Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Người bị hại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.82 KB, 23 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

THNH QUANG THNG

Công trình đ-ợc hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Chí

Phản biện 1:

NGI B HI TRONG LUT T TNG
HèNH S VIT NAM
Phản biện 2:
Chuyờn ngnh : Lut hỡnh s
Mó s

: 60 38 40
Luận văn đ-ợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 20...

TểM TT LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2009

Có thể tìm hiểu luận văn
tại Th- viện Đại học Quốc gia Hà Nội



1.1.
1.2.
1.2.1
1.2.2
1.2.3
1.2.4
1.3
1.4
1.4.1
1.4.2
1.4.3

2.1.
2.1.1
2.1.2
2.2.
2.2.1
2.2.2

3.1.
3.2.

mục lục
Ch-ơng 1:
Lời cam đoan
Những vấn đề lý luận về ng-ời bị hại
Danh mục các chữ viết tắt
1
mở đầu
trong

Tố tụng hình sự Việt nam
6
Ch-ơng 1: Những vấn đề lý luận về ng-ời bị hại trong tố tụng
1.1. Khái niệm về ng-ời bị hại.
hình sự Việt Nam
Khái niệm về ng-ời bị hại
6 Việt nam coi ng-ời bị hại là con ng-ời cụ thể bị hành
Luật TTHS
Phân biệt khái niệm ng-ời bị hại với một số khái niệm có liên quan.
11
vi trực tiếp xâm hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản. Pháp luật một số
11
Phân biệt khái niệm ng-ời bị hại với khái niệm nạn nhân
n-ớc
cũng

12quy định chỉ coi ng-ời bị hại là con ng-ời cụ thể bị tội
Phân biệt khái niệm ng-ời bị hại với đối t-ợng tác động của tội phạm.
phạm gây thiệt
12 hại về thể chất, tinh thần tài sản, chẳng hạn khoản 1
Phân biệt khái niệm ng-ời bị hại với ng-ời có quyền, nghĩa vụ liên quan.
17 của Tiệp Khắc trước đây quy định: người bị hại là
Phân biệt khái niệm ng-ời bị hại với nguyên đơn dân sự.
điều 43 BLTTHS
Vị trí quyền và nghĩa vụ của ng-ời bị hại
20 gây thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản, tinh thần hoặc
ng-ời bị tội phạm
Ng-ời bị hại trong luật tố tụng hình sự một số n-ớc.
24
những thiệt 24

hại khác. BLTTHS Rumani cũng có quy định t-ơng tự.
Ng-ời bị hại trong luật tố tụng hình sự Đức
Một số n-ớc26
cũng quy định ng-ời bị hại là cá nhân, hoặc pháp nhân, tổ
Ng-ời bị hại trong luật tố tụng hình sự Cộng hoà Liên bang Nga.
chức mà quyền
30 mà lợi ích hợp pháp bị xâm hại nh- tại khoản 1 Điều
Ng-ời bị hại Trong luật tố tụng hình sự Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
Ch-ơng 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt
40 BLTTHS 32
Ba Lan quy định ng-ời bị hại là ng-ời hoặc pháp nhân mà
Nam về ng-ời bị hại và thực trạng tham gia tố tụng hình
lợisự
ích hợp pháp của họ bị hậu quả của tội phạm trực tiếp xâm hại hoặc
của ng-ời bị hại những năm gần đây.
bị đe doạ. Điều 53 BLTTHS Hungari cũng có quan điểm t-ơng tự hay
Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về ng-ời bị hại
tại khoản 1 32
điều 42 BLTTHS Liên bang Nga thì ng-ời bị hại là thể
32
Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về ng-ời bị hại từ năm 1945 đến tr-ớc
nhân, bị thiệt hại về thể chất tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra, cũng
năm 2003.
nh- pháp nhân
37 trong tr-ờng hợp bị thiệt hại về tài sản và uy tín do tội
Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về ng-ời bị hại từ năm 2003 đến nay.
Thực tiễn và những v-ớng mắc tham gia tố tụng hình sự của ng-ời bị hại trong nhữngphạm
năm gây ra.45
gần đây.
Theo quan điểm của chúng tôi là ngoài cá nhân là ng-ời bị hại,

Tình hình thụ lý giải quyết các vụ án hình sự của Toà án trong những năm gần đây. trong tr-ờng45
hợp tổ chức, pháp nhân bị tội phạm trực tiếp gây thiệt hại
49
Thực tiễn và những v-ớng mắc tham gia TTHS của ng-ời bị hại trong những năm gần đây.
thì phải xem tổ chức hoặc pháp nhân đó là ng-ời bị hại. Cần quan niệm
68
Ch-ơng 3: Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về ng-ời bị hại
khái niệm ng-ời bị hại theo nghĩa rộng của từ này. Những ng-ời theo
và những giải pháp đảm bảo sự tham gia có hiệu quả của
quan điểm này cho rằng trong thực tế hành vi phạm tội không chỉ gây
ng-ời bị hại trong quá trình giải quyết vụ án.
thiệt hại cho68
cá nhân mà hành vi phạm tội trong thực tế còn nhằm đến
Hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự về ng-ời bị hại
để
gây
thiệt
hại
Những giải pháp đảm bảo sự tham gia có hiệu quả của ng-ời bị hại trong quá trình giải
81 cho cơ quan, tổ chức. Thiệt hại do hành vi phạm tội
quyết vụ án.
gây ra cho cơ quan, tổ chức là rất đa dạng, không thuần tuý là thiệt hại
86 thực tế, tổ chức, pháp nhân có thể bị thiệt hại về vật
Kết luận
về tài sản. Trong
90
Danh mục tài liệu tham khảo


chất và tinh thần, chẳng hạn nh- một doanh nghiệp bị giả mạo về

th-ơng hiệu, bị vu không làm mất uy tín trong kinh doanh...

