Tải bản đầy đủ (.doc) (146 trang)

Luận văn thạc sỹ - Chính sách phát triển vườn ươm doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.42 KB, 146 trang )

i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
(i) Luận văn này là công trình nghiên cứu của tôi
(ii) Các số liệu trong luận văn là chính xác và trung thực
(iii) Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của mình
Tác giả

Ngô Ngọc Minh

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học và làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý kinh
tế, tác giả xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới các Thầy, Cô giáo đã hướng
dẫn và truyền tải các kiến thức quan trọng. Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc tới .TS Vũ Văn Hùng, thầy đã tận tình chỉ dẫn, giúp đỡ
trong suốt thời gian làm luận văn tốt nghiệp. Tác giả cũng xin được cảm ơn
các Lãnh đạo, đồng nghiệp nơi tác giả công tác đã giúp đỡ tác giả hoàn thành
bài luận văn này.
Với mong muốn nhận được sự ủng hộ tích cực, đóng góp ý kiến và hợp
tác giúp đỡ của tất cả những ai quan tâm đến đề tài này để tác giả có dịp
nghiên cứu, bổ sung thêm.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả


ii

Ngô Ngọc Minh



iii

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN..............................................................................................................i

PHỤ LỤC


iv

DANH MỤC BẢNG, HÌNH
BẢNG:
Bảng 2.1: Khái quát về các vườn ươm tại Việt Nam từ năm 2003 đến nay..........39
Bảng 2.2: Các tiêu chí để lựa chọn đối tượng tham gia ươm tạo..........................47
Hình 2.1. Cơ cấu quản lý của Vườn ươm doanh nghiệp Hà Nội hiện nay............53
Bảng 3.1: Sự khác biệt giữa VƯDN và Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật.......................103

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT



BIFD

: Khung phát triển vườn ươm doanh nghiệp


v




BOC

: Trung tâm cơ hội kinh doanh



BQL KCN : Ban quản lý Khu công nghiệp



CHE

: Ủy ban giáo dục Đại học Thái Lan



CNC

: Công nghệ cao



CNTT

: Công nghệ thông tin



DIP


: Cục xúc tiến Công nghiệp Thái Lan



DNNVV

: Doanh nghiệp nhỏ và vừa



DNPM

: Doanh nghiệp phần mềm



EU

: Liên minh Châu Âu



HBI

: Vườn ươm doanh nghiệp Hà Nội



HTVC


: Trung tâm mạo hiểm công nghệ cao Hàn Quốc



IDA

: Cục phát triển công nghiệp của Ireland



ITEP

: Viện đánh giá và quy hoạch công nghệ Hàn Quốc



KCN

: Khu công nghiệp



KH&CN

: Khoa học và công nghệ



KH&ĐT


: Khoa học và đầu tư.



KH-CN

: Khoa học – Công nghệ



KOBIA

: Hiệp hội Vườn ươm doanh nghiệp Hàn Quốc



MCT

: Bộ Văn hóa và Du lịch Hàn Quốc



MDC

: Tập đoàn phát triển đa phương tiện Malaysia



MIC


: Bộ Thông tin Truyền thông Hàn Quốc



MOCIE

: Bộ Thương mại Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc



NBIA

: Hiệp hội Vườn ươm doanh nghiệp Quốc gia Mỹ



NEC

: Chương trình phát triển các doanh nghiệp mới của Thái Lan



NPD

: Viện Kenan Châu Á



NSTDA


: Cơ quan phát triển Công nghệ & Khoa học Quốc gia Thái Lan



OSMEP

: Văn phòng xúc tiến doanh nghiệp nhỏ Thái Lan



SBI

: Vườn ươm doanh nghiệp phần mềm TP Hồ Chí Minh


vi



UBI

: University Business Incubator (Vườn ươm thuộc trường ĐH)



UBND

: Ủy ban nhân dân




UKSPA

: Hiệp hội Vườn ươm khoa học Anh



VƯDN

: Vườn ươm doanh nghiệp


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ươm tạo doanh nghiệp là một công cụ hiệu quả nhằm tối đa hóa sự hình
thành của các doanh nghiệp khởi nghiệp, góp phần tạo việc làm cho cộng
đồng và thương mại hóa các ý tưởng kinh doanh,...Ở các nước trên thế giới,
khái niệm “vườn ươm doanh nghiệp” không xa lạ mà thực sự đã đóng vai trò
tích cực trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Trên thực tế, khái niệm này đã
được xuất hiện từ năm 1942 tại các trường học và các trường đại học nơi học
sinh, sinh viên và các giáo sư đã có cơ hội để thử nghiệm và sử dụng kiến
thức và nghiên cứu của họ để bắt đầu thành lập công ty. Vườn ươm đầu tiên
được biết đến bên ngoài các trường đại học là Trung tâm công nghiệp Batavia
(BIC) ở Batavia, New York vào năm 1959 và các khái niệm chính thức về
ươm tạo doanh nghiệp đã được phát triển từ đó.
Nếu như đầu những năm 90, thế kỷ XX trên thế giới chỉ có 200 vườn
ươm thì đến nay đã có khoảng 5.000 vườn ươm, trong đó có 1.400 vườn ươm
ở Bắc Mỹ. Theo kết quả nghiên cứu của Hiệp hội vườn ươm doanh nghiệp

Quốc gia Mỹ (NBIA) năm 2005, các vườn ươm ở Bắc Mỹ đã hỗ trợ cho
27.000 doanh nghiệp khởi sự và đã tạo ra hơn 100.000 việc làm, hàng năm tạo
doanh thu hơn 17 tỷ USD. Theo một nghiên cứu khác của UNDP, vườn ươm
doanh nghiệp (VƯDN) cũng khá phát triển tại Châu Âu vào những năm 1980
thông qua các hình thức khác nhau như các trung tâm đổi mới, trung tâm công
nghệ, công viên khoa học, vv…Ví dụ, tại Đức có hơn 200 vườn ươm và đã
ươm tạo được 3700 doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo ra hơn 28.000 việc làm.
Vườn ươm doanh nghiệp được phát triển rất nhanh, ước tính hàng năm
tỷ lệ vườn ươm tăng lên khoảng 20%. Nguyên nhân của sự tăng số lượng
vườn ươm là do thực tế đã chứng minh được sự thành công và tỷ lệ “sống sót”


