Tải bản đầy đủ (.doc) (193 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ NGUỒN LAO ĐỘNG và sử DỤNG NGUỒN LAO ĐỘNG ở THÀNH PHỐ hồ CHÍ MINH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 193 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự phát triển của thế giới hiện đại yếu tố con người có vị trí
quan trọng. "Con người đứng ở trung tâm của sự phát triển, là tác nhân và
mục đích của sự phát triển". "Sự phát triển con người là mục tiêu cuối cùng và
cao nhất của quá trình phát triển". Chiến lược phát triển của nước ta trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã chỉ ra rằng, con đường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam về cơ bản và lâu dài là đi theo hướng phát triển và
vận dụng khoa học và công nghệ, phát huy yếu tố con người có kỹ năng và trí
tuệ. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã đưa ra quan điểm: "Lấy việc phát
huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững" và phát triển nguồn lao động trở thành điều kiện tiên quyết đảm bảo
cho sự thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta [57].
Trong suốt hơn một thập kỷ qua, nguồn lao động của nước ta tăng
nhanh, từ 33,9 triệu người năm 1989 lên 44,8 triệu người năm 1999 và 48,5 triệu
người năm 2002, trung bình mỗi năm tăng 1,1 triệu lao động. Nguồn lao động
tăng nhanh, tạo mức cung lớn về lực lượng lao động, đã đóng góp nhất định
cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, song còn chưa sử dụng có hiệu
quả. Số người thất nghiệp và thiếu việc làm còn lớn, trình độ trang bị kỹ thuật
của người lao động còn lạc hậu, lao động thủ công phổ biến rộng rãi, năng
suất lao động thấp.
Chất lượng nguồn lao động ở Việt Nam đã được cải thiện, nhưng nhìn
chung còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và còn có
khác biệt lớn giữa các vùng. Cơ cấu nguồn lao động đã qua đào tạo, cơ cấu
trình độ lao động đang làm việc trong các ngành cũng như việc sử dụng đội
ngũ cán bộ khoa học và công nghệ còn bất hợp lý.



2

Quá trình toàn cầu hóa, yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực, cũng
như thực trạng phát triển nguồn lao động của nước ta hiện nay đã đặt ra
những thách thức rất lớn.
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn nhất nước ta về quy mô dân
số và nguồn lao động. Năm 2002, dân số toàn thành phố là 5,34 triệu người,
trong đó nguồn lao động chiếm 67% dân số, với 65,19% lao động đang làm
việc. Thành phố còn là địa bàn thu hút lao động từ các nơi khác đổ về tìm
kiếm việc làm. Vấn đề nguồn lao động và sử dụng nguồn lao động hợp lý, có
hiệu quả và tìm ra những giải pháp hữu hiệu cho nguồn lao động của thành
phố nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển trong thời gian tới - trung tâm công
nghiệp với các ngành công nghệ cao, trung tâm dịch vụ hiện đại, trung tâm tài
chính và công nghệ quốc tế - đang là mối quan tâm của các cấp, các ngành và
mỗi người dân thành phố.
Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: "Nguồn lao động
và sử dụng nguồn lao động ở Thành phố Hồ Chí Minh" để làm luận án tiến
sĩ Địa lý, chuyên ngành: Địa lý Kinh tế và Chính trị.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu của đề tài
Xuất phát từ yêu cầu lý luận và thực tiễn của đề tài, mục tiêu cơ bản
của luận án là phân tích thực trạng nguồn lao động, việc sử dụng và phân bố
nguồn lao động ở Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đề xuất một số giải pháp
nhằm ổn định nguồn lao động, sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn lao động
phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố trong tương lai.
2.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Đúc kết cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn lao động và sử dụng
nguồn lao động. Xác định nội dung cơ bản của nghiên cứu nguồn lao động và



3

sử dụng nguồn lao động. Xem xét nguồn lao động trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
- Phân tích các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động đến nguồn lao
động và sử dụng nguồn lao động ở Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đánh giá thực trạng nguồn lao động về số lượng và chất lượng cũng
như sử dụng nguồn lao động trên địa bàn toàn thành phố, theo các quận, huyện.
- Trên cơ sở đó dự báo nguồn lao động và đưa ra các giải pháp nhằm sử
dụng đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả nguồn lao động trong thời kỳ 2005 - 2010.
2.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu nguồn lao động ở Thành
phố Hồ Chí Minh dựa trên nguồn số liệu chính thức của các cuộc tổng điều
tra dân số và nhà ở Việt Nam 1989 - 1999. Đề tài còn phân tích các số liệu
năm 1979 và các số liệu cập nhật 2001 - 2002 để so sánh nguồn lao động và
sử dụng chúng ở các giai đoạn khác nhau.
- Về không gian: Đề tài đi sâu phân tích nguồn lao động và sử dụng
nguồn lao động trên phạm vi toàn thành phố theo ranh giới hành chính hiện
nay: 17 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành.
- Về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung phân tích nguồn lao động
đã được công bố chính thức, không tách riêng các nguồn lao động xuất, nhập cư.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề nguồn lao động được giới khoa học lưu tâm nghiên cứu, đặc biệt
từ sau khi nước ta có sự chuyển hóa từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang
nền kinh tế thị trường. Có rất nhiều công trình nghiên cứu, hội thảo và các báo
cáo về vấn đề nguồn lao động của nhiều cơ quan, ban ngành như: Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Viện Chiến lược và Phát triển, Học viện Hành chính


