Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ẢNH HƯỞNG của đạo CÔNG GIÁO đến đạo đức tín đồ tôn GIÁO ở TỈNH THANH hóa HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.88 KB, 83 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phổ biến, có ảnh hưởng to lớn
đến sự tồn tại và phát triển của các cộng đồng người trong lịch sử. Hiện
nay, ảnh hưởng của tôn giáo đang có chiều hướng gia tăng đối với các lĩnh
vực trong đời sống xã hội ở hầu khắp các quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Công giáo là một chi phái lớn của Ki tô giáo, có tác động nhiều mặt
đến đời sống, đạo đức, văn hóa, lối sống, phong tục, tập quán... của nhiều
nước trên thế giới, nhất là ở châu Âu.
Mặc dù Công giáo được du nhập vào Việt Nam thời gian chưa lâu,
nhưng với tất cả tính riêng biệt của mình, Công giáo đã và đang có ảnh
hưởng sâu sắc đối với đời sống tinh thần trong xã hội. Trong tình hình hiện
nay, khi mà nước ta đã và đang chuyển sang nền kinh tế thị trường, mặt trái
của nó đã làm cho đạo đức xã hội có phần bị suy thóai. Vai trò của tôn giáo
cũng như đạo Công giáo đã tác động vào đời sống xã hội, đặc biệt là đối
với đạo đức của tín đồ Công giáo ở nước ta nói chung, ở tỉnh Thanh Hóa
nói riêng. Chính sự tác động, ảnh hưởng ấy có những mặt tích cực, nhưng
cũng đang gây ra những hậu quả nhiều mặt, không chỉ đối với các tín đồ
Công giáo, mà cả với các lực lượng xã hội khác trong quá trình xây dựng
đời sống văn hóa ở các địa phương. Đạo Công giáo đã ảnh hưởng tiêu cực
đến cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng-văn hóa ở nước ta hiện nay.
Trong tình hình ấy, việc đi sâu nghiên cứu ảnh hưởng của đạo
Công giáo đối với đạo đức được thể hiện qua lối sống của tín đồ Công giáo
ở Thanh Hóa, để đề ra các giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế


2


mặt tiêu cực của đạo đức tín đồ Công giáo trong sự nghiệp đổi mới đất
nước là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về ảnh
hưởng của các tôn giáo đề cập đến sự ảnh hưởng của nó đối với các lĩnh
vực của đời sống xã hội (xem: "Sự thống nhất giữa "Kính chúa" và "Yêu
nước" trong tư tưởng Đặng Đức Tuấn. Triết học, số 2 tháng 4/2000.(Đỗ
Lan Hiền)" "Trong lịch sử Việt Nam thời cận đại" (5.01.01); "Góp phần
tìm hiểu đạo đức trong kinh thánh" (5.01.01); "Vận dụng quan điểm khoa
học về tôn giáo trong công tác đối với Thiên Chúa giáo hiện nay ở Việt
Nam" (5.01.02), "Khía cạnh nhân văn của giáo lý Thiên Chúa giáo và công
tác xây dựng nếp sống mới ở vùng đồng bào Thiên Chúa giáo" (5.01.01);
"Công tác vận động quần chúng theo đạo Thiên Chúa ở miền Bắc nước ta
hiện nay" (5.03.14); "Một số vấn đề về lịch sử Thiên Chúa giáo ở Việt
Nam" (Đỗ Quang Hưng), "Bước đầu của đạo Thiên Chúa ở Việt Nam" (Sự
phát triển của tư tưởng ở Việt Nam) - của Giáo sư Trần Văn Giàu; "Đời
sống đạo của người dân công giáo ở thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh" (Nguyễn Hồng Dương); "Thập giá và lưỡi gươm" (Trần Tam
Tĩnh); "Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt
Nam hiện nay" (Đề tài KX.07.03)."Những quan điểm đổi mới và hoàn
thiện chính sách tôn giáo và tín ngưỡng của nước ta hiện nay"
(KX.04.13)... Và nhiều công trình nghiên cứu khác của Trung tâm khoa
học về Tín ngưỡng và Tôn giáo - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Viện Nghiên cứu Tôn giáo - Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân
văn quốc gia, các trung tâm nghiên cứu của Giáo hội Công giáo, Ủy ban
đoàn kết Công giáo Việt Nam...). Dưới các góc độ khác nhau, các công
trình nghiên cứu đó đã đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề có ý nghĩa lý luận


3


và thực tiễn cấp bách, góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho chủ trương
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với tôn giáo trong mỗi
giai đoạn cách mạng, nhất là trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Tuy nhiên, về ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với đạo đức thể
hiện qua lối sống của tín đồ Công giáo ở nước ta, nhất là ở tỉnh Thanh Hóa
thì lĩnh vực này chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và trực tiếp.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục đích: Nghiên cứu ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với đạo
đức của tín đồ Công giáo ở tỉnh Thanh Hóa. Trên cơ sở đó đề xuất một số
giải pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của đạo
đức tín đồ Công giáo trong quá trình đổi mới ở địa phương.
Nhiệm vụ: Với mục đích như trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Tìm hiểu quá trình du nhập và tình hình của đạo Công giáo ở
Thanh hóa hiện nay.
- Phân tích tình hình đạo đức được biểu hiện qua lối sống của tín đồ
Công giáo ở tỉnh Thanh hóa dưới ảnh hưởng của đạo Công giáo.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực của đạo đức tín đồ Công giáo trong quá trình đổi mới của địa
phương và của đất nước.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn không đi sâu nghiên cứu đạo Công
giáo với ảnh hưởng của nó đối với các mặt của đời sống xã hội, mà chỉ tập
trung nghiên cứu về ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với đạo đức được
thể hiện qua lối sống của tín đồ Công giáo trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
trong tình hình hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


4


- Thực hiện đề tài này, người viết luận văn dựa trên cơ sở vận dụng
tổng hợp về lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
cũng như quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo, đạo đức
để tiến hành nghiên cứu, người viết luận văn đã sử dụng tổng hợp các
phương pháp lịch sử - lôgíc, phương pháp phân tích và tổng hợp..., ngoài ra
còn sử dụng kết quả của phương pháp điều tra xã hội học v.v... Đồng thời
kế thừa có chọn lọc một số công trình nghiên cứu của nhiều tác giả có liên
quan đến nội dung của luận văn.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Góp phần tìm hiểu về lịch sử đạo Công giáo ở Thanh Hóa, chỉ ra
ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với đạo đức của tín đồ Công giáo trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa.
- Bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực,
hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức tín đồ Công giáo ở tỉnh Thanh Hóa trong
quá trình đổi mới của địa phương và đất nước để góp phần xây dựng nền
văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Những vấn đề đặt ra và giải quyết trong luận văn này trước hết là
phục vụ cho công tác vận động đồng bào Công giáo của địa phương. Có thế
làm tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu có nội dung liên quan đến
nội dung của luận văn này và làm tài liệu cho sinh viên các Trường đại học,
cao đẳng, khi nghiên cứu về ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với đạo đức
tín đồ ở Thanh Hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm có 2 chương, 4 tiết.