2

của các doanh nghiệp khởi sự được sự hỗ trợ và giúp đỡ của các vườn ươm.
VƯDN đã trở nên rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế, đặc biệt liên quan
đến việc hình thành các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo việc làm cho cộng đồng
và góp phần tăng trưởng kinh tế cho các quốc gia.
Ươm tạo doanh nghiệp khác với các hình thức hỗ trợ doanh nghiệp khác
ở chỗ nó cung cấp một môi trường “thực hành” đầy đủ và phù hợp để hỗ trợ
các doanh nghiệp. Các nguồn lực phát triển doanh nghiệp được cung cấp sẵn
ngay chính tại các vườn ươm hoặc thông qua các mối quan hệ mạng lưới.
Mục đích của vườn ươm doanh nghiệp không phải là hỗ trợ vô thời hạn, do
đó, các vườn ươm thường định ra khoảng thời gian ươm tạo nhất định. Xuất
phát từ những lợi ích mà các VƯDN mang tới, đến nay các nước trên thế giới
đã và đang tích cực đẩy mạnh phát triển VƯDN trong mỗi nước nói riêng và
phát triển mạng lưới liên kết các vườn ươm mang tầm quốc tế và khu vực nói
chung. Ngay cả các nước trong khu vực châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ,
Thái Lan, Philipin cũng có tới hàng trăm vườn ươm khác nhau.
Tại Việt Nam, khái niệm ươm tạo doanh nghiệp mới chỉ du nhập vào từ

những năm 1996-1997 khi nói về các biện pháp hỗ trợ DNNVV. Đến nay,
khái niệm này không còn xa lạ đối với những người làm công tác xúc tiến
phát triển doanh nghiệp ở Việt Nam. Không thể so sánh với nước Mỹ, nơi có
trên 1.000 VƯDN và ngay cả các nước trong khu vực nơi có hàng trăm vườn
ươm, nhưng con số 10 vườn ươm đang hoạt động tại Việt Nam quả là quá ít,
và hơn thế nữa cũng chưa nhiều người biết đến chúng. Mặc dù được đánh giá
là có triển vọng, nhưng để cho VƯDN của Việt Nam phát triển ngang bằng
với các nước trong khu vực và trên thế giới, ngoài việc có một thị trường tốt,
thì điều quan trọng nhất là phải có sự hỗ trợ từ Chính phủ, sự tham gia mạnh
mẽ của các quỹ đầu tư mạo hiểm và các tập đoàn lớn sẵn sàng tiếp nhận
những doanh nghiệp nhỏ và vừa, những công nghệ mới được ươm tạo.


3

Tại Hà Nội, VƯDN cũng đã và đang phát triển với nhiều mô hình ở
nhiều ngành nghề khác nhau như VƯDN trong các khu công nghệ cao, các
trường đại học và VƯDN trong các doanh nghiệp. Tuy nhiên, VƯDN vẫn còn
ít về số lượng và chất lượng chưa thật sự như mong muốn. Chính vì vậy, cần
có sự nghiên cứu một cách hệ thống về mặt lý thuyết liên quan đến chính sách
phát triển VƯDN cũng như đánh giá thực tiễn hoạt động của các mô hình
VƯDN từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách phát triển
VƯDN trong thời gian tới là rất cần thiết.
Chính vì vậy, đề tài: “Chính sách phát triển vườn ươm doanh nghiệp trên
địa bàn thành phố Hà Nội” được học viên lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ,
chuyên ngành quản lý kinh tế, mã số 60340410.
2. Tổng quan nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề VƯDN là vấn đề khá mới ở Việt Nam, thời gian gần đây đã có
nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này cũng như nhiều người quan tâm,
một số công trình khoa học nghiên cứu có liên quan như:

- Cuốn sách có tựa đề “Vườn ươm doanh nghiệp ở Việt Nam – Xây dựng
và phát triển” của tác giả Hồ Sỹ Hùng đã khái quát được một số vấn đề lý
luận về vườn ươm doanh nghiệp, sự phát triển của loại hình này ở một số
quốc gia và kinh nghiệm đối với Việt Nam; Bên cạnh đó, tác giả cũng đã
phân tích thực trạng phát triển vườn ươm doanh nghiệp ở Việt Nam và đề
xuất định hướng giải pháp xây dựng và phát triển hình thức này. Dù vậy, cuốn
sách đề cập nhiều đến mối liên hệ giữa vườn ươm doanh nghiệp với sự phát
triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên bình diện toàn bộ nền kinh tế. Vấn đề
phát triển vườn ươm cần được nghiên trên địa bàn có trình độ phát triển kinh
tế cao bởi đó là nơi tập trung hầu hết các cơ sở ươm tạo doanh nghiệp.
- Bộ Khoa học Công nghệ (2010), “Một số kinh nghiệm quốc tế về ươm
tạo doanh nghiệp công nghệ cao ứng dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ và


4

một số gợi ý cho khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh”, đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Bộ.
- “Nuôi dưỡng và phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại vườn ươm
công nghệ”- Tổng luận khoa học công nghệ kinh tế số 11/2010;
- Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2012), “Cơ chế và chính
sách thành lập và phát triển hệ thống vườn ươm doanh nghiệp Việt Nam”, đề
tài nghiên cứu khoa học cấp bộ.
- Viện nghiên cứu chiến lược chính sách Công nghiệp, Bộ Công thương
(2010), “Nghiên cứu xây dựng vườn ươm doanh nghiệp công nghệ trên địa
bàn Thành phố Hà Nội”.
- Bộ Khoa học và Công nghệ (2009), “Đề án chính sách khuyến khích
ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ”, xây dựng
đề án theo nhiệm vụ được giao của Chính phủ.
Các nghiên cứu kể trên cùng với những kinh nghiệm thu được từ hoạt

động thực tế của các vườn ươm trên toàn quốc đã mang lại nhiều bài học quý
báu về phát triển VƯDN tại Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế hoạt động của các
vườn ươm vẫn còn có những bất cập, như chưa có cơ chế quản lý cụ thể, chưa
xác định được rõ mô hình hoạt động, tính bền vững chưa được đảm bảo do chưa
có cơ chế về mặt tài chính cho vườn ươm. Vì vậy, để phát huy hết hiệu quả của
các vườn ươm doanh nghiệp hiện tại và có cơ sở phát triển, mở rộng mạng lưới
ươm tạo doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực ngành nghề khác nhau trên địa bàn
thành phố Hà Nội một cách có hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội Thủ đô. Trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu của các công trình
nghiên cứu trên, học viên tiếp tục nghiên cứu “chính sách phát triển vườn ươm
doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội” nhằm đưa ra những khuyến nghị
chính sách phù hợp tiếp tục thúc đẩy vườn ươm doanh nghiệp trên địa bàn phát
triển hiệu quả và bền vững, góp phần phát triển kinh tế thủ đô.


5

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn phân tích thực trạng chính sách phát triển VƯDN trên địa bàn
thành phố Hà Nội, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách
phát triển VƯDN trên địa bàn trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng khung lý thuyết về chính sách phát triển vườn ươm doanh
nghiệp; phân tích kinh nghiệm về chính sách phát triển vườn ươm doanh
nghiệp ở một số quốc gia trên thế giới và bài học cho thành phố Hà Nội.
- Phân tích thực trạng chính sách phát triển vườn ươm doanh nghiệp trên
địa bàn thành phố Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách phát triển vườn
ươm doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu chính sách phát triển vườn ươm doanh
nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng chính sách phát triển VƯDN trên
địa bàn thành phố Hà Nội, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cơ bản
nhằm hoàn thiện chính sách phát triển VƯDN trên địa bàn Thành phố trong
thời gian tới. Chủ thể của chính sách phát triển vườn ươm được nghiên cứu
trong luận văn bao gồm các chính sách của TW, thành phố Hà Nội và chính
các chủ thể liên quan đến phát triển VƯDN.
Phạm vi về không gian
Nghiên cứu chính sách phát triển vườn ươm doanh nghiệp trên địa bàn
thành phố Hà Nội


6

Phạm vi về thời gian
Nghiên cứu thực trạng chính sách phát triển vườn ươm doanh nghiệp
giai đoạn 2011 – 2014 và giải pháp cho giai đoạn 2015 – 2020
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng quan tư liệu: Phương pháp này nhằm tổng hợp, rà
soát lại các tài liệu đã thu thập được và có sự định hướng cho việc sử dụng
các tài liệu đó như thế nào.
- Phương pháp so sánh: Là phương pháp được sử dụng khá phổ biến
trong phân tích nói chung. Phương pháp so sánh là phương pháp xem xét các
chỉ tiêu phân tích bằng cách dựa trên việc so sánh số liệu với một chỉ tiêu cơ
sở (chỉ tiêu gốc). Phương pháp so sánh được sử dụng trong nghiên cứu để có
được những chỉ tiêu cụ thể về khối lượng, giá trị cũng như tốc độ tăng trưởng

của vấn đề nghiên cứu trong kỳ phân tích. Đồng thời so sánh các kết quả điều
tra, phỏng vấn, các chỉ tiêu đánh giá nhằm tổng hợp kết quả nghiên cứu một
cách tổng quát.
- Phương pháp thống kê: Là hệ thống các phương pháp bao gồm thu
thập, tổng hợp, trình bày số liệu, tính toán các đặc trưng của đối tượng nghiên
cứu nhằm phục vụ cho quá trình phân tích, dự đoán, ra quyết định. Phương
pháp thống kê được sử dụng trong việc thống kê dữ liệu thu thập được nhằm
tổng hợp khái quát hóa các số liệu, phục vụ cho việc phân tích, đánh giá, kết
luận được dễ dàng hơn.
- Phương pháp dự báo trực quan: Để tổng hợp ý kiến của các chuyên gia,
các nhà khoa học, nhà lãnh đạo quản lý nhà nước; dựa vào sự nhạy cảm và
kinh nghiệm của họ để dự báo những thay đổi trong chính sách phát triển
vườm ươm doanh nghiệp: chính sách về tài chính, chính sách về nguồn nhân
lực, chính sách thị trường hóa các ý tưởng về công nghệ, và vấn đề bảo hộ sở
hữu trí tuệ,…


7

Ngoài các phương pháp trên, nghiên cứu còn sử dụng các phương pháp
biểu đồ, đồ thị, lập bảng so sánh số liệu,…
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Chính sách phát triển vườn ươm doanh nghiệp – Cơ sở lý
luận và kinh nghiệm thực tiễn
Chương 2: Thực trạng chính sách phát triển vườn ươm doanh nghiệp
trên địa bàn thành phố Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển vườn ươm
doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà Nội



8

CHƯƠNG 1
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VƯỜN ƯƠM DOANH NGHIỆP –
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
1.1. Vườn ươm doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và phân loại vườn ươm doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm vườn ươm doanh nghiệp
Cùng với sự phát triển về số lượng và loại hình vườn ươm doanh nghiệp
(VƯDN), khái niệm vườn ươm doanh nghiệp cũng rất khác nhau giữa các tổ
chức quốc tế, tùy thuộc vào cách nhìn nhận về vai trò, chức năng của VƯDN
trong phát triển doanh nghiệp, trong từng thời kỳ phát triển của kinh tế thế
giới và khoa học - công nghệ. Chẳng hạn, theo định nghĩa của Hiệp hội Vườn
ươm doanh nghiệp Quốc gia Mỹ (NBIA), “Vườn ươm doanh nghiệp là nơi
nuôi dưỡng các doanh nghiệp, giúp chúng sống sót và lớn lên trong giai đoạn khởi
sự doanh nghiệp bằng cách cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh và các nguồn
lực cần thiết cho các doanh nghiệp non trẻ này”.

