I.PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm:
Ngày nay, nhiều thành tựu khoa học và công nghệ xuất hiện một cách hết sức
bất ngờ và đổi mới rất nhanh chóng. Theo đó hệ thống giáo dục cũng đặt ra yêu cầu
cần phải đổi mới. Cần phải có những con người có năng lực chuyên môn, năng lực
giải quyết vấn đề, đưa ra những quyết định sáng tạo, mang lại hiệu quả cao, thích
ứng với đời sống xã hội. Chính vì vậy đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề then
chốt của chính sách đổi mới giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Và trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khoá XI
với nội dung: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hoá - hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế. Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu của đổi mới lần này
là: Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền
thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận
dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học
tập suốt đời.
Và để thực hiện mục tiêu đó, ngay từ cấp Tiểu học cần phải có định hướng
đúng đắn về phương pháp học tập cho các em. Trong quá trình lên lớp, giáo viên
không chỉ cung cấp kiến thức cho các em mà điều quan trọng là dạy cho các em cách
tự học để từng bước rèn kĩ năng tự học và giúp các em có thể tự học suốt cả cuộc
đời. Chính vì thế việc tổ chức dạy học theo nhóm là hết sức cần thiết, tạo điều kiện
để các em có nhiều cơ hội giao lưu, học hỏi lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau, góp phần
vào việc giáo dục toàn diện nhân cách cho học sinh và phát triển nhiều kĩ năng như:
Kỹ năng tự học và giải quyết vấn đề; kỹ năng giao tiếp, tương tác giữa trẻ với trẻ; kỹ
năng tạo môi trường hợp tác; kỹ năng xây dựng niềm tin; kỹ năng giải quyết mâu
thuẫn, trong đó quan trọng nhất là kĩ năng tự học.
Và dạy học theo nhóm là một phương pháp giảng dạy trong đó người dạy sẽ
tổ chức người học thành những nhóm nhỏ để thực hiện các hoạt động như: Làm
việc theo cặp, làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm, trong đó
hình thức học theo nhóm là chủ yếu. Do vậy học sinh cơ bản đã
thay đổi thói quen học tập, các em tự nghiên cứu tìm hiểu kiến
thức trong bài và qua tài liệu. Những kiến thức khó, các em trao đổi
với bạn trong nhóm và mạnh dạn trao đổi vướng mắc với giáo viên.
Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi để các em phát huy tính độc lập,
chủ động tiếp thu kiến thức và hiểu sâu sắc các kiến thức trong bài
học. Đặc biệt là môi trường học thoải mái, các em rất hào hứng
tham gia các bài học. Mỗi thành viên không chỉ có trách nhiệm thực hiện các
hoạt động của nhóm mà còn phải có trách nhiệm hợp tác, giúp đỡ các thành viên
trong nhóm hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Đây là một phương pháp giảng dạy
khá ưu việt, cho phép rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm cho học sinh hiện đang được
áp dụng rộng rãi cho nhiều môn học và trong nhiều trường học trên thế giới.
Và trong năm học 2014-2015, theo định hướng về việc đổi mới PPDH, các
trường Tiểu học trên toàn huyện Quảng Ninh đã vận dụng mô hình trường học mới
Việt Nam mức độ 1. Tức là đổi mới cách tổ chức lớp học mà đặc trưng cơ bản là tổ
chức dạy học theo nhóm. Tuy nhiên việc tổ chức dạy học theo nhóm với một số giáo
viên còn mang tính hình thức nên đạt hiệu quả chưa cao. Vậy làm thế nào để tổ chức
cho học sinh hoạt động theo nhóm đạt hiệu quả. Đây là điều khiến chúng tôi băn
khoăn, trăn trở và mạnh dạn nghiên cứu đề tài "Thực trạng và biện pháp của việc
áp dụng mô hình trường học mới ( VNEN ) tại trường Tiểu học Tân Ninh" nhằm
chia sẻ một số kinh nghiệm về tổ chức dạy học theo nhóm.
2. Mục đích nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài mục tiêu tôi đặt ra là kết quả đạt được góp phần xây dựng,
nâng cao chất lượng dạy học thông qua việc vận dụng mô hình trường học mới .
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể
Thực trạng và biện pháp của việc áp dụng mô hình trường học mới ( VNEN ) tại
trường Tiểu học Tân Ninh
3.2.Đối tượng nghiên cứu
Trường Tiểu học Tân Ninh
4. Giả thuyết khoa học
Vận dụng mô hình trường học mới (VNEN) góp phần nâng cao hiệu quả dạy học.
5.Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt những mục tiêu đề ra việc xây dựng và giải quyết các nhiệm vụ là hết
sức quan trọng. Thông qua các nhiệm vụ chúng tôi sẽ tiến hành từng bước như thế
nào để hoàn chỉnh đề tài nghiên cứu. Các nhiệm vụ đó là:
+ Đầu tiên chúng tôi nghiên cứu cơ sở lý luận nắm bắt những nền tảng cơ sở ban đầu
của việc vận dụng mô hình trường học mới ( VNEN ) ở trường Tiểu học Tân Ninh
+ Thực trạng của việc vận dụng mô hình trường học mới (VNEN ) tại trường Tiểu
học Tân Ninh.
+ Biện pháp và thực nghiệm vấn đề
6.Giới hạn nghiên cứu của đề tài
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng và biện pháp của việc vận dụng mô hình
trường học mới (VNEN ) tại trường Tiểu học Tân Ninh.
7.Phương pháp nghiên cứu
Để thực tốt các nhiệm vụ đề ra đạt được mục tiêu nghiên cứu thì không thể thiếu
được các phương pháp nghiên cứu. Có rất nhiều phương pháp trong nghiên cứu khoa
học thường được áp dụng, với các vấn đề của đề tài này chúng tôi đã sử dụng các
phương pháp:
+ Phương pháp thu thập tài liệu:
Thông qua các giáo trình, tạp chí giáo dục và mạng internet chúng tôi tiến hành
thu thập, nghiên cứu, phân tích các thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu.
+ Phương pháp điều tra và hỏi ý kiến chuyên gia:
Điều tra thực trạng và biện pháp của việc vận dụng mô hình trường học mới
(VNEN ) tại trường Tiểu học Tân Ninh. Sau mỗi tiết dạy, chúng tôi tiến hành thăm
dò ý kiến giáo viên có thể bằng phiếu trưng cầu ý kiến hoặc phỏng vấn trực tiếp nắm
bắt số liệu.
+ Phương pháp quan sát sư phạm:
Chúng tôi quan sát lớp học trong mỗi tiết dạy của giáo viên đứng lớp hay
chính tiết dạy của mình.
+ Phương pháp phân tích tổng hợp:
Sau khi thu thập các thông tin cũng như số liệu liên quan chúng tôi tiến hành
thống kê và xử lí các số liệu liên quan.
Chúng tôi sử dụng phối hợp một cách linh hoạt các phương pháp.
8.Đóng góp mới của đề tài
- Chuyển quá trình truyền thụ kiến thức của giáo viên thành quá trình tự học
của học sinh dưới sự tổ chức của nhóm trưởng và sự hướng dẫn, giúp đỡ của giáo
viên.
- Các nhóm trưởng là các thầy cô giáo nhỏ có vai trò tổ chức cho các thành
viên trong nhóm tự nghiên cứu, trao đổi, kiểm tra; giúp đỡ các thành viên trong
nhóm để hoàn thành các nhiệm vụ học tập.
9.Thời gian thực hiện: 1 tháng
10. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần Mở đầu,phần Kết luận và Tài liệu tham khảo đề tài gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận của việc vận dụng mô hình trường học mới (VNEN )
tại trường Tiểu học Tân Ninh.
Chương 2: Thực trạng của việc vận dụng mô hình trường học mới (VNEN ) tại
trường Tiểu học Tân Ninh.
Chương 3: Biện pháp và thực nghiệm.
II.PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của việc vận dụng mô hình trường học mới (VNEN ) tại trường
Tiểu học Tân Ninh.
1.1. Một vài nét về mô hình trường học kiểu mới (EN)
Mô hình trường học kiểu mới (Escuela Nueva) được hình thành và phát triển ở
khu vực Caldas – một trong 32 thực thể hành chính của Colombia (nơi mà mô hình
này được Ngân hàng thế giới giới thiệu điển hình). Vai trò phát triển giáo dục ở đây
có sự tham gia của nhà nước gắn bó với Hiệp hội cà phê và các tổ chức xã hội khác.
Hiệp hội các nhà trồng cà phê Caldas (CGC) đã được thành lập vào năm 1927. Để
giải quyết vấn đề nhân lực, vốn chủ sở hữu, tình trạng học sinh bỏ học và chất lượng
giáo dục thấp trong các trường học nông thôn ở Caldas, các CGC bắt đầu đầu tư vào
giáo dục Tiểu học từ năm 1981 thông qua phương pháp học mới tại các trường học
nông thôn [1].