- Thứ nhất, về chủ thể, ng-ời bị hại là cá nhân, pháp nhân, cơ quan
Nhà n-ớc hoặc tổ chức khác;

Để xác định ng-ời bị hại thì thiệt hại mà tội phạm gây ra phải là
thiệt hại trực tiếp. Điều đó thể hiện: thể chất, tinh thần hoặc tài sản
phải là đối t-ợng của sự xâm hại. Nếu đối t-ợng tác động tác động
ch-a bị xâm hại thì không có thiệt hại xảy ra. Đã không có thiệt hại
xảy ra thì không có ng-ời bị hại. Nh-ng thiệt hại xảy ra phải là hậu
quả của hành vi phạm tội thì mới đ-ợc coi là thiệt hại trực tiếp. Trong
tr-ờng hợp này sự thiệt hại gây ra cho ng-ời bị hại phải là những thiệt
hại cụ thể, thiệt hại đó phải có tính hiện tại và xác định; sự thiệt hại
không thể không cụ thể, ch-a xác định, hoặc có tính chất mơ hồ, ch-a
hoặc sắp xảy ra. Sự thiệt hại đó phải là trực tiếp do chính tội phạm gây
ra, thiệt hại có mối liên hệ nhân quả với hành vi phạm tội. Điều cơ bản
khi xác định thiệt hại của ng-ời bị hại là sự thiệt hại do một tội phạm
đ-ợc luật hình sự quy định, xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp và
chính đáng của ng-ời bị thiệt hại, các quyền đ-ợc pháp luật bảo vệ.
Đồng thời sự thiệt hại mà ng-ời bị hại phải gánh chịu không phải có
nguồn gốc từ hành vi không phù hợp pháp luật của ng-ời bị thiệt hại.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc không chấp nhận quan điểm cho
rằng thiệt hại do tội phạm gây ra cũng là thiệt hại gián tiếp, thiệt hại đó
có thể không có mối liên hệ nhân quả với hành vi phạm tội.

- Thứ hai, thiệt hại do tội phạm gây ra có thể là thiệt hại về vật
chất, thiệt hại về tinh thần, thiệt hại về vật chất. Tuy nhiên, cần l-u ý
hậu quả của sự thiệt hại không phải là điều kiện bắt buộc trong các
tr-ờng hợp.


Ng-ời bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra
nh-ng phải đ-ợc CQTHTT xác định là ng-ời bị hại thì ng-ời đó mới
đ-ợc coi là ng-ời bị hại.
Từ những phân tích trên theo quan điểm của tôi có thể đ-a ra khái
niệm về ng-ời bị hại là: Người bị hại là cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức
bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra đ-ợc
CQTHTT công nhận
Khái niệm này bao hàm các đặc điểm của ng-ời bị hại nh- sau:

- Thứ ba, thiệt hại của ng-ời bị hại phải là đối t-ợng tác động của
tội phạm, tức là phải có liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu
quả gây ra cho ng-ời bị hại.
- Thứ t-, ng-ời bị thiệt hại chỉ đ-ợc tham gia tố tụng với t- cách là
ng-ời bị hại khi và chỉ khi đ-ợc CQTHTT công nhận.
1.2. Phân biệt khái niệm ng-ời bị hại với một số khái niệm có liên
quan.
12.1. Phân biệt khái niệm ng-ời bị hại với khái niệm nạn nhân.
Có quan điểm cho rằng ng-ời bị hại chính là nạn nhận của tội phạm.
Theo quan điểm của chúng tôi điều đó cũng nh-ng ch-a đủ. Nội dung
khái niệm của ng-ời bị hại có nội hàm hẹp hơn khái niệm nạn nhân của
tội phạm. Nh- đã biết, hành vi phạm tội luôn gây ra hoặc đe doạ gây ra
những thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội đ-ợc Luật hình sự bảo
vệ. Để gây ra những thiệt hại cho những quan hệ này, hành vi phạm tội
đã tác động gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức. Nh- vậy, nạn nhân của
tội phạm ngoài cá nhân còn có thể là tổ chức, pháp nhân, thiệt hại của
nạn nhân không chỉ về tinh thần, về thể chất, tài sản mà còn có thể bao
hàm những quyền, lợi ích hợp pháp khác, thiệt hại đó có thể bao gồm
thiệt hại gián tiếp; hơn nữa nạn nhân chỉ khi tham gia vào quan hệ TTHS
mới đ-ợc xem là ng-ời bị hại. Còn nếu nạn không tham gia vào TTHS
hay không đ-ợc cộng nhận thì họ không phải là ng-ời bị hại trong

TTHS.


1.2.2 Phân biệt khái niệm ng-ời bị hại với khái niệm đối t-ợng
tác động của tội phạm.
Đối t-ợng tác động của tội phạm là một bộ phận khách thể của tội
phạm bị hành vi phạm tác động đến, gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt
hại. Đối t-ợng tác động của tội phạm không chỉ là con ng-ời mà còn
bao gồm các đối t-ợng vật chất khác và các hoạt động bình th-ờng của
chủ thể. Trong khi ng-ời bị hại là ng-ời bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần hoặc tài sản do hành vi phạm tội gây ra, họ chính là một trong số
các đối t-ợng tác động của tội phạm. Nh-ng không phải vụ án nào
cũng có đối t-ợng tác động là con ng-ời, là tài sản. Mà đối t-ợng tác
động có thể là hoạt động bình th-ờng của chủ thể, là trật tự nơi công
cộng, trật tự quản lý hành chính. Nh- vậy có thể khẳng định khái niệm
ng-ời bị hại, đối t-ợng tác động của tội phạm mặc dù có những điểm
tương đồng, chồng lấn nh-ng về bản chất, đặc tr-ng của chúng là
hoàn toàn khác nhau. Khái niệm đối t-ợng tác động của tội phạm rộng
hơn khái niệm về ng-ời bị hại.
1.2.3. Phân biệt khái niệm ng-ời bị hại với khái niệm ng-ời có
quyền, nghĩa vụ liên quan.
Qua phân tích các dấu hiệu đặc điểm, chúng tôi có thể đ-a ra một
dấu hiệu để phân biệt ng-ời bị hại với ng-ời có quyền nghĩa vụ liên
quan.
Trong những tr-ờng hợp cụ thể để xác định ng-ời bị hại và ng-ời
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đối với những tội danh mà
ngay tên tội đã thể hiện đối t-ợng tác động (là tính mạng, sức khỏe,
danh dự, tài sản) thì người bị thiệt hại được xác định là người bị hại.
Còn đối với những tội danh khác, để tránh sự nhầm lẫn trong việc
xác định t- cách của ng-ời bị hại với ng-ời có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan đến vụ án th-ờng căn cứ vào mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại
với hành vi mà ng-ời phạm tội đã thực hiện.