Vườn ưom
̛ doanh nghiệp là mô hình được thiết kế nhằm thúc đẩy quá
trình phát triển của doanh nghiệp thông qua nhiều nguồn và dịch vụ hỗ trợ
doanh nghiệp, được ban điều hành vươǹ ưom
̛ triển khai và ứng dụng cho các
loại hình vươǹ ưom
̛ khác nhau. Tùy theo tính chất, mô hình tổ chức và đối
tươṇ g khách hàng, mỗi vươǹ ươm cung ứng những dịch vụ khác nhau. Những
chưon̛ g trình vườn ưom
̛ doanh nghiệp thành công khi giúp một doanh nghiệp
mới khởi sự duy trì hoạt động kinh doanh trong thời gian dài: đến nay, 87%

doanh nghiệp ươm tạo vẫn đang trong quá trình hoạt động.
Trong kinh tế học hiện đại, vươǹ ươm DN là một đơn vị kinh tế hoạt
động với nhiệm vụ hỗ trợ một cách có lựa chọn đối với một số DN ở giai
đoạn đầu hình thành để có thể phát triển nhanh, bền vững và có lợi nhuận.
Đơn vị kinh tế này cung cấp hàng loạt những dịch vụ, nhằm giúp các DN mới


9

thành lập giảm thiểu rủi ro trong quá trình hoạt động và tăng cươǹ g sức mạnh
trên thưon̛ g trươǹ g.
Theo định nghĩa của Tổ chức Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc
(UNIDO), “Vườn ươm là một tổ chức tiến hành một cách hệ thống quá trình
tạo dựng các doanh nghiệp mới, cung cấp cho các doanh nghiệp này một hệ
thống toàn diện và thích hợp các dịch vụ để hoạt động thành công”. Ủy ban
Châu Âu thì cho rằng, “Vườn ươm doanh nghiệp là một khu vực có kết cấu hạ
tầng, trong đó các doanh nghiệp mới khởi sự hoạt động tại một diện tích hạn
chế nhưng có thể điều chỉnh và mở rộng được theo kiểu các mô-đun sử dụng
chung các dịch vụ liên quan đến hạ tầng cơ sở, quản lý, ban thư ký và các
nhân viên giúp việc”.
Theo tổ chức Doanh nghiệp và Thương mại của New Zealand, “Vườn
ươm doanh nghiệp là một công cụ hỗ trợ được thiết kế để hỗ trợ doanh nghiệp
trong giai đoạn đầu thành lập thông qua cung cấp tòa nhà dùng chung, tư vấn
kinh doanh, các dịch vụ kinh doanh, mạng lưới và một cán bộ quản lý làm
việc toàn bộ thời gian, khoảng thời gian ươm tạo cho mỗi doanh nghiệp
thường từ 1 đến 3 năm”.
Theo cách hiểu của các nhà DN, vươǹ ưom
̛ DN là nơi tập hợp các DN
mới hình thành, nhưng có tiềm năng phát triển tốt để nuôi dươñ g trước khi
đưa ra hoạt động ngoài cộng đồng, giúp những chủ DN mới tiếp cận với các

khoản vay, trợ giúp DN nhỏ về mặt quản lý và kỹ thuật, tạo điều kiện thuận
lợi cho các DN nhỏ thâm nhập vào thị trươǹ g nội địa và quốc tế. Khi hội đủ
các điều kiện, các DN nhỏ có thể ra khỏi vươǹ ưom
̛ để tự khẳng định khả
năng hoạt động độc lập của mình trong cộng đồng các DN.
Nhìn chung, các khái niệm trên không thực sự bao hàm đầy đủ bản chất,
vai trò và địa vị pháp lý của vườn ươm doanh nghiệp, có thể chúng được phục
vụ cho mục tiêu, tôn chỉ hoạt động của các tổ chức đưa ra các khái niệm trên.


10

Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, không dễ có được một khái niệm đầy đủ,
chuẩn xác về VƯDN. Từ nhiều cách hiểu khác nhau nêu trên, phản ánh từng
khía cạnh của VƯDN, có thể thống nhất chung định nghĩa dưới đây có tính
toàn diện, phản ánh bản chất chung nhất của VƯDN làm cơ sở nghiên cứu và
vận dụng vào trường hợp của Việt Nam: Vườn ươm doanh nghiệp là một mô
hình hỗ trợ doanh nghiệp toàn diện được thiết kế nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp khởi sự và mới được thành lập phát triển thông qua
cung cấp các dịch vụ dùng chung, đào tạo, hỗ trợ tài chính, trang thiết bị và
nhà xưởng để các doanh nghiệp phát triển.
Như vậy, có thể thấy, mục đích của một VƯDN là nâng cao năng lực
cho các doanh nghiệp trong cộng đồng nhằm thúc đẩy sự phát triển của doanh
nghiệp và cải thiện khả năng cạnh tranh, góp phần tạo việc làm. VƯDN là
một công cụ phục vụ việc phát triển doanh nghiệp và phát triển kinh tế địa
phương thông qua việc thành lập doanh nghiệp mới, tạo việc làm và nâng cao
hiệu quả hoạt động. VƯDN khuyến khích các sáng kiến kinh doanh nhỏ và
tận dụng khả năng phát triển kinh tế địa phương, với các mục đích hỗ trợ phát
triển kinh tế các vùng và các doanh nghiệp khởi sự tìm giải pháp cho riêng
mình. Nguyên tắc hoạt động là tạo môi trường thuận lợi cho khởi sự nghiệp

kinh doanh trong những năm đầu quan trọng nhất. Sau khoảng thời gian nhất
định hay kết thúc quá trình ươm tạo, các doanh nghiệp ươm tạo sẽ rời khỏi
vườn ươm và nhường chỗ cho các doanh nghiệp mới. Về cơ bản, vườn ươm
tạo ra 3 loại giá trị gia tăng: Hỗ trợ các doanh nghiệp trong giai đoạn mới bắt
đầu thành lập, trong quá trình trưởng thành và lớn mạnh trên thị trường; đóng
góp cho sự phát triển kinh tế địa phương và vùng; bản thân vườn ươm cũng là
loại doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh.
Các DN hoạt động trong vườn ưom
̛ này có trách nhiệm thanh toán và trả


11

tiền cho việc sử dụng các khoảng không gian và thiết bị, cũng như các dịch vụ
hỗ trợ nhất định trong vườn ưom
̛ DN. Thời hạn trung bình mà các DN được
nuôi dươñ g và trợ giúp trong các vườn ưom
̛ là 3 năm.
Nên lưu ý là trong số khái niệm VƯDN còn có khái niệm vườn ươm
doanh nghiệp công nghệ (technology business incubator; viết tắt là TBI); một
loại hình vườn ươm đặc biệt chuyên ươm tạo các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao. TBI được coi là công cụ
hữu hiệu để hiện thực và thương mại hóa thành công các ý tưởng công nghệ,
thúc đẩy chuyển giao công nghệ và hợp tác giữa lĩnh vực nghiên cứu khoa
học với lĩnh vực công nghiệp (sản phẩm).
Các vườn ươm doanh nghiệp công nghệ khác biệt với vườn ươm doanh
nghiệp thông thường ở một số điểm như: (i) các doanh nghiệp được ươm tạo
được cung cấp các máy móc, thiết bị chuyên dùng, các phòng thí nghiệm hiện
đại đồng bộ; nhận các dịch vụ chuyên môn kỹ thuật, công nghệ cao; và được
giám sát, quản lý bởi các chuyên gia có kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp

công nghệ (đây là những điểm khác biệt quan trọng mà ít tổ chức hỗ trợ
doanh nghiệp khác có thể cung cấp được, và là nhân tố quan trọng tạo ra giá
trị gia tăng cao); và (ii) có mạng lưới liên kết chặt chẽ với các đối tác chiến
lược trong hoạt động, đặc biệt có sự cam kết bảo trợ, hợp tác chặt chẽ của các
trường đại học, viện nghiên cứu khoa học công nghệ, kể cả các nhà đầu tư.
Chính vì vậy, để tăng hiệu quả (sự sẵn có của máy móc, thiết bị, ý tưởng công
nghệ, mạng lưới liên kết...), các VƯDN thường được thành lập trong trường
đại học kỹ thuật, trung tâm công nghệ, viện nghiên cứu công nghệ, khu công
nghệ cao, hoặc các nơi gần nguồn lực hỗ trợ về kỹ thuật, công nghệ.
Cần phân biệt rõ khái niệm VƯDN với các tổ chức, hình thức hỗ trợ
kinh doanh khác như các tổ chức/trung tâm hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp,
các công viên công nghệ (khoa học), khu công nghệ cao, cụm công nghiệp


12

ngành (industry clusters,...). Các điểm khác biệt chủ yếu ở các yếu tố như
vườn ươm doanh nghiệp cung cấp một hệ thống hỗ trợ kinh doanh cho các
doanh nghiệp khởi nghiệp một cách toàn diện, có tính liên kết chặt chẽ trong
nội tại vườn ươm doanh nghiệp và với bên ngoài, với điều đáng lưu ý là sự hỗ
trợ này là có thời hạn, theo một quy chuẩn rõ ràng và nghiêm ngặt.
1.1.1.2. Phân loại vườn ươm doanh nghiệp
Tùy theo tiêu chí và mục đích phân loại, hiện có nhiều cách phân loại
VƯDN trên thế giới. Dưới đây là một số cách phân loại VƯDN phổ biến:
* Theo tổ chức thành lập và vận hành vườn ươm
- Các VƯDN phát triển kinh tế địa phương: VƯDN thuộc loại này
thường hoạt động phi lợi nhuận do Chính phủ hoặc chính quyền địa phương
xây dựng và vận hành nhằm tạo việc làm, thúc đẩy phát triển kinh tế địa
phương, hỗ trợ cho các nhóm mục tiêu hoặc ngành nghề cụ thể, hướng vào
phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc các cụm liên kết. Các VƯDN

này hướng tới việc khai thác các nguồn lực đặc thù của địa phương để phát
triển các doanh nghiệp mới trong một ngành cụ thể, tập trung vào sự tăng
trưởng kinh tế của địa phương.
- Các VƯDN khoa học và liên quan đến các trường đại học, viện nghiên
cứu: Các VƯDN này thường hoạt động phi lợi nhuận, được thiết lập với mục
đích thương mại hóa các tài sản dưới dạng khoa học công nghệ và tri thức
được tạo ra trong quá trình nghiên cứu của trường đại học, viện nghiên cứu.
Các vườn ươm này cung cấp cho các công ty được ươm tạo các dịch vụ sử
dụng phòng thí nghiệm, máy tính, thư viện và các chuyên gia hỗ trợ từ phía
sinh viên. Một vườn ươm loại này thường do trường đại học tài trợ, nhưng
chủ yếu tồn tại dưới dạng góp vốn của một số nhà đầu tư. Đây là hình thức
liên kết hình thành và hoạt động phổ biến hiện nay trên thế giới.
- Các VƯDN thuộc các công ty, tập đoàn lớn: Được thành lập với mục