5



6

Chương 1
ĐẠO CÔNG GIÁO Ở THANH HÓA

Đạo Công giáo là một tôn giáo có đối tượng thờ cúng là Đức chúa
Trời và đấng cứu thế Giêsu, với hệ thống giáo lý đồ sộ và bộ máy hết sức
chặt chẽ.
Với tư cách là một tôn giáo thế giới điển hình, đạo Công giáo có
mặt ở nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Quá trình hình thành,
tồn tại và phát triển của đạo Công giáo vô cùng phức tạp. Trong phạm vi đề
tài này, chúng tôi chỉ xin lược qua những mốc chính trong tiến trình lịch sử
đạo Công giáo; từ đó, phân tích quá trình du nhập của nó vào Việt Nam nói
chung, Thanh hóa nói riêng, để có cơ sở xem xét ảnh hưởng của đạo Công
giáo đối với đạo đức tín đồ Công giáo ở Thanh hóa hiện nay.
1.1. SỰ DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN ĐẠO CÔNG GIÁO Ở THANH HÓA

1.1.1. Vài nét về đạo Công giáo và quá trình du nhập đạo Công
giáo ở Việt Nam
Vào đầu công nguyên, đế chế La Mã đã trở thành một vương quốc
hùng mạnh. Đó là một đế chế được dựng lên trên một chế độ nô lệ dã man,
tàn bạo và bất công, với những mâu thuẫn hết sức gay gắt và phức tạp giữa
các giai tầng xã hội. Trong vương quốc La Mã, những người nô lệ chỉ là
những " công cụ biết nói " mà thôi. Để tăng cường thế lực của mình, đế
quốc La Mã đã tiến hành chiến tranh xâm lược và áp đặt chế độ nô dịch tàn
bạo đối với nhiều quốc gia, dân tộc khác...
Trước sự hà khắc của chế độ nô lệ, sự bạo tàn của tầng lớp quý tộc
chủ nô cầm quyền, trong lòng đế quốc La Mã đã nổ ra nhiều cuộc đấu tranh
của những người nô lệ, điển hình là cuộc khởi nghĩa nô lệ do người anh

hùng Spáctaquýt vào năm 74 trước công nguyên cầm đầu là thiên lịch sử bi


7

hùng của La Mã. Để đảm bảo lợi ích của tầng lớp quý tộc chủ nô, duy trì
trật tự trong chế độ nô lệ trước phong trào đấu tranh của quần chúng, chính
quyền La Mã đã thẳng tay đàn áp và phong trào đấu tranh của quần chúng
bị dìm trong biển máu. Sau thất bại của phong trào đấu tranh, đời sống của
những người lao động (chủ yếu là của những người nô lệ) càng thêm cùng
cực, họ không chỉ thiếu thốn về vật chất mà còn khủng hoảng nặng nề về tư
tưởng, tinh thần. Quần chúng căm hờn bọn thống trị tàn bạo nhưng cảm
thấy mình bất lực, họ mong chờ một Đấng thiêng liêng từ trên trời xuống
cứu vớt. Nhân dân lao động hy vọng có nước công lý " nghìn năm " sẽ xuất
hiện và bọn thống trị sẽ bị Thượng đế trừng phạt (ước mong này được ghi
một cách bóng gió trong quyển Khải huyền) là quyển sách đầu tiên của bộ
" Tân ước ". Trong bối cảnh đó, một tôn giáo mới, với mong muốn cứu rỗi
những người cùng khổ xuất hiện, do Kitô sáng lập nên gọi là đạo Kitô, còn
gọi là đạo Cơ đốc giáo.
Sự hưởng ứng của quần chúng theo đạo này đã làm cho bọn thống
trị lo sợ, chúng cấm đoán, đàn áp, tước đoạt cả tài sản vì chúng coi đây là
một thứ đạo mới chống lại chính quyền. Trong hàng ngũ những người Kitô
giáo đầu tiên cũng có những người thuộc tầng lớp trên bị phá sản và dần
dần họ cũng đứng trong hàng ngũ giáo sĩ của đạo này. Những người này
giải thích sự khốn cùng là do tội lỗi mà ra. Họ làm cho ông Chúa mà quần
chúng mong chờ trước kia thành ông Chúa xuống trần chuộc tội cho loài
người ở đời sau. Họ không chống đối bọn thống trị nữa mà lại thần thánh
hóa uy quyền chúng bằng cách kêu gọi quần chúng hãy tuân theo chính
quyền vì chính quyền là do Thượng đế sinh ra (Kinh thánh của Phao-Lô).
Đến thế kỷ thứ IV, vua Công-stăng- tanh thấy đạo này có lực lượng

và có thể lợi dụng được nên không còn cấm đoán mà cho được bình đẳng
với tôn giáo của Đế quốc Rôma. Sau đó Kitô giáo được nhận là Quốc đạo
và bảo vệ đế quốc Rôma. Từ đó về sau Kitô giáo không còn là tôn giáo của
những người nghèo khổ nữa, mà trở thành công cụ bảo vệ chế độ người bóc


8

lột người, dựa vào bọn thống trị để mưu lợi và có lúc đã mưu đồ nắm cả
bọn vua chúa thế tục ở Châu Âu; điển hình là Công giáo tự coi mình là
chính thống giáo của Kitô, có tòa thánh Vaticăng ở Rôma do giáo Hoàng
đứng đầu, là người thay mặt Chúa trời để chăn dắt con chiên, tín đồ của
Chúa.
Hiện nay đạo Công giáo có mặt ở nhiều nước trên thế giới với gần
một tỷ tín đồ với một hệ thống giáo lý, giáo luật đồ sộ. Đây là một tôn giáo
điển hình có hệ thống tổ chức được hình thành sớm, chặt chẽ, từ trên xuống
dưới. Có ảnh hưởng to lớn trong đời sống xã hội của nhiều quốc gia, dân
tộc, trong đó có Việt Nam. Bởi Giáo hội coi việc truyền giáo là một sứ
mệnh tự thân đi mở nước Chúa, cũng như thực hiện lời dạy của Chúa "Các
con hãy đi dạy đạo và rửa tội cho mọi quốc gia nhân danh Cha, và Con, và
các Thánh thần" [32. 28].
Quá trình đạo Công giáo du nhập vào Việt Nam khá lâu dài và hết
sức phức tạp, hiện vẫn còn nhiều ý kiến tranh luận, bàn cãi về lịch sử đạo
Công giáo ở Việt Nam.
Theo ý kiến của các nhà sử học, các nhà nghiên cứu, cũng như sự
khẳng định của giáo hội Công giáo Việt Nam, đạo Công giáo du nhập từ
Việt Nam vào tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ nhất (1533) đời vua Lê Trang
Tôn. Giáo sĩ người châu Âu đầu tiên tên là Inêxu vào truyền đạo ở vùng
Ninh Cường, Quần Anh, Trà Lũ thuộc tỉnh Nam Định. Lúc đầu vào truyền
đạo của hai dòng tu ở Việt Nam đó là dòng Chúa cứu thế của người Bồ

Đào Nha và dòng Đa Minh của người Tây Ban Nha. Đây cũng là một thời
kỳ Giáo hoàng của Giáo hội Rôma đã phân chia thế giới ra hai dòng truyền
giáo, để mở rộng nước Chúa. Đó là phía Đông là dòng Bồ Đào Nha và phía
Tây là dòng Tây Ban Nha. Đây là hai nước Công giáo phát triển mạnh nhất
lúc bấy giờ. Dòng Đa Minh có cơ sở ở Đàng trong từ năm 1550 sau đó họ
bị Chúa Nguyễn trục xuất vì có những biểu hiện đáng ngờ, còn dòng Tên


9

hoạt động cả Đàng trong và Đàng ngoài. Chính dòng này, chẳng bao lâu
một nhân vật nổi tiếng là Alexandre Derhoodes (còn gọi là cha Đắc Lộ) đã
đặt chân vào cửa Lạch Bạng - Thanh Hóa truyền đạo và ra Bắc Hà. Trong
khi đó hai đế quốc Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha suy yếu và càng về sau vai
trò của Pháp càng mạnh, nhất là sau năm 1558 khi MEP (Hội truyền giáo
nước ngoài FARI) ra đời.
Có thể nói từ năm 1533-1658, là một giai đoạn đánh dấu sự truyền
giáo của Giáo hội Tây Ban Nha và Giáo hội Bồ Đào Nha, đang từng bước
chuyển qua giáo hội Pháp được diễn ra trong thế kỷ XVI-XVII là giai đoạn
hết sức gian nan, vất vả và đẫm máu, nhưng cộng đồng Kitô giáo lớn mạnh
khá nhanh. Năm 1627 người Việt Nam đầu tiên có tên tuổi trong sổ hộ tịch
của giáo hội, là ông Đỗ Hưng Viễn (người Bồng Trung, Vĩnh Lộc, Thanh
Hóa). Kết thúc giai đoạn này đã có khoảng mười vạn tín đồ trong đó tám
vạn ở Đàng ngoài và hai vạn ở Đàng trong nhưng chưa có linh mục người
Việt Nam. Đây cũng là giai đoạn Công giáo muốn phát triển trên toàn thế
giới. Với ý đồ đó, các nhà truyền giáo tìm mọi cách để truyền đạo. Mặc dù
đạo Công giáo, với tư cách là một tôn giáo thế giới, với tính chất nhất thể
chế, lại là một sự cưỡng bức văn hóa. Đó chính là điểm yếu của Công giáo,
mãi nhiều thập kỷ Giáo hội Rôma mới khắc phục được. Đặc biệt ở phương
Đông là nơi có nhiều tín ngưỡng tôn giáo, giàu truyền thống văn hóa nên

cũng là một cản trở lớn đối với Công giáo. Ngay từ buổi đầu đối với các
dân tộc phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng thì đó là sự phản ứng
về văn hóa, sự phản ứng về tôn giáo, nhất là phản ứng của Tam giáo đồng
nguyên, phản ứng của tập tục thờ cúng Tổ tiên, mà Công giáo vấp phải.
Điều đó buộc Giáo hội Công giáo có một sự thỏa hiệp nhất định. Trải qua
một thời gian khá lâu, Giáo hội Công giáo buộc phải có sự "nhượng bộ"
nhất định. Đặc biệt là trước khi họ trở thành tín đồ Công giáo thì họ là
người Việt Nam, nên tín ngưỡng tôn giáo, truyền thống văn hóa, đạo đức,


10

lối sống đã thấm sâu trong tư tưởng họ. Dẫn đến có sự đấu tranh tư tưởng
gay gắt và quyết liệt khi theo đạo Công giáo, bên cạnh đó có sự ngăn cấm
của chính quyền phong kiến đối với Công giáo khi vào Việt Nam. (Mãi đến
năm 1937, Tòa thánh Vatican mới có sắc chỉ cho phép được thờ cúng Tổ
tiên với những quy định cụ thể). Như lời nhận xét của Linh mục Léopold
Cadiere "Tôi nghiên cứu tín ngưỡng, các thực hành nghi lễ tôn giáo, phong
tục, tập quán của họ và phải thừa nhận rằng, người dân Việt Nam rất sâu
sắc về tôn giáo, tín ngưỡng của họ trong sáng và khi họ cầu cứu đến trời, tế
tự trời cũng có thể họ cũng đến với một đấng Toàn năng mà chính tôi đang
thờ kính và gọi bằng Chúa" [38.13].
Cho đến 1658-1945 là giai đoạn của Giáo hội Pháp thông qua Hội
truyền giáo nước ngoài FARI (MEP), ở Việt Nam. Đây là giai đoạn công
cuộc truyền đạo phải trả bằng máu, vì đây không chỉ là sự đụng độ giữa hai
nền văn minh Đông Tây, mà chủ yếu còn là sự đụng độ giữa tinh thần yêu
nước chống xâm lược của nhân dân Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc thực
dân phương Tây đi xâm chiếm thuộc địa mà Giáo hội Công giáo là kẻ đồng
lõa, vừa phục vụ chủ nghĩa thực dân vừa đi mở rộng nước Chúa, cũng bằng
phương thức của chủ nghĩa thực dân tham ra bắn giết, dụ dỗ, mua chuộc,

cưỡng ép người bản xứ theo đạo và chiếm lấy nhiều đất đai cho nhà thờ.
Chính Nguyễn Ái Quốc trong quyển "Bản án chế độ thực dân Pháp", đã
mạnh dạn vạch trần bộ mặt của chủ nghĩa giáo hội thực dân "Nếu Thiên
đường có thật, thì quá chật, không đủ chỗ để chứa chấp tất cả bọn tông đồ
thuộc địa can đảm đó, và nếu Chúa bất hạnh đã chịu đóng đinh trên cây
thánh giá trở về cõi thế này, thì chắc Ngài sẽ vô cùng ngao ngán khi thấy
"các môn đồ trung thành" của mình thực hiện đức khổ hạnh như thế nào:
Giáo hội Xiêm chiếm đoạt một phần ba diện tích ruộng đất canh tác trong
xứ; Giáo hội Nam kỳ chiếm một phần năm; Giáo hội Bắc kỳ, chỉ riêng ở
Hà Nội đã chiếm một phần tư đất đai, cộng thêm một cái vốn bé xíu, 10
triệu Phơ-răng. Không cần nói cũng biết là phần rất lớn tài sản ấy, giáo hội


11

giành được bằng nhiều thủ đoạn mà họ không thể và cũng không bao giờ
thú nhận" [42.184]. Lúc bấy giờ Đạo Công giáo ở Việt Nam đã có hai địa
phận đầu tiên ở Việt Nam (Đàng trong và Đàng ngoài) do hai Giám mục
người Pháp là Francoi Pallu và Lambert de la motte phụ trách, gây nên
những mâu thuẫn gay gắt giữa giáo sĩ dòng Tên của Bồ Đào Nha với Pháp.
Cuối cùng Giáo Hoàng quyết định dòng Tên phải rút khỏi Đông Dương,
nhường cho Hội truyền giáo Pháp đi mở rộng nước Chúa. Điều đáng chú ý
1658-1884 là thời kỳ suy tàn của chế độ phong kiến ở Việt Nam, xảy ra
cuộc chiến tranh, tranh giành quyền lực giữ các vua, chúa phong kiến Lê,
Trịnh và Nguyễn, làm cho đời sống nhân dân lầm than đói khổ, đạo đức bị
suy thoái, là cơ hội tốt để cho Công giáo xâm nhập truyền đạo. Dấu ấn
đáng ghi nhớ năm 1799, Tòa thánh Vatican chính thức đặt ra cho Việt Nam
một chế độ có tên gọi là Đại diện tông tòa. Nó có nhiệm vụ trực tiếp cử
Giám mục người nước ngoài về quản lý các xứ truyền đạo.
Theo số liệu của Giáo hội, số người theo đạo Công giáo khá đông,

năm 1850 cả nước có 500.000 người theo Công giáo [ 43.98 ]; năm 1668
có người Việt Nam đầu tiên được phong linh mục. Đến năm 1799 Việt
Nam có 70 linh mục và đến năm 1884 các giáo phận đã tăng lên 8 giáo
phận trong đó Đàng ngoài có 5 giáo phận và Đàng trong có 3 giáo phận.
Từ năm 1885-1945 là thời kỳ Việt Nam bị thực dân Pháp xâm
chiếm và trở thành thuộc địa của Pháp. Thực dân Pháp trao cho giáo sĩ
nhiều đặc quyền, đặc lợi. Vai trò của giáo hội được đề cao, thế lực của các
giáo sĩ trong xã hội ngày càng lớn, số lượng tín đồ tăng nhanh, các cơ sở
thờ tự được triển khai xây dựng ngày một nhiều. Trong khi đó nội bộ giáo
hội có sự phân biệt đối xử giữa người nước ngoài và người bản xứ, các giáo
sĩ Việt Nam không muốn lệ thuộc giáo sĩ nước ngoài. Năm 1933 mới có
giám mục người Việt Nam đầu tiên là Nguyễn Bá Tòng. Đây là cột mốc
đánh dấu sự phát triển thắng lợi của Công giáo ở Việt Nam. Kết quả có 1,5


12

triệu tín đồ, chiếm 7% dân số cả nước, được chia thành 11 giáo phận, gần
1000 linh mục, gần 4000 nữ tu, mở gần 1000 trường học thu hút khoảng
70.000 học sinh, uy thế công giáo lên cao, các xứ đạo, các cơ sở thờ tự, tu
hành được mở mang sửa chữa, chiếm hữu nhiều ruộng đất, đồn điền và nhà
cửa kinh doanh,... Thu hút được nhiều tân tòng làm cho việc đi mở rộng
nước Chúa không còn gặp trở ngại gì [43.155]. Đến năm 1942-1945 có xấp
xỉ 2 triệu tín đồ, được phân chia thành Giáo hội cả nước, giáo hội tỉnh, giáo
phận và giáo xứ. Giáo hội luôn luôn rao giảng cho tín đồ sống thiện, tránh
xa điều ác, về Thiên đường địa ngục... Nhưng thực tế, được sự dung túng
của thực dân Pháp họ lại làm những điều phi đạo đức, gắn chặt với chủ
nghĩa thực dân về mục đích chính trị, kinh tế. Đến năm 1945-1975 là giai
đoạn Bác Hồ và Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa
giành được chính quyền, đánh đuổi thực dân Pháp, trong nội bộ Công giáo

hết sức phức tạp, diễn ra sự đụng độ và phân rẽ. Nhất là từ 1945- 1954 là
thời kỳ có sự đụng độ giữa giáo hội và cộng sản, Thực chất là sự đụng độ
giữa bọn thực dân Pháp và giáo hội với cuộc đấu tranh chống xâm lược của
nhân dân Việt Nam do Đảng cộng sản lãnh đạo. Bởi vì, chủ trương của
giáo hội là bắt tay với chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động bên
trong, bên ngoài để chống cộng sản. Nhiều nơi, nhà thờ trở thành pháo đài
chống cộng như Bùi Chu, Phát Diệm... cũng là lúc Công giáo dính líu vào
chính trị rất sâu sắc. Một bộ phận tín đồ bị chủ nghĩa thực dân lợi dụng. Ở
miền Bắc là nơi có số lượng giáo dân đông nhất trong toàn quốc, chiếm
70% tín đồ, nhưng nhiều đồng bào Công giáo vẫn tham gia tổng khởi nghĩa
cướp chính quyền. Đạo Công giáo ở Việt Nam phát triển nhanh, nhất là ở
miền Bắc. Bởi vì nhân dân miền Bắc bị chế độ phong kiến Lê- Trịnh áp
bức bóc lột nặng nề, đa số lâm vào cảnh bần cùng khổ cực. Trong khi đó tư
tưởng chính thống Nho giáo không còn đủ sức bảo vệ chế độ phong kiến đã
lỗi thời, đạo Phật cũng hết thời hưng thịnh, làm cho nhân dân có khoảng


13

trống về mặt tâm thức- tâm linh tôn giáo. Đây chính là mảnh đất màu mỡ
cho Công giáo phát triển. Trong khi đó, giáo sĩ phương Tây lại có kinh
nghiệm truyền đạo, có hàng hóa "kỳ lạ", lại biết dùng thuốc men để trị
bệnh, luôn giao giảng về đạo đức con người, mà mẫu hình đạo đức là Thiên
Chúa, nên cũng thu hút được nhiều người. Còn miền Nam không mặn mà
với Công giáo mà họ lại thích tham gia các hội kín. Giáo hội Việt Nam
được bọn thực dân Pháp che chở, lợi dụng phục vụ cho mưu đồ xâm lược
của chúng, làm cho quần chúng tín đồ day dứt giữa tư tưởng chống cộng
của giáo hội và tinh thần yêu nước của tín đồ Công giáo mà bản thân họ là
người Việt Nam. Nên Giáo hội Công giáo Việt Nam ngay từ đầu có mặc
cảm về tội lỗi, họ cảm thấy như một cục bướu thừa.

Đến năm 1954- 1975 là thời kỳ cực kỳ phức tạp, khi Việt Nam tạm
thời phân chia thành hai miền theo vĩ tuyến 17. Miền Bắc do chính quyền
cách mạng quản lý, miền Nam do chính quyền Ngô Đình Diệm tay sai của
đế quốc Mỹ cai trị. Lúc này, để thực hiện mưu đồ chính trị đen tối, Giáo
hội Công giáo kêu gọi Chúa đã vào Nam, cưỡng ép, dụ dỗ giáo dân miền
Bắc di cư theo Chúa, làm cho phân bố dân cư Công giáo thay đổi to lớn.
TÛ lệ giáo dân ở miền Nam tăng nhanh. Trong 80 vạn người miền Bắc di
cư vào Nam thì có tới 50 vạn người Công giáo, làm cho ở miền Nam chiếm
2/3 giáo dân toàn quốc. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã dùng giáo dân tạo
ra một vành đai chiến lược ở các vùng trọng yếu chống cộng như ở Hố Nai,
Biên Hòa... để bảo vệ chế độ thực dân mới của Mỹ - Diệm. Chính quyền
của Ngô Đình Diệm có tham vọng Công giáo hóa miền Nam. Điều này
không phải không có cơ sở, ngay từ thời vua Tự Đức, người Pháp định đưa
Hồng Bảo là người Công giáo lên làm Vua (Hồng Bảo là anh em với Tự
Đức), nhưng Tự Đức phát hiện ra và đã bóp chết mưu đồ đó (1876). Đến
thời Bảo Đại thực dân Pháp cũng nuôi dưỡng mối tình của ông với Nam
Phương Hoàng hậu vì bà ta là người Công giáo, Bảo Đại đã phá lệ của triều


14

Nguyễn, kết hôn với Nam Phương Hoàng hậu. Bởi vì nhà Nguyễn cấm vua
không được lấy vợ là người Công giáo hoặc nếu lấy chỉ được làm Phi. Khi
Mỹ hất cẳng Pháp, đưa Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ lên làm
Tổng thống miền Nam cộng hòa, Công giáo lên ngôi, chế độ gia đình trị
của Diệm dựa vào Công giáo để củng cố quyền lực. Trong quân đội, cấp
bậc từ đại úy trở lên phải là người Công giáo. Trong hệ thống chính quyền,
hầu hết các vị trí chủ chốt đều là người Công giáo. Điều đó trước mắt có lợi
cho Mỹ - Diệm, nhưng lại làm cho Giáo hội Công giáo ở miền Nam uy tín
bị tổn thương, vì nó đi ngược lại truyền thống yêu nước, chống xâm lược

của nhân dân Việt Nam. Chủ trương Công giáo hóa của Mỹ - Diệm cuối
cùng cũng bị thất bại. Ở miền Bắc, một bộ phận tín đồ Công giáo bị tư
tưởng chống cộng của giáo hội đầu độc cũng tỏ thái độ tiêu cực với công
cuộc kháng chiến chống Mỹ và bảo vệ, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng
thông qua công tác vận động quần chúng của Đảng, cũng như được sự ủng
hộ của nhân dân thế giới yêu chuộng hòa bình, trong đó có nhân dân Mỹ và
các tổ chức Công giáo Mỹ đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân
dân Việt Nam, làm cho giáo dân giác ngộ, khắc phục được thái độ tiêu cực
của một bộ phận giáo dân. Giáo hội Việt Nam vẫn phụ thuộc vào Rôma.
Mãi đến năm 1960 Giáo hội Rôma mới chấm dứt thời kỳ Tông tòa ở Việt
Nam, nâng lên tầng chính thức hàng giáo phẩm Việt Nam. Chấm dứt 400
năm đô hộ giáo phẩm nước ngoài và người linh mục nước ngoài cuối cùng
rút khỏi Việt Nam vào năm 1962 tại Lạng Sơn.
Từ năm 1975 đến nay, đây là giai đoạn có tính bước ngoặt lịch sử
của Công giáo có sự chuyển hướng hoạt động. Theo sự đổi mới hoạt động
của Giáo hội Rôma bắt đầu từ Đại hội Công giáo lần thứ 21 ngày
11/11/1962 tại Vatican và được gọi là Cộng đồng Vitican II. Giáo hội công
khai thừa nhận những sai lầm của nó trong lịch sử nên cần phải đổi mới để
thích nghi với thời đại. Giáo hội đưa ra mấy chủ trương lớn: Đối với nội bộ


15

Công giáo phải sửa đổi giáo lý, giáo luật, lễ nghi, tổ chức và các hoạt động
của giáo hội cho phù hợp với trình độ quần chúng và "dân chủ". Giáo hội
cho phép các linh mục làm lễ, đọc kinh, giảng đạo theo tiếng dân tộc của
mỗi nước. Đối với các giáo phái khác của Kitô giáo, Giáo hội chủ trương
hòa giải theo tinh thần anh em cùng chung một gốc là thờ Đức Chúa Trời.
Đối với các tổ chức tôn giáo khác, tranh thủ, lôi kéo. Đối với các phong
trào giải phóng dân tộc và phong trào hòa bình thì Giáo hội tỏ vẻ tán thành

và ủng hộ. Đối với Cộng sản thì Giáo hội chuyển từ đối đầu sang "đối
thoại" và hòa nhập vào cộng đồng dân tộc. Đặc biệt là ở các nước mà Đảng
cộng sản lãnh đạo thì Giáo hội tranh giành ảnh hưởng với cộng sản, giữ
vững đức tin cho tín đồ, sẵn sàng lật đổ chính quyền, thay đổi chế độ khi có
thời cơ. Như vậy họ chỉ thay đổi phương thức tiến hành, còn mục tiêu cơ
bản thì không hề thay đổi.
Do đó, đối với Công giáo Việt Nam thì đây là giai đoạn hội nhập
dân tộc, làm cho đạo gần đời hơn, chú ý đến đạo đức, lối sống của tín đồ
hơn. Về tổ chức có 25 giáo phận, 3 giáo tỉnh.
Giáo tỉnh Thành phố Hồ Chí Minh có 9 địa phận-giáo phận tỷ lệ
8,5% dân số, là nơi có Tín đồ cao nhất nước. Riêng thành phố Hồ Chí
Minh, Công giáo đậm đặc hơn.
Giáo tỉnh Huế có 6 giáo phận, tỷ lệ xấp xỉ 4,3% dân số là Tín đồ.
Giáo tỉnh Hà Nội có 10 địa phận tỷ lệ 6% dân số là Tín đồ. Trong
đó có ba địa phận đậm đặc giáo dân là địa phận Hà Nội, địa phận Phát
Diệm và Địa phận Bùi Chu.
Như vậy, có thể nói rằng hiện nay khoảng 6-7% dân số người Việt
Nam theo đạo Công giáo. Đạo Công giáo nằm rải rác ở hầu hết các địa
phương trong cả nước, trong đó có Thanh Hóa, đã và đang có ảnh hưởng
đến nhiều mặt của đời sống xã hội, nhất là đạo đức của tín đồ Công giáo
trong tình hình hiện nay. Để đánh giá đúng tình hình của đạo Công giáo ở


16

Thanh Hóa hiện nay, trước hết chúng ta cần lược qua quá trình du nhập và
phát triển đạo Công giáo ở địa phương này.
1.1.2. Quá trình truyền bá và phát triển đạo Công giáo ở
Thanh Hóa
Thanh Hóa là một tỉnh lớn, có một vị trí chiến lược rất quan trọng,

là nơi giao hòa trên nhiều phương diện giữa đồng bằng Bắc bộ và Trung
bộ.
Bắc tỉnh Thanh Hóa giáp ba tỉnh của Bắc bộ là Hòa Bình, Sơn La
và Ninh Bình với đường ranh giới dài 175 km. Phía Tây, tỉnh Thanh Hóa
nối liền sông núi với tỉnh Hủa Phăn của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào. Phía Nam và phía Tây Nam giáp tỉnh Nghệ An làm thành vùng Thanh Nghệ truyền thống với chiều dài ranh giới là 160 km. Phía Đông, Thanh
Hóa mở rộng ra phần giữa của vịnh Bắc bộ thuộc biển Đông, có bờ biển dài
trên 102 km. Phần đất liền của Thanh Hóa chạy dài theo chiều từ Tây Bắc
xuống Đông Nam. Diện tích tự nhiên 11.168 km 2. Cuối thế kỷ XVI, đầu thế
kỷ XVII dân số Thanh Hóa có 7.660 hộ gia đình với 67.071 người, gồm có
tám dân tộc: Kinh, Mường, Thổ, Thái, Dao, Hoa, Khơ mú và Hmông
[22.324].
Có thể nói, Thanh Hóa rừng núi bao bọc cả ba phía Tây, Nam, Bắc
và Biển bao bọc phía Đông. Đường từ Bắc vào Nam phải vượt qua dãy núi
Tam Điệp và dãy núi Thắng, rừng Hoàng Mai. Các dấu vết đường cổ xưa
hiện nay vẫn còn hình dung được, ngoài con đường Thiên lý Bắc Nam, còn
có con đường thượng đạo xuyên rừng vượt núi, qua các khúc sông thuộc hệ
thống sông Mã, mà phương tiện đi lại chỉ là đi bộ, đi thủy. Tuy vậy con
đường thượng đạo này lại có tính chiến lược quan trọng từ Hòa Bình qua
Nho Quan men theo sườn núi Thạch Thành vào Tây Đô (Vĩnh Lộc), từ Hồi
Xuân, La Hán dọc theo các sườn núi sát dòng sông Mã thuộc huyện Bá


17

Thước cũng về Tây Đô, rồi từ Tây Đô vượt qua sông Mã đi Thọ Xuân,
Thường Xuân, Như Xuân vào tận Hóa Quỳ Nghệ An, con đường này vốn
cư dân Việt cổ ở rừng Cúc Phương vẫn tràn ra Bắc và đi vào Nam.
Thanh Hóa có bốn sông lớn là sông Mã, sông Hoạt, sông Yên và sông
Lạch Bạng. Sông Mã dài 512 km, chảy trong địa phận Việt Nam là 410 km,

riêng chảy qua Thanh Hóa là 242 km. trong đó sông Chu là nhánh lớn nhất
của sông Mã. Sông Chu dài 325 km đi qua Thường Xuân, Thọ Xuân, Đông
Sơn.
Sông Yên dài 94 km đi qua Nông Cống, Quảng Xương. Sông Yên
có bốn nhánh: sông Nhơn, sông Hoàng, sông Lý và sông Thị Long.
Ngoài ra còn có sông Lạch Bạng dài 34,5 km đi qua Thường Xuân,
Như Xuân chảy ra cửa Bạng và sông Hoạt có chiều dài chảy từ nguồn đến
cửa là 55 km chảy qua hai huyện Hà Trung và Nga Sơn.
Bờ biển Thanh Hóa bắt đầu từ Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoàng Hóa,
Quảng Xương và chạy dọc hết huyện Tĩnh Gia, có 6 cửa sông chính: Cửa
sông Hoạt chảy từ địa phận Nga Thái, cửa sông Lùn chảy ra từ địa phận xã
Nga Bạch, cửa Lạch Trường chảy ra từ địa phận xã Hải Lộc và Hồng
Trường, cửa Hà chảy ra từ địa phận Hoằng Hóa, Quảng Xương, cửa Lạch
Ghép chảy qua địa phận xã Quảng Nham, Hải Châu và cửa Lạch Bạng
chảy qua xã Hải Thanh, Hải Bình. Thanh Hóa còn có đảo Biện Sơn có
người ở và một số đảo khác không có người ở như Hòn Nẹ, Hòn Mê.
Về khí hậu Thanh Hóa thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa ở Đông
Nam Á, chịu ảnh hưởng cả gió Đông Bắc và gió Đông Nam, về mùa hạ còn
có thêm gió Tây Nam nóng và khô.
Thanh Hóa có điều kiện tự nhiên, khí hậu khắc nghiệt, dân cư thưa
trải rộng trên toàn bộ các vùng miền, nhất là miền núi. Đời sống kinh tế của
nhân dân hết sức khó khăn, chủ yếu là sống tự cung tự cấp, lại bị thiên tai,


18

lũ lụt triền miên, ốm đau bệnh tật nhiều. Đầu thế kỷ XVII, Trịnh - Nguyễn
phân tranh làm cho đời sống nhân dân vốn đã khó khăn lại càng khó khăn
hơn cả về vật chất lẫn tinh thần. Trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ chiếm
đại đa số, trong nhân dân còn nhiều phong tục, tập quán lạc hậu, mê tín dị

đoan, làm cho con người nhiều khi bất lực, sợ hãi trước tự nhiên và cuộc
sống. Đó chính là những điều kiện thuận lợi để cho đạo Công giáo xâm
nhập vào Thanh Hóa.
Sự du nhập và phát triển đạo Công giáo ở Thanh Hóa là một quá
trình đầy khó khăn gian khổ, với nhiều nét riêng biệt của nó. Theo Tòa
giám mục Thanh Hóa, người ta tìm thấy cuốn gia phả "Đỗ tộc gia phả" ở
Bồng Trung, Kẻ Bền, giáo phận Thanh Hóa (nay là thôn bồng Trung, xã
Vĩnh Hùng, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Theo tài liệu này, Cụ Đỗ Hưng Viễn
người con thứ hai của cụ Đỗ Biểu, một vị quan lớn của triều đình thời Lê
An Tôn (1556-1573), đã tiếp xúc với con buôn tàu Hòa Lan và theo đạo
Hòa Lan. Cũng theo tài liệu trên, ông trưởng chi trong dòng họ Đỗ tộc là
Đỗ Cảnh, là một tướng công triều đình. Con trai trưởng của cụ là Đỗ Viên
Mãn (khoảng 1627-1643), cũng theo đạo Hòa Lan, khi tàu buôn ngoại quốc
dạt vào cửa Bạng (Ba Làng). Như vậy, có thể ông Đỗ Hưng Viễn là tín hữu
đầu tiên của Việt Nam. Theo tài liệu của giáo phận Thanh Hóa, vào ngày
19 Tháng 3 năm 1627, một thuyền buôn người nước ngoài dạt vào Lạch
Bạng (Xã Hải Thanh, Huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa bây giờ). Trên thuyền
có một giáo sĩ tên là Alexandre de Rhodes, lập lều, đóng cây thánh giá ở
núi Du Xuyên để đi truyền đạo. Ông giúp người nghèo chữa bệnh, bảo vệ
người dân khi quan lại ức hiếp, khuyên giải họ làm điều thiện, tránh xa điều
ác. Bởi thế, mỗi khi ông giảng đạo được rất nhiều người dân xung quanh
núi Du Xuyên đến nghe. Nhưng trong số đó chỉ có ba người ở địa phương
này chịu phép rửa tội. Ông tiếp tục đi ra Bắc. Vì chỉ có ba người nên đạo
Công giáo không phát triển được, lại bị đạo Phật lúc bấy giờ lấn át. Ở Đàng
ngoài ngày 18 tháng 6 năm 1628, Trịnh Tráng lại cấm người Việt Nam


19

không được tiếp xúc với các Tây Dương đạo trưởng. Đến tháng 3 năm

1629 bản thân linh mục Rhodes và linh mục Marquez lại bị dẫn độ về Nam
để tìm thuyền trả về Ma Cao. Đến tháng 4 năm 1630 thì linh mục Rhodes
và các thừa sai dòng Tên bị trục xuất khỏi Đàng ngoài. Cho nên, giai đoạn
này ở Thanh Hóa đạo Công giáo phát triển chậm.
Cho đến ngày 9 tháng 9 năm 1659, Tòa thánh mới ban hành sắc
chỉ, thành lập hai giáo phận đầu tiên ở Việt Nam đó là địa phận Đàng trong
và địa phận Đàng ngoài. Đến năm 1670 đã có một linh mục được thụ
phong là người Thanh Hóa. Đó là Cha Antôn Quế. Đến năm 1679 địa phận
Đàng ngoài lại được chia làm hai gọi là Tây Đàng ngoài và Đông Đàng
ngoài. Đạo Công giáo vẫn phát triển rất khó khăn, mặc dù họ đi sâu vào
đức tin để khuyên răn đạo đức cho cá nhân tín đồ nhưng số lượng tân tòng
tăng không đáng kể.
Mãi đến thế kỷ XVIII, đạo Công giáo mới chính thức phát triển ở
Thanh Hóa, đặc biệt là các vùng dân cư ven biển như Nga Sơn, Tĩnh Gia,
Hậu Lộc, Quảng Xương và các vùng núi trung du như Thọ Xuân, Triệu
Sơn, Vĩnh Lộc.... Đến đầu thế kỷ XIX lại là thời kỳ sát đạo, ở Thanh Hóa
cũng có nhiều tín đồ chống lại chính quyền địa phương, nhiều tín đồ đã
"tử" vì đạo. Trong đó có Cha Thánh Giacôbê Đỗ Mai Năm (1781-1838),
Cha thánh Phaolô Nguyễn Ngân (1790-1840), Cha thánh Phaolô Lê Bảo
Tịnh (1793-1857), Thánh Lê Thị Thanh người Thanh Hóa bị hành quyết
vào 12/7/1841 và nhiều tín hữu khác. Đến năm 1846 địa phận Tây Đàng
ngoài lại tách làm hai và Thanh Hóa vẫn thuộc Hà Nội.
Trong thời kỳ này các vị trí truyền đạo đều nằm ở những nơi cửa
sông, các vùng dân nhập cư mới lập ấp, lập làng để sinh sống, ở các vùng
núi gần sông, các vùng xa xôi, cằn cỗi. Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, đạo Công giáo mới phát triển nhanh, lan ra nhiều vùng (18/ 23 huyện
thị lúc bấy giờ). Cho đến năm 1902, phía Nam Hà Nội gọi là xứ Thanh, bao


20


gồm Ninh Bình và Thanh Hóa, làm thành địa phận Thanh. Đến năm 1924,
địa phận Thanh đổi tên là địa phận Phát Diệm. Lúc này đức cha Alexandre
Marcou là giám mục tiền khởi của địa phận Thanh (Thanh Hóa và Ninh
Bình). Ngài quyết tâm thực hiện ý muốn của Tòa thánh để có những giám
mục Việt Nam trông coi những giáo phận Việt Nam. Ngài đã chuẩn bị các
điều kiện để giáo phận Phát Diệm tách làm hai, giáo phận này chỉ còn lại
trong tỉnh Ninh Bình, còn Thanh Hóa và Châu Lao (một tỉnh Hủa Phăn của
Lào bây giờ) làm thành giáo phận mới, có Tòa giám mục tại Thanh Hóa,
nên gọi là giáo phận Thanh Hóa. Mãi cho đến ngày 7/ 05/ 1932 Tòa thánh
mới ký sắc lệnh thành lập giáo phận, Đức cha Louis de Cooman Giám mục
phó Phát Diệm được cử làm giám mục tiền khởi của giáo phận Thanh Hóa
và ngày 12/9/1932 Đức cha đã đến nhận giáo phận Thanh Hóa. Theo số
liệu của Tòa giám mục Thanh Hóa lúc đó đã có 26 Cha thừa sai, 48 linh
mục Việt Nam, 82 Thầy giảng và 18 giáo xứ gồm Thanh Hóa, Ba Làng,
Phúc Lãng, Liên Nghĩa, Nhân Lộ, Phong Ý, Mỹ Điện, Thái Yên, Mục Sơn,
Dương Giáo, Kẻ Bền, Ngọc Cao, Vân Lung, Kẻ Láng, Kẻ Rừa, Tam Tổng,
Điền Hộ và Tân Hải, với số lượng Giáo dân khoảng 45000 người. Trong đó
có 5000 người là người dân tộc thiểu số chủ yếu là người Mường, trên tổng
số dân lúc bấy giờ là 1500.000 người. Về cơ sở có một chính tòa, một Tòa
giám mục (Nhà chung), một trường tiểu chủng viện đào tạo linh mục cho
Châu Lào tại Mục sơn (Hữu lễ), xây năm 1918, một trường tập ở Ba Làng
huyện Tĩnh Gia trở thành tiểu chủng viện, và 4 dòng: dòng Kín, dòng Mến
thánh giá, dòng Đức Bà truyền giáo và dòng Phanxicô. Ngoài ra địa phận
mới cũng có những cơ sở làm công tác từ thiện, nhân đạo như trại phong,
một nhà thương và một nhà Dục Anh. Sau này có thêm Trường trung học
nhà chung, trước khi có cơ sở mới và lấy tên là trường Vĩnh Ký. Bảy năm
sau, đến năm 1939 đây vẫn là thời kỳ Thanh Hóa cũng như bao địa phương
khác, vẫn nằm dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Tuy lúc này Việt Minh



21

ở địa phương đang hoạt động mạnh, có nhiều chi bộ ra đời, làm cho công
cuộc truyền giáo gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng dưới sự bảo trợ của chính
quyền bù nhìn của thực dân Pháp, đạo Công giáo vẫn phát triển, số lượng
tân tòng vẫn tăng nhanh. Lúc này, họ luôn lợi dụng Kinh Thánh, lời
khuyên, răn, cấm của Chúa, Hội thánh, để tác động vào đời sống của tín đồ,
nhất là về đạo đức của tín đồ để ngăn cản người Công giáo tham gia kháng
chiến chống thực dân Pháp.
Trong bảy năm đó, Giáo phận Thanh Hóa có 42 thừa sai, 53 linh
mục người Việt Nam, 22 đại chủng viện, 183 tiểu chủng viện, có 74 nữ tu,
58.628 giáo dân, với 39 Giáo xứ được chia làm 5 hạt, 74 nhà thờ và 153
nhà nguyện. Lúc này phong trào cách mạng lên cao chuẩn bị cướp chính
quyền, nhiều nơi trong tỉnh đã nổ ra các phong trào đấu tranh do Việt Minh
lãnh đạo có cả giáo dân tham gia, làm suy yếu đà tiến của giáo phận, nhất
là ở miền Châu Lao (tỉnh Hủa Phăn - Lào). Mặt khác phong trào biểu tình
của đồng bào Công giáo đòi quyền cai quản cho các xứ và đòi quyền quản
lý giáo phận vì lúc đó các xứ, linh mục không phải đều là người Việt Nam
mà phần lớn còn là người nước ngoài. Vì vậy làm cho các thừa sai không
thể hoạt động được, đến chỗ chấm dứt hoạt động. Hai tiểu chủng viện,
trường thầy giảng, trường nhà chung và các cơ sở xã hội cũng dần dần
đóng cửa. Tuy nhiên, số linh mục và số lượng giáo dân vẫn gia tăng. Cho
đến ngày Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng 8 năm 1945, số đông đồng bào
Công giáo cũng tham gia các đoàn biểu tình, mít tinh cướp chính quyền.
Đây là bước ngoặt của đạo Công giáo ở Việt Nam nói chung và Thanh Hóa
nói riêng; là thời kỳ đầy phức tạp và thử thách trước sự thắng lợi của cách
mạng và sự quay lại của thực dân Pháp. Không ít vùng Công giáo nhà thờ
lại thành nơi tụ họp của bọn phản động, làm tay sai cho Pháp, thậm chí còn
là lô cốt chống lại chính quyền cách mạng, nuôi dấu gián điệp như đảo Mê,

nhà thờ Ba Làng và một số vùng giáo Nga Điền thuộc Nga Sơn gần Phát


22

Diệm. Đến hiệp định Giơnevơ 1954 lợi dụng lòng tin vào Chúa của đồng
bào Công giáo chúng tuyên truyền, lôi kéo, đe dọa và cưỡng ép đồng bào
Công giáo vào Nam vì Chúa đã vào Nam. Nhiều linh mục và tu sĩ đã đi vào
Nam, cùng với 18.500 giáo dân. Giáo phận Thanh Hóa chỉ còn lại có 27
linh mục, 15 đại chủng sinh, 70 tiểu chủng sinh, 50 nữ dòng Mến thánh giá
Thanh Hóa và khoảng 47.000 giáo dân.
Đến thời kỳ chống Mỹ cứu nước, với đường lối đúng đắn, sáng tạo,
Đảng đã tổ chức, động viên nhân dân ở cả hai miền Nam Bắc tiến hành
cuộc kháng chiến thần thánh đấu tranh giải phóng miền Nam, bảo vệ và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Tinh thần yêu nước, chống Mỹ của
nhân dân được phát động trong cả nước cũng như ở Thanh Hóa; không chỉ
đồng bào lương mà cả đồng bào Công giáo cũng tích cực tham gia kháng
chiến theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc. Đế quốc Mỹ đã tiến hành
chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Chúng bắn phá cả trường học, nhà thờ, tu
viện. Tòa giám mục Thanh Hóa cũng bị máy bay Mỹ oanh tạc, nhiều nhà
thờ Công giáo trên địa bàn Thanh Hóa bị phá hoại, gây bao khó khăn, mất
mát cho cuộc sống cả đạo lẫn đời. Năm 1975 nước nhà hoàn toàn giải
phóng, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, nhưng hậu quả chiến tranh còn
nặng nề. Cho đến khi Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước, đổi
mới chính sách tôn giáo thì Công giáo lại có chiều hướng phát triển. Nhiều
tín đồ nhạt đạo, khô đạo, bỏ đạo hoặc không tham gia hoạt động lễ nghi do
nhà thờ tổ chức đã trở lại hoạt động; các cơ sở thờ tự được sửa chữa lại
khang trang, quy mô hơn. Trong bối cảnh ấy nhà thờ cũng đưa ra nhiều yêu
sách với chính quyền đòi lại các nhà nguyện, các cơ sở vật chất trước chiến
tranh, tranh giành quần chúng với các đoàn thể của ta. Dưới sự lãnh đạo

sáng suốt của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Thanh Hóa, với sự tham mưu
của các ban ngành chức năng, chúng ta đã giải quyết ổn thỏa nhiều vấn đề
cụ thể. Mặt khác, các hình thức sinh hoạt của đạo Công giáo cũng đang dần


23

dần thay đổi, điều chỉnh làm cho đạo gần đời hơn và sống phúc âm trong
lòng dân tộc.
Qua sự trình bày trên chúng tôi có một số nhận xét sau:
Với địa bàn tỉnh Thanh Hóa, từ điều kiện địa lý tự nhiên cho đến
kinh tế- văn hóa xã hội và con người vào đầu thế kỷ XVII như vậy là điều
thuận lợi cho việc truyền đạo Công giáo vào Thanh Hóa, với tư cách là một
tôn giáo ngoại sinh.
Đạo Công giáo vào Thanh Hóa, cũng như vào các địa phương khác,
lúc ban đầu không dễ dàng gì. Bởi vì trước khi là tín đồ Công giáo họ là
người Việt Nam với quan niệm của người dân về tín ngưỡng tôn giáo, niềm
tin, quan niệm đạo đức, tập tục thờ cúng Tổ tiên... Sự va chạm với các tôn
giáo khác nhất là tam giáo đồng nguyên. Bên cạnh đó sự ngăn cấm của
chính quyền phong kiến đối với đạo Công giáo.
Đạo Công giáo vào Thanh Hóa cũng có những nét riêng biệt của
nó.Lúc đầu đạo Công giáo ở đây có sự gắn liền với địa phận Ninh Bình và
tỉnh Hủa Phăn của Lào, về sau mới tách ra một giáo phận độc lập. Đây
cũng là một trong những giáo phận mà tín đồ Công giáo cùng chung một
đơn vị hành chính tỉnh và cũng là nơi có tín hữu đầu tiên của Việt Nam.
Đạo Công giáo vào Thanh Hóa chủ yếu bằng đường thủy, tín đồ
Công giáo buổi đầu chủ yếu là dân các vùng ven sông, ven biển, các cửa sông
và những vùng đất mới khai phá, mới lập nên thôn, xóm, làng, xã. Nhìn
chung tín đồ Công giáo có trình độ dân trí thấp nhưng sống khá tập trung.
1.2. TÌNH HÌNH ĐẠO CÔNG GIÁO Ở THANH HÓA HIỆN NAY


Để đánh giá đúng tình hình Đạo Công giáo ở Thanh Hóa, trước hết
chúng ta cần tìm hiểu về kinh tế-xã hội của tỉnh Thanh Hóa hiện nay.


24

Trong những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, với sự cố
gắng của Đảng bộ, chính quyền các cấp và nhân dân Thanh Hóa cũng đạt
được một số thành tựu về kinh tế xã hội.Theo số liệu Báo cáo về việc thực
hiện mục tiêu kế hoạch 5 năm 1996-2000 và định hướng kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh 5 năm 2000-2005 của tỉnh Thanh
Hóa thì tình hình kinh tế xã hội của Thanh Hóa những năm gần đây và đến
9 tháng đầu năm 2000 có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được một số
thành tựu quan trọng:
Tốc độ tăng GDP bình quân trong năm năm trở lại đây đạt 7%,
riêng năm 2000 ước đạt 7,9% (theo kế hoạch 6,6%). GDP đầu người tăng
từ 172 USD năm 1991 lên 286,4 USD năm 2000. Dự kiến tổng GDP năm
2000 tăng gấp 1,93 lần so với năm 1990 trong đó nông nghiệp tăng 1,43
lần, công nghiệp tăng 2,87 lần, dịch vụ tăng 2,21 lần.
Cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ, nhưng còn chậm.
Nông, lâm, ngư năm 1995 chiếm 45,98% đến năm 2000 giảm xuống
còn 40,60%. Công nghiệp xây dựng năm 1995 chiếm 20,09% đến năm 2000
tăng lên 25,80%.Các ngành dịch vụ tăng bình quân 7,15% năm, gấp 2,2
lần.
GDP đầu người năm 2000 đạt 299 USD bằng 75% mục tiêu đề ra.
(400 USD/người)
Lương thực được tính theo đầu người tăng nhanh năm 1990 chỉ có
264 kg, 1995 là 301 kg thì năm 2000 đạt 365 kg, tính bình quân 5 năm

1996-2000 là 333,4 kg, vượt mục tiêu đề ra là 300 kg người/ năm.
Tỉ lệ thu ngân sách so với GDP 5 năm 1996-2000 chiếm 8,5% đạt
85% mục tiêu đã đề ra.


25

Tổng chi ngân sách bình quân hàng năm trong 5 năm qua là 1035 tỷ
đồng bằng 1,4 lần thu.
Tổng đầu tư trên địa bàn trong 5 năm 1996-2000 đạt 14.740 tỷ
đồng, chiếm 34,7% GDP, riêng xuất khẩu năm 2000 là 30,0 triệu USD,
thấp xa so với mục tiêu đề ra, hàng loạt sản phẩm dự kiến xuất khẩu như
đường, xi măng, lương thực... chưa thực hiện được và còn thấp, nhập khẩu
năm 2000 là 30,0 triệu USD, cả 5 năm 1996-2000 đạt 142,65 triệu USD
(không kể các liên doanh).
Đối với lĩnh vực xã hội trong 5 năm qua một số chỉ tiêu đạt được
như dân số, phổ cập giáo dục, phát thanh truyền hình, giảm các bệnh xã
hội, chăm sóc trẻ em...làm cho đời sống xã hội tương đối ổn định, có bước
được cải thiện. Tuy nhiên một số mục tiêu như xóa đói giảm nghèo, đào tạo
nguồn nhân lực, tệ nạn xã hội có chiều gia tăng đang là những vấn đề bức
xúc cần được quan tâm.
Cụ thể là:Về giáo dục thống kê đến năm học 1998-1999, tổng số
trường là 637, tổng số lớp là 6.737, tổng số giáo viên 7.806 và tổng số học
sinh là 168.434.Về công tác phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ
đến nay đạt 100%, phổ cập giáo dục trung học cơ sở đang được tăng
cường, dự kiến đến tháng 12 năm 2000 đạt 40% xã, phường đạt chuẩn
trung học cơ sở.
Về Y tế có bình quân 12 bác sĩ trên một vạn dân.Trong đó có 36,5%
số xã, phường có bác sĩ, trẻ em được tiêm chủng đạt 98%, tỷ lệ trẻ em bị
suy dinh dưỡng còn 39%, tỷ lệ giảm sinh trung bình còn 1,06%,tăng tự

nhiên 16%,tỷ lệ sinh 21,60%; tỷ lệ chết 5,60%. Tổng số cơ sở Y tế 695,
Bệnh viện đa khoa 32, phòng khám khu vực 33, trạm y tế xã, phường 630,
số giường bệnh 6880; tổng số Bác sĩ 5300 (trong đó Bác sĩ trên đại học
1.137, Y sĩ và kỹ thuật viên 2936, Y tá hộ lý 807)..


×