- Nếu thiệt hại là kết quả trực tiếp của hành vi phạm tội, phù hợp
với mục đích của ng-ời phạm tội thì ng-ời bị thiệt hại đ-ợc xác định là
ng-ời bị hại.
- Nếu thiệt hại không phải là kết quả trực tiếp của hành vi phạm
tội, không có mối liên hệ mật thiết với hành vi phạm tội, không phù
hợp với mục đíchcủa ng-ời phạm tội thì ng-ời bị thiệt hại đ-ợc xác
định là ng-ời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
1.2.4. Phân biệt khái niệm ng-ời bị hại và khái niệm nguyên
đơn dân sự.
Ng-ời bị hại là ng-ời bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản. Để
đ-ợc xác định là ng-ời bị hại thì thể chất, tinh thần, tài sản của một
ng-ời phải là đối t-ợng tác động của tội phạm. Cũng là đối t-ợng tác
động của tội phạm, nh-ng là tài sản của cơ quan, tổ chức thì cơ quan,
tổ chức đ-ợc xác định là nguyên đơn dân sự.
Một tiêu chí khác để phân biệt hai chủ thể này là hành vi đ-a đơn
yêu cầu bồi th-ờng thiệt hại. Ng-ời bị hại đ-ơng nhiên đ-ợc tham gia
tố tụng vì hậu quả đối với họ trong một số tr-ờng hợp đ-ợc coi là một
trong những yếu tố cấu thành tội phạm, trong tr-ờng hợp khác lại đ-ợc
coi là tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Hậu quả này chính là đối t-ợng cần chứng minh trong vụ án. Hơn nữa
họ có thể là ng-ời chứng kiến hành vi phạm tội (nh- ng-ời bị gây
thương tích, bị cướp tài sản) Họ tham gia tố tụng không chỉ giúp
CQTHTT làm rõ hành vi của ng-ời phạm tội mà còn tham gia vì quyền
lợi của chính họ. Khác với điều đó, nguyên đơn dân sự chỉ tham gia tố
tụng khi có đơn yêu cầu bồi th-ờng. Hậu quả đối với nguyên đơn dân
sự không phải là tình tiết định tội, không có ý nghĩa với việc xem xét
trách nhiệm hình sự cho bị cáo,

Phân biệt ng-ời bị hại với nguyên đơn dân sự là phân biệt hai loại
ng-ời tham gia tố tụng với hai t- cách khác nhau. Cơ quan, tổ chức bị
thiệt hại không thuộc phạm vi để xem xét trong luận văn, vì trong thực


tế không có sự nhầm lẫn đối với tr-ờng hợp này mà chỉ nhầm lẫn khi
họ là cá nhân.
Ng-ời bị hại, nguyên đơn dân sự chỉ tham gia tố tụng khi có thiệt
hại xảy ra. Thiệt hại của ng-ời bị hại là thiệt hại trực tiếp về thể chất,
tinh thần, tài sản từ hành vi phạm tội.
Ví dụ: Do có mâu thuẫn với nhau từ tr-ớc A đã dùng dao để chém
B. Anh C là ng-ời có mặt tại đó đã vào can ngăn. Trong lúc vật lộn với
A để t-ớc đoạt con dao anh C đã vị vỡ chiếc đồng hồ. A bị truy tố về
tội cố ý gây thương tích anh B tham gia với tư cách người bị hại.
Anh C có đơn yêu cầu bồi th-ờng chiếc đồng hồ bị vỡ, anh đ-ợc xác
định là nguyên đơn dân sự. Trong vụ án này, mục đích của A là gây
th-ơng tích cho B, đối t-ợng tác động mà A nhằm h-ớng tới là sức
khỏe của B chứ không phải là tài sản của anh C. Tỷ lệ th-ơng tích của
anh B là hậu quả mà CQTHTT xem xét để quyết định truy tố và có ý
nghĩa nhất định trong việc quyết định hình phạt đối với A. Còn thiệt
hại về tài sản của anh C chỉ là hậu quả cần phải khắc phục, không có ý
nghĩa gì với việc xem xét tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho
bị cáo A. Bởi lẽ, nếu thiệt hại của anh C đã đủ yếu tố cấu thành một tội
phạm khác, độc lập với tội danh mà A bị xét xử thì A ngoài việc chịu
trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích còn phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội đã gây nên thiệt hại cho anh C. Lúc này hậu quả
mà bị cáo A đã gây ra đối với anh C sẽ đ-ợc xem là một trong những
yếu tố cấu thành tội phạm.
Trong tr-ờng hợp khác, cá nhân đ-ợc xác định là nguyên đơn dân
sự do có sự thiệt hại về tài sản mà sự thiệt hại này là hậu quả tiếp theo

từ hậu quả mà ng-ời phạm tội đã gây cho ng-ời bị hại: nh- một ng-ời
phải nghỉ việc để chăm sóc nạn nhân, những ng-ời th-ờng xuyên đ-ợc
cấp d-ỡng nay ng-ời cấp d-ỡng bị chết. Dấu hiệu để phân biệt ng-ời bị
hại với nguyên đơn dân sự (là cá nhân).
1.3. Vị trí, quyền và nghĩa vụ của ng-ời bị hại trong luật TTHS.

Theo tinh thần cải cải cách t- pháp của Nghị quyết 49 ngày
02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến l-ợc cải cách t- pháp đến năm
2020 xác định: xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn trách nhiệm của
ng-ời tiến hành tố tụng và ng-ời tham gia tố tụng theo h-ớng đảm bảo
công khai, dân chủ, nghiêm minh. Từ đó cho thấy việc xác định người
tham gia tố tụng trong đó có ng-ời bị hại có vị trí rất quan trọng trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự. Việc xác định đúng và đ-a họ tham
gia đúng t- cách sẽ bảo vệ đ-ợc quyền và lợi ích hợp pháp của họ và sẽ
nhằm giải quyết kịp thời nhanh chóng các thiệt hại do tội phạm gây ra
đối với ng-ời bị hại. Hơn nữa ng-ời bị hại còn cung cấp các tài liệu,
chứng cứ để chứng minh tội phạm. Từ đó xác định đúng hành vi phạm
tội và góp phần giải quyết vụ án nhanh chóng, khách quan.
Qua phân tích các quyền và nghĩa vụ của ng-ời bị hại trong luật
TTHS Việt Nam cho thấy, ng-ời bị hại có một vị trí, ý nghĩa rất quan
trọng trong vụ án hình sự. Vì họ là ng-ời trực tiếp bị tội phạm xâm hại
có thể là về thể chất (như sức khoẻ, tính mạng), tinh thần (như bị lăng
mạ, làm nhục, vu khống, hiếp dâm) hay về tài sản (như bị chiếm đoạt
tiền, vàng và các tài sản khác). Họ cũng là người biết được sự thật của
vụ án và họ cũng góp phần vào việc chứng minh tội phạm, làm sáng tỏ
sự thật khách quan của vụ án. Việc xác định ng-ời tham gia tố tụng
trong đó có ng-ời bị hại có vị trí rất quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Việc xác định đúng và đ-a họ tham gia đúng tcách sẽ bảo vệ đ-ợc quyền và lợi ích hợp pháp của họ và sẽ nhằm giải
quyết kịp thời nhanh chóng các thiệt hại do tội phạm gây ra đối với
ng-ời bị hại. Hơn nữa ng-ời bị hại còn cung cấp các tài liệu, chứng cứ

để chứng minh tội phạm. Từ đó xác định đúng hành vi phạm tội và góp
phần giải quyết vụ án nhanh chóng, khách quan.
1.4. Ng-ời bị hại trong luật tố tụng hình sự một số n-ớc.
1.4.1. Ng-ời bị hại trong luật tố tụng hình sự Đức.


