Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.42 KB, 19 trang )

1

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1: Nhận thức chung về nguyên tắc tập trung dân chủ
1.1. Khái niệm tập trung dân chủ.
1.2. Vai trò của nguyên tắc tập trung dân chủ
1.3. Nội dung, bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ.
Chương 2: Thực trạng và một số giải pháp thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ trong sinh hoạt Đảng hiện nay.
2.1. Thực trạng thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt
đảng.
2.2. Một số giải pháp thực hiện tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng.
2.3. Liên hệ thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong lực lượng Công
an nhân dân.
KẾT LUẬN


2

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Đảng Cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi
vẻ vang. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của
dân tộc. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện


thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Trong quá trình phát triển của mình, Đảng xác định và kiên trì với nguyên
tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt Đảng. Tập trung dân chủ là
nguyên tắc cơ bản về xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng. Nó đảm bảo sự
thống nhất ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh vô địch của Đảng cách mạng.
Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn coi nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc rất quan trong trong xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguời cũng là tấm gương Cộng sản mẫu mực
trong việc thực hiện nguyên tắc này.
Nhận thức đúng bản chất, nắm chắc nội dung nguyên tắc tập trung dân
chủ trong Điều lệ Đảng là nền tảng lý luận và cơ sở khoa học cho mỗi đảng viên
bảo vệ Đảng, bác bỏ những luận điểm xuyên tạc nguyên tắc tập trung dân chủ
của Đảng mà thủ pháp đơn giản của những luận điểm đó là cố tình tách rời, đối
lập giữa tập trung và dân chủ. Đảng ta không chấp nhận tình trạng chỉ đạo tập
trung quan liêu giáo điều và tư biện, làm mất sinh lực và cuối cùng, làm giảm
sức mạnh và uy tín của Đảng. Vì vậy, cần thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân
chủ trong sinh hoạt Đảng.


3

Thực tiễn những năm đổi mới vừa qua cho thấy, đại đa số các tổ chức cơ
sở đảng luôn giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách, góp phần hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, trên
thực tế “nguyên tắc tập trung dân chủ còn bị vi phạm, ảnh hưởng đến sự đoàn
kết, thống nhất trong Đảng”, thể hiện ở chất lượng thực hiện một số nội dung
của nguyên tắc và kiểm tra việc chấp hành nguyên tắc chưa đầy đủ, chưa ngang
tầm yêu cầu xây dựng đảng bộ cơ sở trong sạch, vững mạnh... Vì vậy, để khắc
phục những thiếu sót trên, góp phần nâng cao chất lượng thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ, đòi hỏi các đảng bộ cơ sở cần tiếp tục nâng cao nhận thức,

khả năng tổ chức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ cho cấp ủy viên và đội
ngũ đảng viên. Đồng thời, cần thống nhất trong tổ chức cơ sở Đảng về quan
điểm, phương pháp, cách làm việc, xử lý các mối quan hệ theo đúng nội dung
và yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ. Vì thế, nâng cao thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng hiện nay là rất cần thiết.
2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.
- Mục đích: Tìm hiểu thực trạng thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong sinh hoạt đảng, từ đó đề xuất và kiến nghịn một số biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng.
- Nhiệm vụ: + Làm rõ cơ sở lý luận về nguyên tắc tập trung dân chủ
+ Nêu lên thực trạng và đề xuất một số biện pháp nâng cao
hiệu quả thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học của
chủ nghĩa Mác-lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng,
Nhà nước về giáo dục đào tạo. Ngoài ra, còn sử dụng thêm một số phương pháp
cụ thể sau: Phương pháp nghiên cứu tài liệu, Phương pháp tổng kết thực tiễn,
phương pháp tư duy logic.


4

Chương 1: Nhận thức chung về nguyên tắc tập trung dân chủ
1.1. Khái niệm tập trung dân chủ.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản của
các tổ chức cộng sản và được trình bày trong điều lệ chính thức của các Đảng
Cộng sản. Lênin, người đầu tiên nhắc tới khái niệm "Tập trung dân chủ", giải
thích rằng tập trung dân chủ là tự do trong thảo luận nhưng thống nhất trong
hành động. Nguyên tắc tập trung dân chủ cũng là nguyên tắc mà Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn kêu gọi thực thi mặc dù có thể có cách định nghĩa khác.