13

đích lợi nhuận nhằm khuyến khích phát triển tài năng của đội ngũ nhân viên,
giữ nhân viên gắn bó với công ty, hỗ trợ tiếp cận các công nghệ hoặc thị
trường mới. Mô hình này tập trung phát triển các công nghệ, các lĩnh vực
chuyên biệt và thế mạnh của tập đoàn mình và chủ yếu được tài trợ bởi chính
các công ty, tập đoàn mẹ, quỹ đầu tư mạo hiểm.
* Theo mục đích thành lập vườn ươm
Theo mục đích hoạt động, vườn ươm được phân thành VƯDN hoạt động
phi lợi nhuận và lợi nhuận. Các VƯDN hoạt động phi lợi nhuận thường là các
VƯDN do Chính phủ hoặc chính quyền địa phương, viện nghiên cứu hoặc
trường đại học thành lập tập trung vào phạm vi rộng, không chuyên vào một
lĩnh vực cụ thể nào. Các VƯDN do các tư nhân, công ty, tập đoàn lớn thành
lập và vận hành thường vì mục tiêu lợi nhuận gắn liền với lĩnh vực hoạt động
cụ thể của các đối tác tham gia thành lập.

* Theo địa điểm đặt vườn ươm
Các VƯDN thường được thành lập và hoạt động gắn với một vị trí địa lý
cụ thể phục vụ cho các mục tiêu của các chủ thể thành lập, như thường gắn
với khu quy hoạch của thành phố, vùng, khu công nghiệp, công viên khoa
học,…Do vậy, các vườn ươm cũng thường được phân loại theo địa điểm đặt
vườn ươm như: vườn ươm đặt tại thành thị, vườn ươm đặt tại nông thôn,
vườn ươm đặt tại khu công nghệ cao,…
1.1.2. Vai trò và sự cần thiết của vườn ươm doanh nghiệp
1.1.2.1. Vai trò của vườn ươm doanh nghiệp
Việc hình thành, phát triển các VƯDN đem lại những lợi ích to lớn,
trước hết là đối với các doanh nghiệp được ươm tạo, qua đó, góp phần quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương, phát triển công nghệ
cũng như lợi ích cho tất cả các thành viên, cộng đồng xã hội xã có liên quan.
Cụ thể là:


14

Thứ nhất, VƯDN tạo điều kiện, là chất xúc tác cho sự ra đời, phát triển
tinh doanh nghiệp, nâng cao tinh thần kinh doanh
Như đã đề cập, trong giai đoạn ươm tạo, các doanh nghiệp nhận được từ
VƯDN các nhóm hỗ trợ quan trọng như: (1) giảm các chi phí hoạt động,
trong đó có chi phí về vốn, (2) hỗ trợ và đa dạng hoá các nguồn lực hỗ trợ về
tài chính, thông tin, công nghệ và quản lý, (3) làm cầu nối (lập kế hoạch kinh
doanh, kế hoạch tài chính, kế hoạch marketing) để giúp doanh nghiệp mở
rộng thị trường và tham gia vào các thị trường mới, và (4) giảm rủi ro, sai sót
bằng việc chia sẻ các kinh nghiệm và hợp tác với các doanh nghiệp trong
vườn ươm thông qua việc chia sẻ các nguồn lực phát triển.
Tất cả những thuận lợi này giúp giảm bớt rủi ro đầu tư và kinh doanh,
tăng khả năng tồn tại và thành công của các doanh nghiệp khởi sự sau khi kết

thúc ươm tạo. Điều này có thể thấy thông qua các số liệu thống kê. Chẳng
hạn, nghiên cứu của Ma và các cộng sự (2008), cho thấy, trong giai đoạn
1987-1998, tỷ lệ sống sót của các doanh nghiệp Trung Quốc sau khởi nghiệp
trong điều kiện bình thường là chưa đến 30%, song đã tăng lên tới 80% sau
khi được ươm tạo. Tại Mỹ, tỷ lệ sống sót sau ươm tạo lên tới 87%.
Một vai trò quan trọng của VƯDN là làm tăng mối liên kết chiến lược
giữa bản thân các DNNVV, giữa chúng với các doanh nghiệp lớn và các đối tác
liên quan khác - điều được xem là cốt yếu đối với các DNNVV trong giai đoạn
hiện nay. Các DNNVV hợp tác, quy tụ thành các nhóm sản phẩm để giúp nhau
vượt qua những điểm yếu cố hữu (hoạt động đơn độc, yếu thế) và nâng cao
năng lực cạnh tranh thông qua việc hình thành các liên kết giữa các hãng, phát
triển theo hướng mở rộng quy mô sản xuất, cũng như đổi mới công nghệ.
Thứ hai,VƯDN là công cụ thúc đẩy sáng tạo, đổi mới, chuyển giao công
nghệ và thương mại hoá thành công các ý tưởng kinh doanh, công nghệ nhờ gắn
kết chặt chẽ hơn mối quan hệ trường đại học - viện nghiên cứu – doanh nghiệp
VƯDN góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp sáng tạo, đổi mới công nghệ


15

và thương mại hóa ý tưởng kinh doanh, công nghệ thông qua chiến lược phát
triển mạng lưới của vườn ươm, đặc biệt trong mạng lưới Trường đại học –
viện nghiên cứu và doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp vừa, nhỏ, VƯDN
có vai trò rất quan trọng trong việc đổi mới, chuyển giao công nghệ và tận
dụng những ý tưởng
Điều này đạt được nhờ vai trò chủ chốt của các VƯDN trong việc xúc
tác, cầu nối giữa 3 chủ thể trên cùng với các nhà đầu tư và đối tượng có liên
quan khác, và tất nhiên, trong việc nâng cao năng lực của doanh nghiệp được
ươm tạo. Có thể nói, đây là vai trò có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, bởi nếu
thiếu các vườn ươm doanh nghiệp công nghệ, “sứ mệnh” trên khó có thể đạt