Theo luật tố tụng hình sự Đức thì các đối t-ợng tham gia vào
quan hệ tố tụng để giải quyết vụ án đều là chủ thể tham gia tố tụng.
Tuỳ theo loại ng-ời có những vai trò khác nhau trong tố tụng hình sự
mà pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của họ tham gia giải quyết
vụ án. Trong luật tố tụng hình sự hình sự Đức thì ng-ời bị hại là nạn
nhân của tội phạm tr-ớc đây có vai trò không đáng kể trong tố tụng
hình sự Đức. Về mặt hình phạt của tội phạm, lợi ích của họ đ-ợc coi là
phụ so với lợi ích công chúng và vai trò của họ đơn thuần chỉ là
nguyên đơn kiện bồi th-ờng các thiệt hại về dân sự. Địa vị pháp lý của
ng-ời bị hại đã đ-ợc cải thiện một cách đáng kể với sự ra đời của luật
bảo vệ nạn nhân năm 1986 mà theo đó luật tố tụng hình sự cũng đã sửa
đổi. Sự tham gia của ng-ời bị hại trong tiến trình tố tụng đ-ợc quy định
thành một phần riêng trong BLTTHS. Ng-ời bị hại của các tội phạm
nghiêm trọng đ-ợc bảo vệ tốt hơn và đ-ợc bổ sung một số quyền của
một bên tham gia tố tụng.
1.4.2. Ng-ời bị hại trong luật tố tụng hình sự Liên bang Nga.
Theo BLTTHS liên bang Nga đ-ợc DUMA quốc gia thông qua
ngày 22/11/2001 thì chủ thể tham gia tố tụng hình sự gồm: Toà án, các
chủ thể tham gia tố tụng thuộc bên buộc tội, các chủ thể tham gia tố
tụng hình sự thuộc bên bào chữa và những chủ thể khác tham gia tố
tụng hình sự. Trong đó, kiểm sát viên, Dự thẩm viên, Thủ tr-ởng cơ
quan điều tra, nhân viên điều tra, người bị hại, nguyên đơn dân sự
thì thuộc nhóm chủ thể tham gia tố tụng hình sự thuộc bên bào chữa.
Tuỳ theo loại ng-ời có những vai trò khác nhau trong tố tụng hình sự

mà pháp luật Liên bang Nga có quy định quyền và nghĩa vụ của họ
tham gia giải quyết vụ án. Theo khoản 1 điều 42 BLTTHS Liên bang
Nga thì ng-ời bị hại là thể nhân, bị thiệt hại về thể chất tinh thần, tài
sản do tội phạm gây ra, cũng nh- pháp nhân trong tr-ờng hợp bị thiệt
hại về tài sản và uy tín do tội phạm gây ra. Ng-ời bị hại đ-ợc công
nhận bằng quyết định công nhận ng-ời bị hại của kiểm sát viên, dự
thẩm viên hoặc Toà án. Địa vị pháp lý của ng-ời bị hại trong Luật tố

tụng hình sự Liên bang nga đ-ợc quy định bằng các quyền và nghĩa vụ
rất cụ thể. Nh- theo khoản 2 Điều 42 BLTTHS liên bang Nga quy định
về quyền của ng-ời bị hại.
Tại khoản 3 Điều 42 BLTTHS Liên bang Nga còn quy định về
quyền đ-ợc đ-ợc đảm bảo, đ-ợc bồi th-ờng thiệt hại do tội phạm gây ra
và những chi phí trong việc họ tham gia trong quá trình điều tra và xét
xử vụ án. Còn theo khoản 4 thì việc bồi th-ờng bằng tiền đối với thiệt
hại về tinh thần đã gây ra cho họ, mức bồi th-ờng thì đ-ợc giải quyết
trong cùng một vụ án hoặc đ-ợc giải quyết theo tố tụng dân sự.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 43 BLTTHS Liên bang Nga bên
cạnh các quy định về quyền của ng-ời bị hại, còn quy định về nghĩa vụ
ng-ời bị hại.
1.4.3. Ng-ời bị hại trong luật tố tụng hình sự n-ớc Công hoà
nhân dân Trung hoa.
Theo luật tố tụng hình sự của n-ớc Cộng hoà nhân dân Trung Hoa
thì các đối t-ợng tham gia vào quan hệ tố tụng đều là chủ thể tham gia tố
tụng. Ng-ời bị hại trong tố tụng hình n-ớc công hoà nhân dân Trung
Hoa đ-ợc phân thành hai loại là ng-ời bị hại trong vụ án thuộc công tố
và ng-ời bị hại trong vụ án thuộc t- tố. Ng-ời bị hại trong vụ án thuộc
công tố từ ngày vụ án đ-ợc chuyển giao để thẩm tra tr-ớc khi truy tố, có
quyền chỉ định ng-ời đại diện liên quan đến vụ án. Ng-ời bị hại chịu
thiệt hại vật chất do hành vi phạm tội của bị cáo có quyền nộp đơn kiện

dân sự trong quá trình tố tụng và đ-ợc giải quyết đồng thời với vụ án
hình sự. Đối với những vụ án mà viện kiểm sát miễn tố có ng-ời bị hại
thì ng-ời bị hại có quyền đ-ợc nhận quyết định miễn tố. Nếu ng-ời bị
hại không tán thành quyết định thì ng-ời bị hại có quyền khiếu nại lên
Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp và yêu cầu truy tố. Trong
tr-ờng Viện kiêm sát nhân dân cấp trên đồng ý với quyết định miễn tố
thì ng-ời bị hại có thể kiện ra Toà án nhân dân . Ng-ời bị hại cũng có
thể trực tiếp kiện ra Toà án nhân dân mà không cần phải khiếu nại tr-ớc


quyết định miễn tố của Viện kiểm sát nhân dân. Đối với vụ án t- tố
ng-ời bị hại có quyền chỉ định ng-ời đại diện pháp lý cho mình và có
quyền trực tiếp đ-a vụ án ra tr-ớc toà . Nếu ng-ời bị hại chết hoặc mất
khả năng hành động, ng-ời đại diện pháp lý và họ hàng thân thích có
quyền đ-a vụ án ra tr-ớc toà.
*