Hồ Chí Minh thì viết “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân
bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Các cơ
quan chính quyền là thống nhất, tập trung. Từ Hội đồng nhân dân và Ủy ban
kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội và Chính phủ Trung ương, số ít phải
phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục
tùng trung ương, thế là vừa dân chủ, vừa tập trung.”
Theo điều lệ chính thức của các đảng cộng sản, tất cả các cơ quan lãnh
đạo và các bí thư các cấp được bầu bởi các đảng viên, trực tiếp hoặc gián tiếp
thông qua đại hội toàn thể đảng viên hay đại hội đại biểu đảng viên. Theo quy
định chính thức, tổ chức được xây dựng từ dưới lên nghĩa là các đại biểu cấp
dưới sẽ quyết định trong việc bầu chọn lãnh đạo cấp trên. Ý nghĩa dân chủ của
nguyên tắc này là các cơ quan và chức vụ lãnh đạo được hình thành thông qua
bầu cử, các nghị quyết của Đảng chỉ có thể thông qua bởi cơ quan được bầu. Ý
nghĩa của tập trung là quyết định của tổ chức Đảng cấp trên là bắt buộc với các
tổ chức Đảng cấp dưới và cuối cùng là bắt buộc mỗi đảng viên phải chấp hành.
Mỗi vấn đề của Đảng sẽ được thảo luận cho đến khi ra nghị quyết. Sau
khi có nghị quyết, mỗi đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết,
không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết. Đảng viên dù có ý kiến khác


5

khi phát biểu công khai vẫn phải nói theo nghị quyết chứ không được theo ý
mình. Trên thực tế, ý nghĩa tập trung thể hiện rất mạnh mẽ vì nó có thể tập trung
sức mạnh của tập thể vào một mục tiêu cụ thể và che giấu những bất đồng trong
nội bộ.
1.2. Vai trò của nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tập trung dân chủ là những vấn đề thuộc về quan điểm và nguyên tắc của
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng và Nhà nước xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do Đảng lãnh đạo phải thực hiện nhất quán trong thực tiễn hoạt

động của mình.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt
tập trung và dân chủ. Hai mặt đó không mâu thuẫn với nhau mà luôn thống
nhất, tác động, bổ sung cho nhau, tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Dân chủ
là điều kiện, tiền đề của tập trung; tập trung là cơ sở bảo đảm cho dân chủ được
xác định và phát huy. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ mọi cán bộ, đảng
viên đều có quyền tham gia vào việc quyết định công việc của Đảng, có quyền
được thông tin, thảo luận, tranh luận, nêu ý kiến riêng, bảo lưu ý kiến trong tổ
chức. Nhưng khi Đảng đã có nghị quyết thì phải nói và làm theo nghị quyết,
thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ
chức, các tổ chức đảng trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc,
Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị.
Việc phát triển và mở rộng dân chủ trong Đảng phải luôn đi đôi với tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật. Dân chủ
càng phát triển thì tập trung càng vững chắc, sức mạnh của Đảng càng được
khẳng định. Nếu thực hành dân chủ tốt, Đảng sẽ quy tụ được trí tuệ, khơi dậy
được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mọi cán bộ, đảng viên, tạo bầu không
khí cởi mở, tin cậy lẫn nhau, giữ vững sự đoàn kết, thống nhất, tình đồng chí,
giúp nhau hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Bởi vậy, trong quá trình sinh hoạt và
hoạt động của các tổ chức đảng, phải kết hợp chặt chẽ dân chủ với tập trung,


6

không được tuyệt đối hóa mặt nào: Nếu tuyệt đối hóa dân chủ dẫn đến tình
trạng vô chính phủ, vô tổ chức, kỷ luật. Còn nếu tuyệt đối hóa tập trung dẫn đến
quan liêu, chuyên quyền, độc đoán. Cả hai biểu hiện trên đều gây nguy hại và
làm giảm sức mạnh của Đảng.
Hồ Chí Minh khẳng định Đảng phải là khối thống nhất ý chí và hành
động, trong tổ chức, Đảng phải thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ một nguyên tắc quyết định sức mạnh của Đảng. Người chỉ rõ rằng dân chủ phải

đi đôi với với tập trung, phải kiên quyết thực hành kỷ luật. Trong lãnh đạo, Hồ
Chí Minh đòi hỏi Đảng phải thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách. “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung.
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung”. Thực hiện đúng
đắn nguyên tắc này mới tránh cho Đảng không rơi vào chủ quan, độc đoán,
chuyên quyền và mới biến đường lối của Đảng trở thành thực tiễn sinh động.
Trong sinh hoạt Đảng, Hồ Chí Minh đặt vấn đề phải thực hiện tốt nguyên
tắc tự phê bình và phê bình - một vũ khí và là quy luật làm cho Đảng trở nên
trong sạch, vững mạnh. Đồng thời, Đảng phải thực hiện tốt nguyên tắc kỷ luật
nghiêm minh và tự giác, cũng như nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng,
cán bộ đảng viên phải tự giác chấp hành kỷ luật của Đảng, phải giữ gìn sự thống
nhất của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Ngay từ khi ra đời, Đảng
đã xác định: tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản, có vai trò trực tiếp
chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng, tổ chức, sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo
của Đảng. Nó quy định cơ cấu, hình thức tổ chức đảng, thiết lập chế độ các cơ
quan lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, xác lập nguyên tắc giải quyết các mối quan
hệ trong nội bộ Đảng. Bởi vậy, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, nhất là khi Liên
Xô và các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ, Đảng ta vẫn vững mạnh cả về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, vẫn phát huy được vai trò tiền phong, gương mẫu, sức
sáng tạo của mọi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Tập trung được trí tuệ của
toàn Đảng, tạo sức mạnh tổng hợp để xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch,
vững mạnh, hoàn thành tốt sứ mệnh lịch sử đối với dân tộc.


7

Ðảng ta luôn khẳng định: “Ðảng là tổ chức tự nguyện của những người
cùng chung lý tưởng cộng sản; mọi đảng viên đều có quyền biết, thảo luận và
biểu quyết các công việc của Ðảng; được ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh
đạo các cấp của Ðảng; phê bình, chất vấn về hoạt động của các tổ chức đảng và

đảng viên ở mọi cấp; đề xuất các kiến nghị với cơ quan có trách nhiệm; v.v...”
Từ khi trở thành Ðảng cầm quyền, Ðảng ta vẫn luôn kiên định và có bước phát
triển mới trong việc phát huy dân chủ nội bộ, thực hành nguyên tắc tập trung
dân chủ cả trong Ðảng và trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước. Hội nghị
Trung ương 9, khoá IX của Đảng ta đã nhấn mạnh: “phải thực hiện đúng đắn
nguyên tắc tập trung dân chủ trên cơ sở thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng”.
1.3. Nội dung, bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đảm bảo nguyên tắc tập trung chủ là vấn đề sống còn của Đảng trong giai đoạn
hiện nay. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó bao gồm :
Một là cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Hai là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng ta là Đại hội đại biểu toàn
quốc. Cơ quan lãnh đạo ỡ mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc Đại hội Đảng viên.
Giữa 2 kỳ Đại hội cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban chấp hành Trung ương, ở
mỗi cấp là Ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).
Ba là cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình
trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới, định lỳ thông báo tình
hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình
và phê bình
Bốn là tổ chức Đảng và Đảng viên phải chấp hành Nghị quyết của Đảng
. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ
chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban
chấp hành Trung ương


8

Năm là Nghị quyết của các cấp cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị
thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. trước khi
biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có y

kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp trên cho đến Đại
hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh Nghị quyết, không
được truyền bá ý kiến trái với Nghị quyết của Đảng . cấp uỷ có thẩm quyền
nghiên cứu xem xét ý kiến đó , không phân biệt đối xử với Đảng viên có ý kiến
thuộc về thiểu số
Sáu là tổ chức Đảng quyết định các vấn đề thuộc về phạm vị quyền hạn
của mình , song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước và Nghị quyết của cấp trên
Qua 6 nội dung trên, tính tập trung trên cơ sở dân chủ trong Đảng được
thể hiện ở tính tự giác của toàn thể đảng viên. Tính tập trung trong Đảng đòi hỏi
Đảng phải có cương lĩnh, đường lối, mục tiêu cách mạng thống nhất, được mọi
tổ chức Đảng và đảng viên tuân thủ và thực hiện, toàn dân hướng vào phấn đấu.
Đảng phải có điều lệ thống nhất . Điều lệ chính là bộ luật của toàn Đảng mà mọi
tổ chức Đảng và đảng viên phải chấp hành vô điều kiện cả về mặt nhận thức và
chấp hành.
Tập trung trong Đảng còn đòi hỏi Đảng phải có một cơ quan lãnh đạo
thống nhất, đó là đại hội đại biểu toàn quốc, giữa 2 kỳ đại hội là Ban chấp hành
Trung Ương do đại hội bầu ra. Về mặt tổ chức, Đảng phải thống nhất về quy mô
và hình thức tổ chức của Đảng. Đảng phải có kỷ luật thống nhất mà mọi tổ chức
Đảng, đảng viên không phân biệt đều phải chấp hành nghiêm túc kỷ luật của
Đảng, không có những đặc quyền đặc lợi.
Tính dân chủ trong Đảng được thể hiện ở nội dung toàn thể Đảng viên
đều bình đẳng về quyền và lợi ích, đều được tham gia trực tiếp hoặc thông qua
đại biểu để thực hiện quyền của mình, thể hiện ý kiến của mình trong mọi công
việc của Đảng, khi thảo luận thì phải thực sự dân chủ, nhưng khi hành động thì


9

thống nhất trăm người như một. Tất cả những người có trách nhiệm trong Đảng

và tất cả các cơ quan lãnh đạo của Đảng đề do dân chủ bầu cử mà lập nên, đều
có trách nhiệm thực hiện và báo cáo trước tổ chức đã bầu ra mình và họ có thể
bị bãi miễn bất kỳ lúc nào nếu không xứng đáng và không hoàn thành nhiệm vụ
tổ chức giao.
Tập trung dân chủ thể hiện sự thống nhất hài hòa và biện chứng giữa hai
mặt tập trung và dân chủ trong một sự việc, một hiện tượng. Đó là những yếu tố
không loại trừ lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau, lập thành một chỉnh thể và là một
tất yếu khách quan trong tổ chức và hoạt động của Ðảng. Có dân chủ mới có sự
thúc đẩy và phát huy tính chủ động, sáng tạo, mới nuôi dưỡng và phát triển
được các tài năng. Có tập trung mới tạo ra được sức mạnh chung, thống nhất ý
chí và hành động vì mục tiêu chung của cách mạng. Tập trung đúng đắn, hợp lý
sẽ làm tăng sức mạnh của dân chủ. Dân chủ lành mạnh phải dựa trên cơ sở tập
trung. Tóm lại, giữa 2 mặt tập trung và dân chủ phải được coi trọng như nhau,
không được xem nhẹ mặt nào, không nên tuyệt đối hóa một mặt nào đều dẫn
đến sai lầm nguy hiểm, có hại cho sự lãnh đạo của Đảng.


10

Chương 2: Thực trạng và một số giải pháp thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng hiện nay.
2.1. Thực trạng thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt
đảng.
* Về những mặt thực hiện được:
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng có những chuyển
biến tích cực, tăng cường sức chiến đấu của Đảng, phù hợp với những biến đổi,
yêu cầu đổi mới trong cơ chế nhà nước pháp quyền, dân chủ hoá đời sống xã
hội. Đại hội của Đảng từ khoá VII cho đến XI đều đánh giá: Trong Đảng giữ
vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, có tiến
bộ về thực hiện dân chủ trong Đảng và lãnh đạo thực hiện dân chủ trong xã hội.

Các cấp uỷ đảng đã xây dựng quy chế làm việc, trong đó cụ thể hoá
nguyên tắc tập trung dân chủ vào từng công việc. Sinh hoạt của các cấp uỷ dân
chủ, cởi mở hơn. các cấp uỷ đảng từ Trung ương đến cơ sở chú trọng thu thập ý
kiến của cán bộ, đảng viên, các tổ chức đảng cấp dưới. Các cấp uỷ viên mạnh
dạn trình bày thẳng thắn ý kiến riêng, chất vấn tại cấp uỷ. Người chủ trì hội nghị
tiếp thu ý kiến khác với dự thảo nghị quyết một cách trân trọng. Các hình thức
giao ban, hội nghị chuyên đề, hội thảo, tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ chủ chốt
với đảng viên và nhân dân... được các cấp uỷ đảng sử dụng rộng rãi để qua đó
nắm bắt thông tin, dân chủ bàn bạc các chủ trương, biện pháp thực hiện nghị
quyết có hiệu quả. Tinh thần đó thể hiện sự tiến bộ rõ rệt trong công tác tổ chức
- cán bộ, đặc biệt từ khi Đảng tái lập đảng đoàn và ban cán sự đảng ở các đoàn
thể và các cơ quan nhà nước. Những biểu hiện không nghiêm trong chấp hành
chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, tình
trạng tuỳ tiện, cục bộ địa phương, mất đoàn kết nội bộ được chấn chỉnh, tổ chức
và cá nhân vi phạm đã bị xử lý kỷ luật.
* Về những mặt chưa thực hiện được:


11

Bên cạnh những tiến bộ rõ rệt, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ vẫn bộc lộ nhiều yếu kém ở hầu khắp các cấp, các ngành, dưới những hình
thức, mức độ khác nhau. Đại hội IX, X, XI đều nhận định: một số cán bộ và cấp
uỷ chưa tôn trọng và chưa thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Bệnh
quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, cục bộ địa phương khá phổ biến, thái độ kèn
cựa, tính cá nhân chủ nghĩa còn rất nặng. Không ít nơi, nội bộ mất đoàn kết
nghiêm trọng. Trong công tác tư tưởng và hoạt động lý luận của Đảng, có lúc,
có nơi chưa tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong sinh hoạt đảng, một
mặt tình trạng dân chủ hình thức còn nặng nề, chưa phát huy tốt tự do tư tưởng;
mặt khác, kỷ cương, kỷ luật còn lỏng lẻo, bề ngoài thì nhất trí với nghị quyết

nhưng bên trong cố ý làm trái với nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Nhiều nơi, người đứng đầu cấp uỷ, cán bộ chủ chốt không dám chịu trách
nhiệm, thậm chí còn dựa dẫm tập thể. Điều nguy hiểm hơn là, một số cấp uỷ địa
phương, cơ sở đã nhân danh tập thể để đưa ra những quyết nghị, quyết định trái
với nghị quyết của cấp trên, vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước hoặc
vượt quá thẩm quyền. Không ít nơi có tình trạng bí thư vượt quyền ban thường
vụ, ban thường vụ vượt quyền ban chấp hành, ban chấp hành tự ý làm trái nghị
quyết đại hội. Trong sinh hoạt của cấp uỷ, những vấn đề tranh luận phức tạp
hoặc những ý kiến khác nhau trong hội nghị thường bị né tránh hoặc là “gác
lại”. Trong đánh giá, phê bình thường chỉ nêu ưu điểm, thành tích, lướt qua hoặc
biện hộ cho những yếu kém, khuyết điểm.
* Nguyên nhân của thực trạng trên:
Nguyên nhân những hạn chế trên do: Trước hết là trách nhiệm của người
đứng đầu chưa cao. Tiếp đến là việc phân công, phân nhiệm thiếu rõ ràng, thậm
chí chồng chéo. Cán bộ chính quyền các cấp tham gia cấp uỷ chưa phát huy hết
vai trò trách nhiệm và sự lãnh đạo của cấp uỷ. Cán bộ, đảng viên còn bị đè nặng
bởi tư duy, tác phong, lối sống sản xuất nhỏ, tâm lý cục bộ, địa phương, bản vị...


12

Vẫn còn thói quen thời tập trung quan liêu bao cấp, tổ chức đảng bao biện làm
thay chính quyền, cấp trên “lo” hết cho cấp dưới, người lãnh đạo “nghĩ” hết cho
người thừa hành v.v...
Một nguyên nhân quan trọng khác là việc hướng dẫn, xây dựng quy chế,
chế độ cụ thể để các cấp thực hiện tiến hành chậm và chủ yếu mới dừng ở các
quy định chung chung. Tinh thần, ý chí đảng viên tự phê bình và phê bình, bảo
vệ chân lý không cao. Tình trạng né tránh, không nói thẳng, nói thật, dĩ hoà vi
quý, dễ người dễ ta còn phổ biến. Để nắm giữ địa vị và quyền lợi của mình, có

những người lãnh đạo ngại mở rộng dân chủ, không tiếp thu ý kiến trái ý mình,
nhấn mạnh tập trung nhưng thực chất là quan liêu, tập trung bằng mệnh lệnh
hành chính. Mặt khác, vì muốn được yên vị, cấp dưới không đấu tranh với sai
trái của cấp trên, chấp nhận tình trạng thiếu dân chủ trong chừng mực nó chưa
phương hại đến lợi ích của mình. Vì lợi ích cá nhân, cục bộ, cấp dưới không
thực hiện đúng quy định của cấp trên, cố ý làm trái, lợi dụng sơ hở trong quản lý
để trục lợi, khi bị phát giác thì đổ lỗi cho khách quan, do năng lực hạn chế, quan
liêu. Tình trạng trên kéo dài và diễn ra ở nhiều cấp do trong Đảng chưa thực
hiện thường xuyên, nghiêm ngặt chế độ kiểm tra, chưa kiên quyết xử lý kịp thời
những tập thể và cá nhân vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc của Đảng.
2.2. Một số giải pháp thực hiện tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng.
Tập trung dân chủ là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và sinh
hoạt đảng. Từ khi thành lập Đảng đến nay, trong từng giai đoạn cách mạng cũng
như từng nhiệm vụ cụ thể, nguyên tắc tập trung dân chủ luôn được coi trọng
trong sinh hoạt đảng và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng từ
Trung ương tới cơ sở, là yếu tố quan trọng để Đảng ta không ngừng phát triển
về mọi mặt.
Hội nghị Trung ương sáu, lần 2, khoá VIII của Đảng đã thông qua nghị
quyết quan trọng đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó nhấn
mạnh: “Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt


13

động của Đảng”, “Nâng cao nhận thức thống nhất trong Đảng về nguyên tắc tập
trung dân chủ. Xây dựng và bổ sung các quy định, quy chế thực hiện nguyên tắc
này. Cụ thể hoá nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; chế độ trách
nhiệm của người đứng đầu; quy định cụ thể về bảo lưu ý kiến, bảo đảm cho
người có ý kiến bảo lưu được phát biểu đầy đủ trong tổ chức đảng và một số cơ
quan lý luận thích hợp”. Trong các kỳ Đại hội lần thứ IX, X và XI, Đảng ta tiếp

tục khẳng định phải phát huy dân chủ trong sinh hoạt, coi trọng và thực hiện
đúng quy chế làm việc, thực hiện nghiêm kỷ luật Đảng. Nghị quyết Đại hội XI
của Đảng còn mở rộng nội hàm của nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh
hoạt Đảng, đó là: “Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề
cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và
nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân”. Đây là một nét
mới trong công tác lãnh đạo của Đảng xuất phát từ tình hình thực tiễn và nhằm
đấu tranh ngăn chặn các hiện tượng độc đoán, chuyên quyền, vi phạm nghiêm
trọng nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng tại nhiều cấp ủy, cơ sở
đảng từ Trung ương tới địa phương.
Phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng nhằm xây
dựng đoàn kết thống nhất trong Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác
xây dựng đảng giai đoạn hiện nay. Để thực hiện được nhiệm vụ này đòi hỏi phải
giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề mang tính hệ thống và trên cơ sở bảo đảm giữ
vững các nguyên tắc sinh hoạt đảng.
- Một là, tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên có nhận thức đúng,
đầy đủ về bản chất, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ; về mối quan hệ
biện chứng giữa hai mặt tập trung và dân chủ.
Cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng các cấp cần tổ chức nghiên cứu, quán triệt sâu
sắc nội dung, bản chất và mối quan hệ biện chứng giữa tập trung và dân chủ gắn
với việc liên hệ, kiểm điểm về nhận thức và thực hiện nguyên tắc này ở đảng


14

bộ, đơn vị mình. Lấy nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị làm trọng tâm,
trong quá trình nghiên cứu, quán triệt phải chỉ ra được kết quả và những yếu
kém trong tổ chức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tìm ra các nguyên
nhân chủ quan, khách quan của việc thực hiện chưa tốt hoặc cố tình vi phạm

nguyên tắc để khắc phục, bảo đảm sự thống nhất về ý chí và hành động trong
đảng bộ, chi bộ và đơn vị. Trong quá trình quán triệt cần phải xác định rõ vai trò
cá nhân của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu đơn vị, đồng thời cụ thể hoá chức
trách, nhiệm vụ, quyền hạn và các mối quan hệ phối hợp công tác của từng cán
bộ, đảng viên, của từng cấp uỷ, tổ chức đảng.
- Hai là, nâng cao chất lượng sinh hoạt định kỳ; xây dựng, ban hành các
quy định cụ thể hoá nguyên tắc tập trung dân chủ trong cấp ủy và tổ chức đảng.
Tổ chức cơ sơ đảng các cấp phải duy trì nghiêm chế độ sinh hoạt định kỳ.
Để buổi sinh hoạt định kỳ có chất lượng, cấp uỷ, bí thư hoặc phó bí thư chủ trì
sinh hoạt phải làm tốt việc chuẩn bị nội dung, xây dựng dự thảo nghị quyết bám
sát nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị và tạo mọi điều kiện cho đảng viên
đóng góp xây dựng nghị quyết. Người chủ trì sinh hoạt phải lắng nghe và tập
hợp các ý kiến của đảng viên; khi có nhiều ý kiến khác nhau về một vấn đề cần
phải điều hành thảo luận đi đến thống nhất trước khi biểu quyết. Đối với những
vấn đề quan trọng cần bỏ phiếu kín, phải chấp hành nghiêm quy trình bỏ phiếu,
tổ chức kiểm phiếu chặt chẽ, công bố kết quả công khai và lập biên bản bảo lưu
kết quả. Mọi đảng viên phải nghiêm chỉnh thực hiện nghị quyết đã được tập thể
thông qua, việc cố tình thực hiện ý kiến riêng đã bị đa số bác bỏ là vi phạm
nguyên tắc.
Nguyên tắc tập trung dân chủ thực hiện thông qua các quy định cụ thể
được thống nhất trong cấp ủy và tổ chức đảng. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX
của Đảng đã chỉ rõ: “Cán bộ, đảng viên ở bất cứ cương vị nào đều phải chấp
hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết của Đảng, pháp luật của
Nhà nước. Thi hành kỷ luật nghiêm khắc mọi vi phạm về nguyên tắc, nhất là đối


15

với những vấn đề về quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng”.
Việc xây dựng, ban hành các quy định cụ thể hoá nguyên tắc tập trung dân chủ

phải đảm bảo yêu cầu tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách và mở rộng sinh hoạt
dân chủ. Theo đó, mỗi cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng cần phải ban hành quy định
về chế độ trách nhiệm của người đứng đầu, xác định rõ chế độ, chức trách của
cán bộ lãnh đạo, quản lý; quy định cụ thể các quy tắc phối hợp trong lãnh đạo
và tổ chức thực hiện nghị quyết của bí thư, cấp ủy và đảng viên. Cấp ủy viên,
người đứng đầu và các đảng viên phải tự giác chấp hành các quy định đã đề ra.
- Ba là, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng; tăng
cường kiểm tra việc thực hiện Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy
chế hoạt động của cấp uỷ và tổ chức đảng.
Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc quan trọng trong xây dựng và
chỉnh đốn Đảng. Nhờ có tự phê bình và phê bình mà Đảng ta không ngừng
trưởng thành, giữ vững vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Thực hiện
tự phê bình và phê bình về thực chất đó là: “Khuyến khích, động viên cán bộ,
đảng viên tự giác nhận và quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, có quy định đối với
cán bộ, công chức, đảng viên vi phạm pháp luật mà tự giác khai báo, khắc phục
hiệu quả, được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà nước, kiên quyết
xử lý nghiêm đối với những người cố tình vi phạm, che giấu khuyết điểm; động
viên, khen thưởng, bảo vệ những người dám đấu tranh, tố cáo những khuyết
điểm và sai phạm ngay trong tổ chức của mình. Nghiêm cấm trù dập những
người đấu tranh, phê bình thẳng thắn, có ý thức xây dựng”.
Và với tinh thần ấy, trong giai đoạn hiện nay cần thực hiện nghiêm túc và
hiệu quả vũ khí tự phê bình và phê bình. Theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa
XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, tự phê bình và phê
bình trước hết phải được người đứng đầu cấp uỷ, cơ quan, đơn vị gương mẫu
thực hiện. Trên cơ sở cụ thể hoá quy chế dân chủ ở cơ sở, cấp ủy và các tổ chức
đảng cần có cơ chế phù hợp để lấy ý kiến góp ý, phê bình tổ chức đảng và cán


16


bộ, đảng viên hằng năm. Việc tổ chức tự phê bình và phê bình phải được tiến
hành trên tinh thần dân chủ, thẳng thắn và xây dựng; phải trên tinh thần đồng
chí, thương yêu lẫn nhau, để cùng tiến bộ. Tự phê bình và phê bình phải chân
thành và tự giác, tránh lợi dụng phê bình để vu cáo, đả kích đồng chí, đồng đội,
gây rối nội bộ; khắc phục tình trạng nể nang, hình thức, bao che cho nhau, thấy
đúng không kiên quyết bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh hoặc khi được phê
bình thì tiếp thu một cách miễn cưỡng và không sửa chữa khuyết điểm.
- Thứ tư, Để các quy định về tập trung dân chủ được hiện thực hóa, cấp
ủy và các tổ chức cơ sở Đảng cần phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát.
Thực hiện nguyên tắc cấp uỷ cấp trên kiểm tra, giám sát cấp uỷ cấp dưới,
kiểm tra chéo, kiểm tra định kỳ và không định kỳ. Nội dung kiểm tra, giám sát
tập trung vào việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh
hoạt và hoạt động của Đảng cùng với thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Quá
trình kiểm tra, giám sát phải kịp thời phát hiện, làm rõ sai phạm và chấn chỉnh
những biểu hiện sai trái, tháo gỡ những vướng mắc trong thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ. Mở rộng và phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng phải đi
đôi với đề cao kỷ cương, kỷ luật. Mọi hành vi vô tổ chức, vô kỷ luật, cố tình
không chấp hành nghị quyết, chỉ thị của Đảng, gây chia rẽ, bè phái đều phải xử
lý nghiêm minh. Luôn đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế
lực thù địch nhằm chia rẽ, gây mất đoàn kết nội bộ Đảng.
2.3. Liên hệ thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong lực lượng Công
an nhân dân.
Quán triệt và nắm vững quan điểm đổi mới của Đảng, Đảng ủy Công an
Trung ương và Bộ Công an xác định công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực
lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, nhằm
đáp ứng yêu cầu bảo vệ an ninh, trật tự trong tình hình mới. Cấp ủy, lãnh đạo,
chỉ huy Công an các cấp thường xuyên tăng cường công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng, giáo dục truyền thống cách mạng..., lấy xây dựng bản lĩnh chính trị,



17

lòng trung thành tuyệt đối với Đảng làm mục tiêu hàng đầu để giáo dục, rèn
luyện cán bộ, đảng viên.
Toàn lực lượng Công an nhân dân nghiêm túc quán triệt, triển khai thực
hiện sâu sắc, kịp thời các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 01-11-2011
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về những điều đảng viên không được làm
gắn với triển khai sâu rộng Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh - Công an nhân dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ”,
phong trào “Công an nhân dân học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy”, Cuộc
vận động “Công an nhân dân chấp hành nghiêm điều lệnh; xây dựng nếp sống
văn hoá vì nhân dân phục vụ”, các phong trào thi đua “Vì an ninh Tổ quốc”.
Trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, lực lượng Công an nhân dân đều
nỗ lực vượt qua khó khăn, gian khổ, luôn nêu cao tinh thần tận tụy, sẵn sàng xả
thân vì nước, lấy lợi ích của Tổ quốc và nhân dân làm lý tưởng, mục tiêu cao
nhất để phấn đấu, đem hết sức lực, tài trí và cả tính mạng của mình để bảo vệ
Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ cuộc sống bình yên và hạnh
phúc của nhân dân, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn hiện nay, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ trọng tâm của
công tác xây dựng đảng, việc không ngừng nâng cao chất lượng thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ là nội dung cơ bản xây dựng chi bộ,
đảng bộ cơ sở trong sạch, vững mạnh mà còn là nhiệm vụ và biện pháp quan
trọng trong giải quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”
theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI). Đặc biệt là, việc phát huy
tập trung dân chủ đã tạo nên không khí dân chủ, thẳng thắn, công khai trên tình
thương yêu đồng chí, đồng đội trong TPB và PB. Bên cạnh đó còn tồn tại một
số khuyết điểm nhỏ. Những hiện tượng trên nếu không khắc phục kịp thời sẽ



18

ảnh hưởng đến việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, công
tác tổ chức và xây dựng lực lượng, làm giảm uy tín, khả năng hoàn thành nhiệm
vụ của các đơn vị trong toàn lực lượng Công an nhân dân.
=> Như vậy, tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt
động của Đảng, phản ánh sâu sắc tính tiền phong của giai cấp công nhân - giai
cấp tiên tiến lãnh đạo xã hội. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh
hoạt đảng là yêu cầu khách quan duy trì đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành
động trong Đảng; phát huy được trí tuệ, sức mạnh của Đảng trong thực hiện sứ
mệnh lịch sử lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội thực hiện thắng lợi sự
nghiệp đổi mới, đưa cách mạng đi đến thành công.( Qua trang mới hi)
KẾT LUẬN
Các tổ chức đảng, cấp ủy các cấp, mọi đảng viên phải tự giác thực hiện
và kiên quyết đấu tranh với các tư tưởng, hành vi sai trái vi phạm dân chủ trong
Đảng và trong xã hội. Chỉ khi thực hiện tốt nhiệm vụ này mới giữ vững và củng
cố vai trò lãnh đạo của Đảng, lãnh đạo toàn dân thực hiện thành công nhiệm vụ
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Có
như vậy mới giữ vững bản chất và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, xây
dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý
nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta hiện nay.
Công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết định
việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Cấp ủy, lãnh đạo, chỉ huy các
cấp cần tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường nội dung, biện pháp nhằm tạo sự
chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng Đảng. Kiện toàn tổ chức, nâng
cao chất lượng sinh hoạt Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
các tổ chức Đảng. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật

Đảng, công tác thanh tra trong đảng. Thực hiện tự phê bình và phê bình nghiêm
túc, trên tinh thần xây dựng và phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ. Gương


19

mẫu đi đầu trong việc triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung
ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI)
“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Thường xuyên chăm lo
xây dựng các tổ chức Đảng, gắn với xây dựng đơn vị trong sạch, vững mạnh
toàn diện.
Với truyền thống anh hùng vẻ vang và bản chất cách mạng tốt đẹp được
hun đúc, tôi luyện 70 năm qua, toàn lực lượng Công an nhân dân nguyện tiếp
tục phát huy những chiến công, thành tích xuất sắc đã đạt được, hăng hái đi đầu
trong các phong trào thi đua yêu nước, phong trào học tập, thực hiện Sáu điều
Bác Hồ dạy, dấy lên trong toàn lực lượng phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp,
liên tục, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với sự tin cậy
của Đảng, Nhà nước và sự tin yêu của nhân dân.



×