4


Quốc gia tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội... và nhiều nhà nghiên cứu
khác.
Trong hội thảo "Dân số và phát triển nguồn nhân lực" của Trung tâm
Nghiên cứu Dân số và nguồn lao động của Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội vào tháng 9/1990, các tác giả tham dự đều bàn luận xoay quanh vấn đề
dân số, lao động, việc làm và một vài khía cạnh quan hệ của chúng trong giai
đoạn chuyển đổi của nền kinh tế.
Trong Thông tin chuyên đề của Trung tâm Thông tin thuộc Ủy ban Kế
hoạch Nhà nước, hai tác giả Nguyễn Hữu Dũng và Đinh Văn Bình đã đề cập
đến một vài khía cạnh lao động - việc làm qua bài viết: "Thị trường lao động
và vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam"; tác giả Trần Thị Tuyết Mai có bài:
"Một số phương hướng giải quyết việc làm và sử dụng hợp lý nguồn lao động
xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 1991 - 2005"; tác
giả Thế Ba có bài: "Lao động và việc làm ở nông thôn thời kỳ 1991 - 1995";
tác giả Lê Quang Tân với bài: "Lao động và việc làm cho thanh niên"... Các
bài viết này mới chỉ đề cập đến một khía cạnh cụ thể của quan hệ dân số - lao
động - việc làm.
Ủy ban Quốc gia Dân số và Kế hoạch hóa gia đình và Trung tâm
Nghiên cứu Dân số - nguồn lao động của Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội với đề tài: "Một số vấn đề về dân số, nguồn nhân lực và việc làm ở Việt
Nam" tháng 5/1996, đã khái quát hóa những vấn đề cơ bản nhất của dân số lao động - việc làm ở Việt Nam nhằm mô tả các mối quan hệ phức tạp giữa
các biến số này. Nhưng đề tài chỉ nhận diện thực trạng mà chưa đề cập đến
những vấn đề lý luận cấp bách dân số - lao động - việc làm.
Trong đề tài nhánh: "Một số vấn đề dân cư - lao động - việc làm của
đồng bằng sông Hồng từ nay đến năm 2000" của đề tài độc lập và trọng điểm:
"Tổ chức lãnh thổ đồng bằng sông Hồng và tam giác Hà Nội - Hải Phòng -


5


Hòn Gai" năm 1993, các tác giả tuy đã đề cập đến một số nét về hiện trạng và
triển vọng dân số, lao động, việc làm vùng đồng bằng sông Hồng cùng với
một số nhân tố đã và có thể gây tác động nhất thời, trực tiếp đến việc cân đối
lao động và việc làm của vùng, nhưng chưa nêu rõ vấn đề nguồn lao động và
sử dụng chúng.
Nhiều tác giả đã phân tích khá sâu sắc lao động, việc làm và mối quan
hệ giữa dân số với lao động và việc làm, như bài viết của Lê Trung: "Lao
động và việc làm: Điều băn khoăn chưa lời giải"; Trần Đình Hoan - Lê Mạnh
Khoa: "Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam"... Nhiều
tác giả còn đi sâu và nghiên cứu nguồn lao động ở nhiều khía cạnh khác nhau
như: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và vấn đề tạo việc làm, phát triển
nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội, như: TS. Trần Thị Tuyết Mai
với bài viết: "Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực trong chiến lược và
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010"; Sở Lao động Thương binh và Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh: "Báo cáo vai trò khu vực
kinh tế phi chính thức trong việc tạo việc làm, thu nhập, các vấn đề xã hội".
Các đề tài nghiên cứu trên là những tài liệu tham khảo vô cùng quý
giá và thật sự bổ ích cho tác giả khi nghiên cứu, thực hiện luận án, nhưng
những công trình nghiên cứu trên chỉ chủ yếu tập trung bàn về khái niệm lao
động, việc làm trong nền kinh tế thị trường và nêu rõ tính cấp bách, nghiêm
trọng của vấn đề lao động, việc làm và chiến lược phát triển nguồn lao động.
Cũng chưa có công trình nào xem xét những vấn đề lao động dưới góc độ địa
lý và được áp dụng cụ thể vào địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố với dân số trên 5 triệu người,
có tốc độ phát triển kinh tế cao, trung bình giai đoạn 1990 - 2001 là trên
10%/ năm. Tổng sản phẩm xã hội đạt trên 5 tỷ USD với tốc độ 10,2% (năm
2002), kim ngạch xuất khẩu chiếm 38,5% cả nước, chiếm 29% tổng sản lượng


6


công nghiệp của cả nước. Với nền kinh tế phát triển mạnh, Thành phố Hồ Chí
Minh đã thu hút rất lớn nguồn lao động với nhiều ngành nghề khác nhau. Tuy
nhiên, hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn tình trạng không sử dụng
đúng và không sử dụng hết số người lao động nói chung và số người có trình
độ tay nghề cao vào các hoạt động kinh tế nói chung. Chính vì vậy, chúng tôi
chọn đề tài này nhằm giải quyết những vấn đề chưa hoàn thiện trong việc sử
dụng lao động tại Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Hệ quan điểm và phương pháp nghiên cứu
4.1. Hệ quan điểm
4.1.1. Quan điểm hệ thống
Trong quá trình nghiên cứu nguồn lao động tại Thành phố Hồ Chí Minh,
quan điểm hệ thống được xem là quan điểm quan trọng. Nguồn lao động chỉ
là bộ phận cấu thành của hệ thống kinh tế - xã hội. Sự vận động và phát triển
của nó mang tính quy luật riêng nhưng vẫn phụ thuộc vào các bộ phận tương
ứng trong hệ thống kinh tế - xã hội.
Trong hệ thống kinh tế - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh có các phân
hệ nhỏ hơn như hệ thống các ngành kinh tế, hệ thống dân cư, xã hội..., trong
đó con người là chủ thể có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau. Bởi vậy,
vấn đề cơ cấu, phân bố và sử dụng nguồn lao động phải xem xét như là các
hiện tượng, sự vật trong một hệ thống hoàn chỉnh và không tách rời sự phát
triển kinh tế - xã hội của thành phố và cả nước.
Vấn đề nguồn lao động và sử dụng nguồn lao động còn được xem xét
trong mối quan hệ giữa Thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh lân cận, giữa
vùng Đông Nam Bộ với các vùng khác và với toàn quốc như là giữa hệ thống
con cùng cấp và với hệ thống lớn hơn để xác định những đặc trưng riêng phải
giải quyết trong điều kiện cụ thể của thành phố.
4.1.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ


7


Đây là quan điểm cơ bản của Địa lý học. Đề tài về nguồn lao động và
sử dụng nguồn lao động của luận án được đặt trong bối cảnh kinh tế - xã hội
của Thành phố Hồ Chí Minh với những đặc thù của lãnh thổ về vị trí địa lý,
điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, lịch sử phát triển, định hướng phát
triển..., trên cơ sở đó đưa ra những nhận định, giải pháp.
4.1.3. Quan điểm lịch sử viễn cảnh
Vấn đề nguồn lao động và sử dụng nguồn lao động ở Thành phố Hồ
Chí Minh được phân tích theo chuỗi thời gian. Mỗi một giai đoạn mang một
bản sắc, một đặc điểm riêng. Vận dụng quan điểm lịch sử viễn cảnh trong
việc nghiên cứu nguồn lao động ở Thành phố Hồ Chí Minh, luận án đã chú ý
phân tích, đánh giá tư liệu, thực trạng của từng giai đoạn nhất định, trong đó
đặc biệt chú ý đến các thời điểm lịch sử quan trọng và những biến động kinh
tế - xã hội trong điều kiện cụ thể.
4.1.4. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Vấn đề nguồn lao động và sử dụng nguồn lao động là đối tượng có bề
dày lịch sử, có mối liên hệ bền vững giữa các yếu tố và với môi trường. Khi
nghiên cứu phải chú ý ưu tiên những khía cạnh đảm bảo sự phát triển lâu bền
của các yếu tố và của cả tổng thể đối tượng đảm bảo hài hòa giữa các yếu tố
phát triển kinh tế cùng với tiến bộ và công bằng xã hội.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp thống kê
Các tài liệu thống kê đảm bảo giá trị pháp lý được triệt để khai thác
phục vụ cho việc nghiên cứu. Số liệu được thu thập, tổng hợp, xử lý trên cơ
sở dữ liệu và kết quả của các cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở, thống kê kinh tế
- xã hội của Tổng cục Thống kê, Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh,
cũng như từ các cơ quan quản lý của thành phố.


8


Tác giả cũng sử dụng các nguồn số liệu của các tổ chức, ban ngành, số
liệu thống kê về kinh tế, dân cư, lao động của các vùng để phân tích, so sánh
khi cần làm sáng tỏ vị trí của thành phố so với cả nước hoặc vùng lân cận.
4.2.2. Phương pháp điều tra thực địa
Để có những số liệu bổ sung và có những luận cứ đánh giá thực trạng kinh
tế - xã hội và nguồn lao động của thành phố, ngoài những số liệu thống kê thu
thập được, chúng tôi còn tiến hành thực địa, phỏng vấn nhân dân và cán bộ lãnh
đạo. Kết quả thu thập được là cơ sở đánh giá tổng hợp ban đầu, thẩm định lại
những nhận định, dự báo trong quá trình nghiên cứu thực hiện nhiệm vụ của
luận án.
4.2.3. Phương pháp bản đồ
Đây là phương pháp đặc trưng của nghiên cứu Địa lý. Chúng tôi đã
thành lập bản đồ phân bố lao động theo ngành và theo lãnh thổ dựa trên cơ sở
dữ liệu thu thập được và chồng xếp các bản đồ chuyên đề, nhằm xác lập mối
liên hệ giữa các đối tượng địa lý. Đồng thời, các mối liên hệ, các tác động còn
được minh họa bằng nhiều biểu đồ, đồ thị.
4.2.4. Phương pháp dự báo
Phương pháp dự báo mà chúng tôi sử dụng ở đây là phương pháp
ngoại suy. Phương pháp này dựa trên việc nghiên cứu lịch sử của đối tượng
và sự chuyển động mang tính quy luật đã được hình thành trong quá khứ và
hiện tại để dự báo cho tương lai bằng phương pháp xử lý chuỗi thời gian kinh
tế.
4.2.5. Phương pháp hệ thống thông tin địa lý
Hệ thống phần mềm thông tin địa lý (GIS) được sử dụng phổ biến để
lưu trữ, phân tích xử lý các thông tin không gian lãnh thổ. Hệ GIS cho phép
chồng xếp các thông tin địa lý để thấy được nét đặc trưng riêng của các đối


9


tượng địa lý. Luận án chủ yếu sử dụng phần mềm MapInfo để tính toán, thiết
kế, biên tập bản đồ và vẽ biểu đồ, đồ thị minh họa cho đề tài.
5. Các đóng góp chính của luận án
- Tổng quan có chọn lọc những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn
lao động và sử dụng nguồn lao động để vận dụng vào địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh.
- Nhận diện những nhân tố địa lý kinh tế - văn hóa - xã hội tác động
đến nguồn lao động và tình hình sử dụng nguồn lao động ở địa bàn nghiên cứu.
- Nêu lên những đặc điểm nguồn lao động và tình hình sử dụng nguồn
lao động ở Thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở phân tích quy mô, cơ cấu, chất
lượng và phân bố nguồn lao động và việc sử dụng nguồn lao động theo các
ngành cũng như thành phần kinh tế.
- Dự báo nguồn lao động trong tương lai và những giải pháp nhằm ổn
định nguồn lao động và các phương án sử dụng lao động một cách có hiệu
quả nhất.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn lao động và sử dụng
nguồn lao động.
Chương 2: Thực trạng nguồn lao động và sử dụng nguồn lao động ở
Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng và sử dụng hợp lý
nguồn lao động ở Thành phố Hồ Chí Minh.


10

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN LAO ĐỘNG
VÀ SỬ DỤNG NGUỒN LAO ĐỘNG

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN LAO ĐỘNG

Nguồn lao động là nhân tố quan trọng hàng đầu của sự phát triển kinh
tế - xã hội. Nguồn lao động - không chỉ là yếu tố đầu vào của hoạt động kinh
tế, chi phí nguồn lao động là nhân tố tạo ra sản phẩm, tạo ra tăng trưởng nền
kinh tế, mà nguồn lao động, với tư cách là một bộ phận của dân số, tiêu dùng
các sản phẩm, dịch vụ, tạo cầu của nền kinh tế. Quy mô và cơ cấu tiêu dùng
của nguồn lao động góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Nguồn lao động còn là nhân tố quyết định việc sử dụng các nguồn lực
khác. Lý thuyết phát triển kinh tế hiện đại cho rằng vai trò của kinh tế tri thức
gắn liền với khoa học và công nghệ và nguồn lao động chất lượng cao là
nhân tố cơ bản của sự phát triển. Ngược lại, trình độ phát triển kinh tế - xã
hội như cơ cấu kinh tế, trình độ phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục đào tạo, cơ chế vận hành của nền kinh tế, chính sách tiền lương và thu thập...
cũng ảnh hưởng lớn đến việc phát triển và sử dụng nguồn lao động.
Đối với nước ta, nguồn lao động vừa là điều kiện, vừa là mục tiêu tác
động đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.1.1. Lao động
Lao động: Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người nhằm
tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của bản
thân và xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả là nhân tố quyết
định sự phát triển của xã hội [103]. Các định nghĩa về lao động tập trung đề
cập hai khía cạnh chủ yếu: Thứ nhất, xem lao động là hoạt động, phương thức


11

tồn tại sống của con người. Thứ hai, "lao động" quan niệm là chính bản thân

con người, với tất cả nỗ lực vật chất, tinh thần của nó, thông qua hoạt động
lao động của mình sử dụng các công cụ lao động tác động đến đối tượng lao
động để đạt được mục đích nhất định [8].
1.1.2. Nguồn lao động
Trong lý thuyết phát triển, nguồn lao động được hiểu theo nghĩa rộng
là nguồn lực con người của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, là một bộ phận
của các nguồn lực có thể huy động, quản lý để tham gia vào quá trình phát
triển như nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính. Theo định nghĩa của Liên
Hợp Quốc: Nguồn lao động là trình độ lành nghề, kiến thức và năng lượng
của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc dưới dạng tiềm năng
để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng [8].
Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Nguồn lao động là toàn
bộ những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người trong độ tuổi
lao động có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang
làm nội trợ trong gia đình mình hoặc chưa có nhu cầu làm việc và những
người thuộc tình trạng khác (những người nghỉ việc hoặc nghỉ hưu trước tuổi
theo quy định của Bộ luật Lao động) [8], [103]. Trong nguồn lao động, người
ta không tính đến lao động trẻ em. Như vậy, nguồn lao động là toàn bộ những
người trong độ tuổi lao động theo quy định của Bộ luật Lao động gồm:
Những người đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân, những người có khả
năng lao động nhưng không có nhu cầu làm việc, những người tàn tật, mất
sức lao động (bị tai nạn trong khi lao động), những người thất nghiệp và
những người thuộc tình trạng khác (đang đi học, nội trợ).
1.1.2.1. Dân số hoạt động kinh tế
Nguồn lao động được quy định bởi quy mô dân số, cơ cấu dân số theo
độ tuổi và giới tính và sự phân bố theo lãnh thổ. Trong thực tế, không phải


12


mọi người trong độ tuổi lao động đều tham gia hoạt động kinh tế và ngược
lại, không phải cứ ai ngoài độ tuổi lao động thì không tham gia hoạt động
kinh tế. Chỉ riêng những người trong độ tuổi lao động chưa phản ánh đầy đủ
về cung lao động. Còn phải đo lường và phân tích thêm mức độ tham gia hoạt
động kinh tế của họ. Vì thế, theo khuyến nghị của Liên Hợp Quốc, nguồn lao
động được chia làm hai khối: dân số hoạt động kinh tế (hay còn gọi là lực
lượng lao động hoặc dân số làm việc) và dân số không hoạt động kinh tế.
Dân số hoạt động kinh tế bao gồm những người đang làm việc và cả
những người không có việc làm (thất nghiệp) nhưng đang tích cực tìm việc
làm trong một ngành nào đó của nền kinh tế trong một khoảng thời gian xác
định.
Theo định nghĩa trên còn có thể phân biệt dân số hoạt động kinh tế
trong độ tuổi lao động - bao gồm những người trong độ tuổi lao động đang có
việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc.
Đây là những người mà nền kinh tế có thể huy động và phải giải quyết
việc làm.
Vận dụng quan điểm trên của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), trong
cuộc điều tra thực trạng lao động và việc làm được áp dụng từ năm 1996. Bộ
Lao động thương binh và xã hội đã xem dân số hoạt động kinh tế bao gồm
toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có
việc làm nhưng có nhu cầu làm việc. Trong quy định này độ tuổi của dân số
hoạt động rộng hơn, ngoài dân số trong độ tuổi lao động còn bao gồm cả dân
số trên độ tuổi lao động.
Trong nghiên cứu của mình, luận án sử dụng quan niệm dân số hoạt động
kinh tế hay lực lượng lao động của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
1.1.2.2. Dân số không hoạt động kinh tế


13


Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ số người từ đủ tuổi
lao động trở lên không thuộc bộ phận có việc làm và không có việc làm
nhưng có nhu cầu làm việc. Những người này không hoạt động kinh tế vì
đang đi học (học sinh, sinh viên); đang làm công việc nội trợ cho bản thân và
gia đình, không có thu nhập; già cả, ốm đau, tàn tật không có khả năng lao
động và những người không có nhu cầu làm việc (được hưởng lợi tức, thu
nhập mà không phải làm việc...).
Nhìn chung, tỷ lệ dân số hoạt động kinh tế so với nguồn lao động dân số trong độ tuổi lao động - khác nhau giữa nam và nữ, thành thị và nông
thôn, giữa các nước và khu vực với trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác
biệt. Giữa các nước công nghiệp tiên tiến và các nước nông nghiệp tỷ lệ tham
gia lực lượng lao động khác nhau đáng kể. Tỷ lệ lao động ở các nhóm tuổi
trẻ của các nước nông nghiệp thường cao hơn các nước công nghiệp. Trẻ em
ở các nước nông nghiệp thường phải làm việc, chỉ có một bộ phận nhỏ sau
tuổi 14 còn được tiếp tục đến trường. Còn ở các nước phát triển, Luật Giáo
dục bắt buộc công dân phải có trình độ học vấn nhất định, thường là hết trung
học cơ sở hay trung học phổ thông, nên chỉ có một bộ phận nhỏ trẻ em dưới
15 tuổi hoạt động kinh tế. Ở các nước công nghiệp, tỷ lệ phụ nữ tham gia
hoạt động kinh tế khá cao, trong khi đó ở nhiều nước đang phát triển, tỷ lệ
này khá thấp.
Bảng 1.1: Dân số - nguồn lao động
Trong độ tuổi lao động
Khôn Tình Khôn
g có trạng g có
khả khác nhu
năng
cầu
lao
làm
động
việc


Nội
trợ

Đi
học

Dân số không hoạt động kinh tế

Thất Làm Chủ
Tự
nghiệp công doanh tạo
ăn nghiệp việc
lương
làm

Ngoài độ tuổi lao động
Trên
Lao
Trên Dưới
tuổi động tuổi
tuổi
lao trẻ em lao
lao
động
động động
đang
không không
làm
làm

làm
việc
việc
việc

Dân số hoạt động kinh tế


14

Nguồn lao động

Nguồn: Nguồn nhân lực, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2001.
1.1.3. Chất lượng nguồn lao động
Xác định đúng nguồn lao động cả về số lượng và chất lượng là cơ sở
cho việc sử dụng lao động, vì con người ở khía cạnh người lao động có một
vai trò rất lớn trong nền sản xuất xã hội, đó là tiềm lực kinh tế, là tài nguyên
quý giá của mỗi quốc gia.
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước, bên cạnh các nguồn
lực vật chất chỉ đóng góp một phần vào sự tăng trưởng kinh tế, nguồn lao
động giữ vai trò then chốt trong việc nâng cao năng suất lao động, khả năng
kinh doanh, tạo điều kiện tìm việc làm và tạo thuận lợi cho đổi mới và tiến bộ.
Các nghiên cứu về phát triển kinh tế đều chỉ ra rằng, lực lượng lao động trình
độ cao là một trong những nhân tố cơ bản có tính chất quyết định trong việc
phát triển kinh tế quốc gia, nhất là trong thời đại tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Đánh giá chất lượng nguồn lao động dựa trên một số tiêu chí sau:
+ Trình độ học vấn: thước đo quan trọng của chất lượng nguồn lao
động. Đây là cơ sở chủ yếu để nâng cao năng lực và kỹ năng làm việc của
người lao động. Xu hướng ở trên thế giới hiện nay là tăng tỷ lệ số người có
trình độ văn hóa cao. Trình độ học vấn được coi là 1 trong 3 chỉ số đánh giá

phát triển con người (HDI). Những chuyển biến tích cực về trình độ học vấn
sẽ tạo nhiều thuận lợi mang tính nội lực cho việc đẩy mạnh các hoạt động đào
tạo nghề, giải quyết việc làm, tạo thêm việc làm mới cho lực lượng lao động
và là tiền đề quan trọng của sự phát triển nguồn lao động.
Hiện nay, trên 30 quốc gia có tỷ lệ biết chữ của những người từ đủ
15 tuổi trở lên, tức là những người ở độ tuổi lao động đạt 100%, có khoảng 30
quốc gia (trong đó có Việt Nam) tỷ lệ người không biết chữ chỉ có 5%, nhưng


15

cũng còn tới 25 quốc gia có tới trên 50% số người trong độ tuổi lao động mù
chữ.
+ Trình độ chuyên môn nghề nghiệp của lực lượng lao động: chỉ tiêu
này được xem xét bằng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo các cấp (công nhân kỹ
thuật, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng - đại học trở lên) trong tổng số lao
động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân. Theo kinh nghiệm của thế
giới, tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật,
cần có cơ cấu chất lượng lao động theo các trình độ thích hợp tương ứng.
Theo F.M Harbison, trong một chu kỳ dài, tốc độ tăng nhu cầu lao động có kỹ
thuật đã qua đào tạo thường gấp 2 - 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP).
Còn theo kinh nghiệm của các nước đang phát triển, tỷ lệ hợp lý giữa công
nhân kỹ thuật và trung học chuyên nghiệp so với đại học và cao đẳng là 7/3.
Nếu cơ cấu lao động đã qua đào tạo mà bất hợp lý sẽ gây hậu quả xấu.
Nền kinh tế hiện đại thiếu trầm trọng công nhân lành nghề và lao động kỹ
thuật, trong khi có hàng vạn cử nhân, thạc sĩ không tìm được việc làm và rất
nhiều lao động giản đơn không có việc làm, gây nên một sự lãng phí rất lớn
nguồn lao động của xã hội.
Đây cũng là bức tranh về chất lượng nguồn lao động của nước ta. Tỷ
lệ lao động đã qua đào tạo ở nước ta năm 2000 là 7,6 triệu người (cao đẳng,

đại học chiếm 17,3%; trung học chuyên nghiệp 19,6%; công nhân kỹ thuật
63,1%), chiếm 20% tổng lực lượng lao động và tăng khá nhanh so với năm
1990, bình quân là 7,3%/năm, nhưng vẫn chưa tương xứng với nhu cầu lao
động kỹ thuật cho phát triển kinh tế - xã hội và so với các nước trong khu vực
(tỷ lệ là 50%) thì chất lượng nguồn lao động của nước ta là quá thấp.
Rõ ràng đào tạo nghề đang là vấn đề bức xúc đối với nguồn lao động
ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
1.1.4. Việc làm


16

Một trong những khái niệm gắn liền với lao động là khái niệm việc
làm. Dưới góc độ triết học, kinh tế học, xã hội học... việc làm chủ yếu đều
được xác định như là dạng hoạt động có ích của con người. Đảm bảo việc làm
thường xuyên cho lực lượng lao động là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với
sự phát triển của mỗi quốc gia. Việc nghiên cứu nó được tập trung vào một số
khía cạnh như lao động có việc làm thường xuyên theo khu vực nông thôn thành thị, theo khu vực kinh tế và lao động thiếu việc làm.
Đối với các nước đang phát triển và Việt Nam, lao động làm việc
trong khu vực I (nông - lâm - ngư nghiệp) chiếm tỷ lệ cao, song có xu hướng
giảm dần. Lao động trong khu vực II (công nghiệp - xây dựng) và III (dịch
vụ) tuy thấp nhưng có xu hướng tăng lên, năm 2002 40% dân số hoạt động
của thế giới ở khu vực I, Việt Nam là 61%.
Theo quan niệm của Liên Hợp Quốc, mọi hoạt động tạo ra thu nhập
không bị luật pháp ngăn cấm gọi là việc làm. Các hoạt động lao động được
xác định là việc làm bao gồm:
* Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật.
* Những công việc tự làm để thu lợi cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho
gia đình nhưng không được trả công (bằng tiền hoặc hiện vật) cho công việc đó.
Trong Bộ luật Lao động đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam năm 1994, Điều 13 đã định nghĩa mọi hoạt động lao động tạo ra thu
nhập, không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm. Trong
định nghĩa này đã thừa nhận việc làm phải gắn với thu nhập, tức là các hoạt
động kinh tế không có thu nhập thì không phải là việc làm và việc làm nằm
trong khuôn khổ quỹ đạo của chuẩn mực xã hội cho phép.
Luận án xem việc làm là tất cả những hoạt động (chân tay, trí óc) của
người lao động trong khuôn khổ luật pháp cho phép, nhằm đem lại thu nhập
trực tiếp cho bản thân, cho gia đình và đóng góp vào sự phát triển của xã hội.


17

Định nghĩa trên không chỉ phản ánh việc làm là hoạt động có ích của
con người mà còn thể hiện việc làm gắn liền với thu nhập trong khuôn khổ
những giá trị chuẩn mực của mỗi xã hội nhất định. Từ đó mới có thể phân tích
lĩnh vực việc làm ở những khía cạnh cụ thể trong những điều kiện cụ thể.
1.1.5. Thất nghiệp
Việc làm và thất nghiệp có liên quan chặt chẽ với nhau trong sự biến
động không ngừng của thị trường lao động và sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thất nghiệp là biểu hiện của sự không cân bằng của thị trường lao động khi
nhu cầu việc làm nhiều hơn chỗ làm việc. Ở những nước đang phát triển,
trong đó có Việt Nam do tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động cao nên vấn
đề thất nghiệp vẫn đang là thách thức lớn. Nó không chỉ gây ra những hậu quả
tiêu cực cho cá nhân mà còn cho sự phát triển nền kinh tế. Nói một cách đơn
giản, một người được coi là thất nghiệp nếu người đó trong độ tuổi lao động
có khả năng lao động nhưng không có việc làm và đang cố gắng đi tìm việc.
Trong những quy định điều tra thực trạng lao động và việc làm được áp dụng
từ năm 1996 do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiến hành, xác định
người thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động
kinh tế trong thời điểm điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc

[7]. Ở đây, giới hạn độ tuổi của người thất nghiệp được quy định cả những
người trên độ tuổi lao động. Điều này hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế
của Việt Nam, khi trong xã hội còn có một tỷ lệ người trên độ tuổi lao động
đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và đi liền với nó là một tỷ lệ không
nhỏ số người đang rơi vào tình trạng không có việc làm.
Trên cơ sở đó, luận án sử dụng khái niệm thất nghiệp để làm công cụ
nghiên cứu nguồn lao động như sau: Người thất nghiệp là những người trong
lực lượng lao động không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc làm.
Sự phát triển thị trường lao động ở nhiều nước đã chỉ ra các dạng thất
nghiệp khác nhau:


18

- Thất nghiệp tự nguyện (tự nhiên) là tình trạng thất nghiệp của người
lao động do không tích cực tìm kiếm việc làm ở mức lương hiện hành. Thất
nghiệp tự nhiên là dạng thất nghiệp chấp nhận được của nền kinh tế, tức là với
mức thất nghiệp này nền kinh tế vẫn giữ được sự phát triển bình thường.
- Thất nghiệp dài hạn là tình trạng thất nghiệp có thời gian kéo dài từ
1 năm trở lên.
- Thất nghiệp chu kỳ là tình trạng thất nghiệp xảy ra trong giai đoạn
đình trệ của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
- Thất nghiệp cơ cấu là tình trạng thất nghiệp xảy ra khi mất đồng bộ
giữa cơ cấu lao động và cơ hội làm việc do sự thay đổi cơ cấu nhu cầu tiêu dùng
và công nghệ. Loại thất nghiệp này mang đặc điểm của thất nghiệp dài hạn.
Khái niệm thất nghiệp nêu trên là cơ sở để xác định người thất nghiệp.
Tất cả các nước đều cố gắng giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống mức tỷ lệ thất nghiệp
tự nhiên. Một quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên chứng tỏ việc sử dụng lao
động ở quốc gia đó hợp lý (toàn dụng lao động).
Trên thế giới, do lực lượng lao động không được sử dụng hết, nên vẫn

còn đội ngũ thất nghiệp. Báo cáo đầu năm 2002 của Tổ chức lao động quốc tế
(ILO) đã đánh giá "gần 1 tỷ người lao động không có việc làm hoặc không đủ
việc" và tình trạng thất nghiệp đang ngày một gia tăng ở các nước Châu Mỹ
La tinh, khu vực Caribê, Trung Quốc, Trung - Đông Âu. Tỷ lệ thất nghiệp vẫn
đứng ở mức cao tại Trung Đông, Bắc Phi và vùng Xahara.Theo báo cáo này,
năm 2000 tỷ lệ thất nghiệp của các nước OECD là 7,3%, các nước EU là 10,3%,
Hoa Kỳ - 5%, Nhật Bản - 4,6%, Trung Quốc - 3,1%, Indonexia - 6,1%,
Philippin - 10,1%, Thái Lan - 2,4%, Malaixia - 3,1%, Việt Nam - 6,4%. Như
vậy so với các quốc gia trên thế giới và trong khu vực, tỷ lệ thất nghiệp ở
nước ta còn khá cao, thường tập trung ở các vùng đông dân và các khu đô thị lớn.


19

1.1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn lao động
1.1.6.1. Ví trí địa lý của lãnh thổ


Vị trí địa lý tự nhiên là yếu tố chi phối các điều kiện tự nhiên của

lãnh thổ, có ảnh hưởng tới sự cư trú và sản xuất của con người. Sự ảnh hưởng
đó có thể thấy thông qua các yếu tố địa hình, khí hậu, đất đai, nguồn nước,
sinh vật, khoáng sản...


Vị trí địa lý kinh tế có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế -

xã hội của lãnh thổ, ảnh hưởng đến sự phân bố và cơ cấu dân cư, lao động.
Một lãnh thổ có vị trí thuận lợi cho giao lưu kinh tế cùng với đường lối phát
triển kinh tế - xã hội đúng đắn, lợi thế về vị trí địa lý sẽ được tận dụng để phát

triển, hình thành đội ngũ lao động có trình độ cao, lao động công nghiệp, dịch
vụ chiếm ưu thế. Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là những trung tâm kinh
tế - xã hội có vị trí thuận lợi. Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn
nhất cả nước, nằm trong tam giác tăng trưởng kinh tế phía Nam. Sự phát triển
của các tam giác tăng trưởng, khu công nghiệp tập trung ở những nơi có vị trí
thuận lợi, tạo ra nhu cầu lớn về lao động công nghiệp và dịch vụ, thúc đẩy
việc đào tạo lao động kỹ thuật, góp phần làm thay đổi căn bản cơ cấu lao
động theo nghề nghiệp và theo trình độ chuyên môn kỹ thuật của nước ta.
1.1.6.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên


Địa hình ảnh hưởng đến việc cư trú, đi lại của con người, chi phối

phương thức canh tác cũng như năng suất của đất đai. Dân cư và lao động
thường tập trung đông ở những vùng địa hình phẳng như các đồng bằng, bồn
địa và thung lũng miền núi để thuận tiện cho sản xuất và sinh hoạt. Càng lên
cao dân cư càng thưa thớt.


20

Vùng địa hình cao thường là nơi khai thác kinh tế, liên quan đến sự di
cư của lao động nam nhiều hơn lao động nữ, trong cơ cấu lao động theo giới,
nam nhiều hơn nữ.


Khí hậu chi phối mọi hoạt động sản xuất, nhất là nông - lâm - ngư

nghiệp, ảnh hưởng tới sinh hoạt của dân cư và lao động. Vùng nhiệt đới ánh
sáng nhiều, nhiệt độ cao, cây trồng vật nuôi sinh trưởng nhanh, năng suất cao,

nuôi sống nhiều người nên đây cũng là nơi tập trung đông dân cư và lao động.
Về mặt sinh học, con người vùng nhiệt đới có khả năng sinh đẻ lớn hơn vùng
ôn đới và hàn đới nên mức sinh ở các nước nhiệt đới cũng thường cao hơn, nhất
là những nước nghèo, lạc hậu, làm cho mức gia tăng về dân số và lao động lớn.
Diễn biến mùa khí hậu góp phần hình thành tập quán canh tác, sinh
hoạt và kinh nghiệm sản xuất của người lao động ở từng địa phương. Khí hậu
mùa đông ở miền Bắc nước ta với sự xen kẽ các đợt gió mùa đông bắc làm
thời tiết luôn luôn thay đổi, chi phối lịch thời vụ gieo trồng. Rét đậm kéo dài
làm ảnh hưởng tới sức khỏe của con người, ảnh hưởng tới sự sinh trưởng của
cây trồng, vật nuôi.


Đất đai - mọi hoạt động kinh tế - xã hội cần có đất đai. Đất đai là

yếu tố sản xuất quan trọng của nông nghiệp. Sự tập trung dân cư và lao động
đông đúc trước tiên là những vùng đất đai màu mỡ, thuận lợi cho canh tác cây
lương thực, thực phẩm. Sự chuyển dịch dân cư - lao động sang các lĩnh vực
phi nông nghiệp đều phải dựa vào nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm từ
những vùng sản xuất trọng điểm - nơi có đất đai thích hợp với cây lương thực,
thực phẩm. Mọi sản xuất công nghiệp, dịch vụ đều cần có đất đai. Do diện
tích đất đai có hạn, người ta phải nâng cao hiệu quả sử dụng đất bằng cách
đầu tư thêm lao động, vốn, kỹ thuật trên một đơn vị diện tích để tăng sản
phẩm.


21



Nguồn nước cần thiết cho sự sống của mọi sinh vật, cần thiết cho


hoạt động của nông nghiệp. Sự phân bố lao động chịu ảnh hưởng gián tiếp
của nguồn nước. Vùng khô hạn không đủ nước cho cây trồng vật nuôi phát
triển thì dân cư - lao động cũng thưa thớt. Trái lại, nơi có nguồn nước phong
phú thuận lợi cho các hoạt động sản xuất, nguồn lao động tập trung đông đúc.
Bất kỳ ngành công nghiệp nào cũng cần có nước. Bởi vậy, các nhà máy công
nghiệp thường được phân bố trên những sông lớn và lao động công nghiệp
cũng được phân bố theo đó.


Khoáng sản là nguyên liệu của công nghiệp, là "bánh mỳ" cho sự

phát triển các ngành công nghiệp. Sự phân bố khoáng sản ảnh hưởng đến sự
phân bố công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp khai thác) và lao động công
nghiệp. Công nghiệp khai khoáng đòi hỏi sức khỏe tốt và ở mức độ nhất định
cần tới trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật nên vùng công nghiệp khai
khoáng thường có kết cấu lao động nam nhiều hơn nữ và tỷ lệ lao động có
chuyên môn kỹ thuật cao. Ví dụ điển hình là vùng khai thác than Quảng Ninh.


Sinh vật là nhân tố quan trọng tạo nên sự cân bằng sinh thái. Rừng

có vai trò điều hòa khí hậu, duy trì mực nước ngầm, hạn chế lũ lụt, giảm bớt
hạn hán, làm trong sạch môi trường sống.
Hiện tượng thiên tai, lũ lụt mấy năm gần đây ở miền Trung và đồng
bằng sông Cửu Long, sự thất thường về chế độ nước ở hệ thống sông Hồng và
sông Thái Bình thể hiện ngày càng khắc nghiệt... là hậu quả của sự tàn phá
rừng đầu nguồn, của tập quán du canh du cư ở đồng bào dân tộc thiểu số, của
sự khai hoang bừa bãi không khoa học. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ tới
cuộc sống và các hoạt động sản xuất. Nhiều nơi do rừng bị tàn phá, đất đai bị

xói mòn, con người đã phải di cư đi tìm đất mới để canh tác.
Sự phát triển công nghiệp, đô thị và các phương tiện giao thông làm
cho môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Cây xanh trở thành vật "cứu cánh"


22

cho con người, giảm bớt sự ô nhiễm. Sự săn bắt triệt để các sinh vật tự nhiên
trên đồng ruộng làm cho cân bằng sinh thái bị phá vỡ, sâu bệnh phát triển phá
hoại cây trồng vật nuôi. Rừng và các sinh vật tự nhiên thực sự là bộ máy vĩ
đại điều hòa thiên nhiên. Cần phải duy trì các sinh vật tự nhiên, bảo vệ rừng
đầu nguồn để giữ cân bằng sinh thái.
1.1.6.3. Các nhân tố kinh tế xã hội đóng vai trò quyết định sự phát
triển, cơ cấu và phân bố nguồn lao động
* Dân số với nguồn lao động
Dân số quyết định tới quy mô và chất lượng nguồn lao động.


Gia tăng tự nhiên và quy mô nguồn lao động

Nguồn lao động là một bộ phận quan trọng của dân số. Sự gia tăng
dân số quyết định mức gia tăng lao động trong tương lai (sau 15 đến 25 năm).
Những nước có mức gia tăng dân số cao cũng có mức gia tăng nguồn lao
động cao. Nguồn lao động phát triển nhanh về số lượng nhưng yếu về sức
khỏe và thể lực, kém về trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật làm cho năng
suất lao động thấp, thu nhập bình quân đầu người càng thấp, kinh tế chậm
phát triển, nhiều lao động không có việc làm.
Những nước có gia tăng dân số thấp và ổn định thì mức gia tăng lao
động cũng thấp và ổn định, tỷ lệ lao động trong dân số cao, tổng sản phẩm xã
hội lớn, thu nhập bình quân đầu người cao, tạo thuận lợi cho sự tích lũy vốn

đầu tư mở rộng sản xuất và đào tạo đội ngũ lao động có trình độ cao.
Một số nước có gia tăng dân số quá thấp hoặc âm làm cho quy mô dân
số và lao động có nguy cơ bị suy giảm, đội ngũ lao động ở đây có trình độ cao
song lại thiếu nguồn bổ sung lao động trẻ.
Khi mức gia tăng dân số cao, thu nhập quốc dân dành cho tiêu dùng
và đầu tư vào các phúc lợi công cộng phục vụ cho số dân đó sẽ tăng lên, thu
nhập đầu tư cho tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng giảm đi, dẫn tới khó khăn


23

cho mở rộng đầu tư việc làm. Điều đó ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng
của lực lượng lao động.
Ngược lại, khi quy mô lực lượng lao động lớn, nhất là số người trong
độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ cao trong dân số, dẫn tới quy mô dân số đặc biệt
là dân số nữ trong độ tuổi sinh đẻ lớn. Với cơ cấu dân số đó, đặc trưng về
trình độ học vấn và trình độ nghề nghiệp của lực lượng lao động thường thấp
dẫn đến việc kiểm soát hành vi sinh đẻ còn hạn chế, mức sinh cao.


Gia tăng cơ học của dân số và quy mô lực lượng lao động

Theo quy luật chung, người dân di chuyển từ nơi có mức sống thấp
sang nơi có mức sống cao; từ nơi có ít cơ hội kiếm được việc làm hoặc việc
làm thu nhập thấp sang nơi có nhiều cơ hội kiếm được việc làm hoặc việc làm
có thu nhập cao. Như vậy, dòng di dân với các đặc trưng trên sẽ làm tăng quy
mô lực lượng lao động nơi nhập cư và giảm quy mô lực lượng lao động nơi
xuất cư.
Nơi nhập cư: Nếu bộ phận lực lượng lao động nhập cư có trình độ văn
hóa và trình độ nghề nghiệp thấp thì khó có thể tham gia vào khu vực kinh tế

hiện đại, chỉ tham gia vào khu vực kinh tế truyền thống, khu vực phi kết cấu
hoặc không tìm được việc làm, từ đó tạo thêm gánh nặng thất nghiệp cho
những nơi nhập cư.
Nơi xuất cư: Ở mức nào đó, việc xuất cư sẽ làm giảm bớt sự tập trung
dân số, giảm được số người thất nghiệp trong lực lượng lao động. Nhưng nếu
bộ phận lực lượng lao động có trình độ nghề nghiệp và học vấn cao tham gia
xuất cư thì sẽ mất đi bộ phận tinh túy nhất của nguồn lao động. Đó cũng là
một trong những trở ngại cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở nơi xuất cư.
Ngược lại, do quy mô lực lượng lao động lớn, sự phát triển kinh tế xã hội không đủ việc làm cho người lao động nên đã dẫn tới hiện tượng thừa
lao động, chủ yếu là những lao động có trình độ học vấn và trình độ nghề


24

nghiệp thấp, khiến họ phải di chuyển tới những nơi có cơ hội kiếm được việc
làm. Đồng thời, khi quy mô lực lượng lao động lớn, việc tạo ra nhiều đầu việc
làm sẽ gây khó khăn cho việc áp dụng tiến bộ công nghệ kỹ thuật. Điều đó
khiến cho bộ phận lực lượng có trình độ học vấn và nghề nghiệp cao sẽ tìm
mọi cách di chuyển đến những nơi tiến bộ công nghệ cao phù hợp với năng
lực của họ.


Cơ cấu dân số và cơ cấu lực lượng lao động

+ Cơ cấu dân số trẻ: Dân số dưới độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ cao đã
dẫn đến việc chi phí cho tiêu dùng, cho các dịch vụ giáo dục, y tế cao; khả năng
đầu tư cho đào tạo và đào tạo lại lao động, cho chuyển giao công nghệ, cho phát
triển sản xuất thấp. Cơ cấu lực lượng lao động sẽ được thể hiện như sau:
Theo trình độ nghề nghiệp, cơ cấu lực lượng lao động bao gồm: lao
động được đào tạo nghề chiếm tỷ lệ thấp và lao động không được đào tạo

nghề chiếm tỷ lệ cao.
Theo khu vực sản xuất, cơ cấu lực lượng lao động bao gồm: lực lượng
lao động ở khu vực sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao và lực lượng lao
động ở khu vực công nghiệp dịch vụ chiếm tỷ lệ thấp. Với cơ cấu dân số trẻ,
nền kinh tế thường phải tập trung vào khu vực sản xuất nông nghiệp để đảm
bảo lương thực cho dân số đông và ít có điều kiện đầu tư vốn vào công nghiệp
và dịch vụ. Điều đó dẫn tới hiện tượng thiếu việc làm, thất nghiệp phổ biến
trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.
+ Cơ cấu dân số già: Có ảnh hưởng nhất định đến cơ cấu lực lượng
lao động. Nếu tỷ lệ người già quá đông thì dân số tham gia vào lực lượng lao
động thấp, một bộ phận lớn dân số không hoạt động kinh tế sẽ tăng thêm gánh
nặng cho lực lượng lao động. Một bộ phận lớn lao động sẽ phải tham gia vào


25

khu vực dịch vụ an sinh xã hội cho người cao tuổi, không thể đóng góp vào
mức tăng trưởng kinh tế.
+ Cơ cấu dân số hợp lý: Nếu cơ cấu dân số phù hợp với sự phát triển
kinh tế xã hội, thì đầu tư cho phát triển nguồn lao động tương lai và hiện tại
thuận lợi hơn. Cơ cấu của lực lượng lao động có những đặc trưng: tỷ lệ lao
động có chuyên môn kỹ thuật cao chiếm phần lớn, tỷ lệ lao động có việc làm
cao, thất nghiệp thấp.
Do cơ cấu dân số hợp lý với việc phát triển kinh tế xã hội như vậy cho
nên có điều kiện để đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ, cho đào tạo
và đào tạo lại lao động, tạo điều kiện cho công nghiệp, dịch vụ phát triển, áp
dụng tiến bộ khoa học công nghệ. Điều đó dẫn tới khu vực nông nghiệp cần ít
lao động và lao động tập trung chủ yếu trong khu vực kinh tế công nghiệp và
dịch vụ. Vì vậy, tỷ trọng lao động trong khu vực kinh tế nông nghiệp sẽ thấp.
+ Cơ cấu giới tính của dân số sẽ có ảnh hưởng đến tỷ lệ tham gia lao

động của nữ. Khi phụ nữ quyết định tham gia hay không tham gia lực lượng
lao động, cung lao động sẽ tăng lên hay giảm xuống vì tỷ lệ tham gia lực
lượng lao động của nam giới có xu hướng ổn định trong một khoảng tuổi dài.


Phân bố dân cư và phân bố lực lượng lao động

Nếu phân bố dân cư bất hợp lý với điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội
thì sức ép lao động, việc làm cao. Lao động không gắn với phân bố tài
nguyên, với đối tượng lao động, với cơ sở vật chất kỹ thuật khiến cho vấn đề
tạo việc làm trở nên khó khăn, dẫn tới mức sống thấp, cuộc sống nghèo đói.
Đó là nguyên nhân làm cho mức sinh cao, mức di dân cao và sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến việc phân bố lực lượng lao động.
Nếu phân bố dân cư hợp lý thì sẽ phát huy được các yếu tố tích cực
của sản xuất và phát triển như tài nguyên, con người, vốn... Cơ hội kiếm việc


×