*
*

Nh- vậy, qua phân tích ở trên chúng tôi đã đ-a ra đ-ợc khái
niệm, đặc điểm về ng-ời bị hại. Trên cơ sở đó chúng tôi đ-a ra các tiêu
chí để phân biệt khái niệm ng-ời bị hại với một số khái niệm có liên
quan nh- khái niệm nạn nhân, đối t-ợng tác động của tội phạm,
nguyên đơn dân sự và ng-ời có quyền, nghĩa vụ liên quan. Từ đó để
xác định đúng vị trí, quyền và nghĩa vụ của ng-ời bị hại trong việc giải
quyết vụ án có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của
công dân và cũng góp phần chứng minh tội phạm và làm sáng tỏ sự
thật khách quan của vụ án. Nhằm góp phần làm sáng tỏ những vấn đề
về ng-ời bị hại trong luật TTHS Việt Nam chúng tôi có nêu các quy

định về ng-ời bị hại của một số n-ớc nh- Cộng hoà liên bang Đức,
Cộng hoà liên bang Nga, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa để so sánh
làm sáng tỏ vấn đề và bản chất của ng-ời bị hại.
Việc xác định đúng và đ-a ng-ời bị hại tham gia tố tụng
đúng t- cách sẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ng-ời bị hại sẽ
giúp giải quyết vụ án kịp thời nhanh chóng các thiệt hại do tội phạm
gây ra đối với ng-ời bị hại. Hơn nữa ng-ời bị hại còn cung cấp các tài
liệu chứng cứ để chứng minh tội phạm. Từ đó xác định đúng hành vi
phạm tội và góp phần giải quyết vụ án nhanh chóng, khách quan.
Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử và giải quyết vụ án quy
định về ng-ời bị hại vẫn còn một số v-ớng mắc. Vấn đề này chúng tôi
sẽ đ-ợc nêu ra ở ch-ơng 2 của luận văn.

Ch-ơng 2:
Những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam về ng-ời bị hại và thực trạng
tham gia tố tụng hình sự của ng-ời bị hại những
năm gần đây.
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về
ng-ời bị hại.
2.1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về
ng-ời bị hại từ 1945 đến tr-ớc năm 2003.
Thời kỳ cách mạnh tháng 8 thành công, Nhà n-ớc Việt nam dân
chủ công hoà ra đời. Các quy định về quyền, nghĩa vụ của ng-ời bị hại
cũng đ-ợc quan tâm. Tại Điều 18 Sắc lệnh số 85/SL ngày 22-5-1945
quy định về quyền kháng cáo cáo của ng-ời bị hại.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ đã đ-ợc ký
kết, miền bắc hoàn toàn đ-ợc giải phóng, Miền Nam tạm thời bị đế
quốc Mỹ và bọn tay sai thống trị. Pháp luật tố tụng hình sự hình sự thời
kỳ này phải phục vụ thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chiến l-ợc cách

mạng. Tuy nhiên pháp luật tố tụng hình sự hình sự thời kỳ này cũng
quan tâm đến địa vị pháp lý của ng-ời tham gia tố tụng trong đó có
ng-ời bị hại. Lần đầu tiên định nghĩa pháp lý đã đ-ợc đề cập Trong
bản h-ớng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm kèm theo thông t- 16/TATC
ngày 27-9-1974 của Toà án nhân dân tối cao lần đầu tiên định nghĩa
pháp lý của khái niệm ng-ời bị hại đã đ-ợc đề cập.
Ngoi ra trong bản h-ớng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình
sự kèm theo thông t- số 16/TATC ngày 27-9-1974 của Toà án nhân
dân tối cao có đề cập đến ng-ời đại diện của bị hại và một số ng-ời
tham gia tố tụng khác.
Đến khi có BLTTHS của n-ớc ta đ-ợc Quốc hội thồng qua ngày
28/6/1988, có hiệu thi hành từ ngày 01-01-1989. Đây là BLTTHS đầu


tiên ở n-ớc ta. Trong BLTTHS năm 1988, thì vấn đề ng-ời bị hại đã
đ-ợc quan tâm và quy định đầy đủ nh- về định nghĩa thế nào là ng-ời
bị hại, quyền và nghĩa vụ của ng-ời bị hại cũng đ-ợc quy định t-ơng
đối rộng chẳng hạn nh- có quyền yêu cầu, cung cấp tài liệu, đ-a ra
chứng cứ; tham gia phiên toà, có quyền yêu cầu thay đổi ng-ời tiến
hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch mà pháp luật tố
tụng hình sự của n-ớc ta thời kỳ tr-ớc không quy định. Hơn nữa,
BLTTHS năm 1988, đã có quy định khá mới so với luật tố tụng hình sự
Việt nam đó là quyền yêu cầu khởi tố theo yêu cầu của ng-ời bị hại.
Ngoài ra còn quy định cả quyền rút yêu cầu của ng-ời bị hại nh-ng
phải tr-ớc ngày mở phiên toà. Luật sửa đổi bổ sung BLTTHS năm
1990 đã bổ sung Điều 42a. Ng-ời bảo vệ quyền lợi của đ-ơng sự.
Ng-ời bảo vệ quyền lợi cho ng-ời bị hại có quyền cơ bản giống
nh- quyền của ng-ời bị hại. Ngoài ra điều luật còn quy định trong
tr-ờng hợp ng-ời bị hại là ng-ời ch-a thành niên, ng-ời có nh-ợc điểm
về thể chất hoặc tâm thần, thì ng-ời bảo vệ quyền lợi của họ có quyền

có mặt khi CQTHTT lấy lời khai của ng-ời mà mình bảo vệ; có quyền
kháng cáo bản án, quyết định của Toà án có liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của ng-ời mà mình bảo vệ.
2.1.2. Quy định về ng-ời bị hại của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003.
Theo quy định tại Điều 51 BLTTHS năm 2003 quy định: Ng-ời bị
hại là ng-ời bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra.
So với quy định của BLTTHS năm 1988. quy định về ng-ời bị hại
cũng không có thay đổi bổ sung gì hơn với quy định về ng-ời bị hại trong
BLTTHS năm 2003. Theo đó, BLTTHS Việt Nam 2003 vẫn xác định ng-ời
bị hại là ng-ời bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra.
Nh- vậy tiêu chí để xác định ng-ời bị hại gồm những tiêu chí sau:
- Tr-ớc hết họ phải là con ng-ời cụ thể chứ không phải là cơ quan
tổ chức;

- Họ phải là ng-ời bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc tài
sản;
- Các thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc tài sản phải là những
thiệt hại do tội phạm gây ra. Nếu đó là những thiệt hại không phải do
tội phạm gây ra thì ng-ời bị thiệt hại không phải là ng-ời bị hại;
Ngoài ra, còn các điều luật khác cũng quy định liên quan đến vấn
đề ng-ời bị hại, ng-ời đại diện hợp pháp của họ nh- Điều 217, 231...
của BLTTHS.
Nh- vậy, những quy định của luật TTHS Việt Nam - hay
BLTTHS Việt Nam về ng-ời bị hại trong vụ án hình sự không chỉ là
những quy định ở Điều 51, Điều 59 BLTTHS mà còn những quy định ở
những Điều luật khác trong BLTTHS.
2.2. Thực trạng tham gia tố tụng của ng-ời bị hại trong
những năm gần đây.
2.2.1. Tình hình thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự của Toà