Mục tiêu của sáng kiến trường học mới ở Caldas của CGC năm 1981 là tăng
cường giáo dục nông thôn (từ lớp 1 đến lớp 5) và cung cấp một nền giáo dục năng
động hơn. Theo dữ liệu có sẵn từ CGC, chương trình đạt trực tiếp 1.113 trường học
trong khu vực Caldas, phục vụ bình quân 50.000 học sinh hàng năm, đào tạo được
khoảng 3.200 giáo viên để cải thiện cách tiếp cận kiến tạo của họ.
Các nguyên tắc dạy học kiến tạo của mô hình trường học mới :
- Học sinh là trung tâm của quá trình học tập.
- Học sinh thiết lập nhịp điệu và tốc độ của riêng họ cho việc học, với một chương
trình đào tạo đó là tự học và khuyến khích làm việc theo nhóm.
- Phương pháp giảng dạy thúc đẩy tự học, khuyến khích sáng kiến của học sinh và sự
sáng tạo.
- Mỗi trường thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa các cộng đồng và trường học trong
đó các thành viên trong gia đình tham gia vào quá trình giáo dục.
- Hội đồng tự quản học sinh sử dụng các chiến lược để đảm bảo sự tham gia tích cực
của thành viên trong đời sống dân chủ của trường, trong đó tăng cường các giá trị
như hợp tác, tôn trọng và làm việc nhóm.
Mô hình trường học mới là xương sống của tất cả các chương trình hỗ trợ đổi mới
giáo dục của Hiệp hội cà phê. Các CGC đã mở rộng mô hình này và tạo ra các
chương trình mới sau giáo dục Tiểu học cho THCS (lớp 6-9) và THPT (lớp 10, 11).
Tất cả đều sử dụng phương pháp tiếp cận kiến tạo.
1.2. Một vài nét về mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN)
Mô hình trường học mới Việt Nam là dự án do Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp
với Quỹ hỗ trợ phát triển giáo dục toàn cầu (GPE – Global Partnership for
Education) triển khai ở các trường Tiểu học trên toàn quốc từ 6/2012 đến 6/2015.
Mô hình này vừa kế thừa những mặt tích cực của mô hình trường học truyền thống,
vừa có sự đổi mới căn bản về mục tiêu đào tạo, nội dung chương trình, tài liệu học
tập, phương pháp dạy học, cách đánh giá, cách tổ chức quản lí lớp học, cơ sở vật
chất phục vụ cho dạy – học.
Mô hình VNEN là một trong những mô hình nhà trường phát triển theo xu hướng
hiện đại, với định hướng tiếp cận là giáo dục năng lực của người học. Dựa trên cơ
sở mô hình dạy học truyền thống, Dự án GPE-VNEN đã tiến hành nghiên cứu,
chuyển đổi các thành tố trong Chương trình dạy học, đặc biệt các nội dung về mặt sư
phạm theo định hướng tiếp cận giáo dục của mô hình.
Mô hình VNEN là một quá trình chuyển đổi từ mô hình dạy học chủ yếu truyền
thụ kiến thức sang mô hình dạy học, giáo dục hình thành nhân cách và phát triển
năng lực của học sinh.
Nhìn chung, theo tư tưởng đổi mới của mô hình VNEN, quá trình dạy học và
giáo dục, được hiểu là :
• Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh. Tổ chức các hoạt động
học tập của học sinh cần phải trở thành trung tâm của quá trình giáo dục.
• Chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, phương pháp tư duy và phương pháp giải
quyết vấn đề. Đây là những phẩm chất và điều kiện tốt nhất để có thể duy trì thói
quen học tập thường xuyên và học tập suốt đời.
• Tăng cường học tập của mỗi cá nhân, phối hợp với học hợp tác và học nhóm. Học
sinh là chủ thể của quá trình học, tự mình chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Tạo ra môi
trường học tập tương tác, thày - trò, trò - trò vì thế nó có tác dụng rất tốt để phát huy
năng lực của mỗi cá nhân học sinh.
• Dạy và học chú trọng tới sự quan tâm và hứng thú của học sinh, nhu cầu và lợi ích
của xã hội. Dạy học sinh trên những gì các em đã có, tạo hứng thú, óc tò mò, sáng
tạo cho học sinh. Học sinh phải biết cách làm việc độc lập, sáng tạo, biết tổ chức
công việc để giải quyết các đòi hỏi của xã hội và nhu cầu đa dạng, phức tạp của công
việc sau này.
• Dạy và học coi trọng hướng dẫn tìm tòi, học qua trải nghiệm. Giáo viên hướng dẫn
mang tính định hướng mà không có ý áp đặt trong quá trình học của học sinh.
• Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò, của gia đình, cộng đồng. Ngoài
đánh giá kết quả học (đánh giá kết thúc) rất coi trọng đánh giá bằng nhận xét qua
quá trình học của học sinh (đánh giá theo tiến trình, đánh giá theo từng phần).
1.3. Đặc điểm Mô hình trường học mới Vnen, gọi gọn là Mô hình Vnen
I - Hoạt động giáo dục:
- Mục tiêu tổng thể của Mô hình VNEN là phát triển con người: Dạy chữ – Dạy
người.
- Mô hình VNEN hướng tới chuyển các hoạt động giáo dục trong nhà trường thành
các hoạt động tự giáo dục cho học sinh.
- Mọi hoạt động giáo dục trong nhà trường đều Vì lợi ích của học sinh, Của học
sinh và Do học sinh thực hiện. Đặc trưng của Mô hình trường học mới là “ TỰ”
Ảnh minh họa giờ dạy theo Mô hình Vnen
+ Học sinh:
Tự giác, tự quản;
Tự học, tự đánh giá;
Tự tin, tự trọng.
+ Giáo viên:
Tự chủ;
Tự bồi dưỡng.
+ Nhà trường:
Tự nguyện
- Mô hình VNEN có các tài liệu Hướng dẫn các hoạt động giáo dục: Tổ chức dạy
học;
- Tổ chức các hoạt động giáo dục Đạo đức, Thể chất, Nghệ thuật và Kĩ năng sống
cho học sinh.
II. Hoạt động dạy học:
Đổi mới căn bản của Mô hình trường học mới là chuyển:
- Hoạt động Dạy của giáo viên thành hoạt động Học của học sinh;
- Hoạt động quy mô lớp thành hoạt động của quy mô nhóm;
- Học sinh từ làm việc với giáo viên thành làm việc với Sách, có sự tương tác với
bạn.
1. Vai trò của giáo viên:
Từ đặc thù nêu trên, hoạt động của giáo viên đã thay đổi căn bản. Việc chính của
giáo viên là tổ chức lớp học thành các nhóm vàà theo dõi, hướng dẫn hoạt động của
mỗi học sinh ở nhóm học tập.
Trong mô hình VNEN, nhóm là đơn vị học tập cơ bản.
Nhóm trưởng là người thay mặt giáo viên điều hành các thành viên trong nhóm:
tự giác, tích cực hoạt động, tự quản, tự học, tự tìm tòi, khám phá phát hiện kiến thức
theo hướng dẫn của sách. Mọi thành viên trong nhóm phải tự nghiên cứu tài liệu, tự
học, chia sẻ với bạn, báo cáo với nhóm kết quả học tập. Các thành viên trong nhóm
trao đổi, thống nhất và báo cáo kết quả học tập với giáo viên.
Tuy giáo viên không phải soạn bài nhưng phải nghiên cứu kĩ bài học, hiểu rõ quá
trình hình thành kiến thức để tổ chức lớp học, chuẩn bị đồ dùng dạy học, điều chỉnh
nội dung, yêu cầu bài học cho phù hợp với đối tượng và dự kiến các tình huống khó
khăn mà học sinh dễ mắc phải trong quá trình hình thành kiến thức để có những giải
pháp hợp lí, kịp thời .
2. Hoạt động của giáo viên:
- Giáo viên chọn vị trí thích hợp để quan sát được hoạt động của tất cả các nhóm,
các học sinh trong lớp.
Giáo viên chỉ đến hỗ trợ học sinh khi học sinh có nhu cầu cần giúp đỡ hoặc giáo
viên cần kiểm tra việc học của một học sinh, hoặc một nhóm.
- Thông qua quan sát, kiểm tra, giáo viên đánh giá sự chuyên cần, tích cực của
mỗi học sinh; đánh giá hoạt động của từng nhóm và vai trò điều hành của mỗi nhóm
trưởng.
- Phát hiện những học sinh chưa tích cực, học sinh gặp khó khăn trong quá trình học;
kiểm tra, hỗ trợ kịp thời những học sinh yếu để giúp các em hoàn thành nhiệm vụ
học tập.
- Chốt lại những vấn đề cơ bản của bài học.
- Đánh giá hoạt động học của các cá nhân, các nhóm và cả lớp.