được nếu dùng các công cụ khác.
Thứ ba, VƯDN đóng góp vào sự phát triển kinh tế địa phương
VƯDN ra đời tạo điều kiện hình thành nhiều việc làm mới cho các tầng
lớp dân cư trên địa bàn, góp phần giải quyết thất nghiệp, tăng thu nhập; giảm bớt
các ảnh hưởng tiêu cực của việc phá sản hoặc đóng cửa doanh nghiệp ngay từ
những ngày đầu thành lập; phát triển các ngành nghề và sản phẩm mới do có
được sự gắn bó trong việc hỗ trợ kinh doanh; thu hút vốn từ các nhà đầu tư cho
hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng sản phẩm cho nền kinh tế. Mặt khác, việc
thu hút các nhà đầu tư nơi khác đến sẽ góp phần phát triển các kỹ năng và thái
độ làm việc mới, xây dựng một văn hoá làm việc hợp tác cùng tiến bộ.
Thứ tư, VƯDN có tác động tích cực tới mối quan hệ Doanh nghiệp Chính phủ, là nơi kiểm nghiệm sự phù hợp, hiệu quả của các chính sách của
chính phủ, tăng cường mối quan hệ và hiểu biết lẫn nhau giữa hai đối tác này.
Với sự ra đời và phát triển của VƯDN, không chỉ có các doanh nghiệp
và kinh tế địa phương được hưởng lợi, mà chính phủ và các nhà hoạch định
chính sách cũng có thể thu được những lợi ích nhất định như:
- Các hoạt động của VƯDN tạo điều kiện cho các nhà hoạch định chính


16

sách nhanh chóng có được các thông tin phản hồi về tác động của các chính
sách mà họ đưa ra đối với doanh nghiệp. Đặc biệt, các nhà hoạch định chính
sách sẽ hiểu được những chính sách và quy định pháp luật nào đang gây khó
khăn cho doanh nghiệp để kịp thời điều chỉnh, vừa đảm bảo sự phát triển
thành công của cộng đồng vừa đáp ứng các nhu cầu của xã hội.
- Các VƯDN tạo ra môi trường qua đó có thể đánh giá và kiểm tra các
qui trình hỗ trợ doanh nghiệp của chính phủ, xác định được tính hiệu quả của
sự hỗ trợ của chính phủ đối với doanh nghiệp trong từng thời gian cụ thể để
có thể điều chỉnh kịp thời.
- Các VƯDN sẽ tạo ra một cơ hội để hình thành một số doanh nghiệp có

khả năng phối hợp chặt chẽ với chính phủ trong việc sử dụng và phát triển
công nghệ mới hay sản phẩm mới trong một thị trường mới. Các kết quả sẽ
nhanh chóng được kiểm nghiệm trong một môi trường nhất định.
Bên cạnh đó, các VƯDN có thể phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp
nhà nước trong việc lập ra các qui trình quản lý mới không bị ràng buộc bởi
các chính sách quan liêu, thích ứng nhanh với các thay đổi và nhu cầu của
ngành trong phạm vi môi trường hoạt động mà nhà nước qui định, tạo ra sự
phát triển bền vững cho cộng đồng.
1.1.2.2. Sự cần thiết của VƯDN đối với việc hỗ trợ các NDNVV
Chúng ta biết rằng doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp phải rất nhiều khó khăn.
Đó không chỉ là những khó khăn từ bản thân DNNVV mà còn là những khó
khăn từ phía cơ chế chính sách, sự yếu kém của các tổ chức hỗ trợ DNNVV.
Chúng ta có thể tóm lược những khó khăn đó thành những nhóm vấn đề sau
đây, để qua đó thấy được sự cần thiết của vườn ươm doanh nghiệp trong việc
trợ giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa tháo gỡ khó khăn, hoạt động tốt hơn
trong giai đoạn đầu hình thành và phát triển.
- Sự phân biệt đối xử của nhà nước và các nhân viên chính phủ đối với


17

các chủ doanh nghiệp nhà nước và chủ doanh nghiệp tư nhân (hầu hết doanh
nghiệp tư nhân là DNNVV) mặc dù không được thể hiện rõ trong các văn bản
pháp luật chính thống của nhà nước nhưng nó thể hiện rõ trong các tư tưởng
định kiến và quan niệm của họ. Hơn nữa, một số cá nhân đã có những nhận
thức không đầy đủ về vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa tư nhân đối với
phát triển kinh tế. Do đó, nhiều doanh nghiệp tư nhân rất khó có thể tự giải
quyết các vấn đề về thủ tục hành chính khi tiến hành các thủ tục thành lập và
vận hành doanh nghiệp của mình.
- Vườn ươm chính là địa chỉ giúp cho các doanh nghiệp hiểu biết đầy đủ

hơn về luật lệ và chính sách của nhà nước, từ đó hoàn thành các thủ tục thành
lập cũng như xây dựng cơ chế vận hành doanh nghiệp trong môi trường pháp
lý đó. Không những thế, các VƯDN còn là nơi kiểm nghiệm sự phù hợp của
các chính sách mà chính phủ ban hành, giúp doanh nghiệp đề xuất các kiến
nghị đối với những nhà làm chính sách để kịp thời điều chỉnh. Nói cách khác,
VƯDN sẽ đóng vai trò là cầu nối giữa doanh nghiệp và chính phủ, tăng cường
mối quan hệ và hiểu biết lẫn nhau.
- Như trên đã nói, mặt bằng sản xuất kinh doanh là một vấn đề rất bức
xúc. Trong khi phần lớn các doanh nghiệp nhà nước được nhà nước giao đất,
các doanh nghiệp tư nhân thì không được hưởng ưu đãi đó. Những doanh
nghiệp này đều phải tự mình lo các thủ tục thuê hoặc mua mặt bằng sản xuất.
Điều này nhiều khi đã làm tăng chi phí thành lập doanh nghiệp lên rất lớn và
gây ra sự nản chí cho các chủ doanh nghiệp. Trong trường hợp này, VƯDN
có thể giúp cho các doanh nghiệp khởi sự tránh được phiền hà, giảm chi phí
về thủ tục và tư vấn cho các doanh nghiệp hoàn thành các thủ tục này trước
khi ra khỏi vườn ươm, hoạt động độc lập trên thương trường.
- Việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng cũng là vấn đề đối với DNNVV, do