án trong những năm gần đây.
Hàng năm, ngành Toà án nhân dân thành
phố Hà Nội (bao gồm cả tỉnh Hà Tây cũ) đã xét
xử một số l-ợng rất lớn án hình sự (thống kê
tại bảng 2.1), số l-ợng án phải giải quyết theo
h-ớng tăng dần, năm sau cao hơn năm tr-ớc.
Đây thực là những con số biết nói, đáng để
những ng-ời nghiên cứu luật và làm luật
chúng ta phải suy nghĩ.
Bảng 2.1: Bảng tổng hợp số liệu xét xử sơ thẩm, phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của ngành Tòa án từ
2004-2008


quyết đ-ợc 124 vụ án hình sự thì trong đó có đến 85 vụ án hình sự mà
Kết quả giải quyết PT, GĐT,TT
đối t-ợng tác động của tội phạm là tính mạng, sức khoẻ danh dự, nhân
(3)
phẩm và tài sản của công dân chiếm 68% thì năm 2005 đã giải quyết
(1)
đ-ợc 152 vụ án hình sự trong đó các tội xâm phạm đến tính mạng, sức
Tỷ
lệ
%
Y
Tỷ
lệ
%
Sửa
Tỷ

lệ
%
Huỷ
lệ %
khoẻ,Tỷ
danh
dự nhân phẩm và tài sản là 98 vụ tăng 13 vụ. Qua thống kê
Năm
(2)/(1)
các năm3/1
thì số l-ợng vụ án hình sự Toà án giải quyết qua các năm thì
3/1
3/1
thấy, các tội xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm,
2004
2618
342
347
13,2
235
67,7
96
27,6
11
tài sản 3.1
đều chiếm một tỷ lệ rất cao trong số các vụ án Toà án đã giải
quyết.
Tình
2005
5304

616
650
12,2
399
61,3
206
31,6
11
1,7 hình tội phạm cũng diễn biến rất phức tạp và có nhiều thủ
đoạn tinh vi. Theo thống kê của chúng tôi, trong số các vụ án mà có
2006
6199
842
859
13,8
548
63,7
283
32,9
11
1,3
ng-ời bị hại tham gia tố tụng thì số vụ án mà ng-ời bị hại có mặt tại
2007
6338
886
889
14,1
562
63,2
303

34,1
21
phiên toà
2,3để tham gia phiên toà, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình là rất ít chiếm tỷ lệ không cao, số vụ án mà có ng-ời bị hại kháng
2008
6267
874
841
13,4
529
62,9
342
40,1
3
0,3
cáo lên toà cấp phúc thẩm để xem xét lại theo yêu cầu của mình cũng
Nguồn: Phòng Tổng hợp - Tòa án nhân dân
ít mà chủ yếu là bị cáo kháng cáo xin h-ởng án treo họăc xin giảm
thành phố Hà Nội.
hình phạt cho bị cáo; số vụ án có luật s- tham gia để bảo vệ quyền lợi
cho ng-ời bị hại hoặc đại diện hợp pháp cho ng-ời bị hại cũng chiếm
Qua nghiên cứu các biểu mẫu và báo cáo về công tác xét xử của
một tỷ ch-a cao. Đánh giá về việc ng-ời tham gia tố tụng không tham
ngành Toà án nhân dân ch-a có báo cáo thống kê nào về thực trạng
gia phiên toà một phần cũng là do ý thức của ng-ời bị hại không còn
tham gia của ng-ời tham gia tố tụng nói chung và ng-ời bị hại nói
liên quan gì nữa nh- phần dân sự đã giải quyết xong, do không nhận
riêng hại trong TTHS. Nên việc lấy số liệu để đánh giá về thực trạng
đ-ợc giấy triệu tập của Toà án, do sợ trả thù (trong những vụ án gây

ng-ời bị hại tham gia, thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của
thương tích liên quan đến xã hội đen) nên không dám đến tham gia
mình tại phiên toà gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, chúng tôi chỉ lấy số
tố tụng hoặc không dám đến trình báo.
liệu, báo cáo, thống kê của Toà án nhân dân huyện Đông Anh, thành
Vụ

Sơ thẩm

Phúc Số vụ án có KC,
thẩm KN, GĐT,TT
(2)

phố Hà Nội về các thực trạng tham gia TTHS và việc thực hiện các
quyền của ng-ời bị hại từ năm 2004 đến năm 2008 để minh chứng.

2.2.2.Thực tiễn và những v-ớng mắc tham gia tố tụng hình sự
của ng-ời bị hại trong những năm gần đây.

Qua theo dõi tình hình xét xử của Toà án nhân dân huyện Đông
Anh nói riêng và toàn ngành Toà án nhân dân thành phố Hà Nội nói
chung thì số l-ợng các vụ án Toà án phải giải quyết hàng năm tăng lên
và các tội phạm xâm phạm đến tính mạng, danh dự, nhân phẩm, tài sản
của công dân chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng số các vụ án mà Toà án đã
giải quyết. Nếu nh- năm 2000, Toà án nhân dân huyện Đông Anh giải

Qua phân tích đánh giá ở trên cho thấy, thực tiễn xét xử cho thấy
có nhiều vụ án xác định không đúng t- cách ng-ời bị hại hoặc liên
quan đến sự có mặt của ng-ời bị hại hoặc ng-ời đại diện cho ng-ời bị
hại tại phiên toà đã dẫn đến cho việc giải quyết vụ án không đúng, kéo

dài, xâm phạm đến quyền và lợi ích của ng-ời bị hại nói riêng và ng-ời
tham gia tố tụng trong vụ án hình sự nói chung.