- Tạo cơ hội để mỗi học sinh, mỗi nhóm tự đánh giá tiến trình học tập của mình.
3. Dự giờ và đánh giá tiết dạy:
Người dự không tập trung quan sát, đánh giá hoạt động của giáo viên mà đánh giá
quá trình học, kết quả học của học sinh.
Việc đánh giá dựa vào các bước lên lớp của bài học, đánh giá hoạt động và kết quả
học tập của mỗi nhóm và mỗi học sinh, tập trung vào:
- Học sinh có thực sự tự học ?
- Học sinh có tự giác, tích cực ?
- Học sinh có thực hiện đúng các bước lên lớp ?
- Các nhóm có hoạt động đều tay, sôi nổi ?
- Nhóm trưởng điều hành nhóm có tốt ?
- Các hoạt động học diễn ra đúng trình tự lô gic ?
- Học sinh hoàn thành các hoạt động nêu trong sách ?
- Học sinh có hiểu bài, nắm được bài, hoàn thành mục tiêu bài học ?
4. Đánh giá học sinh:
a/ Giáo viên đánh giá học sinh thông qua việc quan sát:
- Tình thần, thái độ học tập, tính tự giác, tích cực tham gia hoạt động nhóm;
- Tính hợp tác, thực hiện điều hành của nhóm trưởng;
- Kết quả thực hiện các hoạt động trong bài, đối chiếu với mục tiêu bài học;
- Ghi chép của học sinh.
b/ Học sinh tự đánh giá:
Đánh giá việc hoàn thành từng hoạt động trong bài học;
Đánh giá kết quả đạt được sau mỗi hoạt động, sau bài học;
Đánh giá việc hoàn thành mục tiêu bài học.
c/ Đánh giá của nhóm:
Tinh thần, thái độ;
Sự tương tác với bạn bè;
Thời gian và chất lượng hoàn thành hoạt động học;
Kết quả các hoạt động học tập.
d/ Cộng đồng đánh giá:
Có thường xuyên trò chuyện với cha mẹ việc học ở trường;
Có thực hiện chăm sóc cây cối, vật nuôi, sức khỏe bản thân và người thân
trong gia đình;
Sự tự tin trong trao đổi, trò chuyện, giao tiếp;
Khả năng diễn đạt, đối thoại, tương tác;
Sự chuyên cần trong học tập, tiến bộ trong học tập.
e/ Công cụ đánh giá:
Sự quan sát, theo dõi;
Phiếu đánh giá tiến độ học tập;
Bản tổng hợp ý kiến đánh giá của giáo viên, học sinh, nhóm, cha mẹ học sinh và
cộng đồng.
1.4. Cấu trúc bài học Mô hình trường học mới Vnen
Mô hình VNEN giữ nguyên nội dung, chuẩn kiến thức, kĩ năng và kế hoạch dạy học
theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Như vậy nội dung, yêu cầu và thời
lượng học các môn không thay đổi.
Bài học mô hình VNEN được cấu trúc theo một đơn vị kiến thức hoàn chỉnh, nhằm
giải quyết trọn vẹn, liên tục một vấn đề: hình thành, cũng cố, vận dụng, ứng dụng
kiến thức vào thực tế.
Mô hình VNEN biên soạn SGK (Toán,Tiếng Việt, TN&XH, Khoa học, Lịch sử và
Địa lí) thành Hướng dẫn học (Toán,Tiếng Việt, TN&XH, Khoa học, Lịch sử và Địa
lí) cho học sinh và tài liệu dạy của giáo viên.
Thông thường, một bài học Toán, TN&XH, Khoa học, Lịch sử và Địa lí học trong
hai tiết, bài học môn Tiếng Việt học trong ba tiết, các bài kiểm tra bố trí một tiết; với
bài học bố trí hai tiết, hết tiết một là hết hoạt động cơ bản và đã đáp ứng cơ bản mục
tiêu của bài học. Tuy nhiên không bắt buộc mọi tiết học mọi giáo viên phải thực hiện
máy móc điều này. Giáo viên có toàn bộ quyền bố trí thời gian để học sinh đạt được
mục tiêu bài học, nắm được bài.
Mỗi bài học được thiết kế khoảng từ 12 đến 15 hoạt động với các nội dung chính
sau:
- Mục tiêu bài học;
- Hoạt động cơ bản;
- Hoạt động thực hành;
- Hoạt động ứng dụng.
Phần hoạt động cơ bản giúp HS học qua trải nghiệm, học qua việc làm thực tế, học
qua tìm tòi, khám phá, phát hiện với sự hỗ trợ, giúp đỡ thích hợp với GV.
Phần hoạt động thực hành thể hiện các hoạt thực hành của HS nhằm củng cố, rèn
luyện, phát triển các kiến thức, kĩ năng vừa học.
Phần hoạt động ứng dụng khuyến khích HS bước đầu biết vận dụng kiến thức trong
thực tế cuộc sống. Nhấn mạnh sự quan tâm, hỗ trợ HS học tập từ phía gia đình và
cộng đồng. Khuyến khích HS mở rộng vốn kiến thức qua các nguồn thông tin khác
nhau ( từ gia đình, cộng đồng thôn xóm, làng bản, …).
Bắt đầu của mỗi hoạt động đều có một hình vẽ (lô gô) cùng với những “Lệnh” thực
hiện để HS dễ dàng nhận ra yêu cầu và các hình thức tổ chức thực hiện hoạt động
học tập ( học cá nhân, theo cặp, nhóm nhỏ hoặc toàn lớp). (Cụ thể ở trang đầu của
TLHD các môn)
Trong thiết kế bài học, trước mỗi hoạt động đều có các lô gô chỉ dẫn. HS nhìn lô gô
biết hoạt động đó thực hiện cá nhân, hay nhóm đôi, nhóm lớn hoặc chung cả lớp.
Lô gô làm việc cá nhân hiểu là cá nhân làm việc là chính. Nhưng khi làm xong có
thể đổi vở cho bạn để kiểm tra bài làm của nhau, hoặc báo cáo với nhóm kết quả
mình đã làm được.
Lô gô làm việc nhóm chủ yếu nhắc nhở HS hoạt động theo nhóm có sự tương tác
trong nhóm để cùng giải quyết môt nhiệm vụ học tập nào đó. Có lô gô hoạt động
nhóm, thì mỗi học sinh vẫn phải suy nghĩ, phải làm việc cá nhân, nhóm không làm
thay, học thay cá nhân. Như vậy rất cần sự điều chỉnh linh hoạt của giáo viên để hoạt
động học diễn ra tự nhiên, hiêu quả.
1.5. Quy trình 5 bước của Mô hình trường học mới Vnen
1. Gợi động cơ, tạo hứng thú (bước khởi động)
- Kết quả cần đạt:
+ Kích thích tính tò mò, khơi dạy hứng thú của HS về chủ đề sẽ học; HS cảm thấy
vấn đề nêu lên rất gần gũi với mình.
+ Không khí lớp học vui, tò mò, chờ đợi, thích thú.
- Cách làm: đặt câu hỏi; đố vui; kể chuyện; đặt một tình huống; tổ chức trò chơi . . .
Có thể thực hiện với toàn lớp, nhóm nhỏ, hoặc cá nhân từng HS. (VD: Hát bài hát về
Quê hương trước khi học bài “Gắn bó với quê hương”; cho HS nhảy theo nhạc trước
khi học Toán …)
2. Tổ chức cho HS trải nghiệm:
- Kết quả cần đạt:
+ Huy động vốn hiểu biết, kinh nghiệm có sẵn của HS để chuẩn bị học bài mới.
+ HS trải qua tình huống có vấn đề, trong đó chứa đựng những nội dung kiến thức,
những thao tác, kỹ năng để làm nảy sinh kiến thức mới.
VD: Hoạt động 1 trong tiết Tiếng Việt: Kể các trò chơi dân gian em biết; Bài 1 tiết
toán: HS dựa vào kiến thức đã học về tìm phần nhiều hơn và tính tổng 2 số để lần
lượt thực hiện trả lời 2 câu hỏi trong bài toán trước khi tìm hiểu về giải toán hợp có
2 phép tính.
- Cách làm: Tổ chức các hình thức trải nghiệm gần gũi với HS. Có thể thực hiện với
toàn lớp, nhóm nhỏ hoặc cá nhân từng HS.
3. Phân tích – Khám phá – Rút ra kiến thức mới
- Kết quả cần đạt:
+ Huy động vốn hiểu biêt, khái niệm hay quy tắc lý thuyết, thực hành mới.
+ Nếu là một dạng toán mới thì HS phải nhận biết được dấu hiệu, đặc điểm và nêu
được các bước giải dạng toán này.
VD: Phép tính thứ nhất: Tìm số vở của chị (từ khóa “nhiều hơn”); Phép tính thứ hai:
Tìm số vở của cả hai chị em (từ khóa “cả hai”).
- Cách làm: Dùng các câu hỏi gợi mở, câu hỏi phân tích, đánh giá để giúp HS thực
hiện tiến trình phân tích và rút ra bài học.
Có thể sử dụng các hình thức thảo luận cặp đôi, thảo luận theo nhóm, hoặc các hình
thức sáng tạo khác nhằm kích thích tính tò mò, sự ham thích tìm tòi, khám phá, phát
hiện của HS . . .
4. Thực hành:
- Kết quả cần đạt:
+ HS nhớ dạng cơ bản một cách vững chắc; làm được các bài tập áp dụng dạng cơ
bản theo đúng quy trình.
+ HS biết chú ý tránh những sai lầm điển hình thường mắc trong quá trình giải bài
toán dạng cơ bản.
- Cách làm:
+ Thông qua việc giải những bài tập rất cơ bản để HS rèn luyện việc nhận dạng, áp
dụng các bước giải và công thức cơ bản (đối với môn Toán). GV quan sát, giúp HS
nhận ra những khó khăn của mình, nhấn mạnh lại quy tắc, thao tác, cách thực hiện.
+ Tiếp tục ra các bài tập với mức độ khó dần lên phù hợp với khả năng của HS; GV
tiếp tục giúp các em giải quyết khó khăn bằng cách liên hệ lại với các quy tắc, công
thức, cách làm, thao tác cơ bản đã rút ra ở trên.
+ Có thể giao bài tập áp dụng cho cả lớp, cho từng cá nhân hoặc theo nhóm, theo cặp
đôi, theo bàn, theo tổ HS.
5. Vận dụng
- Kết quả cần đạt:
+ HS củng cố, nắm vững các nội dung kiến thức trong bài đã học.
+ HS biết vận dụng kiến thức đã học trong hoàn cảnh mới, đặc biệt trong những tình
huống gắn với thực tế đời sống hàng ngày.
+ Cảm thấy tự tin khi lĩnh hội và vận dụng kiến thức mới.
- Cách làm:
+ HS thực hành, vận dụng từng phần, từng đơn vị kiến thức cơ bản của nội dung bài
đã học.
+ GV giúp HS thấy được ý nghĩa thực tế của các tri thức toán học, ngôn ngữ tiếng
Việt. . . Từ đó khắc sâu kiến thức đã học.
+ Khuyến khích HS diễn đạt theo ngôn ngữ, cách hiểu của chính các em. Khuyến
khích HS tập phát biểu, tập diễn đạt bước đầu có lý lẽ, có lập luận.
1.6. Mười bước học tập theo Mô hình trường học mới Vnen
Để tổ chức cho học sinh học tập, giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện đúng quy
trình 10 bước lên lớp của mô hình VNEN:
1. Em học tập theo nhóm;
2. Em ghi đầu bài vào vở;
3. Em đọc mục tiêu bài học;
4. Em bắt đầu thực hiện hoạt động cơ bản;
5. Kết thúc hoạt động cơ bản, em báo cáo với thầy cô giáo;
6. Em bắt đầu hoạt động thực hành:
- Em bắt đầu bằng hoạt động cá nhân,
- Em chia sẻ với bạn bên cạnh,
- Em trao đổi kết quả với các bạn trong nhóm, kiểm tra sửa lỗi cho
nhau;
7. Em bắt đầu hoạt động ứng dụng;
8. Em đánh giá cùng với thầy cô giáo;
9. Em tự đánh giá vào bảng đo tiến độ;
10. Em đã hoàn thành bài học hay còn phải học lại phần nào.
1.7. Định hướng về vận dụng Mô hình Vnen trong việc hướng dẫn học sinh tự
học
1. Hình thức tổ chức lớp học: học cá nhân, tương tác theo cặp, theo nhóm và tương
tác cả lớp
- Khi học cá nhân, học sinh tự nghiên cứu tài liệu học hoặc cùng với chỉ dẫn của
giáo viên, độc lập, suy nghĩ, đọc thầm, viết, độc lập chọn giải pháp (chọn câu trả lời,
nêu ý kiến nhận xét, nêu ý tưởng cá nhân, nêu cách làm của mình…).
Chẳng hạn khi đọc thành tiếng đoạn văn ngắn, trả lời câu hỏi tìm hiểu bài trong
nhóm, giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh nêu kết quả để nhận xét, đánh giá,
kết hợp hướng dẫn học sinh đối chiếu với bài đã chữa trên lớp để học sinh tự tìm ra
kết quả, nếu em cho là sai…
- Khi tương tác theo cặp, học sinh được giáo viên chỉ dẫn thực hiện nhiệm vụ, đổi
nhiệm vụ với bạn, đánh giá kết quả của bạn, báo cáo kết quả học tập của từng cặp.
- Khi học tương tác trong nhóm từ 3 đến 5 HS, các em hoạt động theo phân công của
nhóm trưởng, tất cả các học sinh hoàn thành nhiệm vụ nghĩa là cả nhóm hoàn thành
nhiệm vụ, giúp các em học được kĩ năng hợp tác, từ đó hình thành được năng lực
hợp tác.
- Hình thức tổ chức dạy học toàn lớp được thực hiện khi giáo viên cần thông báo,
giải thích, tổng kết các ý kiến của học sinh; Hướng dẫn chung cho cả lớp thực hiện
nhiệm vụ học tập; Tổ chức cả lớp cùng trao đổi hoặc nghe đại diện các nhóm báo
cáo kết quả làm việc ở nhóm, cùng quan sát một vài học sinh chữa bài sau khi làm
việc cá nhân hoặc cùng tham gia trò chơi học tập do giáo viên tổ chức.
Giáo viên cần lựa chọn nội dung cần thiết, thu hút sự chú ý của học sinh, không
thuyết trình quá dài mà nên minh họa bằng đồ dùng trực quan và gợi ý, tổ chức,
hướng dẫn học sinh cùng tham gia giải quyết những vấn đề chung. Ngôn ngữ trình
bày, câu văn cần ngắn gọn, trong sáng và súc tích; Cố gắng sử dụng những từ ngữ,
hình ảnh, cách nói gần gũi với học sinh.
- GV cần linh hoạt trong việc lựa chọn hình thức tổ chức dạy học sao cho phát huy
tính tự giác chủ động sáng tạo của học sinh phù hợp hơn với đặc điểm của từng lớp
học, môn học. Với HS tiểu học kiến thức chưa đòi hỏi ở mức độ quá khó, vấn đề cơ
bản là GV phải biết khơi gợi niềm say mê yêu thích môn học của HS.
- Vớí mỗi hình thức tổ chức, ở mỗi hoạt động học tập, GV lưu ý chốt kiến thức một
cách ngắn gọn. Trên cơ sở đó khắc sâu hoặc gợi mở để mở rộng nâng cao một cách
hợp lí với từng đối tượng học sinh.
2. Phát huy Vai trò và cách thức học tập của HS: Tự giác, tự quản; Tự học, tự đánh
giá; Tự tin, tự trọng.
- Chọn cử và giúp nhóm trưởng từng bước biết cách điều khiển các hoạt động học
tập trong nhóm. Nhóm trưởng có thể không phải là HS học tốt nhất trong nhóm, cần
luân phiên để tránh tình trạng phụ thuộc vào các bạn trong nhóm.
- Hoạt động nhóm không phải chỉ để cùng bàn nhau thực hiện một nhiệm vụ học tập
mà nhóm trưởng cần lần lượt yêu cầu từng cá nhân ( và cả nhóm trưởng) lần lượt
thực hiện nhiệm vụ. Như vậy, sau mỗi hoạt động, tất cả HS đều được hoạt động.
- Khích lệ mọi thành viên tham gia học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, phát triển mối
quan hệ gắn bó, quan tâm đến nhau, từng học sinh trở thành một thành viên trong
nhóm, nhóm muốn hoạt động có hiệu quả và lớn mạnh thì cần sự gắn kết của từng
thành viên. Mỗi học sinh cũng như toàn nhóm không thể thành công nếu mỗi thành
viên không cố gắng hoàn thành trách nhiệm của mình.
- Các thành viên trong nhóm được nhận xét lẫn nhau về thái độ học tập, khả năng
học tập.
- Học sinh được nhận xét tiết học theo yêu cầu của mục tiêu bài.
- Trong quá trình tổ chức các nhóm học tập, GV cần bao quát không chỉ hoạt động
của các nhóm mà cần bao quát hoạt động của từng học sinh, đặc biệt với đối tượng
HS giỏi hoặc HS còn yếu để có biện pháp hỗ trợ phù hợp.
Điều quan trọng trong việc dạy chương trình VNEN là rèn được kỹ năng cho HS
nhưng vẫn đảm bảo kiến thức, phát huy được tính tự quản. HS tự tin, sáng tạo hơn
trong học tập cũng như cuộc sống.
1.8. Những ưu điểm và hạn chế trong dạy học của mô
hình vnen
1.8.1 Ưu điểm
Mô hình vnen là mô hình giáo dục được cải tiến nhằm khắc phục
những hạn chế của giáo dục truyền thống; là quá trình tổ chức cho
học sinh hoạt động để khám phá và chiếm lĩnh các kiến thức và kỹ
thức mới. Bản chất quá trình học tập của vnen được diễn ra thông
qua đối thoại và tương tác lẫn nhau giữa học sinh với học sinh, giữa
học sinh với giáo viên. Trong quá trình triển khai, mô hình này đã
thể hiện rõ những ưu điểm sau:
Thứ nhất, học sinh được học theo mô hình này chắc chắn sẽ phát
triển toàn diện hơn, các em có năng lực ứng xử với thực tế cuộc
sống tốt hơn. Học sinh đã tỏ rõ sự mạnh dạn, tự tin hơn trong giao
tiếp, kĩ năng sống của các em theo đó được phát triển. Điều này, hs
học theo mô hình hiện hành không có.
Thứ hai, cán bộ, giáo viên đã có thay đổi sâu sắc quan niệm về
nhà trường. Nhà trường không chỉ là nơi dạy chữ mà còn là nơi dạy,
chăm sóc toàn diện cho học sinh. Đây thực sự là môi trường học
tập, vui chơi thân thiện, nơi gắn kết các mối quan hệ: quan hệ giữa
học sinh với học sinh, giữa nhà trường với học sinh, giữa nhà trường
và cha mẹ học sinh, giữa giáo viên với học sinh. Trong môi trường
này, các hoạt động giáo dục được thực hiện rất dân chủ, thân
thiện, tạo cảm giác tin cậy, ấm áp đối với học sinh.
Thứ ba, mô hình dạy học đã làm thay đổi quá trình sư phạm của
giáo viên. Giáo viên đã từ chỗ một mình, tự mình quyết định cung
cấp cho học sinh những kiến thức gì trong môn học với cách dạy
hiện hành thì ở mô hình này, “quyền năng” đó đã được san sẻ cho
học sinh với sự gợi ý của tài liệu hướng dẫn học. Học sinh đã thực
sự làm chủ cách học, làm chủ kiến thức.
Thứ tư, với mô hình này, học sinh được phát triển các năng lực
(năng lực tự quản, năng lực hợp tác, năng lực quản lí, năng lực
thuyết trình,...), đáp ứng yêu cầu của đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục nước nhà, đào tạo con người theo định hướng phát triển
năng lực.
Với cách thức tổ chức hoạt động nhóm, học sinh được phát huy
tối đa sự hiểu biết, năng lực của bản thân; số lần học sinh được bày
tỏ ý kiến nhiều hơn; những học sinh yếu được giáo viên quan tâm
nhiều hơn và được các bạn trong nhóm giúp đỡ để hoàn thành
nhiệm vụ. Điểm khác biệt lớn nhất là trước kia để đánh giá được
mức độ hiểu bài của học sinh sau mỗi tiết học, giáo viên cũng chỉ
có thể kiểm tra một vài học sinh; nhưng ở mô hình này, tất cả học
sinh đều được các bạn khác trong nhóm kiểm tra nên không xảy ra
tình trạng “bị bỏ rơi”.
Với chất lượng học tập tại các lớp học vnen, học sinh phát huy
được “5 tự”: tự học, tự sáng tạo, tự tin, tự giác, tự chủ. Đảm bảo
mục tiêu: chuyển giáo dục sang tự giáo dục; việc dạy của giáo viên
sang thành việc học của học sinh; dạy học theo lớp chuyển thành
học theo nhóm và học theo thầy thành học theo sách. Học sinh
phát huy tốt kỹ năng: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác, kỹ năng
tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau [2].
Thứ năm, thực hiện chương trình vnen mở ra cơ hội để sự phối
hợp nhà trường với các đoàn thể, giữa giáo viên với phụ huynh và
cộng đồng xã hội chặt chẽ hơn. Phụ huynh trực tiếp tham gia giáo
dục con em mình, trực tiếp tham gia dạy con em mình thông qua
việc thực hành kỹ năng của các em. Nhà trường thường xuyên liên
lạc và phối hợp với phụ huynh và các tổ chức xã hội, vấn đề xã hội
hóa giáo dục tiến hành rất tốt. Dư luận và phụ huynh đồng tình,
ủng hộ và mong muốn tham gia vào công việc chung của nhà
trường, của lớp để thể hiện trách nhiệm. Vì vậy, công tác xã hội
hóa quá trình giáo dục không cần hô hào mà đã trở thành nhu cầu
tự thân. Rất nhiều hiệu ứng tích cực từ các lớp học vnen đã tạo ra
không khí lao động sáng tạo ở mỗi nhà trường, điều mà trước đây ở
mô hình dạy học hiện hành là không thể có được [3].
Điểm mới có tính chất tiên quyết trong mô hình vnen là cách
soạn tài liệu hướng dẫn học. Hoạt động đổi mới về tài liệu hướng
dẫn học là khâu quan trọng, quyết định đến việc thực hiện hiệu
quả dạy học “lấy người học làm trung tâm”. Tài liệu học tập “ba
trong một” (tài liệu hướng dẫn học dùng cho cả ba đối tượng : giáo
viên, học sinh, phụ huynh) đã mang lại những ưu điểm nổi bật : học
sinh tự học, hiểu và làm được như sách hướng dẫn, giáo viên hiểu
để tổ chức tốt cho học sinh học, cha mẹ hiểu con học những gì và
học như thế nào. Thực sự, đây là bước đột phá cho công cuộc đổi
mới phương pháp dạy học. Có thể chốt lại điểm mạnh của mô hình
vnen:
Mô hình vnen làm thay đổi nhà trường
(i) lấy hoạt động học của học sinh làm trung tâm.
(ii) đưa ra một chương trình học phong phú và bổ ích.
(iii) thúc đẩy việc học tập của học sinh. Giúp học sinh :
- tự tin, biết cách suy nghĩ;
- biết cộng tác, hợp tác với mọi người;
- có kĩ năng làm việc nhóm;
- biết quan tâm, có trách nhiệm trong các hoạt động;
- biết phấn đấu, làm chủ quá trình học tập của mình;
- có nhiều kĩ năng trong giao tiếp và kĩ năng sống;
(vi) thay đổi quy trình sư phạm của giáo viên :
- nghiệp vụ sư phạm theo hướng đổi mới được nâng cao hơn;
- có kĩ năng điều hành các hoạt động dạy học;
- biết cộng tác theo xu hướng tích cực trong giáo dục;
- biết quan tâm và hỗ trợ đồng nghiệp;
(vii) đối với cha mẹ học sinh, cộng đồng :
- có trách nhiệm và tham gia với nhà trường nhiều hơn;
- hỗ trợ các hoạt động cụ thể cho nhà trường;
- được tiếp nhận, bổ sung tri thức từ nhà trường thông qua học
sinh;
1.8.2. Những hạn chế, bất cập
Học sinh tiểu học còn nhỏ, một số học sinh còn hạn chế về kĩ
năng sử dụng tiếng việt nên còn khó khăn trong việc giải quyết các
yêu cầu trong bài.
Học sinh nông thôn giao tiếp còn yếu.
Sĩ số học sinh trong lớp còn quá đông, rất khó cho việc chia
nhóm, kê lại bàn ghế đủ cho học sinh trong một lớp thực hiện dạy
học theo mô hình mới. Theo quy chuẩn thì mô hình trường học mới
cần phòng học tối thiểu 100 m2 trong khi thực tế phòng học của
các lớp chỉ rộng 50 m2.
Không phát huy được khả năng sáng tạo của giáo viên : những
hoạt động ứng dụng cho học sinh rất rập khuôn; tài liệu dạy học
được hướng dẫn quá tỉ mỉ.
Không sử dụng tới các thiết bị ứng dụng công nghệ thông tin trong
dạy và học.
Tài liệu hướng dẫn học còn nhiều “hạt sạn”. Cụ thể :
- Tài liệu được biên soạn quá dài. Học sinh ngại đọc. Nhất là với đối
tượng hs lớp 1, 2. Một số em còn chưa đọc thông viết thạo nên quá
trình tự đọc và làm bài rất khó khăn.
- Bài tập ứng dụng quá khó. Nếu giáo viên không hướng dẫn sẽ
không làm được.
- Nhiều ngữ liệu chưa phù hợp với các vùng, miền.
- Các logo có khi không phù hợp.
- Chưa khai thác được trí thông minh của học sinh.
- Học sinh rất ồn. Cách bố trí học nhóm tạo điều kiện cho một số
em lười học nói chuyện riêng trong khi cô giáo bận đi hướng dẫn
các nhóm khác.
- Có một số tiết của một số môn, học sinh không thể ghi kịp đề bài
vào vở để làm (sgk hiện hành có vở bài tập ghi đề bài sẵn, học sinh
chỉ việc điền vào).
- Một số nội dung chưa phù hợp trong tài liệu hướng dẫn học :
Tài liệu hướng dẫn học tiếng việt 3 [4]:
Bài 28c: vui chơi có những lợi ích gì?
A.hoạt động cơ bản
Hđ1: logo nhóm- cần chỉnh logo hoạt động chung cả lớp. Vì yêu cầu
của hoạt động là cả lớp hát một bài về vui chơi hoặc thể thao.
Tài liệu hướng dẫn học toán 3 [5]:
Phần nhiều ở các hoạt động thực hành: hầu như hs không đủ thời
gian làm bài thực hành trong một tiết, ở lớp giỏi thì hs hoàn thành
khoảng 2 tiết, ở lớp trung bình, yếu thì hs hoàn thành khoảng 3
tiết. Vì vậy, đề nghị các bài toán hoạt động thực hành cần phân bố
ra 2-3 tiết để đảm bảo thời gian làm bài cho hs ở các vùng miền
học chậm hơn.
- chưa chú trọng đến các bài tập dành cho từng đối tượng học sinh.
Tài liệu hướng dẫn học tiếng việt 2 [6]:
- tập 1a - bài 5b:một người bạn tốt
- câu b dòng cuối, trò chơi thi tìm từ nhanh có vần en / eng.
- cùng nghĩa với xấu hổ (mắc cỡ) câu hỏi này khó, học sinh tìm
không được tiếng thẹn. Phải nhờ sự hỗ trợ của giáo viên.
- bài 5c: cùng tìm sách để học tốt.
- tìm các tiếng có vần en/eng.
- tranh đầu tiên là hình người cầm chiếc khèn nhưng học sinh
không nhìn rõ nên không nêu được, phải nhờ sự hỗ trợ của giáo
viên cung cấp. Chỉ phù hợp với một số vùng miền.
- tập 1b, bài 15a: anh em yêu thương nhau.
- bài 4 trang 71. Đọc theo mẫu.
A) đọc từ ngữ, từ rất đỗi, lặp lại 2 lần.
Tài liệu hướng dẫn học tự nhiên xã hội 2 [7] :
- bài 7: em cần làm gì khi ở nhà : các hình chụp quá nhỏ học sinh
không quan sát được.
Những hạn chế trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy
học vnen. Rất cần thiết phải có những điều chỉnh kịp thời (cả tài
liệu hướng dẫn học và tập huấn cho giáo viên).
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Dạy học theo nhóm đây là mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại, phù
hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục nước ta. Các phòng học dạy
theo mô hình VNEN được bố trí giống như phòng học bộ môn, thư viện linh động
với đồ dùng dạy và học sẵn có để HS tham khảo; góc đồ dùng học tập, góc cộng
đồng, góc trưng bày sản phẩm... Mô hình VNEN thực hiện đổi mới phương pháp
dạy học theo nguyên tắc lấy HS làm trung tâm, học tập mang tính tương tác và phù
hợp với từng cá nhân học sinh. Chuyển việc truyền thụ của GV thành việc hướng
dẫn HS tự học. Lớp học do HS tự quản và được tổ chức theo các hình thức, như:
Làm việc theo cặp, làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm, trong đó hình thức học
theo nhóm là chủ yếu. Học sinh được học trong môi trường học tập thân thiện, thoải
mái, không bị gò bó, luôn được gần gũi với bạn bè, với thầy cô, được sự giúp đỡ của
bạn học trong lớp, trong nhóm và thầy cô, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi các em.
học sinh khá giỏi được phát huy, học sinh còn hạn chế, yếu kém được học sinh của
nhóm và giáo viên giúp đỡ kịp thời ngay tại lớp. Ở đây được coi là một phương pháp
dạy học. Những người tham gia trong nhóm phải có mối quan hệ tương hỗ, giúp đỡ
và phối hợp lẫn nhau. Nói cách khác là tồn tại tương tác "mặt đối mặt" trong nhóm
HS. HS trong nhóm cùng thực hiện nhiệm vụ chung. Điều này đòi hỏi trước tiên là
phải có sự phụ thuộc tích cực giữa các thành viên trong nhóm. Mỗi thành viên trong
nhóm cần hiểu rằng họ không thể trốn tránh trách nhiệm, hay dựa vào công việc của
những người khác. Trách nhiệm cá nhân là then chốt đảm bảo cho tất cả các thành
viên trong nhóm thực sự mạnh lên trong học tập theo nhóm. Học sinh thường được
phát huy hơn, cơ hội cho HS tự thể hiện, tự khẳng định khả năng của mình nhiều
hơn. Nhóm làm việc sẽ khuyến khích HS giao tiếp với nhau và như vậy sẽ giúp cho
những trẻ em nhút nhát, thiếu tự tin, cô độc có nhiều cơ hội hòa nhập với lớp học.
Thêm vào đó, học theo nhóm còn tạo ra môi trường hoạt động mang bầu không khí
thân mật, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ trên cơ sở cố gắng hết sức và trách
nhiệm cao của mỗi cá nhân. HS có cơ hội được tham gia tích cực vào hoạt động
nhóm. Mọi ý kiến của các em đều được tôn trọng và có giá trị như nhau, được xem
xét, cân nhắc cẩn thận. Do đó sẽ khắc phục tình trạng áp đặt, uy quyền, làm thay,
thiếu tôn trọng...giữa những người tham gia hoạt động, đặc biệt giữa giáo viên và
học sinh.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CUA VIỆC VẬN DỤNG MÔ HÌNH
TRƯỜNG HỌC MỚI Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC TÂN NINH
2. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu:
a. * Thuận lợi :
- Đa số học sinh được trang bị đầy đủ tài liệu HD học và đồ dùng học tập.
- Học sinh trong lớp và trường thích học mô hình này.
- Bản thân giaó viên thích nghiên cứu sâu và dạy học theo nhóm học sinh có
hiệu quả.
Thiết kế của bài học VNEN được xây dựng 3 trong 1 tức là SGK, SGV và
VBT cùng trong một quyển, điều đó rất tiện cho GV và HS trong hoạt động dạy và
học.
- Mô hình dạy học của VNEN chuyển cơ bản từ hoạt động dạy của giáo viên sang
hoạt động học của học sinh. Tức là chuyển từ phương pháp dạy truyền thống sang
phương pháp học tích cực của học sinh.
* Khó khăn:
Đòi hỏi nhiều thời gian: Một lớp học đông với thời gian giảng dạy từ 35
đến 40 phút học một tiết là một trở ngại rất lớn cho dạy học nhóm thành công. Nếu
như GV không kiểm soát cẩn thận tương tác giữa HS trong nhóm, thì một vài HS có
thể lãng phí thời gian vào việc thảo luận những vấn đề không có liên quan hoặc có
thể xảy ra trường học là một HS phụ trách nhóm theo kiểu độc đoán, đa số các thành
viên trong nhóm không tham gia thảo luận mà lại quan tâm đến vấn đề khác…trong
nhóm và giữa các nhóm có thể phát sinh tình trạng đối địch, ganh đua quá mức.
Thường khó để đánh giá từng HS một cách công bằng và một vài em có thể cảm
thấy không thoải mái với việc đánh giá dựa trên sự nỗ lực của nhóm và sự bình xét
của các bạn.
b) Thành công - Hạn chế.
* Thành công:
Dạy học theo nhóm đã được GV sử dụng khá phổ biến và thường xuyên:
Từ khi có chủ trương đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tăng cường sự tham
gia của HS, phát huy tối đa vai trò chủ động, tích cực của các em thì dạy học theo
nhóm đã được coi là phương pháp dạy học hữu hiệu và bước đầu đã làm thay đổi bộ
mặt phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông GV đã nhận thức được những
ích lợi của dạy học nhóm: GV đã thấy rõ tác dụng của dạy học theo nhóm trong việc
phát huy tính tích cực, chủ động, tăng cường sự tham gia của HS như: mọi HS đều
được trình bày ý kiến, HS tự tìm ra tri thức, nắm bài chắc hơn, hứng thú với học tập
hơn.v.v... và phát triển những kĩ năng XH cho HS, như biết lắng nghe và tôn trọng ý
kiến của bạn, biết trình bày ý kiến của mình cho các bạn nghe và hiểu, biết thống
nhất ý kiến,v.v...; Còn đối với GV thì dạy học nhóm giúp họ không phải nói nhiều
trên lớp, nhưng chuẩn bị bài cần kỹ lưỡng hơn; hiểu khả năng của HS hơn.v.v....
GV đã có kiến thức và một số kỹ năng để tiến hành dạy học theo nhóm: Qua dự giờ
của một số giáo viên đều cho thấy về cơ bản GV biết sử dụng phương pháp dạy học
nhóm phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, mục tiêu và nội dung bài học. GV bước đầu
đã biết lựa chọn hình thức và cơ cấu nhóm tương đối phù hợp, đã nêu được các bước
dạy học theo nhóm. Khâu chuẩn bị của GV cho HS trong nhóm làm việc theo 10
bước học tập cũng rất tốt.
