phát triển cân đối hài hoà, tạo điều kiện phát triển ở trẻ
sự cứng cáp của cơ bắp và niềm vui trong hoạt đợng.
Xuất phát từ vai trị quan trọng của hoạt động vui chơi đối với trẻ em và nhu
cầu hưởng thụ hoạt động này, tôi thấy việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian là
một việc làm cần thiết và rất có ý nghĩa. Di sản văn hố truyền thống Việt Nam có

nhiều loại hình khác nhau, trong đó có thể nói trị chơi dân gian cũng là một di sản văn
hoá quý báu của dân tộc. Nó được kết thành từ q trình lao động và sinh hoạt, trong
đó tích tụ cả trí tuệ và niềm vui sống của bao thế hệ người Việt xưa. Đặc biệt đối với
trẻ em, trò chơi dân gian với những chức năng đặc biệt của nó đã mang lại cho thế giới
trẻ thơ nhiều điều thú vị và bổ ích, đồng thời thể hiện nhu cầu giải trí, vui chơi, quyền
được chia sẻ niềm vui của các em với bạn bè, cộng đồng. Chính vì vậy, trị chơi dân
gian rất cần thiết được lựa chọn, giới thiệu trong nhà trường tuỳ theo lứa tuổi của trẻ.
Đặc biệt giáo dục thể chất (GDTC) cho trẻ càng có ý nghĩa quan trọng hơn bởi trong
Nghị quyết trung ương 4 về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ
sức khỏe của nhân dân có ghi rõ: “Sức khỏe là cái vốn quí nhất của mỗi con người và
của toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
GDTC là một bộ phận quan trong của giáo dục phát triển tồn diện, có mối quan hệ
mật thiết với giáo dục đạo đức, thẩm mỹ và lao động. Hơn nữa GDTC cho trẻ Mầm
non càng có ý nghĩa quan trọng hơn bởi cơ thể trẻ đang phát triển mạnh mẽ, hệ thần
kinh, cơ xương hình thành nhanh, bộ máy hơ hấp đang hồn thiện, cơ thể trẻ cịn non
yếu dễ đẽ bị phát triển lệnh lạc, mất cân đối nếu khơng được chăm sóc giáo dục đúng
đắn thì có thể gây nên những thiếu sót trong sự phát triển cơ thể trẻ mà không thể khắc
phục được. Tính tích cực vận động của trẻ ở trường Mầm non là một trong những nội
dung cần thiết và rất quan trọng, cùng với giờ học thể dục, trò chơi vận động và các
hoạt động vui chơi bổ ích phù hợp lứa tuổi có tác dụng kích thích giải phóng nhiều
năng lượng, ngăn ngừa sự tích tụ hoặc tiêu hao lượng mỡ dư thừa trong cơ thể trẻ, giúp
cơ bắp săn chắc, giúp trẻ có cơ thể cân đối khoẻ mạnh. Trong những năm gần đây,
cùng với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, sự dồi dào thực phẩm, sự chăm sóc ăn
uống quá mức yêu cầu về năng lượng cũng như việc xem ti vi, chơi điện tử nhiều đã
tạo nên tình trạng dư cân, béo phì ở trẻ em. Ngoài ra việc ít hoạt động còn hạn chế sự
hình thành, phát triển các vận động cơ bản và các tố chất cần thiết cho trẻ.
Hiện nay trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ Mẫu giáo, tuy đã có một số
trò chơi vận động dân gian, nhưng giáo viên tổ chức chưa có hiệu quả, việc tổ chức
còn đơn điệu, chưa lôi cuốn hấp dẫn trẻ, chưa phát huy được hết tác dụng của trò chơi


4


dân gian. Việc nhận thức của giáo viên về vai trò của trò chơi dân gian còn hạn chế
nên việc đầu tư và tổ chức trò chơi còn sơ sài.
Từ những lý do trên tôi chọn và nghiên cứu đề tài “Các biện pháp tổ chức trò
chơi dân gian nhằm phát triển tính tích cực vận động cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi qua
hoạt động thể dục”.
2. Trò chơi dân gian đối với sự phát triển tính tích cực vận động cho trẻ 5 – 6 tuổi
2.1. Một số vấn đề về trò chơi dân gian
2.1.1. Khái niệm trò chơi dân gian
Trong đời sống tinh thần của nhân dân xưa, hàng ngày trong các làng xóm, thôn
bản, đường làng hay ngoài ruộng đồng luôn diễn ra những hoạt động vui chơi của trẻ
em hay những cuộc thi tài của người lớn. Những hoạt động này phong phú, muôn hình
muôn vẻ, thu hút nhiều người tham gia và luôn sôi nổi hào hứng. Nhân dân ta quen gọi
những hoạt động vui chơi đó là trò chơi dân gian.
Hầu hết những khái niệm về trò chơi đều gắn với mục đích cốt yếu là sự vui
chơi giải trí, trò chơi dân gian Việt Nam cũng không nằm ngoài yếu tố đó nhưng để
hiểu đúng về khái niệm trò chơi dân gian thì phải đặt nó trong đời sống của nhân dân.
Nằm trong nền văn minh phương đông, Việt Nam ta là một nước nông nghiệp lúa
nước và lấy nông nghiệp làm nghề sinh sống, lao động chính, điều kiện sinh sống kết
hợp với lối tư duy biện chứng tổng hợp, tính cộng đồng to lớn đã tác động vào nhân
dân, khiến nhân dân tạo ra nhiều hoạt động vui chơi giải trí khác nhau. Suy cho cùng
thì trò chơi dân gian Việt Nam là những hoạt động vui chơi giải trí do quần chúng
nhân dân Việt Nam sáng tạo ra và được lưu truyền tự nhiên qua nhiều thế hệ. Trò chơi
dân gian diễn ra mọi lúc, mọi nơi, không hạn định về mặt thời gian và phản ánh đời
sống tinh thần văn hoá của dân tộc.
Còn trò chơi dân gian trẻ em là một loại hoạt động văn hoá dân gian dành cho
trẻ em, được lưu truyền từ vùng này sang vùng khác, từ đời này sang đời khác nhằm
thoả mãn nhu cầu vui chơi giải trí và giáo dục trẻ em một cách tinh tế, nhẹ nhàng.

Những trò chơi này được tổ chức nhằm tạo cho trẻ những cảm giác hứng thú, thoải
mái, phát triển vận động kết hợp với lời nói.
2.1.2. Đặc điểm của trò chơi dân gian
Trò chơi dân gian là một hoạt động văn hoá dân gian đặc sắc của mỗi dân tộc.
Không có dân tộc nào lại không có những trò chơi riêng cho trẻ em. Bởi trò chơi dân
gian thường thường đơn giản, dễ chơi, dễ hoà nhập. Ở bất cứ đâu, trong gia đình, trong
lớp học hay ở thôn xóm, ngõ phố đều có thể tổ chức được trò chơi dân gian phù hợp:
Ở sân nhà nhỏ thì có thể chơi “Ô ăn quan”, “Rải gianh”, “Đánh chuyền đánh chắt”,…

5


rộng hơn có thể chơi “Rồng rắn lên mây”, “Đá cầu”, “Bịt mắt bắt dê”,…Các ngõ xóm
là nơi chơi “Trốn tìm”, “Mèo đuổi chuột”,…Ở các bãi cỏ là nơi chơi “Đánh đu”,
“Cướp cờ”,…
Vật liệu để chơi trò chơi dân gian cũng thật đơn giản, không cầu kỳ, không tốn
kém, dễ kiếm, dễ tìm ngay trong sản vật thiên nhiên Việt Nam như: Con khăng là đoạn
tre, hòn cù được đẽo từ một mẫu gỗ, nắm sỏi, vỏ ốc để chơi ô ăn quan, cọng lá, cỏ,…
chúng có thể nhặt trong vườn, dưới ruộng.
Song hầu hết trò chơi dân gian trẻ em Việt Nam đều gắn liền với những bài
đồng dao. Đặc điểm ngôn ngữ của những bài đồng dao là mang tính giản dị, mộc mạc,
vô tư, hồn nhiên vui tươi và ngộ nghĩnh. Đó là những câu vè ngắn gọn, có nhịp điệu,
âm thanh dễ thuộc, dễ nhớ được sử dụng trong khi chơi như: “Dung dăng dung dẻ” ,
“Thả đĩa ba ba”, “Chi chi chành chành” hay “Rồng rắn lên mây” là các trò chơi gắn
với đồng dao nhằm rèn luyện sự nhanh nhẹn, khéo léo, phát huy tinh thần đoàn kết,
tôn trọng kỷ luật và khả năng đối đáp.
Logic của đồng dao chính là logic của trò chơi, nhưng cũng không thể phải theo
cái logic của hiện thực mà mang tính nhảy cóc.
Chính cái ngôn ngữ kỳ quặc theo lối tư duy nhảy cóc đó lại là yếu tố gắn bó với
trò chơi để đưa trẻ vào thế giới trò chơi, khác hẳn với thế giới bên ngoài. Nếu đồng

dao được tổ chức chặt chẽ như một bài dân ca, như một bài thơ thì yếu tố chơi, nhất là
trò chơi trẻ em không còn nữa. Cho nên ta dễ nhận thấy một biện pháp tu từ học rất
tiêu biểu cho đồng dao là biện pháp nói ngược, trái hẳn với cái logic thực tế, logic của
cuộc đời và chính sự đảo ngược như thế mới hấp dẫn, mới vui.
Biện pháp nói ngược ngộ nghĩnh này rất phù hợp với không khí của trò chơi, vì
nó làm cho trẻ vui thích, kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của chúng.
Mặt khác, nội dung của những bài đồng dao chứa đựng nội dung giáo dục cho
trẻ về nhiều mặt. Bởi lẽ, đồng dao có chứa đựng những lời mộc mạc, hồn nhiên, có
vần, có điệu. Đồng dao là của trẻ em nên có tính chất vui chơi phù hợp với tâm sinh lý
của trẻ. Đồng dao gợi lên tình yêu hồn nhiên của trẻ đối với cái ong, cái kiến, con cò,
con trâu, con nghé,…Khi trực tiếp tham gia vào trò chơi, trẻ hát đồng dao và qua đó
trẻ tiếp thu những điều hay lẽ phải một cách tinh tế, nhẹ nhàng, thoải mái.
Trò chơi dân gian gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên. Trong trò chơi, con người
(đặc biệt là trẻ) và thiên nhiên hoà quyện vào với nhau, thiên nhiên trở nên có hồn và
gần gũi với trẻ từ lúc nào. “Cây mốt, cây mai, lá trai, lá hến, con nhện chăng tơ, quả
mơ có hạt…”. Là bài đồng dao thường hát để chơi chuyền dụng cụ là một quả bóng
(Có thể thay bằng một hòn đá hoặc quả chanh) và 10 que tre.

6


Trò chơi dân gian được sáng tác dựa trên mô phỏng, bắt chước hoạt động của
người lớn trong xã hội nhưng không phụ thuộc nghiêm ngặt vào sự thay đổi của cuộc
sống đang diễn ra hằng ngày mà phát triển theo những quy luật riêng, ít nhiều mang
tính chất ổn định. Ví dụ: Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay ngày càng phát
triển cao, những trò chơi như: “Bịt mắt bắt dê”, “Kéo co”, “Trớn tìm”, “Ơ ăn quan”,…
vẫn còn tồn tại và được trẻ em đón nhận một cách thích thú, say mê.
Nhưng chính nó được sáng tác dựa trên hiện thực cuộc sống lao động và sinh
hoạt của con người, nên khó có thể tìm ra được ai là tác giả của những trò chơi này và
cũng khó xác định được ngày, tháng, năm ra đời của chúng.

2.1.3. Vai trò của trò chơi dân gian đối với trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Trò chơi dân gian là một hoạt động có tác động mạnh mẽ đến trẻ em, nó là
phương tiện giáo dục nhân cách toàn diện cho trẻ, trò chơi dân gian cung cấp cho trẻ
những kiến thức xã hội cần thiết cho cuộc sống của trẻ. Trong khi chơi, trẻ tiếp thu
được những điều hay lẽ phải, rèn luyện được những thói quen cần thiết cho cuộc sống
hiện thực và sau này một cách tự nhiên, thoải mái.
Trò chơi dân gian vừa được coi là nội dung vừa là phương pháp tổ chức vui
chơi, nghỉ ngơi tích cực, vừa là phương tiện giáo dục thể chất cho trẻ Mầm non.
Trong các trò chơi dân gian có lời đồng dao góp phần phát triển ngôn ngữ cho
trẻ, trẻ được học cách đếm, cách phát âm, ngôn ngữ đồng dao đưa trẻ vào thế giới trò
chơi một cách nhẹ nhàng, có nhịp điệu làm cho trò chơi trở nên hấp dẫn. Nhiều bài
đồng dao có lời dí dỏm, dân dã kích thích trí tưởng tượng của trẻ, qua đó trẻ tiếp thu
ngôn ngữ dân gian tự nhiên, chân thực. Lời đồng dao góp phần bồi dưỡng, rèn luyện
tiếng nói, giúp trẻ phát âm chính xác, rõ ràng, vốn từ của trẻ tăng lên. Lời đồng dao
còn giúp trẻ nhận thức được thế giới tự nhiên, xã hội từ đó trẻ yêu mến thiên nhiên và
con người xung quanh.
Trò chơi dân gian là phương tiện giáo dục thái độ đúng đắn trong các mối quan
hệ giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên. Trò chơi dân gian trẻ
em Việt Nam rất giàu yếu tố tưởng tượng, đối với trẻ em mọi vật đều như có hồn nên
chúng có thể trò chuyện với cỏ cây, hoa lá, các con vật, đồ vật xung quanh,…Trong
khi chơi, trẻ biết sử dụng vật này thay thế cho vật kia, biết đóng vai này vai kia, tưởng
tượng ra điều này, điều khác,…nhờ đó mà trí tưởng tượng của trẻ được phát triển.
Trò chơi dân gian có tác dụng hình thành những điều kiện thuận lợi để phát
triển, rèn luyện và phát triển các kỹ năng vận động, tăng cường sự hoạt động của các
cơ quan trong cơ thể trẻ, thay đổi trạng thái của cơ thể từ hoạt động trở về trạng thái
cân bằng. Trò chơi vận động dân gian là phương tiện phát triển thể chất, phát triển các
kỹ năng vận động, các cuộc chơi là những hoạt động toàn thân, mang lại sự rèn luyện
7



vận động thể lực toàn diện, làm cho trẻ nhanh nhẹn hơn. Trong khi chơi, các kỹ năng
vận động như chạy, nhảy, leo trèo, ném, bò, lăn,… được sử dụng thường xuyên, nhờ
vậy sẽ kích thích sự phát triển tính tích cực vận động ở trẻ.
Trò chơi dân gian là phương tiện giáo dục trí tuệ cho trẻ, bởi nó tác động tới
việc củng cố kiến thức và phát triển các quá trình nhận thức như tư duy, tưởng tượng,
…Thông qua trò chơi trẻ giải quyết nhiệm vụ của trí tuệ chính xác hơn, quá trình chơi
đòi hỏi trẻ phải có óc quan sát, phân tích, tổng hợp để thực hiện luật chơi một cách
hiệu quả.
Trò chơi dân gian có vai trò hình thành cảm xúc, tình cảm. Trẻ có cảm xúc vui
sướng hân hoan khi giành thắng lợi, trẻ buồn khi thua. Điều này thúc đẩy các trẻ cố
gắng hết sức, phấn đấu hết khả năng với mong muốn đem lại sự thắng lợi cho đội
mình.
Trò chơi dân gian có ảnh hưởng đến tính cách, khí chất của trẻ. Trong khi chơi
trẻ bộc lộ một cách chân thật nhất các nét tính cách của mình, trẻ phải tuân thủ theo
quy tắc của trò chơi, những nguyên tắc đó điều khiển hành vi của trẻ khi tham gia
chơi, tạo ra những hoàn cảnh để trẻ đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, hình thành tính trung
thực, lòng dũng cảm, kiên trì,…
Trò chơi dân gian không chỉ làm thoả mãn nhu cầu vui chơi của trẻ mà còn góp
phần hình thành nhân cách trẻ, thông qua cách chơi trẻ học cách cư xử như người lớn,
hình thành những nét phẩm chất ý chí, đạo đức,…cần thiết cho cuộc sống như tính
ngay thẳng, công bằng, lòng dũng cảm, tự chủ, kiên nhẫn, tinh thần trách nhiệm.Trò
chơi dân gian còn có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ, đặc
biệt đối với trẻ em Việt Nam, trò chơi dân gian còn góp phần hình thành nên nhân cách
văn hoá mang bản sắc dân tộc Việt Nam. Trò chơi dân gian còn giúp trẻ tiếp cận với
một nền văn hoá dân gian của cha ông để lại, hình thành ở trẻ lòng yêu thích nền văn
hoá dân gian.
2.1.4. Cấu trúc của trò chơi dân gian
Trong mỗi trò chơi, tất cả đều mang những quy luật riêng, đều mang những sắc
thái khác nhau để hấp dẫn, cuốn hút người chơi. Trò chơi dân gian cũng vậy, khi tổ
chức cho trẻ chơi cũng tuân thủ theo những quy luật của nó.

Cấu trúc của một trò chơi dân gian gồm ba phần liên quan chặt chẽ với nhau, đó
là nội dung chơi, hành động chơi và luật chơi.
Nội dung chơi (nhiệm vụ vận động): Các nhiệm vụ được thể hiện với một hình
tượng vui chơi nào đó, nó là thành phần cơ bản của trò chơi, khơi gợi hứng thú chơi,
đẩy mạnh, củng cố và mở rộng nội dung, kích thích tính tích cực và nguyện vọng của
trẻ. Nội dung chơi rất phong phú, có nội dung phát triển vận động tạo sự khéo léo của
8


đôi bàn tay, bàn chân, rèn luyện sự nhanh nhẹn của tay, chân, mắt, sự linh hoạt bền bỉ,
dẻo dai trong các hoạt động.
Hành động chơi: Đó chính là động tác suy nghĩ, vận động trong khi chơi, các
hình thức này được trẻ chơi dưới hình thức luyện tập, thể dục thể thao, dưới hình thức
chơi mang tính học tập.
Luật chơi: Mỗi trò chơi cụ thể đều quy định luật chơi riêng, luật chơi này có vai
trò rất to lơn, nó xác định tính chất, phương pháp hành động, tổ chức và điều khiển
hành động cùng mối quan hệ lẫn nhau của trẻ trong khi chơi. Luật chơi là tiêu chuẩn
đánh giá hành động chơi đúng hay sai, luật chơi thường gắn với nội dung và hành
động chơi, trẻ cảm thấy không bị áp đặt, trẻ thích chơi và mong muốn được chơi tốt
hơn. Luật chơi là tiêu chuẩn khách quan để đánh giá khả năng chơi của mỗi trẻ. Trong
trò chơi dân gian do có luật quy định sẵn nên hành vi chơi phải rõ ràng so với trò chơi
có chủ đề, nếu người chơi không đúng luật sẽ nhận ra ngay.
Trò chơi dân gian bao giờ cũng có một kết quả nhất định, trẻ hoàn thiện một
nhiệm vụ nhận thức nào đó mà kết quả chơi ở đây chính là sự nỗ lực phấn đấu của trẻ
trong khi chơi. Kết quả đó không phải là lừa dối, mà có được là một quá trình vận
động, tích luỹ thể hiện trong khi chơi.
2.1.5. Cách tổ chức trò chơi vận động dân gian cho trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Khi hướng dẫn cho trẻ chơi giáo viên cần chú ý phát huy đúng nhiệm vụ của trò
chơi, khi cho trẻ chơi các trò chơi có lời đồng dao, cô giáo cần đọc đi đọc lại nhiều lần
để kích thích trẻ tập trung chú ý và thuộc lời để khi chơi trẻ không bỡ ngỡ.

Trong khi chơi không nên bắt trẻ rập khuôn theo một kiểu chơi, tuỳ theo khả
năng chơi của trẻ mà có thể thay thế luật chơi, cách chơi, đồ chơi cho trò chơi thêm
hấp dẫn và hứng thú.
Tổ chức cho trẻ chơi phải phù hợp với thời gian, địa điểm, số trẻ tham gia chơi.
Ngoài ra cô giáo cũng cần quan tâm đến yếu tố thi đua giữa các nhóm trẻ với nhau để
động viên trẻ trong khi chơi.
Cách tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi:
Chuẩn bị cho trẻ chơi
Khảo sát vốn hiểu biết và kỹ năng chơi của trẻ, trình độ nhận thức của trẻ trong
trò chơi dân gian làm cơ sở để lập kế hoạch tổ chức chơi cho trẻ.
Xác định mục đích, yêu cầu của trò chơi.
Sưu tầm và lựa chọn trò chơi dân gian nhằm mục đích phát triển tính tích cực
vận động cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.

9


Làm phong phú và chính xác hoá các biểu tượng về cuộc sống xung quanh bằng
những câu chuyện ngắn, trao đổi giữa cô và trẻ,…
Chuẩn bị và sắp xếp đồ dùng, đồ chơi, tận dụng những nguyên vật liệu địa
phương để làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ.
Lựa chọn biện pháp và phương tiện tiến hành các hoạt động của cô và của trẻ
trong trò chơi.
Bố trí địa điểm chơi thuận lợi tạo điều kiện cho trẻ thực hiện trò chơi.
Tổ chức thực hiện
Tạo hứng thú cho trẻ chơi bằng nhiều cách khác nhau: Đưa ra những câu đố, bài
hát, bài đồng dao, tạo tình huống chơi,…để trẻ nhớ lại các trò chơi đã từng chơi hoặc
giới thiệu về những trò chơi sắp chơi, hướng sự chú ý của trẻ vào cuộc chơi.
Đưa ra nhiệm vụ chơi và hướng dẫn cách chơi, luật chơi bằng nhiều cách như
làm mẫu, lời đề nghị,…để cuốn hút sự tập trung chú ý của trẻ, giúp trẻ lĩnh hội được

nhiệm vụ nhận thức, luật chơi và hành động chơi. Khi giao nhiệm vụ cho trẻ cần chú ý
đến đặc điểm cá nhân, tuỳ vào nhu cầu hứng thú chơi của trẻ và nâng dần độ khó của
trò chơi với trẻ.
Tuỳ trò chơi mới hay trò chơi trẻ đã biết mà cô giáo phân nhóm chơi cho trẻ,
tạo điều kiện cho trẻ được chơi, được trải nghiệm dưới nhiều hình thức chơi khác nhau
như cá nhân, nhóm. Tạo điều kiện cho trẻ tự tìm kiếm phương tiện để giải quyết nhiệm
vụ chơi và phương thức giải quyết nhiệm vụ đã đặt ra.
Cho trẻ tập luyện chơi bằng cách tổ chức cho trẻ được chơi với nhiều loại trò
chơi dân gian và sử dụng linh hoạt các hình thức tổ chức chơi, phát huy khả năng chơi
của trẻ và phù hợp với điều kiện của lớp.
Tạo cơ hội cho trẻ cộng tác với cô, với bạn chơi, biết thoả thuận cùng giải quyết
các vấn đề xuất hiện trong khi chơi. Cô giáo động viên khuyến khích trẻ tự tổ chức
một số trò chơi dân gian quen thuộc bằng cách chuận bị đồ dùng chơi, vật liệu chơi,
gợi cho trẻ nhớ lại cách chơi, nhắc nhở trẻ chơi đúng luật.
Trong khi trẻ chơi, cô giáo luôn quan sát, giúp đõ trẻ khi cần thiết, luôn động
viên khen ngợi những trẻ tích cực tham gia vào trò chơi, giúp trẻ cố gắng hoàn thành
nhiệm vụ được giao, khêu gợi và duy trì của trẻ với trò chơi. Giúp trẻ giải quyết xung
đột nếu trẻ không tự điều khiển, kiểm soát được trong khi chơi.
Kiểm tra, đánh giá kết quả chơi
Cho trẻ tự đánh giá kết quả chơi của bạn và của bản thân.

10


Cô giáo cần nhận xét đánh giá kết quả chơi của trẻ một cách công bằng, tạo cho
trẻ tự tin và cố gắng hơn trong lần chơi sau. Tạo cho trẻ tâm thế chờ đợi niềm vui ở
những trò chơi tiếp theo.
Việc đánh giá sự phát triển tính tích cực vận động của trẻ trong các trò chơi dân
gian được thực hiện thường xuyên thông qua việc quan sát, qua các bài tập đánh giá
trẻ, qua phân tích kết quả chơi, giáo viên phát hiện ra điểm mạnh và những hạn chế

của từng trẻ, qua đó điều chỉnh kế hoạch chơi cho phù hợp với trẻ ở giai đoạn tiếp theo
nhằm đạt được mục đích giáo dục đề ra.
Như vậy, việc thực hiện một số biện pháp tổ chức cho trẻ chơi được bắt đầu từ
khâu sưu tầm trò chơi dân gian, lên kế hoạch, dựa trên cơ sở phân tích khả năng nhận
thức, kỹ năng chơi của trẻ để lựa chọn trò chơi phù hợp, đến việc chuẩn bị môi trường
đồ chơi và tổ chức quá trình chơi, kết thúc bằng việc nhận xét đánh giá kết quả chơi
của trẻ. Trong quá trình thực hiện giáo viên phải luôn tuân thủ theo các nguyên tắc của
việc tổ chức trò chơi dân gian.
2.2. Một số vấn đề về phát triển tính tích cực vận động
2.2.1. Khái niệm tính tích cực
Tính tích cực là một khái niệm rộng của nhiều ngành khoa học như triết học, xã
hội học, tâm lý học, giáo dục học,…Mỗi ngành khoa học xem xét khái niệm này dưới
một góc độ khác nhau theo phương diện nghiên cứu của mình.
Theo quan niệm triết học, tính tích cực là thái độ cải tạo của chủ thể đối với các
đối tượng nhận thức.
C.Mac và Ph.Anghen cho rằng, tính tích cực thể hiện ở sức mạnh của con người
trong việc chinh phục, cải tạo thế giới tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình.
Phát triển học thuyết của Mac – Anghen, V.I.Lenin phát biểu: Tính tích cực là
thái độ cải tạo của chủ thể đối với đối tượng, với những sự vật hiện tượng xung quanh,
nó còn là khả năng của mỗi con người đối với việc tổ chức cuộc sống, điều chỉnh
những nhu cầu, những năng lực của họ thông qua các mối quan hệ xã hội.
Quan điểm duy vật biện chứng của triết học Mac-Lenin là cơ sở phương pháp
luận để nghiên cức vấn đề tích cực trong tâm lý học và giáo dục học.
Mỗi ngành khoa học đều đưa ra những quan điểm về tính tích cực của riêng
mình, từ những quan điểm trên chúng ta có thể hiểu được tính tích cực là một phẩm
chất vốn có của con người, là trạng thái tinh thần có tác dụng khẳng định và thúc đẩy
sự phát triển của con người. Nó được biểu hiện ở chỗ:
Thứ nhất: Thái độ hưởng ứng và sự quan sát trong các thao tác cần được thực
hiện trong một hoạt động nào đó.
11



Thứ hai: Sự kiên trì, chịu khó trả lời các câu hỏi của cô, chăm chỉ, luôn chú ý và
tự giác thực hiện các thao tác trong hoạt động.
Thứ ba: Ý chí quyết tâm phải thực hiện được các thao tác trong hoạt động, biết
giúp đở bạn bè.
2.2.2. Khái niệm vận động
Theo từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, Bùi Khắc Viện, vận động là hiện tượng
vật thể thay đổi vị trí trong quan hệ không gian với những vật thể khác; là hoạt động
thay đổi tư thể hay vị trí của thân thể.
Trong tác phẩm “Vai trò của lao động trong quá trình chuyển biển từ vượn
thành người” của Ph.Anghen, nhìn từ góc độ phát sinh chủng loại có thể thấy, những
vận động đầu tiên của con người ( đi, chạy, nhảy,…) được ra đời trong quá trình lao
động, trong quá trình chuyển biển từ vượn thành người. Người ta gọi đó là những vận
động cơ bản bởi chúng đảm bảo cho cá thể có tư thế khác hẳn với tư thế của con vật,
đảm bảo cho con người phát triển một cách bình thường.
Khi sinh ra trẻ em được thừa hưởng từ thế hệ trước những điều kiện cơ bản nhất
định để có thể phát triển những vận động này chứ không phải khi sinh ra đứa trẻ đã có
ngay những vận động cơ bản đó. Sự hình thành và phát triển những vận động cơ bản
không phải là ngẫu nhiên, mà qua quá trình luyện tập, dưới sự hướng dẫn của người
lớn, nhờ sự bắt chước thường xuyên những hành động mẫu của người lớn.
Những vận động cơ bản cần thiết cho cuộc sống con người và được sử dụng
trong cuộc sống hàng ngày như: đi, chạy, nhảy, bò, trườn,…Năng lực thực hiện các
vận động đó được đánh giá thông qua các tố chất vận động: mạnh, nhanh, bền, dẻo,…
Những vận động đó có đặc điểm chung là tính cơ động. Nó cuốn hút một số
lượng lớn cơ bắp vào hoạt động và làm tăng quá trình làm việc của toàn bộ cơ thể,
đông thời làm tích cực hoá tất cả các quá trình sinh lý. Như vậy nó có ảnh hưởng đến
toàn bộ cơ thể trẻ, tạo khả năng phát triển thể lực và sức khoẻ của trẻ.
Ăng-ghen viết: Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất

cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn
giản cho đến tư duy.
Còn theo quan điểm của Triết học Macxit, vận động hiểu theo nghĩa duy nhất là
sự biển đổi nói chung.
Như vậy, vận động là một trong những điều kiện cơ bản để trẻ nhận thức thế
giới xung quanh. Trẻ em càng nắm được những động tác và hành vi phong phú, vận
dụng nhiều đến cơ bắp làm cho khả năng vận động càng linh hoạt thì sự tiếp xúc của

12


nó với thế giới xung quanh càng rộng, sự phát triển vận động không thể tách rời sự
phát triển tâm lý.
2.2.3. Khái niệm tính tích cực vận động
Các nhà nghiên cứu nhìn nhận tính tích cực vận động dưới những góc đợ khác
nhau.
Theo A.K Ơvalep nhìn nhận tính tích cực vận động dưới hai mức độ: Mức độ
vận động thụ động và mức độ tích cực vận động. Ở đây mức độ tích cực vận động là
mức độ của quá trình nhận thức cá nhân.
V.Ô quan niệm: Tích cực vận động là lòng mong muốn của cá nhân, gây nên
những biểu hiện đối với vận động đó.
Còn R.A Nizamôp cho rằng tính tích cực vận động, thực chất là một hành động
ý chí, một trạng thái hoạt động đặc trưng bởi sự cố gắng của nhận thức cá nhân. Vì vậy
trong hoạt động vận động cần có các yếu tố: Nhận thức, tình cảm, ý chí và các yếu tố
này liên kết với nhau, luôn biến đổi theo mục đích và nhiệm vụ của hoạt động.
Đặng Vũ Hoạt lại có ý kiến khái quát hơn: Tính tích cực vận động biểu hiện ở
chỗ huy động mức độ cao các chức năng tâm lý.
Tính tích cực vận động là một phẩm chất trong nhân cách của mỗi cá nhân tham
gia vào hoạt động, tất cả các hoạt động của con người bao gồm các hoạt động vận
động được thể hiện ở trạng thái, sự kiên trì, ý chí quyết tâm thực hiện các vận động để

có thể tự bản thân có được những kỹ năng, những thao tác.
2.2.4. Đặc điểm vận động của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Vận động của trẻ giai đoạn này đã hoàn thiện. Trẻ từ 5 tuổi trở đi đã có thể vận
động tồn thân, hoặc làm các động tác phức tạp hơn như chơi đá cầu, nhảy dây, leo
trèo, lộn,… Các ngón tay của trẻ 5 - 6 tuổi khơng những có thể hoạt động tự do, mà
động tác cịn nhanh nhẹn và hồn chỉnh hơn, nên có thể cầm bút để viết hoặc vẽ, đồng
thời còn thực hiện nhiều động tác mới và tinh tế hơn. Trẻ 5 – 6 tuổi đang trong trạng
thái vận động liên tục và chúng có vẻ như khơng thể ngồi một chỗ. Chúng có sức chịu
đựng tốt hơn và hiếm khi thừa nhận mình mệt mỏi ngay cả khi chúng mệt thật sự.
Hệ thần kinh trung ương: Là hệ thống điều tiết quan trọng của hoạt động sống.
Các hệ thống cơ quan tiến hành các hoạt động sinh lý khác nhau song lại phối hợp
nhịp nhàng với nhau, trở thành một chính thể thống nhất dưới sự chi phối và điều tiết
thống nhất của hệ thần kinh. Hệ thống thần kinh có tác dụng chi phối và điều tiết đối
với vận động cơ thể. Trung khu thần kinh của đại não nối liền với các dây thần kinh đi
vào cơ bắp của các bộ phận cơ thể, các vận động tiến hành dưới sự chi phối và điều

13


khiển của hệ thần kinh đồng thời vận động cũng có tác động trở lại hệ thần kinh làm
cho quá trình myelin hoá của các sợi đuôi gai thần kinh.
Trẻ 5 – 6 tuổi có hệ thần kinh phát triển, khả năng tập trung chú ý cao trong quá
trình vận động, các vận động cơ bản được thực hiện tương đối chính xác, mềm dẻo thể
hiện sự khéo léo trong vận động. Trẻ có khả năng quan sát thực hiện nhiệm vụ của
mình một cách nhanh chóng, đó là điều kiện tốt nhất để tổ chức các trò chơi dân gian,
thông qua các trò chơi dân gian thì tính tích cực vận động của trẻ sẽ đạt được mức
hoàn hảo hơn, vì vậy cần lựa chọn nhiều trò chơi dân gian có tác dụng toàn diện đến
các bộ phận cơ thể để rèn luyện và phát triển tính tích cực vận động cho trẻ.
Bộ xương: Có tỷ lệ chất hữu cơ cao hơn vô cơ nên có tính đàn hồi cao hơn
xương người lớn, nhưng xương của trẻ dễ bị cong. Thành phần và cấu tạo của xương

trẻ cũng chưa hoàn hảo, lượng nước trong xương còn cao, trong xương chứa nhiều
sụn. Do đó cần tránh các hình thức vận động căng thẳng hoặc gây chấn động mạnh vì
dễ tổn thương các đầu xương. Kỹ năng vận động của trẻ 5 – 6 tuổi dần dần đi đến hoàn
thiện, vận động được hình thành một cách nhanh chóng và dễ được củng cố. Sự phát
triển của bộ xương đã làm điểm tựa cho vận động và bảo vệ các cơ quan bên trong, trẻ
có nhu cầu vận động rất cao, hiếu động và hầu như không biết mệt mỏi.
Hệ cơ: Phát triển yếu, cơ bắp, gân và mô liên kết của khớp xương còn rất yếu, tỉ
lệ nước còn chiếm nhiều. Vì vậy, nếu cho trẻ tập quá sức có thể dẫn đến việc làm tổn
thương các khớp xương và ảnh hưởng đến sự phát triển vận động của trẻ, trong thời
gian cho trẻ vận động phải xen kẽ với nghỉ ngơi một cách hợp lý.
2.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển tính tích cực vận động
Yếu tố khách quan
Trong quá trình tổ chức các trò chơi dân gian nhằm phát triển tính tích cực vận
động cho trẻ 5 – 6 tuổi chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như: Nhà trường, giáo viên, địa
điểm tổ chức, đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị và bản thân trẻ.
Nhà trường: Có thể nói Trường Mầm non là ngôi nhà thứ hai của trẻ. Ở trường
trẻ được chơi, được học, được khám phá, điều này có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
của trẻ. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức các trò chơi dân gian cho trẻ, nhà
trường cần có kế hoạch cụ thể hơn nữa trong việc đưa ra các biện pháp cũng như cách
giải quyết các khó khăn trong việc tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ.
Giáo viên: Giáo viên là người nắm được các đặc điểm riêng của từng trẻ. Nếu
giáo viên chủ động, sáng tạo trong việc sưu tầm, đưa ra các biện pháp cũng như cách
tổ chức sao cho phù hợp với từng trò chơi thì sẽ tạo điều kiện phát triển ở trẻ tính tích
cực vận động.

14


Địa điểm tổ chức: Để giúp trẻ được chơi thoải mái thì cần chọn địa điểm chơi
thoáng mát, rộng rãi phù hợp với từng trò chơi khác nhau. Có thể tổ chức cho trẻ chơi

ở trong lớp hay ngoài sân tuỳ thuộc vào nội dung của trò chơi, thời tiết,…Ví dụ: khi tổ
chức trò chơi “Lộn cầu vồng”, nếu thời tiết khô ráo, thoáng mát có thể tổ chức cho trẻ
chơi ở sân trường có nhiều bóng mát để trẻ thấy không bị gò bó.
Đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị: Trước khi tổ chức một trò chơi, giáo viên chuẩn
bị đồ dùng, đồ chơi, trang thiết bị hỗ trợ trong quá trình chơi phải đầy đủ và đảm bảo
yêu cầu của trò chơi. Đồ dùng, đồ chơi của trẻ phải đảm bảo về tính thẩm mỹ (đẹp, có
nhiều màu sắc), an toàn cho trẻ trong quá trình chơi (không quá nhỏ, không sắc nhọn,
…). Điều đó sẽ kích thích được ham muốn được chơi của trẻ. Giáo viên cần chủ động
hơn nữa trong việc tìm kiếm nguồn trò chơi, tránh chơi một trò chơi lặp đi lặp lại
nhiều lần sẽ khiến cho trẻ nhàm chán, không tập trung trong quá trình chơi. Số lượng
trẻ quá đông sẽ gây khó khăn trong việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian, do
đó giáo viên cần tổ chức sao cho tất cả các cháu đều được tham gia vào trò chơi.
Để tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian cần có một số lượng đồ dùng, đồ
chơi, trang thiết bị hỗ trợ nhất định, có như vậy mới kích thích sự tập trung chú ý,
quan sát ở trẻ, hấp dẫn trẻ hứng thú tham gia vào trò chơi. Nhờ có đồ dùng, đồ chơi
cùng với nhiệm vụ chơi sẽ phát triển ở trẻ tính tích cực vận động, tạo điều kiện cơ sở
cho trẻ có cơ hội phát triển các phẩm chất khác.
Bản thân trẻ: Việc tổ chức các trò chơi dân gian cho trẻ còn phụ thuộc vào tình
trạng sức khoẻ của từng cá nhân trẻ, thường thì những trẻ hay đau ốm, có sức khoẻ
không tốt thì giáo viên hay cho trẻ chơi thành một nhóm riêng. Ngoài ra tính cách, khí
chất,…của trẻ cũng ảnh hưởng lớn tơi mức độ chơi trò chơi dân gian của trẻ (mạnh
dạn, tự tin hay e dè, sợ sệt, nhanh nhẹn hay chậm chạp,…). Bên cạnh đó còn phụ thuộc
vào tính tích cực và thái độ của trẻ ki tham gia vào các trò chơi dân gian, những trẻ
càng tích cực tham gia vào hoạt động thì càng có cơ hội để phát triển nhiều hơn, vì vậy
trong quá trình tổ chức trò chơi dân gian nhằm phát triển tính tích cực vận động cho
trẻ cần khơi dậy và phát huy tính tích cực hoạt động ở trẻ hơn nữa
Yếu tố chủ quan:
Ngoài các yếu tố khách quan, khi tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ 5 – 6 tuổi
còn chịu ảnh hưởng của yếu tố chủ quan như: Lựa chọn biện pháp, hình thức tổ chức.
Lựa chọn biện pháp: Việc lựa chọn các biện pháp trong tổ chức trò chơi dân

gian của giáo viên là rất quan trọng. Nếu lựa chọn biện pháp phù hợp với từng trò chơi
thì sẽ giúp trẻ hứng thú, tích cực khi tham gia vào trò chơi, tạo điều kiện cho việc phát
triển tính tích cực vận động của trẻ.

15


Để tổ chức cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi chơi trò chơi dân gian, người tổ chức
phải có hiểu biết về các trò chơi dân gian, nắm vững cách chơi, luật chơi. Từ đó hình
dung ra cách tổ chức cho trẻ chơi.
Khi lựa chọn các trò chơi dân gian phải tuỳ thuộc vào khả năng nhận thức của
trẻ, cũng như mức độ hứng thú chơi, tuỳ thuộc vào tình trạng sức khoẻ của trẻ mà có
thể tổ chức cho trẻ chơi theo từng nhóm, theo lớp. Với những trẻ hay đau ốm, bệnh tật
thì giáo viên có thể trực tiếp tổ chức cho trẻ chơi cùng cô hay theo nhóm bạn riêng.
Giáo viên tiến hành sưu tầm và lựa chọn các trò chơi dân gian sao cho phù hợp
với khả năng, đặc điểm tâm sinh lý trẻ, để lôi cuốn, hấp dẫn trẻ vào trò chơi. Trẻ có
tích cực tham gia vào trò chơi hay không còn phụ thuộc vào cách tổ chức, khả năng tổ
chức của giáo viên.
Hình thức tổ chức: Hình thức tổ chức trò chơi phải thay đổi, tránh lặp đi lặp lại
một hình thức chơi khiến trẻ nhàm chán, thường xuyên tạo ra những tình huống chơi
mang tính có vấn đề, tính tìm kiếm và cuốn hút trẻ vào các tình huống chơi ấy, có kế
hoạch tổ chức các trò chơi dân gian đan xen với các hoạt động trong ngày, lựa chọn
thời điểm hợp lý để trẻ chơi một cách thoải mái. Căn cứ vào cách chơi, luật chơi, số
lượng trẻ chơi mà giáo viên lựa chọn địa điểm chơi sao cho phù hợp.
2.3. Đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ 5 -6 tuổi
2.3.1. Đặc điểm phát triển tâm lý
Độ tuổi Mẫu giáo 5 – 6 tuổi là giai đoạn cuối cùng của trẻ em lứa tuổi mầm
non, tức là lửa tuổi trước khi đến trường phổ thông. Ở lứa tuổi này tất cả các quá trình
tâm lý của trẻ đều có sự thay đổi đáng kể, trẻ có những đặc điểm, những quy luật phát
triển độc đáo không giống với bất kỳ giai đoạn phát triển nào sau này. Như L.N

Tônxtôi đã nhận định về thời kỳ này: “Tất cả những gì mà đứa trẻ có sau này khi trở
thành người lớn đều đã thu nhận được trong thời kỳ thơ ấu. Trong quãng đời còn lại,
những cái mà nó thu nhận được chỉ đáng một phần trăm những cái đó thôi”.
Do vậy giáo dục trẻ, đặc biệt là trẻ mẫu giáo lớn đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt
của các nhà giáo dục. Với sự giáo dục của người lớn,những chức năng tâm lý đó sẽ
được hoàn thiện về mọi phương diện của hoạt động tâm lý (nhận thức, tình cảm, ý chí,
tư duy, ngôn ngữ) để hoàn thiện việc xây dựng những cơ sở ban đầu về nhân cách của
con người.
Lứa tuổi mẫu giáo là thời kỳ bộc lộ nhạy cảm cao nhất đối với hình thức ngôn
ngữ. Điều đó khiến cho sự phát triển ngôn ngữ của trẻ đạt tốc độ khá nhanh và đến
cuối lứa tuổi mẫu giáo trẻ em đã biết sử dụng tiếng mẹ đẻ thành thạo trong sinh hoạt
hàng ngày, và ở cuối tuổi mẫu giáo thì trẻ đã nắm vững ngữ âm, ngữ điệu khi sử dụng
tiếng mẹ đẻ như đọc diễn cảm, biết dùng cử chỉ, điệu bộ bổ sung cho phù hợp với nội
16


dung giao tiếp. Với đặc điểm này là điều kiện tốt nhất để dạy trẻ các bài đồng dao
trong trò chơi dân gian, trẻ có thể vừa chơi, vừa vận động chân tay, vừa đọc lời đồng
dao. Lời đồng dao kích thích trẻ chơi, thực tế cho thấy trẻ rất thích những trò chơi dân
gian có lời đồng dao. Khi được đọc đồng dao vốn từ tăng lên, trẻ tích luỹ được nhiều
vốn từ phong phú hơn, trẻ chú ý đến ý nghĩa của lời nói. Vì vậy khi tổ chức cho trẻ
chơi trò chơi dân gian có lời đồng dao cần giải thích cho trẻ hiểu, giải thích ngắn gọn,
dễ hiểu.
Đặc điểm nổi bật của trẻ 5 – 6 tuổi là xuất hiện ý thức bản ngã, trẻ tự ý thức
được vai trò vị trí của bản thân trong gia đình, trường lớp, cũng như sự đánh giá của
người lớn, bạn bè xung quanh đối với kết quả hoạt động của mình. Trong quá trình
tham gia trò chơi, trẻ ý thức được nhiệm vụ của mình, bắt đầu quan tâm đến kết quả
tập, mong muốn được sự đánh giá tốt của mọi người. Và sự tự ý thức còn biểu hiện rõ
trong sự phát triển giới tính của trẻ. Ở lứa tuổi này trẻ không những nhận ra mình là
trai hay gái, mà còn biết thể hiện hành vi phù hợp với giới tính của mình. Đây là cơ

hội tốt để tổ chức trò chơi tập thể cho trẻ.
Ở lứa tuổi việc đặt mục đích cho hành động và việc lập kế hoạch để thực hiện
hành động thường được thể hiện rất rõ nét. Điều đó thúc đẩy các hành động định
hướng bên trong (tức là quá trình tâm lý) phát triển mang tính chủ định rõ ràng. Tính
chủ định này được phát triển cùng với sự tiến triển của hoạt động vui chơi ở trẻ mẫu
giáo lớn như trò chơi dân gian, khi tham gia các trò chơi, động cơ hoạt động của trẻ
nằm chính trong quá trình chơi. Trẻ mãi mê chơi không cần biết đến kết quả của việc
chơi. Vào cuối tuổi mẫu giáo bên cạnh trò chơi dân gian còn xuất hiện khá nhiều trò
chơi có luật, hành động của trẻ trở nên có mục đích hơn. Khi tham gia chơi, động cơ
của trẻ không chỉ nằm trong quá trình chơi mà còn trong kết quả chơi. Nhờ có sự thay
đổi này mà các hoạt động tâm lý bên trong được biến đổi một cách rõ rệt, từ quá trình
tâm lý không chủ định sang quá trình tâm lý có chủ định như tri giác có chủ định, chú
ý có chủ định, ghi nhớ có chủ định,…Đây là một đặc điểm tâm lý rất quan trọng mà
giáo viên cần quan tâm khi tổ chức trò chơi cho trẻ mẫu giáo lớn, bởi vì nó ảnh hưởng
rất nhiều đến hứng thú chơi của trẻ, và tất nhiên ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động.
Dựa vào đặc điểm này khi tổ chức trò chơi dân gian giáo viên phải chú ý tạo cho trẻ sự
hứng thú, hấp dẫn, tăng sự chú ý của trẻ.
Trẻ 5 – 6 tuổi bộc lộ hành vi nhận thức của mình một cách thích thú, trẻ dễ dàng
hứng thú thực hiện nhiệm vụ của mình, biết nhận xét: Đây là cơ sở để tổ chức trò chơi
dân gian cho trẻ, khi chơi trò chơi dân gian trẻ giải quyết một nhiệm vụ nào đó, sẽ có
một kết quả chơi, trẻ cần biết nhận xét kết quả chơi của các trò chơi đó. Ở lứa tuổi này
độ nhạy cảm của các giác quan được tinh nhạy hơn, khả năng kiềm chế các phản ứng

17


tâm lý được phát triển, nhiều trò chơi dân gian cũng đòi hỏi sự tinh nhạy của các giác
quan, như biết hướng di chuyển của người bị bắt trong trò chơi “Bịt mắt bắt dê”, vị trí
ẩn nấp của bạn trong trò chơi “Trốn tìm”. Các trò chơi dân gian luôn có kết quả chơi
bất ngờ, ai cũng muốn phần thắng về mình, khi thắng hay thua, trẻ phải biết khiềm chế

cảm xúc vui, buồn của mình.
Ở tuổi mẫu giáo lớn, tư duy của trẻ chuyển từ bình diện bên ngoài vào bình diện
bên trong, tư duy trực quan hình tượng đã dần thay thế cho lối tư duy trực quan hành
động, tức là trẻ sẽ dựa vào những hình ảnh, biểu tượng, kinh nghiệm đã có để suy luận
ra những điều mới. Trẻ phân biệt được cái thực trong cuộc sống, cái hư trong trò chơi,
trẻ có tư duy trừu tượng với các con số, không gian, quan hệ xã hội, khi chơi các trò
chơi dân gian này đòi hỏi trẻ phải có sự tư duy trừu tượng và tư duy trừu tượng này sẽ
được củng cố qua các trò chơi dân gian.
Một trong đặc điểm nổi bật của tâm lý trẻ thơ, làm cho trẻ tin yêu vào cuộc
sống, vào màu sắc kỳ diệu là trí tưởng tượng. Ở trẻ mẫu giáo đặc điểm này rất phát
triển mạnh mẽ và gần như chi phối mọi hoạt động tâm lý của trẻ thơ, trẻ thường sống
với những tưởng tượng của mình một cách trọn vẹn về thế giới không có thực, về một
sự vật hiện tượng không tồn tại trước mắt trẻ. Ví dụ trong trò chơi “Mèo đuổi chuột”
trẻ phải tưởng tượng mình là chuột thì phải chạy thật nhanh để không bị mèo bắt lại,
còn mèo phải chạy nhanh để bắt chuột. Trò chơi dân gian giúp trẻ phát triển trí tưởng
tượng, trí tưởng tượng làm cho trò chơi dân gian có thêm nhiều tình huống, nhiều đồ
chơi, cuộc chơi vui vẻ hơn.
Trẻ thơ có một tâm hồn nhạy cảm, ham hiểu biết, trẻ muốn tìm tòi khám phá
những điều mới lạ, trẻ thường tỏ ra dễ xúc cảm đối với cảnh vật và con người xung
quanh, trẻ nhìn thế giới bằng cặp mắt trong sáng hồn nhiên. Các trò chơi dân gian phản
ánh cuộc sống con người, thế giới tự nhiên, trẻ thích thú khám phá điều đó và thể hiện
tình cảm, cảm xúc của mình. Lứa tuổi này trẻ xuất hiện tình cảm bạn bè, trẻ cùng rũ
nhau chơi, cùng đoàn kết phối hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ chơi, trẻ vui khi
mình chiến thắng, buồn khi đội mình thua. Sau nhiều lần chơi một trò chơi nào đó trẻ
sẽ biết cách chơi đạt kết quả cao hơn những lần chơi trước, trong quá trình chơi tính tò
mò, ham hiểu biết làm nảy sinh nhiều xúc cảm tích cực.
Sự phát triển ý chí của trẻ lứa tuổi này cao hơn, thể hiện ở sự cố gắng hoàn
thành nhiệm vụ được giao trong thời gian ngắn, số lượng nhiều hơn. Sự phát triển ý
chí mạnh hay yếu tuỳ thuộc phần lớn vào sự giáo dục của cha mẹ, cô giáo, mọi người
lớn xung quanh.


18


2.3.2. Đặc điểm phát triển sinh lý của trẻ 5 – 6 tuổi
Cơ thể trẻ em là một cơ thể đang lớn và phát triển,đang hoàn thiện về cấu trúc
và chức năng, Đặc biệt là thời kỳ trẻ 5 – 6 tuổi là thời kỳ hoàn thiện các cơ quan trong
cơ thể.
Các cơ quan và các hệ cơ quan của cơ thể trẻ em phát triển đến đâu thì vận
động phát triển đến đó, tốc độ trưởng thành ở lứa tuổi mầm non diễn ra tương đối
nhanh, nhưng không đồng đều. Ở một lứa tuổi ta thấy chiều cao tăng nhanh, ở một lứa
tuổi khác thì trọng lượng cơ thể tăng nhanh, đồng thời chiều cao tăng chậm lại.
2.3.3. Vai trò của trò chơi dân gian đối với sự phát triển tính tích cực vận động của
trẻ
Tư duy, sự tập trung ở trẻ mầm non còn rất hạn chế, trẻ không thể tiếp thu các
kiến thức một cách bài bản, có hệ thống như trẻ ở phổ thơng.Vì thế cần tạo cho trẻ môi
trường để trẻ được hoạt động, trải nghiệm, vui chơi, từ đó trẻ có thể tiếp thu kiến thức
một cách nhẹ nhàng, tự nhiên hơn. Trẻ học mà chơi, chơi mà học, qua chơi việc giáo
dục trẻ trở nên nhẹ nhàng và đạt hiệu quả cao hơn. Đối với trẻ mầm non thì việc tở
chức cho trẻ chơi trò chơi dân gian có vai trị quan trọng nhất đối với sự phát triển của
trẻ cụ thể là:
Trò chơi dân gian ảnh hưởng mạnh đến sự hình thành tính tích cực vận đợng
của các q trình tâm lý ở trẻ, mà các quá trình tâm lý nó tác đợng đến tính tích cực
vận đợng. Trong trị chơi trẻ bắt đầu hình thành chú ý có chủ định và ghi nhớ có chủ
định. Bản thân trị chơi buộc trẻ phải tập trung vào một số đối tượng được đưa vào trò
chơi và nội dung của chủ đề chơi. Nếu trẻ nào không chú ý và không nhớ được những
điều kiện của trị chơi thì nó sẽ hành động lung tung và không được bạn cùng chơi
chấp nhận. Cho nên để trị chơi được thành cơng buộc trẻ phải tập trung chú ý và ghi
nhớ có mục đích để phát huy hết khả năng tập trung, tích cực vận động trong khi chơi.
Trong trò chơi dân gian thì tình huống chơi và những hành động chơi ảnh

hưởng thường xuyên đến sự phát triển của hoạt động trí tuệ đặc biệt là tư duy của trẻ
mà yếu tố này là huy động tính tích cực vận động. Trong hoạt động vui chơi đứa trẻ
học thay thế đồ vật này bằng đồ vật khác, nhận đóng các vai khác nhau. Đó chính là cơ
sở để phát triển trí tưởng tượng, trò chơi dân gian cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển ngơn ngữ của trẻ. Tình huống chơi địi hỏi mọi đứa trẻ tham gia vào trị chơi phải
có một trình độ giao tiếp bằng ngôn ngữ nhất định. Nếu đứa trẻ không diễn đạt được
mạch lạc nguyện vọng, ý kiến của mình, nếu nó khơng hiểu được lời chỉ dẫn hay bàn
bạc của bạn cùng chơi thì nó khơng thể tham gia vào trị chơi được.
Bên cạnh đó trò chơi dân gian có tác động rất mạnh đến đời sống tình cảm của
trẻ. Đứa trẻ lao vào trị chơi với tất cả tinh thần say mê của nó, trong khi chơi nó tỏ ra
19


rất sung sướng và nhiệt tình. Khi phản ánh vào trò chơi những mối quan hệ giữa người
với người và nhập vào những mối quan hệ đó thì những rung động mang tính người
được gợi lên ở trẻ. Trong trị chơi trẻ thể hiện được tình người, trò chơi tác động mạnh
đến trẻ em trước hết là vì nó thâm nhập một cách dễ dàng hơn cả vào thế giới tình cảm
của chúng mà tình cảm đối với trẻ lại là động cơ mạnh mẽ nhất để trẻ tích cực vận
động trong trò chơi.
3. Hoạt động thể dục ở trường Mầm non
3.1. Khái niệm thể dục
Trong đời sống và trong một số chuyên môn chúng ta thường gặp một số cụm
từ chuyên môn như: thể dục, thể chất, thể lực,…Các khái niệm này thường được dùng
trong các tài liệu nghiên cứu về sức khoẻ con người. Tuy nhiên các khái niệm này
không đồng nhất và thương được hiểu một cách khác nhau ở các lĩnh vực chuyên môn
khác nhau.
Thể dục là một khái niệm rộng lớn, được coi là một phương tiện và phương
pháp của sự giáo dục thể chất toàn diện. Thể dục bao gồm một hệ thống động tác, bài
tập thể dục được lựa chọn, có tác dụng toàn diện đến cơ thể con người, tăng cường quá
trình chức năng cơ bản của nó, thuận lợi cho sự phát triển cân đối và nâng cao trương

lực sống. Bằng các động tác thể dục, hình thành ở trẻ những thói quen vận động cần
thiết cho cuộc sống và sự chính xác của sự vận động, phát triển vận động khéo léo,
nhanh nhẹn, mạnh mẽ, bền bỉ. Thể dục được áp dục cho tất cả mọi lứa tuổi.
Dựa vào đặc điểm của các động tác và nhiệm vụ vận động, thể dục được chia
thành ba loại: Thể dục phát triển chung (Các bài tập phát triển chung, bài tập vận động
cơ bản, thể dục sáng, …); Thể dục thiên về thể thao (Thể dục nghệ thuật nhịp điệu, thể
dục nhào lộn, thể dục dụng cụ) và thể dục ứng dụng (Thể dục nghề nghiệp, thể dục
dưỡng sinh).
3.2. Đặc điểm giờ học thể dục của trẻ ở trường Mầm non
Tập thể dục hàng ngày cho trẻ tiến hành mỗi ngày 2 lần vào buối sáng và buổi
chiều sau khi học ở trên lớp xong, mỗi lần từ 15 – 30 phút. Lựa chọn động tác, xác
định khối lượng, thời gian, phương pháp tập luyện phải căn cứ theo lứa tuổi và đặc
điểm cá nhân của từng cháu. Đối với trẻ mẫu giáo không nhất thiết phải tập vào một
thời gian nhất định, những bài tập mang tính trị chơi dưới các dạng bắt chước ngắn và
liên kết thành một chuỗi 6 – 10 động tác sẽ tạo cho trẻ óc tưởng tượng, sáng tạo. Trước
khi tập cơ giải thích bằng giọng nói rõ ràng lơi cuốn sự chú ý của trẻ. Hãy cố gắng
nghĩ tên gọi dễ nhớ cho mỗi động tác để trẻ dễ hình dung chúng sẽ làm như thế nào.
Những động tác, bài tập chuyển thành hình thức trị chơi giúp trẻ hứng thú, nhưng cần
chú ý thích hợp với lứa tuổi và sự phát triển của trẻ.
20


Thời gian các buổi tập cho trẻ 3 – 4 tuổi là 15 – 18 phút, cho trẻ 5 – 6 tuổi là 20
– 25 phút. Trong khi tập, cô giáo cũng hướng dẫn cho trẻ thở đều đặn, tự nhiên thoải
mái. Nếu trẻ có cảm giác khơng khoẻ thì ngừng tập ngay và nên tìm hiểu nguyên nhân
gây ra tình trạng ấy.
3.3. Cấu trúc của mợt giờ học thể dục
Cấu trúc của một giờ học thể dục gồm ba phần liên quan chặt chẽ với nhau, đó
là khởi động, trọng động và hồi tĩnh.
Khởi động: Khởi động nhằm mục đích động viên kích động cơ thể, làm cân

bằng trạng thái chức năng của các cơ quan nội tạng với chức năng của các cơ quan vận
động, để phát huy tối đa năng lực hoạt động của cơ thể. Khởi động là làm cho cơ bắp
từ từ nóng lên (bằng các động tác thể dục tay không như: tay, lườn, bụng, vặn mình,
chân, tồn thân, nhảy, chạy nhẹ nhàng, hay bằng xoa bóp,…); Làm cho các khớp được
dẻo ra và linh hoạt hơn (bằng cách xoay các khớp: cổ tay, cổ chân, gối, hông, vai,
khuỷa, và khớp cổ), tiếp theo là các động tác căng các cơ.
Trọng động : Đây là phần chính của buổi tập , bằng cách thơng qua các bài tập,
phần này sẽ bao gồm các nội dung cần được huấn luyện, đó là: Kỹ thuật động tác,
chiến thuật, thể lực (khối lượng, cường độ), tâm lý thể thao.
Thực hiện bài tập phát triển chung: Phát triển và rèn luyện các nhóm cơ chính
như cơ bả vai, cơ chân, cơ mình, những động tác phát triển hệ hô hấp và những động
tác hỗ trợ cho bài vận động cơ bản.
Vận động cơ bản: Hình thành và vận động kỹ năng cơ bản ở trẻ, giáo viên cần
phải hướng dẫn tỉ mỉ theo từng bước.
Trò chơi vận động: Củng cố rèn luyện và hỗ trợ cho bài tập vận động cơ bản.
Hồi tĩnh: Khi tham gia tập luyện, cơ thể sẽ đi dần vào mệt mỏi do trong quá
trình vận động cơ thể bị tiêu hao năng lượng, để cơ thể có thể trở lại trạng thái bình
thường, ngay sau buổi tập, người tập phải tiến hành những bài tập thả lỏng để hồi phục
như: chạy chậm, đi bộ kết hợp với hít thở sâu, thực hiện các bài tập căng cơ…Thời
gian thả lỏng hồi phục phải tỷ lệ tương ứng với (tính chất của buổi tập) thời gian, khối
lượng, cường độ khi tập luyện. Người tập cần phải thả lỏng tích cực, có nghĩa là cần
phải kết hợp với tắm rửa, nghỉ ngơi, dinh dưỡng tốt…
3.4. Nội dung hoạt động thể dục của trẻ 5 – 6 tuổi
Đội hình, đội ngũ: Bao gồm đi, chạy theo vòng tròn; xếp hàng dọc theo tổ; xếp
hàng ngang theo tổ; chuyển từ một hàng dọc thành hai hàng dọc; chuyển từ một hàng
ngang thành hai hàng ngang; chuyển từ một vòng tròn thành hai vòng tròn.

21



Bài tập phát triển chung: Gồm những động tác phát triển hô hấp nhằm giúp cho
trẻ hít thở sâu và phát triển cơ hô hấp.
Những động tác phát triển cơ tay vai: Có thể tập với cờ, nơ, gậy.
Những động tác phát triển cơ chân, phát triển cơ lưng bụng lườn và những động
tác bật nhảy.
Vận động cơ bản: bao gồm các vận động đi, chạy, nhảy, tung bắt bóng, chuyền
bóng, ném trúng đích, bò, lăn, trườn, trèo và chạy.
Trò chơi vận động: Gồm một số trò chơi nhằm củng cố lại các vận động đã học
như kéo co, nhảy tiếp sức, nhảy lò cò,…
3.5. Cách tổ chức một hoạt động thể dục cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Phần chuẩn bị
Được sử dụng để tổ chức và ổn định trẻ, tạo trạng thái tâm lý để trẻ tự giác tích
cực và sẵn sàng hồn thành nhiệm vụ đặt ra, đồng thời chuẩn bị cho cơ thể hoạt động ở
mức độ cao hơn của phần tiếp theo.
Phần chuẩn bị nó khơng chỉ hỗ trợ đơn thuần, mà cịn giải quyết những nhiệm
vụ tương đối độc lập như: hình thành và củng cố các kỹ xảo trong các vận động, thói
quen duy trì tinh thần tích cực vận đợng.
Một trong những điểm quan trọng nhất đối với hoạt động của giáo viên ở phần
chuẩn bị là xác định nhiệm vụ cho giờ học, nhiệm vụ đó phải có mối liên hệ của giờ
học này với giờ học trước và ý nghĩa của những nhiệm vụ vừa đặt ra, động viên trẻ
tích cực tham gia học tập. Song cần chú ý đến nhiệm vụ đưa ra phải phù hợp với đối
tượng đang dạy.
Phần cơ bản
Thành phần các bài thể dục của tiết học tổng hợp phải có tác động tồn diện đến
các chức năng cơ thể và biết vận dụng khả năng di chuyển tốt kỹ năng, kỹ xảo vận
động.
Thông thường người ta sắp xếp những động tác mới, kỹ thuật phức tạp vào đầu phần
cơ bản, còn củng cố hoặc hoàn thiện những kỹ thuật động tác vào phần giữa hay phần
cuối của phần cơ bản.
Số lần lặp lại các động tác riêng lẻ phụ thuộc vào nhiệm vụ của giờ học, mức

độ phức tạp và khối lượng các động tác đó trong giờ học, điều kiện tiến hành tập luyện
và phương pháp tổ chức.
Phần kết thúc

22


Dần chuyển cơ thể trẻ từ trạng thái hoạt động sang trạng thái gần với lúc yên
tĩnh, góp phần chuyển hướng thuận lợi sang một hoạt động học tập khác. Thường sử
dụng các bài tập thở, thả lỏng, nghỉ ngơi tích cực,…
Giáo viên tiến hành đánh giá ngắn gọn những ưu, nhược điểm, kết quả của trẻ
qua giờ học.
Từ đó, tôi chọn cách tổ chức trò chơi vận động dân gian qua hoạt động thể dục
cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non vào các thời điểm như: Thể dục sáng; Thể dục
chiều; Khi dạo chơi; Thể dục giờ học.
4. Biện pháp
4.1. Cơ sở lựa chọn các biện pháp
Dựa vào mục tiêu giáo dục Mầm non nói chung và yêu cầu cần đạt của lứa tuổi
mẫu giáo lớn nói riêng về nhận thức, trí tuệ, ngôn ngữ, đặc biệt là thể dục và các nhu
cầu của trẻ. Để từ đó chúng ta tìm hiểu và đưa ra một số biện pháp tổ chức trò chơi dân
gian nhằm phát triển tính tích cực vận động cho trẻ qua hoạt động thể dục. Đây là một
việc cần thiết vì nó mang lại cho mỗi đứa trẻ niềm vui, sự tự tin, sự mạnh dạn và có
một sức khoẻ tốt để tham gia vào tất cả các hoạt động trong cuộc sống.
Dựa vào đặc điểm tâm sinh lý vận động của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, các quá
trình tâm lý của trẻ được hoàn thiện, khả năng chú ý tăng, có thể khái quát hoá một số
hiện tượng, trẻ hiểu được nhiệm vụ của mình, có thể nhanh nhẹn nhận thấy những yêu
cầu chính trong lúc thực hiện vận động. Tốc độ trưởng thành của trẻ tăng nhanh, các
vận động được hình thành một cách nhanh chóng và dễ được củng cố.
Dựa vào các hoạt động vui chơi của trẻ, trong đó có trò chơi vận động dân gian,
thông qua trò chơi dân gian trẻ không chỉ được tiếp xúc được thoả mãn nhu cầu vui

chơi, mà cho trẻ phát triển nhận thức về thế giới xung quanh, về các mối quan hệ trong
xã hội.
4.2. Các biện pháp
4.2.1. Biện pháp 1: Lựa chọn, sưu tầm các trò chơi dân gian phù hợp với mục đích
phát triển tính tích cực vận động qua hoạt động thể dục cho trẻ mẫu giáo 5 –
6 tuổi
Mục đích
Kho tàng các trò chơi dân gian Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng, việc
sưu tầm và lựa chọn trò chơi là một khâu quan trọng trong công tác tổ chức cho trẻ
chơi. Nó giúp cho giáo viên tìm được những trò chơi phù hợp với đặc điểm nhận thức,
kỹ năng chơi của trẻ. Nếu sưu tầm và lựa chọn được những trò chơi phù hợp thì sẽ lôi

23


cuốn trẻ tích cực, hứng thú tham gia chơi, kích thích vận động một cách tích cực và
giúp trẻ giải quyết nhiệm vụ dễ dàng hơn.
Ví dụ như các trò chơi: “Trốn tìm”, “Lộn cầu vồng”, “Dung dăng dung dẻ”,…
Cách tiến hành
Sưu tầm các trò chơi dân gian ở thư viện, nghiên cứu và tìm tòi thông qua sách
báo, internet, các bài tham khảo,…

Điều kiện thực hiện
Tạo điều kiện tốt cho trẻ luyện tập phát triển tích cực vận động, phù hợp với khả
năng, hiểu biết của trẻ.
Trò chơi phải cuốn hút trẻ, vhinhs sự cuốn hút, hấp dẫn của trò chơi sẽ kích
thích trẻ vận động tích cực hơn.
4.2.2. Biện pháp 2: Lập kế hoạch tổ chức cho trò chơi
Mục đích
Nhằm định hướng hoạt động của cô và của trẻ trong trò chơi.

Nội dung của biện pháp này là tổ hợp các biện pháp sư phạm được lựa chọn và
phân bố theo trình tự hoạt động của cô và trẻ trong khoảng thời gian nhất định nhằm
phát triển trò chơi.
Cách tiến hành
Xác định cơ sở để lập kế hoạch chơi. Sau đó tiến hành lập kế hoạch tổ chức
chơi: Xác định mục đích, yêu cầu, lựa chọn nội dung chơi trò chơi dân gian và hình
thức, biện pháp tổ chức chơi linh hoạt phù hợp với mục đích yêu cầu, dự tính địa điểm,
thời gian chơi và đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu chơi,…
4.2.3. Biện pháp 3: Tạo ra những tình huống chơi có vấn đề để cuốn hút trẻ vào các
tình huống chơi đó
Mục đích
Tạo điều kiện cho trẻ tìm kiếm những phương thức mới để giải quyết nhiệm vụ
trong hoàn cảnh và điều kiện mới. Tạo ra những tình huống mới và đòi hỏi trẻ phải giải
quyết nhiệm vụ bằng phương pháp mới.
Cách tiến hành
Trong khi trẻ chơi cô giáo đặt ra cho trẻ những tình huống chơi mang tính có
vấn đề, bằng cách đưa ra các tình huống chơi mới, khó hơn so với khả năng của trẻ.
Làm phức tạp dần các nhiệm vụ chơi, nâng cao yêu cầu chơi,…Cô giáo hướng sự chú
24


ý của trẻ vào vấn đề vừa xuất hiện, giúp trẻ tích cực vận động và ý thức được nhiệm
vụ trong trò chơi dân gian.
Khi trẻ chơi cô phải quan sát và nắm bắt nhu cầu hứng thú của trẻ, tạo ra các cơ
hội, điều kiện để khuyến khích trẻ tham gia vào hoạt động tìm hiểu, khám phá thế giới
xung quanh ở mọi lúc mọi nơi. Ngoài ra giáo viên cần phải tạo ra môi trường thuận lợi
để trẻ tự phát hiện và giải quyết vấn đề.

4.2.4. Biện pháp 4: Động viên, khen ngợi trẻ trong khi chơi
Mục đích

Động viên, khen ngợi trẻ, giúp trẻ trong khi chơi là một biện pháp phù hợp với
đặc điểm tâm lý của trẻ mẫu giáo. Nó giữ vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục
tình cảm đạo đức xã hội, biện pháp này góp phần hình thành những xúc cảm, tình cảm
cho trẻ đối với trò chơi dân gian. Khi tham gia chơi, nếu được cô giáo động viên, khen
ngợi kịp thời sẽ tạo cho trẻ sự tự tin vào bản thân, từ đó trẻ tích cực, mạnh dạn tham
gia vào trò chơi tích cực hoàn thiện nhiệm vụ chơi.
Tạo không khí thi đua giữa các cá nhân và nhóm trẻ để khuyến khích trẻ thi đua
thực hiện nhiệm vụ của trò chơi.
Cách tiến hành
Trong quá trình tổ chức trò chơi dân gian, cô giáo có thể sử dụng các hình thức
thi đua, khen ngợi, biểu dương,…để động viên, khuyến khích trẻ, tạo hứng thú cho trẻ
tích cực tham gia vào trò chơi và là động lực cho trẻ hoàn thành nhiệm vụ chơi, kết
quả chơi.
Thực hiện động viên khuyến khích với nhiều hình thức khác nhau như: Nhắc
nhở, khen ngợi, thi đua, nêu gương,…tạo cơ hội cho trẻ tích cực vận động trong trò
chơi dân gian.
Hình thức khen ngợi có tác dụng củng cố tinh thần, niềm tin ở trẻ và động viên
trẻ noi theo. Vì vậy khi khen ngợi phải có lý do xác đáng. Khen ngợi khi trẻ có sự cố
gắng, được các bạn khác công nhận. Cô giáo không nên khen tập trung vào những trẻ
chơi tốt hằng ngày, mà cần chú ý tới cả những trẻ chưa bao giờ được khen nếu có dấu
hiệu của sự cố gắng so với năng lực của trẻ thì cô giáo phải khen cho đúng. Hình thức
khen ngợi động viên trẻ có thể dưới dạng một lời nói, hoặc một lời nhận xét kèm theo
một câu khích lệ.

25


×