Trong thực tiễn công tác điều tra, truy tố, xét xử việc xác định
không đúng ng-ời bị hại trong vụ án hình sự th-ờng xảy ra trong các
tr-ờng hợp sau:
Xác định ng-ời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ng-ời bị hại.
Ví dụ: Tại bản án hình sơ thẩm của Toà án nhân huyện G xét xử có
nội dung nh- sau: Vào khoảng 8h30 ngày 16/3/2004, chị Nguyễn Thị
T-, chị Nguyễn Thị Mậu cùng cháu là con gái chị T- mang hoa quả
đến nhà Nguyễn Thạc mơ là anh trai để thắp h-ơng nhân ngày giỗ mẹ.
Vì chị T-, chị Mậu có mâu thuẫn với gia đình Nguyễn Thạc Mơ từ
tr-ớc dẫn đến việc Mơ đuổi chị T-, chị Mậu ra khỏi nhà, hai bên lời
quan tiếng lại dẫn đến xô xát. Nguyễn Thị Duyên là vợ của Mơ thấy
thế xũng lao vào xô xát, hai bên túm tóc. Giằng co, xô đẩy. Nguyễn
Thị Duyên tún tóc chị T- đấm vào ng-ời, cào cấu chị T-. Sau đó vụ
việc đ-ợc can ngăn. Đến 11 giờ cùng ngày Nguyễn Thạc Dũng con của
Mơ đi mua thuốc lá thì bị Nguyễn Thị Tân, Nguyễn Thị T- giữ xe dân
đến xô xát. Nguyễn Thạc Mơ ở trong nhà thấy thế liền cầm 01 chiếc
cán chổi bằng tre ra đánh chị Tân 01 cái trúng vào tay làm chị Tân bị
th-ơng phải đi khám bệnh ở bệnh viện Đức Giang, sau đó chuyểnn
bệnh viện Việt Đức. Chị Tân đi giám định bị tổn hại 25% sức khoẻ;
chị T- bị tổn hại 9% sức khoẻ. Trong vụ án này Toà án nhân huyện
Gia Lâm xác định chị Nguyễn Thị T- là ng-ời bị hại và xét xử phạt bị
cáo Mơ, và buộc chị Duyên phải bồi th-ờng cho chị T-.
Qua vụ án trên cho thấy, Toà án xác định chị T- là ng-ời bị hại
trong vụ án là không đúng. Vì ng-ời bị hại là ng-ời trực tiếp bị thiệt
hại do tội phạm gây ra có thể về tính mạng sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, hoặc tài sản. Trong tr-ờng hợp này th-ơng tích của chị Tkhông phải do Nguyễn Thạc Mơ trực tiếp gây lên mà do Duyên gây

lên. Do đó, Chị T- chỉ là ng-ời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Xác định ng-ời mà theo quy định của Bộ luật hình sự thì tội phạm
đó không có ng-ời bị hại.

Ví dụ 1: A, B, C đang ngồi uống bia tại quán bia của chị M thì xảy
ra xô xát với D và một số thanh niên trong quán bia dẫn đến đánh nhau.
Trong lúc đánh nhau các bị cáo đã dùng chai bia, cốc bia, bàn ghế ném
nhau gây thiệt hại cho chị M tổng giá trị là 2.800.000 đồng. A, B, C, D
đều bị truy tố về tội gây rối trật tự công cộng theo khoản 2 Điều 245
BLHS. Khi xét xử Toà án đã xác định chị M là ng-ời bị hại trong vụ án
vì cho rằng các bị cáo đã gây thiệt hại cho chị M do hành vi gây rối trật
tự công cộng của các bị cáo. Trong vụ án này, chị M không phải là
ng-ời bị hại vì theo quy định của BLTTHS thì tội gây rối trật tự công
cộng không có bị hại. Chị M chỉ là ng-ời có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án.
Ví dụ 2: Trong vụ án các bị cáo bị truy tố về tội chống ng-ời thi
hành công vụ thì ng-ời thi hành công vụ không phải là ng-ời bị hại
trong vụ án hình sự. Tuy nhiên, nếu ng-ời thi hành công vụ bị gây
th-ờng tích có tỷ lệ th-ơng tật thì lại là ng-ời bị hại trong vụ án nh-ng
là ng-ời bị hại đối với bị cáo phạm tội cố ý gây th-ơng tích chứ không
phải ng-ời bị hại đối với bị cáo phạm tội chống ng-ời thi hành công
vụ.
Ví dụ: Trong vụ án mà bị cáo bị truy tố về tội mua dâm ng-ời ch-a
thành niên thì ng-ời ch-a thành niên không phải là ng-ời bị hại trong
vụ án hình sự.
Ví dụ: Trong vụ án mà bị cáo bị truy tố về tội mua bán phụ nữ thì
chỉ ng-ời bị mua mới là ng-ời bị hại còn cha mẹ của ng-ời phụ nữ bị
mua bán đó không phải là ng-ời bị hại. Nh-ng nếu bị cáo bị truy tố về
tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt bị xâm phạm đến tính mạng,
sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự thì đứa trẻ là ng-ời bị hại đối với hành

vi xâm phạm đó.
- Vấn đề liên quan đến việc quy định và thực hiện các quyền của ng-ời bị
hại:


Tại điểm e khoản 2 Điều 51 BLTTHS quy định: ng-ời bị hại có
quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi th-ờng
cũng nh- về phần hình phạt đối với bị cáo. Trong khi đó tại Điều 231
BLTTHS lại quy định: ng-ời bị hại và ng-ời đại diện hợp pháp của họ
có quyền kháng cáo bản án và quyết định của Toà án. Nh- vậy theo
quy định này thì ng-ời bị hại có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc
quyết định sơ thẩm về tất cả các vấn đề nh- là hình phạt, tội danh, tình
tiết định khung, án phí, xử lý vật chứng của bản án hay quyết định của
Toà án. Điều luật này không thể hiện bất cứ sự giới hạn nào nh- tinh
thần của Điều 51 BLTTHS. Do hai điều luật quy định không thống
nhất nên trong thực tiễn áp dụng đã có những ý kiến khác nhau về
quyền kháng cáo của ng-ời bị hại và đại điện hợp pháp của họ theo
h-ớng tăng nặng đối với bị cáo.
Theo quan điểm của chúng tôi, nếu theo quy định tại điểm e khoản
2 Điều 51 BLTTHS thì chỉ có quyền kháng cáo về phần bồi th-ờng và
hình phạt đối với bị cáo là ch-a đầy đủ, quá hẹp, không tạo điều kiện
cho ng-ời bị hại bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, làm phát
sinh v-ớng mắc khi áp dụng; chẳng hạn nh- trong vụ án Toà án xét xử
bị cáo về tôi Cố ý gây th-ớc tích theo khoản 3 Điều 104 BLHS nh-ng
ng-ời bị hại hoặc ng-ời đại diện hợp pháp của họ không đồng ý và
kháng cáo lên Toà án cấp phúc thẩm để yêu cầu xét xử bị cáo về tội
Giết người. Như vậy theo điểm e khoản 2 Điều 51 BLTTHS thì người
bị hại không có quyền về tội danh đối với bị cáo. Nh-ng việc quy định
về quyền kháng cáo của họ theo điều 231 BLTTHS thì ng-ời bị hại có
quyền kháng cáo toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án là

không hợp lý, quá rộng vì nếu cho phép họ kháng cáo toàn bộ bản án
thì vô hình chung cho phép họ kháng cáo cả quyết định của bản sơ
thẩm không liên quan gì họ nh- quyết định bồi th-ờng thiệt hại cho
những người khác, quyết định về xử lý vật chứng, án phí Do đó, dù
có h-ớng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cũng
không thể đáp ứng đ-ợc những khiếm khuyết của hai điều luật trên.

- Đối với ng-ời đại diện hợp pháp của ng-ời bị hại:
Ng-ời đại diện hợp pháp của ng-ời bị hại là ng-ời mà theo quy
định của pháp luật hoặc theo uỷ quyền họ tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của ng-ời bị hại hoặc của chính bản thân họ.
Ng-ời đại diện hợp pháp của ng-ời bị hại phải là một con ng-ời cụ thể
chứ không thể là cơ quan tổ chức, Họ là ng-ời đã thành niên và đủ
năng lực hành vi để tham gia tố tụng và không thuộc tr-ờng hợp pháp
luật cấm chẳng hạn một ng-ời bị pháp luật t-ớc quyền làm cha, mẹ đối
với ng-ời con thì không thể làm ng-ời đại diện hợp pháp cho ng-ời
con này nếu ng-ời con là ng-ời bị hại. Một ng-ời bị mắc bệnh tâm
thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng
điều khiển hành vi của mình thì không thể là ng-ời đại diện hợp pháp
của ng-ời bị hại.
Thực tiễn xét xử có nhiều tr-ờng hợp Toà xác định ng-ời đại diện
hợp pháp của ng-ời bị hại không đúng nên bản án đã bị Toà án cấp
phúc thẩm hoặc Toà án cấp giám đốc thẩm huỷ để xét xử lại nh-:
Tại bản án hình sự sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Đ xét xử đối
với Phạm Văn Ngà và đồng phạm về tội Cố ý gây th-ơng tích theo
khoản 3 Điều 104 và tội khác. Nội dụng vụ án nh- sau: Khoảng 13h
ngày 10-4-2003, phạm Văn Ngà và một số ng-ời đang ngôi uống bia,
Trong khi đang ngồi uống bia thì có Nguyễn Huy Hoàng đi vào quán.
Ngà chửi Hoàng vì tr-ớc đó Ngà và Hoàng đã có mâu thuẫn nên xảy ra
xô xát và đ-ợc can ngăn. Khoảng 15 phút sau thì Ngà rủ một số ng-ời

đến đánh Hoàng. Sau đó hại bên xông vào đánh nhau, hậu quả là anh
Hoàng phải đi cấp cứu và đến ngày 01/5/2009, anh Hoàng bị chết.
Anh Hoàng chết đi, còn có vợ và các con, mẹ đẻ là bà Sâm. Trong
quá trình điều tra, bà Sâm đã uỷ quyền cho ông Nguyễn ánh Hồng là chú
ruột liên hệ với cơ qaun điều tra và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ đề
giải quyết sự việc.


Toà án nhân dân tỉnh Đ đã xử phạt các bị cáo. Tron bản án Toà án
nhân dân tỉnh Đ xác định ông Nguyễn ánh Hồng là đại diện hợp pháp
của ng-ời bị hại; không đề cập đến vấn đề bồi th-ờng thiệt hại.
Do không đồng ý, chị Huệ là vợ anh Hoàng có đơn kháng cáo gửi
Toà án nhân dân tỉnh Đ với nội dung gia đình chị không nhận đ-ợc
quyết định đ-a vụ án ra xét xử, nên không có mặt tại Toà án phiên toà sơ
thẩm. Nay chị biết đ-ợc yêu cầu kháng cáo tăng phần bồi th-ờng và
phần hình phạt đối với các bị cáo vì bản sơ thẩm không xem xét đến.
Do đó Toà án nhân Tối cao đã kháng nghị huỷ bản trên của Toà án
nhân dân tỉnh Đ và đã huỷ toàn bộ bản án để xét xử lại.
Qua vụ án trên cho thấy, về tội danh và hình phạt đối với các bị
cáo trong vụ án này mà Toà án cấp sơ thẩm đã tuyên đúng, sai, nặng
nhẹ có lẽ không đề cập đến mà muốn đề cập đến trong vụ án này Toà
án sơ thẩm xác định ông Hồng là ng-ời đại diện hợp pháp cho ng-ời bị
hại, trong khi đó anh Hoàng còn có vợ, các con và mẹ đẻ của anh toà
án không xác định là ng-ời đại diện hợp pháp của ng-ời bị hại và
không triệu tập họ đến tham phiên toà là trái với quy định của
BLTTHS.
Ng-ời đại diện hợp pháp của ng-ời bị hại bao gồm: Ng-ời đại diện
đ-ơng nhiên và ng-ời đại do đ-ợc uỷ quyền.
Ng-ời đại diện hợp pháp đ-ơng nhiên của ng-ời bị hại là ng-ời mà
theo pháp luật họ đ-ơng nhiên đ-ợc tham gia tố tụng để bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của ng-ời bị hại hoặc của chính bản thân họ. Theo
quy định của BLTTHS thì trong các tr-ờng hợp ng-ời bị hại chết,
ng-ời bị hại là ng-ời ch-a thành niên, ng-ời có nh-ợc điểm về tinh
thần hoặc về thể chất thì phải có ng-ời đại diện hợp pháp tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ng-ời bị hại hoặc của
chính bản thân họ.
Đối với ng-ời bị hại chết, thì ng-ời thân thích của họ là ng-ời đại
diện hợp pháp, nh-ng không phải tất cả những ng-ời thân thích của

ng-ời bị hại chết đều đ-ơng nhiên là ng-ời đại diện hợp pháp của ng-ời
bị hại mà tr-ớc hết những ng-ời thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ng-ời
bị hại là ng-ời đại diện hợp pháp; nếu không có ng-ời thuộc hàng thừa
kế thứ nhất thì những ng-ời thuộc hàng thừa kế thứ hai của ng-ời bị hại
là ng-ời đại diện hợp pháp; nếu không có ng-ời thuộc hàng thừ kế thứ
hai thì ng-ời thuộc hàng thừa kế thứ ba là ng-ời đại diện hợp pháp của
ng-ời bị hại.
Khi xác định ng-ời đại diện hợp pháp đ-ơng nhiên của ng-ời bị
hại cần chú ý tr-ờng hợp ng-ời bị hại chết mà có từ hai ng-ời trở lên
đều là ng-ời đại diện của ng-ời bị hại, mà cơ quan điều tra và Viện
kiểm sát ch-a xác định hoặc xác định còn thiếu, thì Toà án h-ớng dẫn
họ cử một ng-ời thay mặt họ làm ng-ời đại diện hợp pháp của ng-ời bị
hại (nếu quyền và lợi ích của họ không mâu thuