Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Các trung tâm thương mại lớn ở Nam Bộ xưa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.01 KB, 11 trang )

I.

Vai trò của người Hoa với việc khai phá và hình thành các trung tâm
thương mại lớn ở Nam Bộ
1. Nông Nại đại phố (hay Cù Lao Phố)
1.1.
Trần Thượng Xuyên

Trần Thượng Xuyên tự Trần Thắng Tài, sinh vào năm nào không rõ và mất khoảng năm
1720, người tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc). Ông nguyên là Tổng lãnh binh ba châu Cao Lôi - Liêm. Năm 1649, vương triều Minh ở Trung Quốc sụp đổ. Năm 1679, sau khi phất cờ
“bài Mãn phục Minh” thất bại, ông đem hơn 3.000 quân thân tín cùng gia quyến trên 50
thuyền đến Đại Việt xin thuần phục. Chúa Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) chấp thuận cho vào
khai khẩn xứ Đông Phố lúc này đang còn hoang sơ.
Vua Nguyễn (đời Minh Mạng và Thiệu Trị~ phong thần cho Trần Thượng Xuyên là
''Thượng Đăng thần” nhiều dân làng ở vùng Đồng Nai - Gia Định suy tôn Trần Thượng
Xuyên là ''Phúc thần''... Mẩy thế kỷ qua, cư dân vùng Đông Nam Bộ đã truyền tụng những
câu chuyện dân gian nhằm khẳng định và ghi nhớ công trạng của Trần Thượng Xuyên .
Nhiều tài liệu thành văn cũng đã ghi chép, , góp phần đánh giá và tôn vinh những đóng góp
của Trần Thượng Xuyên (trong đó, có thể kể đến những tài liệu từ thời Nguyễn để lại như:
Đại Nam nhất thống chí Gia Định thành thông chí, Đại Nam thực lục...mà sau này có một số
nhà nghiên cứu đã trích dẫn và phân tích thêm trong nhiều trường hợp).
Trần Thượng Xuyên mất ngày 23 tháng 10 âm lịch - khoảng năm Canh Tý (1720), an táng
tại mạn bắc dinh Trấn Biên (nay thuộc xã Mỹ Lộc, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Ông
được người dân tôn kính thờ làm Thành hoàng tại đình Tân Lân.
1.2.

Quá trình hình thành và phát triển

Nếu ở kỷ thứ XV, Sông Đồng Nai là trạm dừng chân trong hành trình đưa những lưu dân
Việt đầu tiên đến vùng đất Mô Xoài - Bà Rịa thì đến năm 1679, một lần nữa cũng theo dòng
sông Đồng Nai một đoàn người trên 50 chiến thuyền đã vượt ngàn dặm thủy trình đã cập bến


Cù Lao Phố với ước mong tạo dựng một cuộc sống mới.
Đó là đoàn người gồm hơn 3000 binh lính và gia quyến của Trần Thượng Xuyên một
đại tướng của nhà Minh đã được Chúa Nguyễn Phúc Tần ưng thuận để họ đến khai khẩn và
cư trú ở vùng Bàn Lân (Nông Nại Đại Phố) đất Đồng Nai. Khi Trần Thượng Xuyên tới Bàn
Lân, vùng Đông Nam bộ đã có cộng đồng dân cư nhiều thành phần dân tộc sinh sống: Stiêng,
Mạ, Chơ-ro, Khmer, Việt... Nhưng vùng đất này vẫn đang là địa bàn tranh chấp của các thế
lực phong kiến lân bang. Vùng đất này còn rất hoang vu và chưa có tổ chức hành chính .
Hoạt động kinh tế của cư dân lúc này còn là tự phát, tự cấp, tự túc. Những cư dân bản địa như
người Stiêng, Mạ, Chơ-ro, Khmer... canh tác rẫy là chính. Những lưu dân người Việt tiếp tục

1

GVHD: Phạm Phúc Vĩnh

Nhóm thực hiện: nhóm 6


phát huy sở trường khai hoang làm ruộng nước. Hoạt động kinh tế chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp với kỹ thuật thô sơ; đồng thời các hoạt động săn bắn, hái lượm lâm thổ sản và thủy hải
sản cũng có vị trí đáng kể trong đời sống..
Sau khi dừng chân ờ Bàn Lân, Trần Thượng Xuyên nhanh chóng khảo sát tình hình địa
bàn cư trú mới và quyết định chuyển đến định cư tại một cù lao trên sông Đồng Nai để sau
này có một Cù lao Phố nổi tiếng đương thời, lưu danh trong ký ức dân gian và sử sách .Tên
gọi Cù lao Phố vừa dân dã ấy lại là danh xưng dễ quen, dễ nhớ về một nơi từng được định
danh “xứ đô hội” mà công đầu tạo dựng của nhóm người Hoa do Trần Thượng Xuyên dẫn
đầu. Khi đến vùng Cù lao Phố, Trần Thượng Xuyên thấy địa hình này có ưu thế cho việc phát
triển nông nghiệp, lại thuận tiện giao thông thủy, bộ; có lợi cho việc buôn bán nên đã xây
dựng nơi đây thành một thương cảng. Đường xá ở Cù lao Phố được mở mang, phố xá được
tạo dựng, chợ búa được thành lập, hàng hóa dồi dào, thường xuyên có nhiều tàu nước ngoài
đến buôn bán.

Cù lao Phố đương thời dưới sự tổ chức, điều hành của Trần Thượng Xuyên đã trở thành
cửa ngõ giao thương quan trọng, phát triển được sản phẩm tại chỗ như (cau, đậu, đường, cá
khô, lúa gạo, dược liệu), quy tụ được sản phẩm từ các vùng – miền lân cận và từ phương xa
tới (như các loại trái cây, tơ lụa, giấy, ngà voi, gạc nai, sừng tê giác, trầm hương, dầu rái, dầu
trám, tre, mây, sáp ong, mật ong, hổ, beo, nai, voi, các loại đá quý, đồ gốm, các vật liệu xây
dựng như gạch, ngói, đá xây dựng, gỗ, các vật liệu xây dựng như gạch, ngói, đá xây dựng,
các mặt hàng mỹ nghệ làm từ vàng, bạc, sắt, đồng, các đồ cúng như nhang, giấy tiền, hàng
mã...). Đã có nhiều tài liệu nói đến việc Trần Thượng Xuyên nỗ lực ''xây dựng cơ sở hạ tầng'',
như bến đỗ ghe thuyền, bãi và kho chứa hàng, nhà trọ, cửa hàng, quán ăn, dịch vụ vui chơi
giải trí... và nhiều chính sách nhằm thu hút thương nhân ngoại quốc đến buôn bán, để Cù lao
Phố đương thời trở thành một thương cảng sầm uất, tấp nập các thuyền buôn nước ngoài như:
Trung Hoa, Nhật Bản, lndonesia, Malaysia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha... Cảnh phồn vinh
sầm uất của Cù lao Phố bấy giờ đã được sử sách ghi chép: “Ở Nông Nại Đại Phố, đường xá
được mở rộng, phố xá được xây dựng, chợ búa được thành lập, hàng hóa dồi dào, thường
xuyên có nhiều tàu ngoại quốc lui tới buôn bán”. Sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh
Hoài Đức đã ghi nhận nhóm binh dân Cao Lôi Liêm của Trần Thượng Xuyên đến Cù lao Phố
đã nhanh chóng “lập chợ phố thương mại, giao thông với người Tàu, người Nhật Bản, Tây
Dươn, Đồ Bà, thuyền buôn tụ tập đông đảo”. Bên cạnh việc giao thương trao đổi hàng hóa
Cù Lao Phố cũng là nơi sớm hình thành các ngành nghề thủ công như dệt chiếu, trồng dâu
nuôi tằm, nghề gốm, đúc đồng, làm mộc, làm pháo, nấu mía lấy đường. Ngoài nguồn hàng
cung cấp tại chỗ, thương cảng Cù lao Phố còn còn tiếp nhận hàng hóa từ các nơi khác ở vùng
Đồng Nai lúc bấy giờ như Phước Thiền, Bến Gỗ, Bến Cá.

1

GVHD: Phạm Phúc Vĩnh

Nhóm thực hiện: nhóm 6



Đồng thời với việc nỗ lực xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, Trần Thượng Xuyên
cũng tích cực hoạt tinh thần, phục vụ nhu cầu đời sống tâm linh của cư dân, như chùa, đền,
miếu... thờ những vị thần trong tín ngưỡng dân gian của người Hoa và thờ các nhà tư tưởng
tiền bối sáng lập ra Đạo giáo, Khổng giáo, Phật giáo sau gần 2 thập kỷ Trần Thượng Xuyên
đến Cù lao Phố.
Năm 1698, vâng lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu Theo, theo đường biển thuyền của Thành
hầu Nguyễn Hữu Cảnh đi ngược dòng sông Đồng Nai vào đất Đàng Trong. Từ đó, Nguyễn
Hữu Cảnh đã ra sức ổn định dân tình, hoạch định cương giới xóm làng, "lấy đất Nông Nại đặt
làm Gia Định phủ, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy đất Sài
Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Thế rồi đất lành chim đậu, Cù Lao phố đã
trở thành mái nhà chung của các cộng đồng cư dân Hoa, Việt. Dù có người đến trước, có
người đến sau nhưng những cư dân Cù lao Phố đã hòa hợp, gắn bó, chung sức chung lòng
phát triển nghề nông, kinh doanh thương mại để Cù Lao Phố dần phát triển trong vòng gần
100 năm, trở thành thương cảng Nông Nại đại phố sầm uất nhất của phương Nam giao
thương với bên ngoài ....
Trần Thượng Xuyên không chỉ là nhân tài trong việc tổ chức đoàn kết lưu dân phát
triển kinh tế, tạo nên những sắc diện mới về kinh tế, xã hội, văn hóa trên vùng Đông Nam bộ
đương thời (mà sử khởi sắc và thịnh vượng của trung tâm thương mại Cù lao Phố là một
trong những điển hình tiêu biểu), mà còn phát huy được khí phách và tài năng của một dũng
tướng dạn dày kinh nghiệm, đã nhiều lần cầm quân giúp chúa Nguyễn; Ông trở thành ''Đô
đốc tướng quân Trần Thượng Xuyên'', đánh tan nội phản (như bắt và giết được Hoàng Tiến ,
thu phục tàn quân Long Môn), dẹp ngoại loạn (như dẹp loạn Nặc Ông Thâm và Nặc Ông Thu
ở thành La Bích,...), bảo vệ biên cương, đem lại sự bình yên cho dân cư và sự phát triển của
văn hóa địa phương.
Nông Nại Đại Phố đã trở thành một thương cảng lớn, một trung tâm thương mại lớn
ở Nam Bộ từ cuối thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII. Kiến trúc phong quang của Cù lao Phố
bị ảnh hưởng và tàn phá nặng nề qua cuộc bạo loạn của thương nhân người Phước Kiến là Lý
Văn Quang vào năm 1747; trong cuộc tranh chấp giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, đặc biệt vào
các năm 1776, 1777. Quân Tây Sơn tiến đánh Gia Định, tàn phá Cù lao Phố “chiếm dỡ lấy
phòng ốc, gạch đá, của cải chở về Quy Nhơn”. Sau khi chợ búa cùng phố xá bị tàn phá nặng

nề, các thương gia người Hoa rủ nhau xuống vùng Chợ Lớn (nay là Quận 5 và Quận 6, thuộc
Thành phố Hồ Chí Minh), sáp nhập với xã Minh Hương sinh sống và lập những cơ sở thương
mãi khác cho đến nay...

1

GVHD: Phạm Phúc Vĩnh

Nhóm thực hiện: nhóm 6


Kể từ đó, vùng Cù lao Phố đánh mất vai trò là trung tâm thương mại của Đàng Trong mà
thay vào đó là Chợ Lớn và Mỹ Tho. Nông Nại đại phố xưa được xác định là vùng Cù lao Phố
hiện nay thuộc xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
2. Trấn Hà Tiên
2.1.
Mạc Cửu

Mạc Cửu gốc xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, vào thời
Đại Thanh, niên hiệu Khang Hy thứ 19 (1680), nhà Minh mất hẳn (nhưng mãi đến năm
Khang Hy thứ 19, vùng Quảng Đông mới bình định xong). Không thần phục nhà Thanh, năm
1671, mang cả gia đình, binh sĩ và một số sĩ phu khoảng 400 người lên thuyền rời khỏi Phúc
Kiến. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển cả, phái đoàn Mạc Cửu đổ bộ lên một vùng đất
hoang trong vịnh Thái Lan. Sau khi dò hỏi và biết vùng đất này thuộc ảnh hưởng Chân Lạp,
phái đoàn liền tìm đường đến Oudong xin tị nạn, nhưng lúc đó nội bộ Chân Lạp có loạn. Mạc
Cửu gặp Nặc Ông Thu (Ang Sur, Jayajettha III) và ở lại hợp tác cho đến năm 1681.
Năm 1680, Mạc Cửu đã lập ấp rải rác từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà
Mau. Hà Tiên trở thành thương cảng quan trọng, thôn ấp định cư nằm sát mé biển, thuận tiện
cho ghe thuyền tới lui, hoặc ở đất cao theo Giang thành, sông Cái Lớn, sông Gành Hào, Ông
Đốc để canh tác.

Ông lập ra 7 sòng bạc dọc bờ biển: Mán Khảm (Peam), Long Kỳ (Ream), Cần Bột
(Kampot), Hương Úc (Kompong Som), Sài Mạt (Cheal Meas), Linh Quỳnh (Rạch Giá) và
Phú Quốc (Koh Tral). Thủ phủ đặt tại Mán Khảm (cảng của người Mán, tức người Khmer),
sau đổi thành Căn Khẩu (Căn Kháo hay Căn Cáo). Tiếng đồn vang xa, lưu dân gốc Hoa từ
khắp nơi trong vịnh Thái Lan xin vào đây lập nghiệp, dần dần vùng đất này trở thành một
lãnh địa phồn vinh với tên gọi mới: Căn Khẩu Quốc. Đảo Koh Tral cũng đổi tên thành Phú
Quốc (vùng đất giàu có).
Năm 1708, Mạc Cửu liên lạc được với Chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu.
Năm 1714, Mạc Cửu xin làm thuộc hạ của chúa Nguyễn và được phong chức tổng binh cai
trị đất Căn Khẩu. Năm 1724, Mạc Cửu dâng luôn toàn bộ đất đai và được phong làm đô đốc
cai trị lãnh thổ Căn Khẩu, đổi tên thành Long Hồ dinh. Từ 1729, Long Hồ dinh nổi tiếng là
vùng đất trù phú nhất vịnh Thái Lan.
Mạc Cửu làm Tổng Binh cai trị Hà Tiên đến năm Bính Thìn 1735 thì qua đời (theo Nhất
Thống Chí ghi năm Ất Mão 1935). Chúa Nguyễn cho con là Mạc Thiên Tứ (Tích) kế nghiệp,
lại gia ơn cho mở lò đúc tiền "Tứ chia đặt văn võ nha thuộc tuyển lựa quản binh, dựng công

1

GVHD: Phạm Phúc Vĩnh

Nhóm thực hiện: nhóm 6


thự, đắp thành bảo, chia đặt đường sá chợ quán sau đó thương thuyền các nước vãng lai đông
đảo. (theo Trinh Hoài Đức Gia Định Thành Thông Chí).
2.2.

Quá trình hình thành và phát triển

Trước khi Mạc Cửu định cư ở Hà Tiên, cùng với người Hoa người Việt đã có mặt rải rác ở

vùng này, kể cả Cao Miên và Xiêm La. Họ khai khẩn ruộng nương và đánh bắt thuỷ hải sản,
sống ngoài vòng ảnh hưởng của biến động chính trị các quốc gia trên. Với họ, “ông lại chiêu
mộ lưu dân Việt Nam ở Phú Quốc, Lũng Kỳ, Cần Bột, Rạch Giá, Cà Mau lập thành bảy xã
thôn” (Gia Định thành thông chí).
Xứ Hà Tiên, ngày Mạc Cửu định cư và bắt đầu khai khẩn, rộng lớn hơn bây giờ nhiều:
trấn Hà Tiên tây giáp Xiêm La, bắc giáp Cao Miên, tây nam trông ra biển… Nhà nghiên cứu
Trương Minh Đạt (Hà Tiên) cho biết, trấn Hà Tiên xưa bao gồm tỉnh Kampong Som (hiện
thuộc Campuchia) dài xuống Rạch Giá, Long Xuyên, ven biển từ Lũng Kỳ (khu vực giữa
Réam và Sré Cham, phía tây bắc đảo Phú Quốc) kéo dài đến Cà Mau. Trấn Hà Tiên được tạm
chia thành hai vùng: phía trên từ Rạch Giá, Long Xuyên đến Bạc Liêu… phần nam sông Hậu
có đồng bằng lớn, thuận tiện cấy cày; phía biển từ Phú Quốc chạy đến mũi Cà Mau hợp đánh
bắt thuỷ hải sản, đặc biệt là giao thương với các nước xung quanh.
Vốn có khả năng và điều kiện kinh tài từ trước khi về lập trấn, Mạc Cửu đã biến Hà
Tiên thành một trung tâm thương mại, giải trí bậc nhất của đất Đàng Trong. Vốn có một vị trí
đắc địa, nhiều đầu mối hoạt động giao thương, trấn thủ Hà Tiên (khu vực thị xã bây giờ) mặt
hướng ra Biển Đông, rất gần với Thái Lan, Malaysia, Indonesia… Cửa biển sâu, rộng gọi là
cảng khẩu Hà Tiên. Nối cảng khẩu là một cái hồ lớn (Đông Hồ) và sâu có thể chứa hàng ngàn
thuyền bè, là nơi neo đậu lên xuống hàng. Nối với Đông Hồ là sông Giang Thành, con sông
đi thẳng qua Campuchia, đến đất Sài Mạt (nơi ngày trước Mạc Cửu làm quan) – một tuyến
giao thương quan trọng với Cao Miên ngày ấy. Từ Sài Mạt có đường bộ đi đến thẳng Oudong
(kinh đô cũ của Cao Miên). Như vậy, xét về địa lợi, ở Hà Tiên có đủ (cảng biển, sông, sản
vật…)
Ngoài việc làm tổng trấn (được quyền thu thuế), họ Mạc còn là một nhà buôn lớn nhất
vùng Hà Tiên lúc bấy giờ. Theo nhiều sách sử, ông mua từ Cao Miên ngà voi, sừng tê, đậu
khấu (vị thuốc quý), gỗ… đổi lại, ông bán các đồ vật dụng (gốm, sành, sứ), gạo, muối… Đối
với các nước giao thương đường biển, hàng bán là cá, tôm khô, gạo, hồ tiêu và những sản vật
từ Cao Miên về. Không chỉ bán hàng tại chỗ cho các thương thuyền ngoại quốc (Đông Nam
Á và cả châu Âu), họ Mạc thời ấy còn có ba chiếc thuyền lớn được chúa cấp (long bài), đủ
sức buôn bán tận Nhật Bản. Chưa hết, Mạc Cửu còn mở thêm sòng bạc kinh doanh. Không
sử sách nào chép chi tiết lượng hàng hoá giao thương lúc ấy, chỉ biết vào năm 1718, khi


1

GVHD: Phạm Phúc Vĩnh

Nhóm thực hiện: nhóm 6


Xiêm La đánh Hà Tiên, phá kho của họ Mạc đốt 200 tấn ngà voi, gạo và các hàng hoá khác,
phải mang nhiều tàu lớn vào mới chở đi hết.
Về xứ Hà Tiên và nhân vật Mạc Cửu, có nhiều tư liệu chưa thống nhất nhau một số
điểm như thời gian Mạc Cửu trú ngụ, hay ở Xiêm hoặc dâng đất thần phục nhà Nguyễn…
Nhưng, chắc chắn rằng, xứ Hà Tiên được phát triển “trở thành xứ đô hội” buổi ban đầu có sự
đóng góp rất lớn của nhóm người Hoa do Mạc Cửu dẫn đầu. Mạc Cửu có công lập ấp rải rác
từ Vũng Thơm, Trùng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà Mau, Hà Tiên. Dần dần, Mạc Cửu xây
dựng vùng này trở thành thương cảng quan trọng, thôn ấp định cư đông đúc nằm sát biển,
thuận lợi cho ghe thuyền lui tới buôn bán… Tiếng lành đồn xa, lưu dân khắp nơi trong vịnh
Thái Lan xin vào đây lập nghiệp. Vùng đất này Hà Tiên tiếp tục phồn thịnh dưới thời Mạc
Thiên Tích – con của Mạc Cửu lãnh đạo. Hà Tiên vào thời Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích là một
mắt xích quan trọng của tuyến hàng hải thương mại châu Á qua vịnh Thái Lan để đi đến
nhiều quốc gia hay vùng lãnh thổ khác.
Năm 1755, Nặc Nguyên nhờ Mạc Thiên Tứ dâng chúa Nguyễn lãnh thổ hai phủ Tầm
Bôn (Cần Thơ) và Lôi Lập (Long Xuyên) để được về Nam Vang cai trị. Năm 1758, chúa
Nguyễn đưa Nặc Tôn (Ang Ton II) lên làm vua và được tặng thêm lãnh thổ Tầm Phong Long
(Châu Đốc và Sa Đéc). Nặc Tôn tặng riêng Mạc Thiên Tứ lãnh thổ 5 phủ miền Đông-Nam
Chân Lạp: Hương Úc (Kompong Som), Cần Bột (Kampot), Trực Sâm (Chưng Rừm), Sài Mạt
(Cheal Meas) và Linh Quỳnh (vùng duyên hải từ xã Sré Ambel đến làng Peam), nói chung là
toàn bộ vùng biển ven duyên quanh đảo Phú Quốc, Mạc Thiên Tứ dâng hết cho Võ vương
Nguyễn Phúc Khoát. Võ vương sát nhập tất cả các vùng đất mới vào trấn Hà Tiên, giao cho
Mạc Thiên Tứ cai trị.

Mạc Thiên Tích đã áp dụng một chính sách thông thoáng và coi trọng thương mại
trong việc phát triển Hà Tiên như mở cảng cho tàu buôn nước ngoài đến buôn bán và áp dụng
chính sách miễn thuế trong những thời điểm cụ thể để thu hút nguồn hàng trao đổi. Vùng đất
Hà Tiên cũng nổi tiếng với nhiều hàng hóa, sản vật danh tiếng: sáp trắng (bạch lạp), huyền
phách… Cảnh Hà Tiên hưng thịnh: “…đường xá giao nhau, phố xá nối liền, người Việt,
người Tàu, người Cao Miên, người Chà Và đều họp nhau sinh sống, ghe thuyền ở sông biển
qua lại nơi đây như mắc cửi, thật là nơi đại đô hội nơi biển vậy”. Đến thời Mạc Thiên Tích
(con Mạc Cửu – từ năm 1736) việc buôn bán còn tấp nập hơn. Cảng Hà Tiên (Đông Hồ) tàu
bè đậu kín, ngược xuôi tấp nập. Hai bên bờ, phố thị đông đến nỗi không còn chỗ cho chành
vựa. Lúc này họ Mạc được phép đúc tiền riêng (lấy tên là Thái Bình) và trở thành đồng tiền
có thể giao dịch quốc tế. Hơn 100 năm sau ngày họ Mạc về khai phá, khi Trịnh Hoài Đức vào
trấn Hà Tiên, ông thấy cảnh tượng ở núi Phù Dung (nay là núi Đề Liêm) chợ đầu mối xô bồ,
tấp nập kế chùa, cho nên vị đại thần họ Trịnh mới thốt “cảnh nửa tăng nửa tục”. Hay như
nhận xét của ông khi nhìn thấy sự sầm uất nơi xưởng đóng thuyền ở chân núi Ngũ Hổ (cách
1

GVHD: Phạm Phúc Vĩnh

Nhóm thực hiện: nhóm 6


Đông Hồ vài trăm trượng): “Thuyền biển, thuyền sông đi lại như mắc cửi, thật là một nơi đô
hội miền biển”. Thời điểm ấy, sau nhiều biến thiên, chiến tranh, ly tán, hoạt động giao thương
đã giảm sút rất nhiều so với gần trăm năm trước mà còn như vậy, mới biết vào kỳ cực thịnh,
trấn Hà Tiên sầm uất thế nào.
“… Thế nhưng, xứ Hà Tiên trong từng giai đoạn cụ thể cũng lâm cảnh bị tàn phá: “…nạn
giặc cướp biển, rồi bị Nặc Bôn xâm lấn (1739), vua Cùi Tiêm La uy hiếp (1766), lại bị Trần
Thái dấy lên làm loạn và 1771 bị quân Tiêm La nhiều lần chiếm đóng, phá sạch nhà cửa đồn
bảo…” Đây là giai đoạn khiến cho cộng đồng dân cư ở đây, trong đó có người Hoa phải xiêu
tán bị tàn phá nặng nề.

Có thể thấy, Hà Tiên là vùng đất được khai phá và phát triển mạnh mẽ, trong
đó người Hoa có vai trò rất quan trọng. Cộng đồng người Hoa ở đây đã được hình thành
từ khoảng nửa sau thế kỉ XVII. Hà Tiên đã phát triển mạnh mẽ, trở thành một trung tâm
kinh tế và văn hóa nổi bật ở vùng nam Đông Dương. Cộng đồng người Hoa ở Hà Tiên độc
lập nhưng không biệt lập, khép kín. Trong quá trình phát triển của mình, họ đã dần dần hội
nhập vào Việt Nam về mọi phương diện.
3. Mỹ Tho đại phố
3.1.
Lịch sử hình thành

Trong lịch sử khẩn hoang ở Nam bộ, sự đóng góp của người Hoa (bao gồm các nhóm
người: Triều Châu, Phước Kiến, Quảng Đông, Hẹ, Hải Nam) từ xưa đến nay về kinh tế,
văn hóa thật là to lớn. Họ đã hòa nhập thành người Việt gốc Hoa.
Tháng 2 năm Kỷ Mùi (1679), do chống đối nhà Thanh (Trung Quốc), các viên tướng
nhà Minh ở Quảng Đông là Tổng binh trấn thủ Long Môn Dương Ngạn Địch có phó
tướng Huỳnh Tấn phù tá và Tổng binh ba châu Cao, Lôi, Liêm Trần Thượng Xuyên (tự
Thắng Tài) có phó tướng Trần An Bình giúp sức mang 3.000 binh sĩ cùng thân nhân và 50
chiến thuyền đổ bộ vào cửa biển Tư Hiền (Đà Nẵng) nước ta xin tị nạn chính trị. Chúa
Nguyễn Phúc Tần, tức chúa Hiền (1648 - 1687) rất khó xử, bởi vì cho phép nhóm di thần
nhà Minh này ở lại Phú Xuân - Huế thì sẽ gặp rắc rối ngoại giao với nhà Thanh; vả lại, sẽ
ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng, biết chừng đâu, với mấy ngàn binh lính, họ làm chính
biến quân sự thì vô cùng nguy hiểm; còn nếu không dung nạp thì mang tiếng là không cưu
mang người đang gặp hoạn nạn; hơn nữa, các vị chúa Nguyễn cũng đã từng có quan hệ
ngoại giao với nhà Minh.
Trước tình hình đó, sau khi cùng với triều thần bàn bạc, cân nhắc lợi, hại; thiệt, hơn,
chúa Nguyễn Phúc Tần (chúa Hiền) cho “đặt yến tiệc đãi họ, an ủi, khen ngợi, cho các
tướng lãnh y chức cũ, phong thêm quan tước mới, khiến vào ở đất Đông Phố để mở mang
đất ấy”. Qua sự việc này, Phạm Phú Lữ cho rằng: “Họ Dương và họ Trần đã nhận quan

1


GVHD: Phạm Phúc Vĩnh

Nhóm thực hiện: nhóm 6


tước và nhiệm vụ của chúa Nguyễn vào đất Đồng Nai - Gia Định … Họ đã trở thành thần
dân của chúa Nguyễn!”
Lúc bấy giờ, vùng đất mới phương Nam là nơi có sức hấp dẫn lớn đối với di dân người
Hoa. Theo nhà nghiên cứu lịch sử Phan An, đó là do “Nam bộ là vùng đất mới khai khẩn, đất
rộng người thưa, sản vật tự nhiên dồi dào, phong phú, khí hậu ôn hòa, vị trí địa lý thuận lợi
cho sản xuất, thương mại. Di dân người Hoa đến đây sẽ có nhiều cơ hội làm ăn sinh sống
khá thuận tiện. Mặt khác, giữa những di dân Trung Hoa và người dân miền Nam Việt Nam
có sự gần gũi về nhiều mặt. Phần lớn họ là những người lao động nghèo khổ, phải rời bỏ quê
hương bản quán đi tìm đất mưu sinh, nên họ dễ thông cảm, chia sẻ với nhau để cùng tồn tại
và phát triển. Về mặt văn hóa, người Việt ở miền Nam Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của
văn hóa Trung Hoa, nên hai bên cảm thấy gần gũi, thân mật hơn, dễ dàng trong việc giao
lưu văn hóa. Một lý do khác nữa là sự đón tiếp khá nhiệt tình và cởi mở của chính quyền
phong kiến Đàng Trong đối với những di dân Trung Hoa” .
Đối với nhóm người Hoa do Trần Thượng Xuyên chỉ huy, chúa Nguyễn cho họ “tiến vào
cửa biển Cần Giờ rồi lên định cư ở Bàn Lân, xứ Đồng Nai” và lập ra Nông Nại đại phố.
Còn nhóm của Dương Ngạn Địch thì “tiến vào cửa Lôi Lạp (Xoài Rạp), theo cửa Đại,
cửa Tiểu đến định cư ở Mỹ Tho”. Về nhóm thứ hai này, sách Gia Định thành thông chí chép
cụ thể hơn: “Tháng 2 năm Kỷ Mùi, đời vua Thái Tôn năm thứ 32 (tức năm Khang Hy thứ 18
nhà Đại Thanh), tướng Long Môn là bọn Dương Ngạn Địch từ nước Tàu (đời Đại Minh)
chạy sang quy phụ, vua (tức chúa Nguyễn Phúc Tần) sai xá sai Văn Trinh và tướng thần lại
Văn Chiêu … vào tháng 5 dẫn cả binh biền Long Môn và ghe thuyền đến đóng dinh trại ở địa
phương Mỹ Tho” . Tuy nhiên, trong luận án Tiến sĩ Người Hoa ở miền Nam Việt Nam, Tsai
Maw Kuey cho rằng, nhóm của Dương Ngạn Địch được chia ra làm hai toán: toán do Tổng
binh Dương Ngạn Địch chỉ huy đến định cư ở Phiên trấn (Gia Định); toán do Phó tướng

Huỳnh Tấn đứng đầu đến lập nghiệp ở Mỹ Tho....
Đây là một biện pháp rất khôn khéo của chúa Nguyễn nhằm giải quyết các vấn đề “khó
xử” như đã nêu trên; đồng thời, còn sử dụng được lực lượng người Hoa này trong việc đẩy
mạnh tốc độ khai hoang và phát triển kinh tế ở vùng đất mới phương Nam, tạo thêm nguồn
thu tài chính cho chính quyền do hoạt động nội - ngoại thương mang lại, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc ổn định và phát triển xứ Đàng Trong.
3.2.

Quá trình phát triển

Tại đây, nhóm người Hoa này chủ yếu làm nghề buôn bán, sản xuất thuốc đông y, về sau
phát triển sang các ngành TTCN - nhất là chế biến thực phẩm. Nét tiêu biểu của người Hoa
trong lĩnh vực kinh tế là cần cù, tích cóp mở mang cơ nghiệp với tập quán cha truyền con nối

1

GVHD: Phạm Phúc Vĩnh

Nhóm thực hiện: nhóm 6


và tương trợ nhau và đã cùng người Việt lập ra Mỹ Tho đại phố, tức chợ phố lớn Mỹ Tho, ở
thôn Mỹ Chánh. Lúc bấy giờ, ngoài thôn Mỹ Chánh, người Việt còn thành lập ở khu vực này
các thôn khác, như: Mỹ Chánh, Thạnh Trị, Bình Tạo, Điều Hòa, Phú Hội, Đạo Ngạn, An
Hòa, Mỹ Hóa, v.v… Đến cuối thập niên 50 đầu thập niên 60 của thế kỷ XVII, chúa Nguyễn
cho phép người Hoa được thành lập làng Minh Hương. Cũng theo nhà nghiên cứu Phan An
thì: “đây là cộng đồng những người Trung Hoa nhập cư tương đối ổn định và đã hội nhập
vào cộng đồng Việt Nam được chính quyền phong kiến Đàng Trong xem là thần dân của
mình. Làng Minh Hương về cơ bản cũng giống như những làng khác ở Việt Nam, là một tổ
chức hành chánh cơ sở của phong kiến Việt Nam”. Tuy nhiên, do ở địa bàn Mỹ Tho, làng xã

của người Việt đã được thành lập từ trước, nên làng Minh Hương của người Hoa ở tại đây
phải “ở nhờ trên đất thôn Mỹ Chánh” .
Do chợ Mỹ Tho đã nổi lên như một trung tâm kinh tế - thương mại sầm uất, do cơ chế
hành chánh ở cơ sở là làng, xã đã có nề nếp, qui củ, cho nên năm 1781, chúa Nguyễn cho dời
lỵ sở dinh Trấn Định từ giồng Kiến Định (Tân Hiệp) về thôn Mỹ Chánh - chợ Mỹ Tho (tức
khu vực Chợ Cũ thuộc phường 2, phường 8 ngày nay). Mỹ Tho đại phố nằm dọc theo nhánh
bên trái của rạch Mỹ Tho; bắt đầu từ bến Tắm Ngựa ở chỗ giao nhau giữa rạch Mỹ Tho với
sông Tiền (nay thuộc phường 2, TP Mỹ Tho), chạy dài theo đường Nguyễn Huỳnh Đức
khoảng 4 km (nay thuộc phường 2 và phường 8, TP Mỹ Tho), cho đến cầu Vỹ, Gò Cát (nay
thuộc xã Mỹ Phong, TP Mỹ Tho). Do được thành lập ở ngả ba sông, nên ngôi chợ này có khả
năng quy tụ ghe thuyền, vật lực từ các địa phương khác; và từ đó lan tỏa ra khắp nơi, thông
thương với các trung tâm thương mại lớn ở trong nước, kể cả với nước ngoài.
Trên cơ sở những thành tựu của sản xuất nông nghiệp và đời sống của cư dân đã đi vào nề
nếp, khối cộng đồng dân tộc Việt đại đa số là nông nghiệp và người Hoa tuy là thiểu số
nhưng làm thương nghiệp đã chung sức đồng lòng, ra sức phát triển Mỹ Tho, để nơi đây trở
thành một trong hai trung tâm thương mại lớn nhất được thành lập đầu tiên ở Nam bộ.
Từ chợ phố lớn Mỹ Tho, thuyền buôn ngược dòng sông Tiền theo hướng tây lên Cai Lậy,
Cái Bè và xa hơn nữa là Cao Miên; hoặc xuôi dòng sông Tiền về phía đông đến Chợ Gạo, Gò
Công, rồi ra cửa Tiểu, sau đó đến chợ Sài Gòn hay Phú Xuân - Huế; hoặc theo kênh Bảo
Định qua sông Vàm Cỏ Tây, Bến Lức đến chợ Sài Gòn. Không chỉ thế, chợ phố lớn Mỹ Tho
còn là thương cảng có quan hệ buôn bán với nước ngoài. Hoạt động chính yếu, nhộn nhịp,
sầm uất của Mỹ Tho đại phố là nội thương và ngoại thương. Chính vì vậy, Trịnh Hoài Đức
chép về sự phồn thịnh của chợ phố lớn Mỹ Tho như sau: “Phía nam trị sở là chợ phố lớn Mỹ
Tho, nhà ngói cột chạm, đình cao, chùa rộng, ghe thuyền ở các ngả sông biển đến đậu đông
đúc, làm một đại đô hội, rất phồn hoa, huyên náo”; và “phàm thuyền buôn các nơi qua lại
phải đậu nghỉ ở sông Mỹ Tho, hóng mát, xem trăng, đợi con nước lên, thuận dòng lên tây hay
xuống đông” .

1


GVHD: Phạm Phúc Vĩnh

Nhóm thực hiện: nhóm 6


Như vậy, phố chợ với dịch vụ thương mại là yếu tố đầu tiên để hình thành nên Mỹ Tho.
Sau đó, đến năm 1781, do vị thế “đắc địa”, nhất là do sự sung túc, sầm uất của Mỹ Tho đại
phố, bắt đầu từ đây, Mỹ Tho đã trở thành một trung tâm hành chánh thật sự, và để đi đến chỗ
hoàn thiện nó. Tiếp đến năm 1792, thành Mỹ Tho được dựng lên, Thành này do Trần Văn
Học vẽ thiết kế theo kiểu thành Vauban của phương Tây. Do yêu cầu phát triển thành phố,
năm 1826, vua Minh Mạng cho dời lỵ sở của trấn Định Tường (trấn này được thành lập năm
1808 dưới thời vua Gia Long) ở thôn Mỹ Chánh sang hai thôn Điều Hòa và Bình Tạo ở về
phía hữu ngạn sông Bảo Định (nay thuộc các phường 1,4,7), hình thành nên Mỹ Tho “mới”.
Thành Mỹ Tho “mới” được Lê Văn Duyệt trực tiếp chỉ huy khoảng 11 ngàn nhân công thi
công, xây dựng. Thành này vẫn được đắp bằng đất, chu vi 320 trượng (khoảng 2000m), cao 9
thước 5 tấc (khoảng 4,3m) mở 4 cửa, hào rộng 8 trượng (khoảng 3m), sâu 6 thước 5 tấc
(khoảng 2,9m) (theo Đại Nam nhất thống chí).Theo phỏng đoán, Mỹ Tho “mới” nằm lọt
trong khung các con đường Rạch Gầm (phía Nam), Lê Đại Hành (phía Bắc), Lê Lợi (phía
Đông) và Nam Kì Khởi Nghĩa (phía Tây). Các cửa thành, phỏng đoán tọa lạc tại các địa điểm
sau: Cửa Bắc ngã tư Lê Đại Hành - Hùng Vương. Cửa Nam :ngã ba Rạch Gầm - Hùng
Vương. Cửa Đông: ngã tư Lê Lợi - Thủ Khoa Huân.Cửa Tây: ngã ba Nam Kì Khởi Nghĩa Thủ Khoa Huân. Ở lỵ sở mới, ngoài việc xây dựng thành tỉnh, chính quyền phong kiến còn
tiến hành xây dựng hàng loạt các công trình khác nhằm phục vụ cho yêu cầu kinh tế, văn hóa,
giáo dục, tôn giáo, tín ngưỡng …của địa phương, xứng đáng với vị trí trung tâm của toàn tỉnh
Định Tường, như cất chợ, xây dựng cửa quan để thu thuế (1835), trường học (1826), đàn Xã
Tắc (1833) thờ thần Xã Tắc (thần đất nước), đàn Tiến Nông (1832) thờ Thần Nông, miếu
Thành Hoàng (1848)…(Gia Định thành thông chí). Đồng thời, lúc bấy giờ ở Mỹ Tho cũng có
nhiều cá nhân bỏ tiền của ra để xây dựng một số chùa chiền có kiểu kiến trúc đẹp, độc đáo
như chùa Bửu Lâm (1803) ở thôn Phú Hội, chùa Thiên Phúc (1803) ở thôn Mỹ Hóa, hội quán
Kim Bảo (1819) (nay là chùa Ông phường 8), chùa Vĩnh Tràng (1849) ở thôn Mỹ Hóa…
Như vậy từ năm 1826 trở đi, Mỹ Tho bao gồm Mỹ Tho “cũ” và “mới”, cùng nhau phát

triển. Giữa Mỹ Tho “cũ” và “mới”, do cách nhau bởi kinh Bảo Định, nên liên lạc với nhau
bằng đò ngang, và từ đó hình thành nên một xóm đưa đò chuyên nghiệp mà sử sách gọi là
“giang trạm Điều Hòa” (Gia Định thành thông chí). Được biết trước đó, năm 1791, chính
quyền phong kiến có xây cầu Quỳ Tông bắc ngang kinh Bảo Định nhưng đến năm 1801, do
nước sông chảy xiết, gây xoáy lở, nên cầu bị bỏ (Đại Nam nhất thống chí). Điểm độc đáo của
Mỹ Tho là được dựng lên ở ngã ba sông, thành phố ven sông, đặc trưng của hầu hết các thành
phố - đô thị ở miền Nam. Đó là ngã ba sông do sông Mỹ Tho và kinh Bảo Định giao dòng với
nhau, tạo ra sự thuận lợi về mọi mặt và làm chất xúc tác để Mỹ Tho vươn lên mạnh mẽ. Có
thể nói do nằm ở vị trí ngã ba sông nên Mỹ Tho có sức quy tụ ghe thuyền, vật lực từ các địa
phương khác đến đây và từ đó lan tỏa ra khắp nơi: ngược dòng sông Tiền theo hướng tây lên
Cai Lậy, Cái Bè, Sa Đéc ..v..v.. Hoặc xa hơn nữa là Campuchia, hay xuôi dòng về phía đống
đến Chợ Gạo, Gò Công, rồi ra cửa Tiểu theo đường biển ngoặc lên Gia Định hay ra tận Phú

1

GVHD: Phạm Phúc Vĩnh

Nhóm thực hiện: nhóm 6


Xuân đến Huế, còn nếu như theo con kinh Bảo Định thì vẫn đến được Vũng Gù (Tân An
ngày nay) rồi đi tiếp đến Gia Định.
Và một khi đã nói đến Mỹ Tho thì phải nói đến Cồn Rồng nằm trên sông Tiền ở phía trứơc
mặt thành phố. Cồn này bắt đầu nổi lên từ năm 1788, có dáng như con rồng nằm, nên vua Gia
Long mới đặt tên là Long Châu, còn dân gian thì quen gọi là Cồn Rồng.Tên “Mỹ Tho” xuất
hiện từ rất sớm. Có thể tên Mỹ Tho được viết bằng chữ Hán Nôm đã xuất hiện từ năm 1679
khi Trịnh Hoài Đức ghi trong quyển Gia Định thành thông chí sự kiện sau đây : “Ngày 28
tháng 2 năm Kỷ Vị (1679), tướng Long Môn là Dương Ngạn Địch từ nước Tàu chạy sang
quy phục. Tháng 5, chúa Nguyễn sai Xá sai Văn Trinh dẫn cả binh biền và ghe thuyền đến
đóng dinh trại ở địa phương Mỹ Tho”.

Tính đến năm 1781, trải qua hơn 100 năm hoạt động nhộn nhịp, Mỹ Tho đại phố đã có sự
phát triển mạnh mẽ, vừa là trung tâm kinh tế - thương mại, vừa là trung tâm chính trị - hành
chính nổi bật của dinh Trấn Định nói riêng và cả vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung.
Ở Mỹ Tho, người Hoa ngòai nghề buôn bán, thì còn có quan hệ hôn nhân với người Kinh,
chỉ sau vài thế hệ, họ nhập thân hoàn toàn vào dân tộc Việt Nam, mà dấu ấn còn sót lại để
nhận biết chỉ là danh xưng “Minh Hương” (tức là con cháu nhà Minh) mà thôi. Khối cộng
đồng dân tộc Việt - Minh Hương đã chung sức đồng lòng ra sức phát triển đô thị Mỹ Tho. Sự
sung thịnh của chợ Mỹ Tho đã nói lên nền sản xuất nông nghiệp và kinh tế hàng hóa ở địa
phương đã có những bước phát triển đáng kể. Nông sản, nhất là lúa gạo và cau, không chỉ đủ
dùng cho nhu cầu của cư dân Mỹ Tho, mà còn dư ra với số lượng lớn, trở thành hàng hóa
được buôn bán trên thị trường cả nước. Mà sản phầm cau và chế biến cau cũng như kỹ thuật
reồng cau, làm vườn, rẫy thì người Hoa ở Mỹ Tho là những bậc nghệ nhân có kỹ thuật
cao. Do đó, ở Mỹ Tho, sự hình thành vào buổi đầu là yếu tố “phố chợ”, và đó cũng là nền
móng quyết định cho sự nghiệp phát triển về sau của đô thị Mỹ Tho - thủ phủ của cả miền
Tây Nam Bộ lúc bấy giờ.

1

GVHD: Phạm Phúc Vĩnh

Nhóm thực hiện: nhóm 6



×