18

các thủ tục vay vốn phức tạp và sự không tin tưởng của các nhân viên ngân
hàng đối với các DNNVV. Vì vậy, VƯDN với vai trò giúp các DNNVV tiếp
cận dễ dàng với với các khoản vay tín dụng thông qua việc đào tạo giúp các
doanh nghiệp chuẩn bị các dự án khả thi, cung cấp môi trường ổn định để mở
rộng kinh doanh, giảm nhu cầu về vốn tín dụng ngay trong những ngày đầu
tiên thành lập,…
- Về thuế, bản thân mỗi doanh nghiệp phải nộp rất nhiều loại thuế khác
nhau nhưng không phải cán bộ quản lý doanh nghiệp nào cũng hiểu và tự
nguyện thực hiện các loại thuế đó. Sở dĩ có hiện tượng này là do bản thân các

chủ doanh nghiệp không hiểu đầy đủ ý nghĩa của các loại thuế cũng như cách
tính thuế của các cơ quan thuế. Trong khi đó, các cán bộ thuế lại không nhất
quán trong hành vi thu thuế của mình làm cho các chủ doanh nghiệp thấy rằng
vẫn có cách khác khiến cho mức thuế phải nộp của họ ít đi. Còn các doanh
nghiệp thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước thấy rằng mình bị
thiệt thòi so với các doanh nghiệp kia. Trong lĩnh vực này, VƯDN có trách
nhiệm giúp cho chủ doanh nghiệp hiểu rằng tình trạng làm ăn và trốn thuế
như hiện nay là không bền vững và chỉ có thể tồn tại nhất thời. Để có được
điều này, VƯDN cần đào tạo các chủ doanh nghiệp hiểu nghĩa vụ đóng những
loại thuế nào và biết cách tính thuế, có thể tính chính xác mức thuế doanh
nghiệp phải nộp, như vậy sẽ loại trừ được hành vi không lành mạnh trong thu
thuế của các cán bộ thuế. Có như vậy, họ sẽ không còn phụ thuộc vào các cán
bộ thuế, tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nhà nước. Đồng thời,
thông qua VƯDN, nhà nước cũng dễ dàng nhận được các ý kiến phản hồi của
doanh nghiệp về các loại thuế để điều chỉnh cho phù hợp hơn, bảo đảm vừa
có tác dụng kích thích sự phát triển của doanh nghiệp vừa bảo đảm nguồn thu
cho ngân sách.
Mặt khác, một số tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp đã ra đời nhưng hiệu quả


19

hỗ trợ còn rất khiêm tốn. Trên thực tế, các DNNVV vẫn thiếu một hệ thống
mạng lưới các mối quan hệ, hiểu biết và hỗ trợ nhau trong kinh doanh, thiếu
thông tin về mọi lĩnh vực. Sự xuất hiện của VƯDN góp phần giải quyết
những hạn chế này. Vườn ươm sẽ là “cái nôi” cho phép các doanh nghiệp học
hỏi, trao đổi kinh nghiệm, là nơi cung cấp thông tin, tư vấn mọi vấn đề liên
quan giúp cho các doanh nghiệp khởi sự vững tin, tránh sự bỡ ngỡ trong bước
đầu khởi nghiệp.
Sâu xa hơn, VƯDN còn tạo ra cơ hội cho các tổ chức tài trợ tìm kiếm

những cơ hội đầu tư cũng như giúp cho các nhà tài trợ tin tưởng hơn vào sự
phát triển bền vững của các dự án dành cho cho các DNNVV.
Những khó khăn và bất lợi cụ thể của DNNVV sau đây cho thấy VƯDN
là thật sự cần thiết đối với các doanh nghiệp khởi sự:
- Quy mô nhỏ, năng lực hạn chế: Do quy mô nhỏ, năng lực hạn chế nên
các DNNVV dễ bị tổn thương trong cơ chế thị trường. Thiếu vốn để sản xuất
và mở rộng sản xuất kinh doanh là hiện tượng phổ biến và nghiêm trọng.
- Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu: Phần lớn các doanh nghiệp được
trang bị máy móc thiết bị có nguồn gốc từ Liên xô cũ, Trung Quốc, các nước
Đông Âu, các nước ASEAN, Bắc Âu và các nước khác, thuộc các thế hệ khác
nhau. Máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất đang hoạt động ở nước ta lạc
hậu so với thế giới từ 10-20 năm.
- Khả năng quản lý về kỹ thuật và kinh doanh kém: Nhìn chung các
DNNVV thiếu và yếu về lực lượng lao động có kỹ thuật hoặc tay nghề cao, có
ý thức tuân thủ kỷ luật lao động kém. Do trong một thời gian khá dài, Nhà
nước thực hiện chính sách độc quyền ngoại thương, nên khi thực hiện chính
sách mở cửa, các doanh nhân Việt Nam gặp nhiều lúng túng khi thiết lập các
quan hệ kinh doanh với các bạn hàng nước ngoài.
- Sức cạnh tranh và khả năng tiếp cận thị trường thế giới kém: Phần lớn


×