HS bước đầu đã có những kĩ năng làm việc theo nhóm: Các em đã biết nhanh
chóng gia nhập vào nhóm, bầu nhóm trưởng, thư kí; bước đầu biết bày tỏ quan điểm,
ý kiến và trình bày mạch lạc kết quả làm việc chung của cả nhóm.
Hạn chế:
Bên cạnh những kết quả tích cực như trên, vẫn còn những tồn tại nhất định,
cụ thể là: Gia đình các em đa số làm nông, kinh tế một số gia đình khó khăn nên
chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em, phải lo cuộc sống mưu sinh còn
phó mặc công việc học tập của con em mình cho nhà trường.
Khi tiến hành tổ chức dạy học theo nhóm nhỏ, GV chủ yếu hướng HS nhằm vào
mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ học tập cụ thể mà nhóm HS cùng nhau thực hiện chứ
chưa chú trọng GD cho HS những kĩ năng xã hội quan trọng mà làm việc nhóm có
ưu thế.
Sau khi các nhóm thảo luận GV ít quan tâm chốt lại những kiến
thức, kết luận chung làm cho HS không biết ý kiến nào là phù hợp.
Dạy học nhóm chưa được sử dụng đồng đều ở tất cả các môn học.
Còn đơn điệu trong việc sử dụng các hình thức tiến hành và nhiệm
vụ giao cho nhóm. Nhiệm vụ giao cho nhóm còn đơn giản, ít
phương án trả lời, không cần huy động nhiều kinh nghiệm của từng
cá nhân và thiếu định hướng để HS buộc phải phân chia công việc
hay phải trưng cầu ý kiến riêng của từng người trong nhóm.
c) Mặt mạnh – Mặt yếu.
* Mặt mạnh :
Dạy học theo nhóm có thể tập trung những mặt mạnh của từng học
sinh, hoàn thiện cho nhau những điểm yếu. Dạy học theo nhóm nâng cao tính tương
tác giữa các thành viên trong nhóm. Thực hiện tốt theo 10 bước học tập.
- Tăng cường động cơ học tập, làm nảy sinh những hứng thú mới. Kích
thích sự giao tiếp, chia sẻ tư tưởng, nguồn lực và cách giải quyết vấn đề
- Tăng cường các kĩ năng biểu đạt, phản hồi bằng các hình thức biểu đạt như
lời nói, ánh mắt cử chỉ…
- Khích lệ mọi thành viên tham gia học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, phát triển
mối quan hệ gắn bó, quan tâm đến nhau, từng người và trở thành niềm vui chung
của tất cả. Họ gắn kết với nhau theo phương thức Nhà trường – Gia đình – Cộng
đồng .
*Mặt yếu:
Một số khó khăn trong quá trình tổ chức hoạt động nhóm.
Bàn ghế chưa phù hợp để có thể sắp xếp cho dạy học nhóm, một số HS
lúng túng và nhút nhát, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt động trong nhóm. Một
số học sinh còn ỷ lại, dựa dẫm vào các bạn cùng nhóm. Việc quan sát, đánh giá của
giáo viên chưa được quan tâm đúng mức.
d) Các nguyên nhân, các yếu tố tác động.
Từ năm học 2011- 2012 trở về trước, quan điểm dạy học của giáo viên
chủ yếu là lên lớp cố gắng truyền tải hết khối lượng kiến thức theo yêu cầu trong
sách giáo khoa cho học sinh, các tiết học của học sinh thật sự rất đơn điệu, hình
thức tổ chức dạy học chủ yếu là ngồi nghe thầy cô giảng bài sau đó luyện tập theo
những gì các em tiếp thu được.
Việc đánh giá kết quả học tập của học sinh chủ yếu thông qua học thuộc
lòng hoặc việc áp dụng bài học vào thực tiễn một cách máy móc: “Thầy bảo thế nào
thì làm thế đó – với hình thức trả bài cho thầy”. Đánh giá cảm tính, không thông qua
biểu hiện cụ thể. Những tiết học được tổ chức theo hình thức nhóm, trò chơi học
tập, sắm
vai … rất ít; điều này chỉ diễn ra khi thao giảng, hội giảng, những cũng chỉ
mang tính hình thức.
Đồ dùng như tranh ảnh, bản đồ, hay các giáo cụ phục vụ cho việc dạy
học cũng ít khi sử dụng. Tiết học chỉ có phấn trắng, bảng đen, SGK, “Tư trang”của
GV lên lớp chỉ có giáo án với SGK…Việc học của học sinh tất nhiên là phải phụ
thuộc vào khâu tổ chức của giáo viên, giáo viên tổ chức dạy thế nào thì học sinh học
theo thế đó.
Với việc tổ chức như trên, học sinh lên lớp chỉ ngồi nghe – ghi nhớ
kiến thức mà GV truyền đạt sau đó học thuộc bài, học sinh mà muốn chia sẻ bài
học với bạn thì bị GV nhắc nhở “gây mất trật tự”. Trong suốt buổi học, các em chủ
yếu là ngồi nhìn lên bảng nghe thầy cô giảng.
Ngồi yên một chỗ nghe giảng và làm bài quả thực là điều rất khó khăn đối
với trẻ nhất là học sinh tiểu học. Chính vì điều đó mà học sinh rất rụt rè, nhút nhát
trong các hoạt động, nhàm chán trong việc học tập, kết quả học tập không cao, khả
năng tự bộc lộ bản thân yếu,
- Học sinh còn lúng túng, nhút nhát, ít nói, chưa mạnh dạn tham gia
vào hoạt động nhóm nhất là học sinh yếu.
Ngay từ đầu năm học khi đã khảo sát, phân loại đối tượng học sinh, tôi
đã hướng dẫn và xây dựng kế hoạch cụ thể cho các em.
* Kết quả khảo sát đầu năm học 2013 – 2014 môn Tập đọc của lớp
3A3 lớp tôi dạy như sau:
Tổng số học sinh : 33 em
Đọc diễn cảm
: 2 em
Đọc đạt chuẩn
: 23 em
Đọc còn chậm
: 5 em
Đọc còn đánh vần : 3 em
- Giáo viên Chưa hiểu rõ hoạt động nhóm giúp học sinh tích cực và tham
gia nhiều hơn; các kĩ năng giao tiếp về mặt xã hội và một số kĩ năng sống được phát
triển. Chưa hiểu được thông qua hoạt động nhóm, các em có thể tự diễn đạt bằng lời
và chia sẻ các ý tưởng của mình với những người khác trong việc phát triển các kĩ
năng ngôn ngữ, qua đó các em có thể giúp đỡ lẫn nhau. Thông qua hoạt động nhóm,
GV có thể hỗ trợ các đối tượng HS theo nhu cầu khác nhau đồng thời tạo cho các em
tính mạnh dạn, tự tin trong quá trình giao tiếp. Hơn 40% học sinh là học sinh vốn từ
vựng còn nghèo nàn, sự rụt rè thiếu tự tin khi giao tiếp ngôn ngữ diễn ra còn phổ
biến.
- Cơ sở vật chất
- Bàn ghế chưa phù hợp để có thể sắp xếp chổ ngồi theo nhóm
- Trang thiết bị dạy học còn ít, không đồng bộ.
- Tài liệu về bồi dưỡng nghiệp vụ, rèn kĩ năng dạy học vẫn chưa đồng bộ,
nội dung, còn chung chung.
- Phòng học thiếu không gian… Đó là những nguyên nhân làm cho giáo
viên ngại tổ chức hoạt động dạy học theo nhóm.
e) Phân tích đánh giá, các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đã đặt ra.
Nhằm để khắc phục thực trạng trên đồng thời rèn kĩ năng tổ chức hoạt
động nhóm theo quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm và từng bước nâng
cao chất lượng giáo dục theo chương trình của Bộ.
Bản thân tôi đã áp dụng vào lớp 3A3 Trường Tiểu học Nguyễn Trãi
thành phố Buôn Ma Thuột và chia sẻ kinh nghiệm của mình tới đồng nghiệp.
Đến nay toàn Trường Tiểu học Nguyễn Trãi có 18 lớp/ 27 lớp, có 18
lớp giáo viên có tổ chức dạy học theo hoạt động nhóm trong tất cả các tiết học, trong
đó các lớp này đều dạy theo mô hình trường học mới VNEN, về dạy học nhóm phát
huy tốt những vấn đề bất cập nêu trên.
Những điều giáo viên cần biết và rèn luyện.
* Nhận thức đầy đủ một cách có hệ thống về quan điểm dạy học lấy học
sinh làm trung tâm.
Là đặt người học vào trung tâm của quá trình dạy học, tạo cơ hội tới mức
tối đa để HS được tham gia tích cực vào quá trình học tập thông qua các hoạt động
trên lớp. Đây cũng chính là cách học có hiệu quả nhất. Học qua các hình thức sau:
- Trải nghiệm: Học qua thực tế, học từ những kinh nghiệm thông qua việc
làm và qua khám phá tìm tòi của các em.
- Giao tiếp: Thông qua trao đổi, tranh luận các em có thể chia sẻ cho nhau
những gì mình biết được, học được và cách học của mình cho bạn bè. “ Học thầy
không tày học bạn”
- Học qua tương tác: ( Sự qua lại) Chia sẻ với bạn bè những kinh nghiệm
của mình và học kinh nghiệm từ bạn bè cũng như người lớn.
- Rút kinh nghiệm: Sau những lần thất bại, các em cố gắng làm lại lần nữa,
lần sau sẻ tốt hơn lần trước. Từ những kinh nghiệm học tập đó, các em có thể áp
dụng vào các tình huống khác.
Bốn hình thức trên chính là biểu hiện của quan điểm dạy học này.Để
thực hiện được điều đó thì giáo viên cần phải biết hình thức đặc trưng cho từng cách
học.
* Biết được tầm quan trọng và ích lợi của hoạt động nhóm.
- Tầm quan trọng của việc hoạt động nhóm:
Là giúp học sinh tích cực tham gia ý kiến và có cơ hội trao đổi với các bạn
khác để cùng học, khám phá và phát triển tư duy.
Cách chia nhóm và tổ chức hoạt động nhóm.
Kiểu nhóm:
Nhóm
theo đếm số
Nhóm
cặp
Nhóm
theo tháng sinh
Bàn trên
quay xuống bàn
Nhóm
theo biểu tượng
Nhóm
theo tên các
CÁC
CÁCH
CHIA
NHÓM
Nhóm
theo sở thích
Nhóm
theo mã màu
Nhóm
theo trình độ
Nhóm
tương trợ
Nhóm
theo ghép hình
Tuy nhiên trong thực tế thì có nhiều kiểu nhóm khác, nhưng tôi nêu ra
11kiểu điển hình trên và hướng dẫn cách chia và các hình thức chia các nhóm này
.Cách chia như sau :
Nhóm đếm số : Muốn chia lớp thành 5 nhóm thì điểm số từ 1 đến 6 rồi
quay lại 1…6.Ví dụ lớp bạn có 30 học sinh , bạn muốn chia thành 5 nhóm thì yêu
cầu học sinh đếm 1,2,3,4; 5; 6 Bạn yêu cầu những học sinh có số đếm là 1 thì về
nhóm 1, những học sinh có số 2 về nhóm 2 … Khi chuyển nhóm có thể cho học sinh
vừa đi vừa hát hoặc vỗ tay …
Ưu điểm : Tốn ít thời gian , tạo cho học sinh có không khí học tập thoải mái ,
phong cách nhanh nhẹn, áp dụng được cho tất cả các môn học.
Nhóm biểu tượng .
- Biểu tượng có thể là : (con vật , cây cối , hình ảnh, các bông hoa … )
Muốn chia lớp thành 5 nhóm thì bạn phải chuẩn bị 5 biểu tượng .
Ví dụ : Lớp bạn có 30 học sinh , bạn muốn chia thành 5 nhóm theo biểu
tượng là con vật , bạn phải chuẩn bị các con vật như: Chào mào , Vành khuyên, Thỏ
ngọc, Sơn ca, Hoàng yến …chẳng hạn. Mỗi con vật bạn phải có 6 biểu tượng. Ngoài
ra bạn phải chuẩn bị 5 biểu tượng của 5 con vật trên có kích thước lớn hơn để đặt lên
bàn cho mỗi nhóm . Sau khi phát biểu tượng hoặc cho học sinh chọn biểu tượng
xong, HS nào có biểu tượng con vật nào sẽ về bàn có con vật đó.Tương tự như thế
với biểu tượng là: (cây cối, hoa, hình…)
* Ưu điểm :
Tốn ít thời gian, tạo cho học sinh có không khí học tập thoải mái, lớp học
sinh động, áp dụng được cho tất cả các môn học nhất là các môn học có chủ đề. Lớp
học sôi nổi hứng thú cho tất cả học sinh.
* Nhược điểm :
GV phải chuẩn bị nhiều, gây tốn kém.
Nhóm mã màu: Hình thức chia như nhóm biểu tượng.
Nhóm cặp đôi: Xếp 2 học sinh vào một cặp .
Nhóm sở thích:
Những học sinh có cùng sở thích ngồi cùng một nhóm .“Những người
cùng sở thích thì sự thống nhất sẽ cao hơn.”
Nhóm tương trợ:
Xếp những học sinh có trình độ và năng lực khác nhau ( khá giỏi và trung
bình- yếu) vào một nhóm , để học sinh khá giỏi có thể hỗ trợ cho học sinh yếu.
Nhóm theo ghép hình:
Cắt hình ra thành nhiều mảnh , cho học sinh nhận mỗi em mỗi mảnh sau
đó ghép lại thành hình lúc đầu .Cách này ít khi sử dụng vì tốn nhiều thời gian cho
một tiết học, chỉ thích hợp với các hoạt động ngoại khoá.
Nhóm theo trình độ:
Những học sinh cùng năng lực và trình độ sẽ ngồi một nhóm
* Ưu điểm : Giáo viên có thời gian giúp đỡ , hỗ trợ những nhóm có trình
độ yếu và phát huy tính tự lập cho nhóm khá giỏi.
Nhóm cùng tháng sinh:
Nhóm này cũng ít khi sử dụng vì trong lớp đôi khi cùng tháng nhiều hơn
khác tháng, gây mất cân bằng. Chỉ thích hợp khi mình có tổ chức sinh nhật cho học
sinh…
- Hiện nay còn có mô hình khăn trải bàn, áp dụng vào trong hoạt động
nhóm mang lại hiệu quả cao trong tiết dạy và phát huy tính tựu động, tự sáng tạo của
HS rất cao
* Cách chia nhóm ngẫu nhiên từ một hoạt động cụ thể:
Trong quá trình dạy học, nếu tiết học nào đó mà học sinh nhàm chán,
chúng ta muốn tổ chức cho học sinh một trò chơi “ phá băng ” từ trò chơi đó ta cũng
có thể chia thành nhóm học tập mới.
* Cách làm như sau:
Người quản trò hô“ đoàn kết –đoàn kết “ HS đáp “ kết mấy – kết mấy”
kết thành vòng tròn, từ đó ta chia nhóm tiếp.
Giả sử lớp có 33 học sinh nhưng ta muốn chia lớp thành 5 nhóm thì ta hô
“ đoàn kết đoàn kết” “ kết mấy kết mấy” : “ kết 5- kết 5” sẽ dư 3 HS, ta có thể
bố trí ba học sinh này vào một nhóm thích hợp…
Chia được nhóm rồi thì tổ chức làm việc như thế nào cho có hiệu quả ? Để
trả lời câu hỏi này ta qua phần vai trò và trách nhiệm của các thành viên trong
nhóm.
Vai trò và trách nhiệm của các thành viên trong nhóm.
Chúng ta cùng tìm hiểu qua mô hình sau:
Giao nhiệm vụ
Nhóm
trưởng
!
Thư kí
U
Báo cáo
viên
Vai trò và trách nhiệm
của các thành viên trong
nhóm.
Thàn
h viên
1
Thàn
h viên
2
Thàn
h viên
3
Nhóm trưởng:
Cũng là một thành viên của nhóm giữ nhiệm vụ tổ chức, điều hành nhóm
làm việc đồng thời cùng các thành viên trong nhóm trao đổi, đóng góp ý kiến về
nhiệm vụ được giao.
Thư kí:
Cũng là một thành viên của nhóm giữ nhiệm vụ ghi chép, tổng hợp ý kiến,
đồng thời cùng các thành viên trong nhóm trao đổi, đóng góp ý kiến về nhiệm vụ
được giao của nhóm.
Báo cáo viên
Cũng là một thành viên của nhóm giữ nhiệm vụ báo cáo kết quả làm việc
của nhóm mình và giải trình ý kiến thắc mắc trước lớp và GV đồng thời cùng các
thành viên trong nhóm trao đổi, đóng góp ý kiến về nhiệm vụ được giao qua từng
hoạt động.
Các thành viên
Trao đổi, đóng góp ý kiến về nhiệm vụ được giao.
Nguyên tắc làm việc trong nhóm: Tôn trọng sự tổ chức của nhóm trưởng,
ghi chép trung thực ý kiến chung, báo cáo đầy đủ toàn bộ nội dung đã ghi chép,
người nói phải có người nghe, tôn trọng ý kiến cá nhân, thiểu số phải tuân thủ theo
đa số. Có nhận xét rút kinh nghiệm sau mỗi hoạt động…
Một nhóm muốn hoạt động hiệu quả cần phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ.
Cơ cấu của nhóm gồm: