Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ LUẬT học đối TƯỢNG CHỨNG MINH TRONG LUẬT tố TỤNG HÌNH sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.28 KB, 117 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, việc xác định đúng đối
tượng chứng minh và chứng minh đầy đủ nó không những đảm bảo cho việc
giải quyết vụ án được đúng đắn mà còn rút ngắn được thời gian, giảm chi phí,
góp phần nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy
nhiên, thực tiễn cho thấy do không xác định đối tượng chứng minh của từng
vụ án một cách chính xác nên dẫn đến việc Toà án hoặc Viện kiểm sát phải
trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung, điều tra lại hoặc dẫn đến
việc giải quyết vụ án sai sót, không phù hợp với quy định của pháp luật, làm
oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng
này như: quy định của pháp luật TTHS về đối tượng chứng minh còn có
những điểm bất cập, trình độ nhận thức chưa cao, ý thức chấp hành pháp luật
chưa nghiêm của người tiến THTT… nên việc nghiên cứu một cách toàn diện
những vấn đề lý luận và thực tiễn về đối tượng chứng minh trong TTHS, đánh
giá thực trạng quy định của luật TTHS Việt Nam về đối tượng chứng minh và
thực tiễn hoạt động của các cơ quan THTT hình sự Việt Nam liên quan đến
đối tượng chứng minh để từ đó đề ra giải pháp hoàn thiện về mặt lập pháp và
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng nó trong giải quyết vụ án hình sự là vấn
đề có ý nghĩa quan trọng và mang tính cấp thiết, góp phần nâng cao chất
lượng giải quyết vụ án hình sự. Đây cũng là lý do tác giả chọn đề tài “Đối
tượng chứng minh trong tố tụng hình sự” cho luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Về “Đối tượng chứng minh trong TTHS” trong một số giáo trình luật
TTHS của một số trường đại học cũng như một số khoá luận cử nhân luật đề
cập đến dưới góc độ là một vấn đề của quá trình chứng minh, hoặc do yêu

1



cầu, mục đích của việc nghiên cứu không tập trung chính vào đối tượng
chứng minh hay việc đề cập đến đối tượng chứng minh mới chỉ dừng ở việc
phục vụ cho học tập cơ bản để hiểu về vấn đề… nên việc nghiên cứu mới
dừng lại ở mức độ nhất định, mang tính khái quát sơ bộ về vấn đề. Chẳng hặn
như: trong Giáo trình luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội
năm 2000, ở Chương III - Chứng cứ có đề cập đến: khái niệm đối tượng
chứng minh và phân loại đối tượng chứng minh. Trong khoá luận tốt nghiệp
Cử nhân luật học về đề tài: “Chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam”của
tác giả Phạm Thế Lực - K41B - Khoa Luật - Đại học QGHN, có đề cập đến:
những vấn đề cần phải chứng minh trong TTHS Việt Nam. Trong khoá luận
tốt nghiệp cử nhân Luật học về đề tài: “Đối tượng chứng minh và phương tiện
chứng minh trong vụ án giết người”của tác giả Nguyễn Văn Hoan - K41C Khoa luật - ĐHQG Hà Nội, có đề cập đến: đối tượng chứng minh trong vụ án
hình sự - trong đó gồm các vấn đề: khái niệm, nội dung và phân loại đối
tượng chứng minh - Nhưng việc nghiên cứu chưa thật sâu sắc và toàn diện.
Trong luận án Tiến sỹ Luật học về đề tài “Thu thập, đánh giá và sử dụng
chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đỗ
Văn Đương - bảo vệ năm 2000, có đề cập đến: đối tượng chứng minh - nhưng
đây không phải là đối tượng nghiên cứu chính của luận án, nên tác giả cũng
chỉ giải quyết vấn đề một cách khái quát chung và làm rõ mối quan hệ của nó
với các vấn đề khác trong luận án để từ đó nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu
làm rõ những vấn đề chính của luận án… Như vậy, có thể nói rằng chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về đối tượng chứng
minh trong TTHS với quy mô là một đề tài độc lập, chuyên biệt về vấn đề. Vì
vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về đối tượng chứng minh trong TTHS là cần
thiết.
3. Mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
của luận văn

2



- Mục đích, yêu cầu: Làm rõ một cách cơ bản và toàn diện những vấn
đề lý luận và thực tiễn về đối tượng chứng minh trong tố tụng hình sự.
Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật TTHS nước ta
về đối tượng chứng minh có so sánh với quy định của luật TTHS một số
nước trên thế giới về vấn đề này, đánh giá thực tiễn hoạt động của các cơ
quan THTT hình sự ở Việt Nam liên quan đến đối tượng chứng minh, tìm ra
những điểm còn tồn tại, bất cập từ đó bước đầu đề xuất một số giải pháp góp
phần hoàn thiện về mặt lập pháp có liên quan đến đối tượng chứng minh và
nâng cao hiệu quả áp dụng nó trong thực tiễn, từ đó góp phần nâng cao chất
lượng giải quyết vụ án hình sự.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu
luận văn cần giải quyết những vấn đề sau:
• Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về đối tượng chứng
minh trong TTHS;
• Nghiên cứu và so sánh những quy định của luật TTHS Việt Nam
và luật TTHS của một số nước trên thế giới về đối tượng chứng
minh;
• Đánh giá thực tiễn hoạt động của các cơ quan THTT hình sự ở
Việt Nam liên quan đến đối tượng chứng minh;
• Đưa ra những giải pháp hoàn thiện quy định của luật TTHS
Việt Nam về đối tượng chứng minh và giải pháp nâng cao hiệu
quả thực tiễn áp dụng những quy định đó của các cơ quan
THTT hình sự ở Việt Nam.
- Đối tượng: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về đối
tượng chứng minh trong TTHS. Nghiên cứu, so sánh những quy định của luật
TTHS Việt Nam và luật TTHS một số nước trên thế giới về đối tượng chứng

3



minh. Đánh giá thực trạng hoạt động của các cơ quan THTT hình sự ở Việt
Nam liên quan đến đối tượng chứng minh.
- Phạm vi: Luận văn nghiên cứu về đối tượng chứng minh trong
TTHS một cách tổng thể trong phạm vi chung của tất cả các giai đoạn tố tụng:
điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam từ năm 1998 đến nay, chủ
yếu tập trung trong phạm vi khoa học và thực tiễn luật TTHS. Ngoài ra ở
chừng mực nhất định có liên quan đến khoa học luật hình sự, tội phạm học và
khoa học điều tra hình sự. Nghiên cứu quy định của BLTTHS Việt Nam,
BLTTHS Liên bang Nga, BLTTHS Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, BLTTHS
Cộng hoà Pháp về đối tượng chứng minh. Đánh giá thực trạng hoạt động của
các Cơ quan THTT hình sự Việt Nam liên quan đến đối tượng chứng minh
trong khoảng thời gian 5 năm trở lại đây.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê
Nin, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm
nói chung và về giải quyết vụ án hình sự nói riêng, những thành tựu của các
khoa học: triết học, luật hình sự, luật TTHS, lôgic học, tội phạm học, điều tra
hình sự và các học thuyết chính trị pháp lý.
- Cơ sở sự thực tiễn của luận văn dựa trên cơ sở nghiên cứu luật
TTHS thực định và hoạt động chứng minh, giải quyết vụ án hình sự của các
cơ quan THTT cũng như các văn bản của 3 ngành Công an, Kiểm sát, Toà án
hướng dẫn về hoạt động, điều tra, xử lý vụ án hình sự.
- Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp với một số
phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp: hệ thống, lôgic, phân
tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tế để chọn lọc tri thức khoa học, kinh
nghiệm thực tiễn liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong tố tụng
hình sự, từ đó làm sáng tỏ nội dung của luận văn.


4


5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Bổ sung và hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận chung về đối
tượng chứng minh trong TTHS.
- Phát hiện những điểm còn bất cập trong luật TTHS Việt Nam về
đối tượng chứng minh. Những thiếu sót, hạn chế trong hoạt động của các cơ
quan THTT hình sự Việt Nam liên quan đến đối tượng chứng minh, tìm ra
những nguyên nhân của những thiếu sót, hạn chế đó. Đề xuất một số giải
pháp hoàn thiện những quy định của luật TTHS Việt Nam về đối tượng
chứng minh và nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của luật TTHS về
đối tượng chứng minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn.
- Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của Luận văn có
thể được khai thác sử dụng trong công tác nghiên cứu lý luận của các cơ
quan THTT hình sự và có thể làm tài liệu tham khảo trong xây dựng, sửa đổi
BLTTHS và một số văn bản pháp luật khác có liên quan đến đối tượng
chứng minh để hoàn thiện hơn.
- Về mặt thực tiễn: Các cơ quan THTT có thể khai thác vận dụng
những kết quả nghiên cứu của Luận văn để nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của mình trong quá trình chứng minh, giải quyết vụ án hình sự.
7.Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu còn tham
khảo, Luận văn gồm 3 chương với 8 mục.

5


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỐI TƯỢNG
CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1- CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Chứng minh là một hoạt động nhận thức chân lý của con người. Hoạt
động chứng minh của con người được tiến hành trong nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội, trong mỗi lĩnh vực khác nhau, thì hoạt động chứng minh có
những nét khác nhau. Tuy nhiên, hoạt động chứng minh có đặc điểm chung là
việc chủ thể sử dụng những phương tiện để làm sáng tỏ sự thật khách quan,
khẳng định tính đúng đắn của một vấn đề nào đó để tìm ra chân lý.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn như: giai
đoạn khởi tố; giai đoạn điều tra và truy tố; giai đoạn xét xử…ở mỗi giai đoạn
có nhiệm vụ và định hướng khác nhau nhưng đều hướng tới mục đích giải
quyết vụ án khách quan, toàn diện đúng quy định của pháp luật và do các cơ
quan THTT thực hiện. Quá trình này được bắt đầu từ việc cơ quan có thẩm
quyền nhận được tin báo, tố giác về các sự kiện phạm tội (hoặc sự kiện có dấu
hiệu của tội phạm) đã xảy ra trong đời sống xã hội, chính vì vậy, để giải quyết
vụ án hình sự thì vấn đề mang tính tất yếu và được pháp luật TTHS quy định
là: các cơ quan THTT phải tiến hành chứng minh để làm rõ và khôi phục lại
toàn bộ sự thật khách quan của vụ án và làm sáng tỏ những vấn đề khác có
liên quan đến vụ án.
Quá trình chứng minh khôi phục lại sự thật khách quan của vụ án
chính là quá trình nhận thức chân lý khách quan về vụ án. Cơ sở lý luận của
hoạt động nhận thức này chính là lý luận nhận thức của triết học Mác - Lênin.
Lý luận nhận thức Mác - Lênin khẳng định rằng: nhận thức là sự phản ánh
biện chứng tích cực, sự phản ánh đó là một quá trình vận động và phát triển
không ngừng từ không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng
đến bản chất, từ thấp đến cao, từ nông đến sâu để nắm được bản chất quy luật


6


của sự việc và hiện tượng. Trong thế giới khách quan, không có cái gì là con
người không thể nhận thức được, mà chỉ có những cái con người chưa nhận
thức được nhưng dần dần cũng sẽ nhận thức được.
Như vậy, theo nguyên lý của lý luận nhận thức thì không có sự vật,
hiện tượng gì mà con người không nhận thức được, vì thế không thể có tội
phạm không bị phát hiện, chỉ có điều chúng ta có vận dụng một cách khách
quan quy luật nhận thức trong quá trình chứng minh làm rõ vụ án hay không.
Trong thực tế tuy rằng không phải mọi tội phạm đều được phát hiện khám
phá, nhưng điều đó không có ý nghĩa rằng vể bản chất của con đường nhận
thức sự thật khách quan của vụ án là có giới hạn mà ở đây chỉ là do sự hạn
chế về khả năng nhận thức của từng cá nhân và sự khó khăn về điều kiện
nhận thức trong từng trường hợp cụ thể đó.
Nhưng quá trình nhận thức sự thật khách quan của vụ án hình sự không
phải là quá trình nhận thức trực tiếp mà là quá trình nhận thức gián tiếp về vụ án.
Bởi vì, khi đó sự việc phạm tội không phải là đang xảy ra một cách hiện hữu để
chúng ta nhận thức, mà trên thực tế sự việc phạm tội đã xảy ra, vì vậy các cơ
quan THTT phải nhận thức khôi phục lại nó thông qua việc phát hiện thu thập và
đánh giá những dấu vết mà nó để lại trong hiện thực khách quan.
Theo nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì: thế giới thống
nhất ở tính vật chất, thế giới vật chất luôn vận động và phát triển, mọi sự vật
hiện tượng trong thế giới luôn có mối liên hệ, tác động với nhau, ràng buộc
lẫn nhau, quy định và chuyển hoá lẫn nhau. Phép biện chứng cũng chỉ ra rằng
phản ánh là thuộc tính của chung của mọi đối tượng vật chất, V. I -Lênin viết:
“Hết thảy mọi vật chất đều có một đặc tính về bản chất gần giống như cảm
giác, đặc tính phản ánh”[8, tr 104]. Bởi vậy về nguyên tắc, hoạt động của con
người nói chung và hành vi phạm tội nói riêng bao giờ cũng để lại dấu vết
trong thế giới khách quan. Những dấu vết của hành vi phạm tội có thể được

thể hiện dưới dạng vật chất hoặc được phản ánh ghi nhận trong trí nhớ của
con người. Vì vậy, thông qua việc thu thập những dấu vết này một cách có hệ

7


thống trong quá trình THTT sẽ đưa đến sự nhận thức đúng đắn bản chất của
vụ án, dựng lại được toàn bộ diễn biến của sự việc phạm tội. Quá trình thu
thập những dấu vết của tội phạm và những thông tin có liên quan đến vụ án
(thu thập chứng cứ) để nhận thức khôi phục lại sự thật khách quan của vụ án chính là quá trình chứng minh trong TTHS.
Hoạt động chứng minh trong TTHS do những chủ thể nhất định tiến
hành bằng việc phát hiện, thu thập chứng cứ từ các nguồn khác nhau và sử
dụng chứng cứ từ những nguồn này làm phương tiện chứng minh làm rõ các
vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án. Những vấn đề về chủ thể chứng
minh, chứng cứ, các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự, cũng
như trình tự thủ tục trong quá trình chứng minh đều được pháp luật quy định.
Tuy nhiên, trong lịch sử hoạt động tư pháp, ở những giai đoạn lịch sử nhất
định tuỳ thuộc vào trình tự tố tụng được tiến hành theo các kiểu khác nhau
hoặc do quan điểm, cơ sở phương pháp luận dựa trên cơ sở các học thuyết
khác nhau… nên pháp luật ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, ở các nước khác
nhau quy định về chủ thể có nghĩa vụ chứng minh, chứng cứ, những vấn đề
cần phải chứng minh trong vụ án hình sự có sự khác nhau.
1.1.1. Chủ thể chứng minh trong tố tụng hình sự
Chứng minh là hoạt động nhận thức chân lý khách quan của con
người nên ở phương diện chung nhất con người là chủ thể của hoạt động
chứng minh. Nhưng hoạt động chứng minh được tiến hành trong nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội, mà trong từng lĩnh vực chứng minh khác nhau có
một phạm vi những cá nhân con người cụ thể nhất định tham gia vào hoạt
động chứng minh đó - tức là hoạt động chứng minh trong mỗi lĩnh vực khác
nhau thì có những chủ thể cụ thể khác nhau tiến hành hoạt động chứng minh

đó.
Hoạt động chứng minh trong TTHS là hoạt động có mục đích làm
sáng tỏ nội dung của vụ án và những tình tiết có liên quan đến vụ án, nên

8


những những người tham gia vào hoạt động này là những chủ thể chứng minh
trong TTHS. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ hoặc tuỳ thuộc
vào quyền và lợi ích v.v… của các chủ thể có sự khác nhau nên mức độ tham
gia cũng như giai đoạn tham gia vào hoạt động chứng minh của từng chủ thể
có sự khác nhau.
Thông thường thì chủ thể chứng minh trong TTHS chủ yếu là các cơ
quan THTT và người THTT. Theo luật TTHS Việt Nam thì đó là các cơ quan
THTT và người THTT như: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó
viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Toà án,
Thẩm phán…nhóm chủ thể này giữ vai trò chính trong hoạt động chứng minh
toàn bộ nội dung của vụ án và những tình tiết có liên quan đến nội dung của
vụ án và kết quả chứng minh của họ mang tính pháp lý cao. Tuy nhiên do
chức năng, nhiệm vụ của từng chủ thể có sự khác nhau nên giai đoạn tham gia
chứng minh cũng như phạm vi, mức độ chứng minh của họ cũng có sự khác
nhau nhất định.
Theo luật TTHS Việt Nam thì các cơ quan Bộ đội Biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm, Lực lượng cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an
nhân dân, Quân đội nhân dân cũng được giao tiến hành một số hoạt động điều
tra khi phát hiện những hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu TNHS trong
lĩnh vực quản lý của mình thì Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực
lượng cảnh sát biển có thẩm quyền: đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong
những trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ

ràng, thì ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra vụ án
và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn hai mươi
ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án. Đối với tội phạm nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng
phức tạp thì ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra
ban đầu và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn

9


bảy ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án; trong Công an nhân dân,
Quân đội nhân dân, các cơ quan khác khi được giao tiến hành một số hoạt
động điều tra trong khi làm nhiệm vụ của mình nếu phát hiện sự việc có dấu
hiệu tội phạm thì có quyền khởi tố vụ án, tiến hành một số hoạt động điều tra
ban đầu và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn
bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án. Như vậy những cơ quan này
cũng là chủ thể chứng minh trong TTHS, nhưng phạm vi tham gia cũng như
mức độ tham gia chứng minh của các cơ quan này chỉ ở một giới hạn và
chừng mực nhất định mà không giống như các cơ quan THTT.
Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng là những chủ thể
chứng minh trong TTHS. Mục đích tham gia chứng minh của họ là để bảo vệ
quyền lợi của mình nên phạm vi tham gia và mức độ chứng minh của họ chủ
yếu nhằm chứng minh họ không có tội hoặc chứng minh các tình tiết giảm
nhẹ TNHS và giảm nhẹ mức bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan là chủ
thể tham gia chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Sự tham gia
của họ thường tập trung vào những việc họ bị tội phạm gây thiệt hại, mức độ
thiệt hại để từ đó đưa ra yêu cầu bồi thường.
Bị đơn dân sự, người có nghĩa vụ liên quan cũng là chủ thể tham gia
chứng minh nhằm bác yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi liên quan

nhằm giảm trách nhiệm, nghĩa vụ của họ.
Người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự tham gia chứng
minh những tình tiết liên quan đến việc bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc liên
quan đến việc bảo vệ quyền lợi cho đương sự tức là chứng minh những tình
tiết có lợi cho bị can, bị cáo hoặc đương sự.
Tuy người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩ vụ liên quan…
là những chủ thể có quyền tham gia chứng minh nhưng không phải là vụ án

10


nào cũng có tất cả những người tham gia mà tuỳ theo từng vụ án cụ thể có thể
chỉ có một số người tham gia, cũng có thể có vụ án không có người nào trong
số những người này tham gia chứng minh vì đó là quyền của họ. Mặt khác sự
chứng minh của họ đôi khi vì những lý do cá nhân mà không thể hiện tính
khách quan cao. Theo luật TTHS thường thì kết quả chứng minh của những
người này chưa có giá trị pháp lý chính thức mà vẫn phải thông qua sự đánh
giá, kết luận của các cơ quan THTT.
Ngoài ra, trong TTHS còn có sự tham gia của người làm chứng, người
phiên dịch và đôi khi còn có sự tham gia của các cơ quan, tổ chức xã hội, cá
nhân khác. Sự tham gia của những người này nhằm cung cấp những tài liệu,
chứng cứ phục vụ cho quá trình chứng minh. Những người này không phải
chủ thể chứng minh bởi vì họ không có mục đích trực tiếp nhằm chứng minh
nội dung vụ án và các tình tiết liên quan đến vụ án. Họ cũng chỉ tham gia tố
tụng khi được các cơ quan THTT yêu cầu.
1.1.2. Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự
Như chúng ta đã biết có rất nhiều chủ thể chứng minh trong TTHS.
Nhưng trong số những chủ thể đó, có những chủ thể thì việc tham gia chứng
minh là quyền của họ nên họ có thể thực hiện quyền đó hoặc không thực hiện

quyền đó. Ngược lại có những chủ thể luật TTHS quy định họ có nghĩa vụ
phải chứng minh - tức là họ bắt buộc phải tham gia vào hoạt động chứng
minh. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử, tuỳ thuộc vào trình tự
tố tụng được tiến hành theo các kiểu khác nhau hoặc cơ sở, phương pháp luận
dựa trên các học thuyết khác nhau nên luật TTHS ở các nước khác nhau, ở
các giai đoạn lịch sử khác nhau quy định về chủ thể có nghĩa vụ chứng minh
có sự khác nhau.
Với hình thức tố tụng kiểu tố cáo, Luật La Mã quy định nghĩa vụ
chứng minh thuộc về người tố cáo. Ngoài việc tố cáo, người tố cáo còn đưa ra
những chứng cứ liên quan đến việc tố cáo ấy, vì vậy lời tố cáo của một người

11


nào đó về tội phạm vừa là căn cứ xuất hiện trình tự để giải quyết vụ án, vừa là
căn cứ buộc tội đối với người bị tố cáo. Khi hình thức tố tụng kiểu thấm vấn
ra đời thay thế hình thức tố tụng kiểu tố các thì Biện lý xuất hiện. Biện lý là
người đại diện cho quyền lực nhà Vua có trách nhiệm điều tra, thu thập chứng
cứ và duy trì sự buộc tội trước toà án. Hình thức tố tụng kiểu thẩm vấn phát
triển mạnh ở Pháp vào thế kỷ XIV, ở Đức thế kỷ XVI. Khoảng đầu thế kỷ
XVIII ở nước Nga xuất hiện Cơ quan công tố, cơ quan này chịu trách nhiệm
chứng minh hầu hết các vụ án hình sự, chỉ trừ một phạm vi rất nhỏ những vụ
án tư tố mà ở đó người bị hại có nghĩa vụ chứng minh tính có căn cứ của sự
việc mà họ tố cáo. Ngày nay trong luật TTHS của các nước tư bản, nghĩa vụ
chứng minh là do Cơ quan điều tra, Cơ quan công tố thực hiện, có nước còn
do Thẩm phán thực hiện như ở Italia. Tuy nhiên ở các nước tư bản Luật sư
cũng có quyền thu thập chứng cứ, trách nhiệm của Luật sư là tìm kiếm, thu
thập những bằng chứng ngoại phạm, những chứng cứ giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự cho bị can và chuẩn bị thẩm tra nhân chứng trước toà.
Trong hệ thống pháp luật XHCN, luật TTHS quy định nghĩa vụ chứng

minh thuộc về các cơ quan THTT, cụ thể, tại Điều 11 BLTTHS năm 1988 và
Điều 10 BLTTHS năm 2003 của nước ta quy định: “… Trách nhiệm chứng
minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Bị can, bị cáo có quyền nhưng
không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Việc quy định nghĩa vụ chứng
minh thuộc về các cơ quan THTT, bởi lẽ: quan hệ pháp luật hình sự có nội
dung là mối quan hệ giữa nhà nước và người phạm tội, nhà nước với tư cách
là chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự có quyền quy định hành vi nào là tội
phạm, đồng thời buộc người có hành vi phạm tội phải gánh chịu những hậu
quả pháp lý bất lợi bằng bản án, Quyết định của Toà án hoặc các Quyết định
của cơ quan có thẩm quyền. Để truy cứu trách nhiệm hình sự một người, nhà
nước phải có những chứng cứ chứng minh hành vi của họ là phạm tội, nếu
không đủ chứng cứ thì không thể buộc tội và truy cứu TNHS họ. Vì vậy, để
có chứng cứ chứng minh hành vi của người nào đó là tội phạm, nhà nước

12


thành lập ra các cơ quan chuyên trách làm nhiệm vụ chứng minh tội phạm. Ở
nước ta, các cơ quan đó là: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Bị can, bị
cáo có quyền đưa ra những chứng cứ chứng minh mình vô tội hoặc có quyền
đưa ra các tình tiết giảm nhẹ TNHS đối với họ, nhưng đây không phải là
nghĩa vụ của họ.
Để làm sáng tỏ vụ án hình sự, ngoài nghĩa vụ chứng minh của các cơ
quan THTT, thì đòi hỏi có sự tham gia tích cực của những người tham gia tố
tụng và các chủ thể khác. Tuy nhiên sự tham gia của các chủ thể này không
phải là họ có trách nhiệm chứng minh vụ án mà là họ có trách nhiệm cung cấp
những tài liệu, thông tin liên quan đến vụ án và cơ quan THTT có thể sử dụng
những tài liệu, thông tin này làm chứng cứ chứng minh trong vụ án hình sự.
1.1.3. Đối tượng chứng minh trong tố tụng hình sự
Ở phương diện chung nhất thì toàn bộ thực tiễn khách quan là đối

tượng của nhận thức nhằm tìm ra những quy luật của thế giới tự nhiên, xã hội
và tư duy. Nhưng ở giai đoạn lịch sử cụ thể thì đối tượng của nhận thức lại có
phạm vi nhất định. Mặt khác, tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu của từng lĩnh
vực hoạt động nhận thức cụ thể mà trong mỗi lĩnh vực của hoạt động nhận
thức lại có đối tượng nhận thức riêng. Hoạt động chứng minh trong TTHS
chính là quá trình nhận thức làm sáng tỏ nội dung của vụ án và các tình tiết có
liên quan đến vụ án. Suy cho cùng mục đích của hoạt động chứng minh trong
TTHS là để phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự và phục vụ
cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Bởi vậy, đối tượng chứng minh
trong TTHS là tổng hợp những vấn đề chưa biết nhưng các cơ quan THTT
cần phải biết để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự và đề ra các biện pháp
phòng ngừa tội phạm và những vấn đề này được luật TTHS quy định các cơ
quan THTT phải chứng minh làm rõ.
Do tính chất, mức độ và hoàn cảnh của các tội phạm không giống
nhau nên đối tượng chứng minh ở mỗi vụ án có những phạm vi và yêu cầu

13


khác khác nhau. Tuy vậy, tội phạm đều có những đặc điểm, quy luật chung
giống nhau và được khái quát thành những vấn đề chung nhất mà những vấn
đề này đươc luật TTHS quy định một cách trực tiếp cụ thể hoặc quy định một
cách gián tiếp và thường phải chứng minh trong bất kỳ vụ án nào.Chẳng hạn
luật TTHS Việt Nam quy định phải chứng minh: có hành vi phạm tội xảy ra
hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hàng vi phạm tội;
ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô
ý; có năng lực TNHS hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tiết tăng
nặng, giảm nhẹ TNHS của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào tính chất, hoàn cảnh của
từng vụ án cụ thể mà có thể có những vấn đề không cần phải chứng minh vì

nó rõ ràng là đã không xảy ra trong vụ án đó. Ví dụ: trong vụ án mà người
phạm tội mới có hành vi chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội
đặc biệt nghiêm trọng thì bị phát hiện, xử lý. Như vậy, trong vụ án này rõ
ràng là hậu quả của tội phạm chưa xảy ra nên không phải chứng minh nó.
Mặt khác, trong luật TTHS còn quy định phải chứng minh các tình tiết
khác có liên quan đến vụ án, mà những tình tiết này có thể chỉ phải chứng
minh trong vụ án cụ thể nào đó chứ không phải chứng ming trong bất kỳ vụ
án nào. Hoặc có những tình tiết, vấn đề chỉ phải chứng minh khi phát sinh
những hoạt động tố tụng có liên quan. Chẳng hạn như: những tình tiết là căn
cứ áp dụng biện pháp tạm giam chỉ phải chứng minh nó khi các cơ quan
THTT áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo.
Đối tượng chứng minh trong TTHS - là nội dung chính của Luận văn
nên những vấn đề liên quan đến nó sẽ tiếp tục được làm rõ ở một số mục tiếp
theo của Luận văn.
1.1.4. Qúa trình chứng minh
Trong TTHS, chứng minh được hiểu là việc sử dụng các chứng cứ để làm
sáng tỏ bản chất và các tình tiết của vụ án. Trong quá trình chứng minh vụ án hình

14


sự bao gồm các bước sau: phát hiện, thu thập, kiểm tra, và đánh giá chứng cứ.
Phát hiện chứng cứ là tìm ra những sự vật, hiện tượng, tài liệu có
mang dấu vết, thông tin liên quan đến vụ án hình sự. Việc phát hiện chứng cứ
được tiến hành bằng nhiều biện pháp do luật TTHS quy định như: Khám
nghiệm hiện trường, xác minh sự việc…
Thu thập chứng cứ là việc ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ của
các cơ quan THTT làm cho chứng cứ có đầy đủ giá trị chứng minh. Việc thu
thập chứng cứ do những chủ thể được luật TTHS quy định tiến hành bằng
những biện pháp cũng do luật TTHS quy định.

Kiểm tra chứng cứ là việc xem xét xác định tính xác thực, tính khách
quan, tính liên quan và tính hợp pháp của chứng cứ. Chỉ những tài liệu đã
được kiểm tra và có các đặc điểm của chứng cứ thì mới được coi là chứng cứ
để sử dụng chứng minh vụ án. Việc tiến hành kiểm tra chứng cứ được tiến
hành bằng các biện pháp như: phân tích từng thuộc tính của chứng cứ xem
các thuộc tính đó có phù hợp với thực tế khách quan hay không, có bảo đảm
giá trị chứng minh hay không; so sánh giữa các chứng cứ đã thu thập được
với nhau xem có phù hợp không, nếu có mâu thuẫn thì do đâu, từ đó tìm các
chứng cứ mới để làm sáng tỏ những chứng cứ đã thu thập được.
Đánh giá chứng cứ là hoạt động phân tích nhằm xác định giá trị chứng
minh của chứng cứ đối với những vấn đề cần làm rõ trong vụ án hình sự. Khi
đánh giá chứng cứ cần phải dựa trên cơ sở pháp luật hình sự, pháp luật TTHS, ý
thức pháp luật và niềm tin nội tâm của người đánh giá để xác định giá trị, ý
nghĩa của chứng cứ trong mối liên hệ với những vấn đề cần phải chứng minh,
xem chứng cứ này có giá trị chứng minh vấn đề gì trong vụ án, và tổng hợp các
chứng cứ đã đủ cơ sở làm rõ và kết luận về vụ án chưa, nếu chưa đủ chứng cứ để
kết luận về vụ án thì cần phải tiếp tục thu thập thêm chứng cứ.

15


Như vậy: Chứng minh trong TTHS là quá trình các cơ quan THTT,
người THTT trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật TTHS tiến hành
phát hiện, thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và sử dụng các chứng cứ
này làm phương tiện, căn cứ để xác định, làm rõ tất cả những vấn đề liên
quan đến vụ án hình sự mà những vấn đề này luật quy định các cơ quan
THTT cần phải biết khi giải quyết vụ án hình sự.
1.1.5. Chứng cứ trong tố tụng hình sự
Trong TTHS chứng cứ được dùng làm căn cứ chứng minh. Bởi vậy,
để đảm bảo cho những vấn đề được chứng minh là đúng đắn phù hợp với sự

thật khách quan thì đòi hỏi không những hoạt động chứng minh phải dựa trên
những cở, phương pháp luận khoa học mà còn đòi hỏi những quy định của
pháp luật về chứng cứ như: chứng cứ là gì, cái gì được coi là chứng cứ…
cũng phải bảo đảm tính khoa học.Nhưng nghiên cứu trong lịch sử pháp lý cho
thấy đã từng có các quan điểm khác nhau về chứng cứ trong TTHS như:
Quan điểm thần học, tôn giáo xuất phát từ phương pháp luận duy tâm
cho rằng “Đấng tối cao”, “Thần linh”, “Chúa trời”… đã tạo ra thế giới, tạo ra
con người, tạo ra tội phạm thì cũng là người phán xét tội phạm. Theo quan
điểm này, người bị tình nghi phạm tội phải chịu những thử thách vô lý, dã
man như: Nhúng tay vào nước sôi trong khoảng thời gian nhất định hoặc đập
đầu vào đá... nếu tay họ không bị bỏng hoặc đầu không bị chảy máu thì họ
được coi là vô tội, còn ngược lại thì họ bị coi là thủ phạm. Hoặc quan toà tổ
chức cho người bị tố cáo và người tố cáo quyết đấu, chiến thắng được coi là
chứng cứ có giá trị nhất và người chiến thắng được Toà án tuyên không có tội
hoặc lời xám hối của các Con chiên về các hành vi tội lỗi của mình trước bề
trên được coi là chứng cứ buộc tội. Từ những điều trên, cho thấy quan
điểm duy tâm, tôn giáo về chứng cứ là sự thể hiện tư tưởng thần quyền
của các nhà nước thời trung cổ, nó không mang tính khoa học, trái với
quy luật khách quan.

16


Quan điểm về chứng cứ của trình tự tố tụng kiểu tố cáo coi lời tố cáo
của một người nào đó chính là chứng cứ buộc tội đối với người bị tố cáo. Nếu
người bị tố cáo không có chứng cứ hoặc không có khả năng bác bỏ lời tố cáo
thì họ sẽ bị coi là phạm tội. Lời nhận tội của người bị tố cáo được coi là
chứng cứ có giá trị nhất, nên quan toà thường áp dụng cực hình đối với người
bị tố cáo để họ nhận tội. Vì vậy, chứng cứ của trình tự tố tụng kiểu tố cáo thể
hiện sự đơn giản hoá trong việc chứng minh vụ án hình sự, thường dẫn đến sự

đánh giá sai lệch, không khách quan của quan toà khi giải quyết vụ án hình
sự.
Trong trình tự tố tụng kiểu thẩm vấn lại có quan điểm hình thức về
chứng cứ. Theo đó, hệ thống chứng cứ là một loạt các quy tắc được quy định
trước trong luật, có tính chất bắt buộc đối với các cơ quan THTT khi giải
quyết vụ án hình sự. Cụ thể, những gì là chứng cứ để chứng minh tội phạm và
đối với mỗi loại tội phạm thì cần chứng cứ gì, số lượng bao nhiêu đều được
quy định sẵn trong luật. Các cơ quan THTT chỉ cần tìm đủ số lượng và chủng
loại chứng cứ được quy định trong luật đối với loại tội phạm đó mà họ không
cần phải tìm thêm chứng cứ nào khác khi kết luật tội phạm, ngược lại khi
không tìm đủ số lượng và chủng loại chứng cứ mà luật đã quy định thì không
có căn cứ kết luận tội phạm. Quan điểm hình thức về chứng cứ tuy hạn chế
được sự tuỳ tiện của các cơ quan tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự,
nhưng nó cũng buộc lộ nhiều hạn chế như: hạn chế khả năng thu thập, phân
tích, đánh giá chứng cứ của các cơ quan THTT, không bảo đảm đầy đủ tính
khoa học, khách quan trong quá trình chứng minh vụ án hình sự dẫn đến bỏ
lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội. Quan điểm hình thức về chứng cứ
phát triển và ảnh hưởng đến hầu hết các BLTTHS của các nước châu Âu từ
thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, ngày nay nó vẫn còn được biểu hiện trong Luật
TTHS của một số nước trong hệ thống pháp luật Anh - Mỹ.
Quan điểm nhân chủng học về chứng cứ cho rằng, quá trình thu thập
chứng cứ trong việc giải quyết vụ án hình sự là quá trình xác định cấu trúc,

17


đặc điểm cơ thể và tính cách con người. Tuy quá trình này được dựa chủ yếu
bằng phương pháp nhận dạng và giám định pháp y nên về hình thức dường
như nó có căn cứ khoa học. Nhưng trên thực tiễn cho thấy cấu trúc cơ thể con
người không phải là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và do vậy không thể

lấy cấu trúc cơ thể con người thông qua giám định pháp y làm chứng cứ để
chứng minhh tội phạm, mà quá trình hình thành hành vi phạm tội cuả con
người chịu sự tác động của các hiện tượng, hoàn cảnh, môi trường của xã hội.
Đến giữa Thế kỷ XVIII quan điểm hình thức về chứng cứ bị phản bác,
thay vào đó là quan điểm niềm tin nội tâm tự do của Thẩm phán về chứng cứ.
Theo quan điểm này thì vai trò của Thẩm phán được đề cao trong hoạt động
chứng minh tội phạm, được toàn quyền quyết định về tội phạm một cách tuỳ
thuộc vào niềm tin nội tâm của mình, không phải đưa ra bất kỳ căn cứ nào
miễn là khẳng định được sự tin tưởng vào sự đúng đắn của các quyết định.
Theo lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì: Con người có khả
năng nhận thức các quy luật, hiện tượng của thế giới khách quan, tìm ra chân
lý. Quá trình nhận thức của con người từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng, từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến bản
chất. Về nguyên tắc, không có sự vật, hiện tượng nào là không thể nhận thức
được, mà chỉ có sự vật, hiện tượng chưa được nhận thức mà thôi. Bởi vậy,
mọi tội phạm xảy ra trên thực tế con người đều có thể phát hiện chứng minh
được. Cũng theo lý luận duy vật biện chứng thì mọi sự vật đều có thuộc tính
phản ánh. Với thuộc tính phản ánh của sự vật nên mọi hoạt động của con
người trong đó các hành vi phạm tội đều để lại dấu vết trong thế giới khách
quan. Dấu vết của hành vi phạm tội có thể được thể hiện dưới dạng vật chất
như: Dấu vết trên công cụ, phương tiện phạm tội, dấu trên để lại trên hiện
trường… hoặc được phản ánh, ghi nhận trong trí nhớ của con người, có thể là
nạn nhân hay nhân chứng. Từ việc thu thập đầy đủ, có hệ thống các dấu vết này
con người có thể nhận thức được diễn biến của hành vi phạm tội đã xảy ra.

18


Chính từ việc dựa trên cơ sở lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lê Nin,
nên khoa học luật TTHS của các nước đi theo con đường XHCN đã xác định

chứng cứ là những tài liệu thực tế, là những gì có thật để chứng minh tính chân
lý của vụ án.
Khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1988 cũng như Khoản 1 Điều 64
BLTTHS năm 2003 của nước ta quy định: “Chứng cứ là những gì có thật,
được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ xác định có hay không có hành
vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác
cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án”.
Theo quy định trên cho thấy chứng cứ có các đặc điểm sau:
1/ Tính khách quan: Tức là những tài liệu, sự vật, hiện tượng là chứng
cứ phải có thật tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
2/ Tính liên quan: Tức là những sự vật, hiện tượng có thật, tồn tại
khách quan chỉ được coi là chứng cứ khi có liên quan đến vụ án, khi nó chứng
minh cho vấn đề cần biết nhưng chưa biết trong vụ án hình sự.
3/ Tính hợp pháp: Tức là chứng cứ được chứa đựng ở những nguồn và
thu thập bằng biện pháp do luật TTHS quy định.
Theo quy định của luật TTHS Việt Nam thì chứng cứ được phản ánh
và chứa đựng trong các nguồn sau: vật chứng; lời khai của người làm chứng,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; kết luận
giám định; biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.
1.2. ĐỐI TƯỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.2.1. Khái niệm

19


Trong giải quyết vụ án hình sự, để ra được các quyết định hoặc bản án
đúng đắn, khách quan phù hợp với quy định của pháp luật thì về nguyên tắc,

đòi hỏi các cơ quan THTT phải làm sáng tỏ bản chất của vụ án và những vấn
đề có liên quan đến vụ án - Tức là phải làm rõ các vấn đề như: sự việc phạm
tội, người thực hiện tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội, nhân thân người phạm tội… bởi lẽ, chính
những vấn đề này là cơ sở để xác định tội phạm, xác định trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn cũng như xác định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra của người phạm
tội… Việc giải quyết vụ án hình sự chỉ phát sinh sau khi có tội phạm xảy ra, vì
vậy để xác định được bản chất diễn biến của vụ án, các cơ quan THTT phải
tiến hành thu thập chứng cứ và sử dụng chứng cứ để chứng minh làm rõ các
vấn đề trong vụ án, mà các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự
này được khoa học luật TTHS gọi là đối tượng chứng minh trong vụ án hình
sự.
Nhưng trong vụ việc phạm tội có rất nhiều tình tiết, có tình tiết có ý
nghĩa, giá trị làm cơ sở cho việc giải quyết, xử lý đúng đắn vụ án, có những
tình tiết lại hầu như không có ý nghĩa gì trong việc giải quyết vụ án. Chẳng
hạn như trong một vụ trộm cắp tài sản - Người phạm tội là A đã dùng kìm bẻ
gẫy khuy cửa nhà của gia đình hàng xóm rồi vào nhà lấy trộm chiếc tivi mang
về nhà mình cất giấu. ở đây, các tình tiết như việc A dùng kìm bẻ gẫy khuy
cửa, A vào nhà hàng xóm lấy trộm ti vi là những tình tiết có ý nghĩa thể hiện
hành vi phạm tội trộm cắp tài sản của A. Còn tình tiết A cầm kìm bẻ khuy cửa
bằng tay phải hay tay trái, khi lấy ti vi A bê hay xách ti vi thì hầu như không
có ý nghĩa pháp lý gì đối với việc giải quyết vụ án cũng như không ảnh hưởng
gì đến việc kết luận hành vi phạm tội của A và việc xử lý đối với A. Bởi vậy,
đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự không phải là tất cả các tình tiết,
các vấn đề của sự việc phạm tội xảy ra trên thực tế, cũng như không phải tất

20



cả các vấn đề liên quan đến vụ án mà chỉ cần chứng minh những vấn đề có ý
nghĩa để làm rõ nội dung, bản chất của vụ án. Những vấn đề liên quan đến
TNHS của người phạm tội và các vấn đề cần thiết khác liên quan đến vụ án
để trên cơ sở đó các cơ quan THTT ra được các quyết định phù hợp trong quá
trình giải quyết vụ án và đề ra biện pháp thích hợp để phòng ngừa tội phạm.
Vụ việc phạm tội xảy ra trên thực tế rất đa dạng, chúng có thể khác
nhau về tính chất, mức độ, hoàn cảnh … Nhưng mọi tội phạm đều có bản chất
chung và việc giải quyết vụ án cũng như việc xử lý người phạm tội đều có
những nguyên tắc chung, nên chúng ta vẫn có thể rút ra được những vấn đề
chung nhất mà khi giải quyết bất kỳ vụ án hình sự nào cũng phải chứng minh
đó là những vấn đề thuộc về bản chất của vụ án và những vấn đề liên quan
đến việc xác định TNHS của người phạm tội và những vấn đề cần phải chứng
minh này được quy định trong luật TTHS. Ngoài ra luật TTHS còn quy định
phải chứng minh những vấn đề liên quan khác có ý nghĩa đối với việc giải
quyết đúng đắn vụ án hình sự, tuy nhiên không phải vụ án hình sự nào cũng
đòi hỏi phải chứng minh đầy đủ các vấn đề này, mà tuỳ thuộc vào từng vụ án
cụ thể sẽ đặt ra yêu cầu phải chứng minh những vấn đề cụ thể gì có liên quan
và để giải quyết đúng đắn vụ án đó, theo đúng quy định của luật hình sự và
luật TTHS…
Ở đây, cũng cần lưu ý rằng những vấn đề luật TTHS quy định bắt
buộc phải chứng minh là giống nhau chung cho các vụ án hình sự, nhưng các
tình tiết trong vụ án cụ thể mà các tình tiết này cấu thành vấn đề chứng minh
là khác nhau. Chẳng hạn luật TTHS quy định bắt buộc phải chứng minh: “Có
hành vi phạm tội xảy ra hay không...”Nhưng tình tiết trong hành vi phạm tội ở
mỗi vụ án cụ thể là khác nhau.
Trong TTHS, nhiệm vụ đặt ra cho các cơ quan THTT, người THTT…
là không những nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh,

21



kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người
vô tội mà còn nhằm đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Một trong
những nguyên tắc cơ bản của luật TTHS Việt Nam là “trong quá trình THTT
hình sự,

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án có nhiệm vụ tìm ra

những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu
quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Các cơ quan, tổ chức
hữu quan phải trả lời về việc thực hiện yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát và Toà án.” (Điều 27, BLTTHS Việt Nam năm 2003). Như vậy,
trong quá trình THTT hình sự yêu cầu đặt ra cho các cơ quan THTT là phải
tìm ra các nguyên nhân và điều kiện phạm tội và đề ra các biện pháp, yêu cầu
khắc phục. Chính vì vậy, các cơ quan THTT, người THTT phải chứng minh
làm rõ nguyên nhân và điều kiện phạm tội - và đây là những vấn đề chứng
minh không chỉ góp phần để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự mà còn phục
vụ chủ yếu cho công tác phòng ngừa tội phạm. Nên theo chúng tôi đối tượng
chứng minh trong vụ án hình sự còn bao gồm cả những vấn đề liên quan đến
vụ án và phục vụ cho việc đề ra các biện pháp đấu tranh phòng chống tội
phạm.
Theo nguyên tắc pháp chế thì: mọi hoạt động TTHS của cơ quan
THTT, người THTT và người tham gia tố tụng cũng phải tuân thủ những quy
định của luật TTHS và đương nhiên đối tượng chứng minh cũng phải được
luật TTHS quy định - tức là trong quá trình tố tụng đối với vụ án hình sự cần
phải chứng minh những vấn đề gì đều được luật TTHS quy định. Song việc
quy định này có thể là trực tiếp, cụ thể hoặc có thể là quy định gián tiếp.
Qua sự phân tích ở trên, có thể rút ra những đặc điểm của đối tượng
chứng minh trong vụ án hình sự đó là:
- Tất cả các vấn đề của vụ án và liên quan đến vụ án nhưng chưa biết

mà các cơ quan THTT cần phải biết.

22


- Những vấn đề chưa biết đó đều được luật TTHS quy định các cơ
quan THTT phải làm sáng tỏ trong quá trình giải quyết vụ án.
- Những vấn đề luật TTHS quy định cần làm sáng tỏ đó là cơ sở để
các cơ quan THTT giải quyết đúng đắn vụ án và đề ra các biện pháp phòng
ngừa tội phạm.
Theo chúng tôi một khái niệm đầy đủ về đối tượng chứng minh trong
TTHS phải thể hiện được đầy đủ các đặc điểm trên. Nhưng qua nghiên cứu nội
dung khái niệm về đối tượng chứng minh trong sách và công trình nghiên cứu của
một số tác giả, chúng tôi thấy các khái niệm này chưa được đầy đủ. Chẳng hạn như:
- “Đối tượng chứng minh là tổng hợp những vấn đề cần phải được
xác định làm rõ để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.”[25, tr 87]
Phân tích khái niệm trên, chúng ta thấy về cơ bản khái niệm đã nêu
được bản chất của đối tượng chứng minh đó là “tổng hợp các vấn đề cần phải
được xác định làm rõ”và đã xác định được nội hàm chính, chủ yếu của khái
niệm - đó là tổng hợp những vấn đề… “để giải quyết đúng đắn vụ án hình
sự”. Tuy nhiên, theo chúng tôi ở khái niệm trên nội hàm của nó chưa bao hàm
hết những vấn đề phải chứng minh trong TTHS, mà cụ thể ở đây là chưa bao
hàm đối tượng chứng minh là những vấn đề liên quan đến vụ án và phục vụ
cho việc đề ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Mặt khác, trong khái niệm
cũng chưa đề cập đến khía cạnh pháp lý của đối tượng chứng minh - tức là
đối tượng chứng minh phải là những vấn đề được luật TTHS quy định cần
phải làm rõ. Mà theo chúng tôi khía cạnh pháp lý của đối tượng chứng minh
có ý nghĩa ở chỗ nó bảo đảm cho sự nhận thức thống nhất, đầy đủ về đối
tượng chứng minh của các cơ quan THTT, từ đó bảo đảm nguyên tắc pháp
chế trong hoạt động TTHS. Nếu như những vấn đề cần chứng minh không

được luật TTHS quy định thì không tạo được căn cứ pháp lý cho các cơ quan
THTT xác định về đối tượng chứng minh một cách thống nhất và chính xác,

23


thậm chí có thể dẫn đến tranh cãi giữa các cơ quan THTT trong việc xác định
những vấn đề gì là cần cho việc giải quyết đúng đắn vụ án…
- “Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là tổng hợp tất cả
những tình tiết thực tế phản ánh bản chất của sự việc liên quan đến tội phạm
và người phạm tội, những tình tiết khác giúp cho việc giải quyết đúng đắn vụ
án hình sự”. [10]
Phân tích khái niệm trên cho thấy khái niệm mới chỉ mang tính liệt kê
những tình tiết là đối tượng chứng minh mà chưa nêu được bản chất của đối
tượng chứng minh- đó là “những vấn đề chưa biết nhưng cần phải biết”. Nội hàm
của khái niệm cũng chưa đầy đủ vì chưa bao hàm những tình tiết phục vụ cho việc
phòng ngừa tội phạm. Mặt khác khái niệm cũng chưa đề cập đến khía canh pháp
lý của đối tượng chứng minh tương tự như ở phần trên chúng tôi đã phân tích.
Như vậy, các khái niệm về đối tượng chứng minh ở trên còn có sự hạn
chế nhất định. Trên cơ sơ phân tích về đối tượng chứng minh và sự tiếp thu
những điểm hợp lý, khắc phục sự hạn chế trong khái niệm đối tượng chứng
minh của một số tác giả, dưới góc độ khoa học luật TTHS, chúng ta có thể rút
ra khái niệm đầy đủ về đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự như sau:
Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là tổng hợp tất cả những vấn đề
chưa biết nhưng cần phải biết mà những vấn đề này được luật TTHS quy định
các cơ quan THTT phải làm rõ để xác định bản chất của vụ án và những nội
dung khác có liên quan đến vụ án, trên cơ sở đó các cơ quan THTT ra các
quyết định phù hợp với quy định của luật hình sự, luật TTHS trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự và đề ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm.
1.2.2. Ý nghĩa của việc xác định đối tượng chứng minh

Việc xác định đúng và đầy đủ đối tượng chứng minh cả ở phương diện
lý luận và thực tiễn của vấn đề, có ý nghĩa quan trọng trong cả lĩnh vực xây
dựng pháp luật và áp dụng pháp luật TTHS liên quan đến đối tượng chứng minh.

24


1.2.2.1. Trong xây dựng pháp luật
Việc xác định đúng và đầy đủ đối tượng chứng minh có ý nghĩa trong
lĩnh vực xây dựng pháp luật TTHS như: nó là cơ sở để các nhà lập pháp đưa
vào quy định trong luật TTHS một cách đầy đủ những vấn đề cần phải chứng
minh trong quá trình tố tụng đối với vụ án hình sự từ đó tạo cơ sở pháp lý cho
các cơ quan THTT, người THTT nhận thức thống nhất và đầy đủ về đối
tượng chứng minh góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng trong hoạt động
của các cơ quan THTT và bảo đảm pháp chế trong TTHS. Bởi vì mọi hoạt
động TTHS mà trong đó có cả hoạt động chứng minh đều phải tuân thủ
những quy định của luật TTHS vì vậy nếu luật TTHS quy định đầy đủ về
những vấn đề cần phải chứng minh thì tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan
THTT nhận thức thống nhất đầy đủ về những vấn đề cần chứng minh và khi
những vấn đề đó đã được chứng minh lại là cơ sở cho việc giải quyết đúng
đắn vụ án. Ngược lại nếu luật TTHS quy định không đầy đủ về những vấn đề
cần chứng minh sẽ dẫn đến việc bỏ sót đối tượng chứng minh và việc giải
quyết vụ án có thể sai sót, không khách quan mà việc xác định đối tượng
chứng minh đầy đủ, khoa học chính là cơ sở để đưa vào trong quy định của
luật TTHS về đối tượng chứng minh một cách đầy đủ.
Nhưng những vấn đề cần phải chứng minh bao gồm rất nhiều vấn đề
nên trong phạm vi một hoặc vài điều luật không thể liệt kê hết những vấn đề
cần phải chứng minh . Mặt khác, có những vấn đề thuộc về bản chất của vụ
án mà trong bất kỳ vụ án hình sự nào cũng phải chứng minh nó, nhưng có
những vấn đề chỉ phải chứng minh trong những vụ án nhất định tuỳ thuộc vào

tính chất hoàn cảnh của vụ án đó hoặc tuỳ thuộc vào hoạt động tố tụng phát
sinh trong vụ án đó nên về phương diện lập pháp khó có thể gom tất cả những
vấn đề cần phải chứng minh đưa vào quy định trong một vài điều luật trong
một phần riêng biệt của BLTTHS mà phải quy định nó rải rác trong các điều
luật quy định về từng hoạt động tố tụng riêng biệt có liên quan đến nó. Song

25


×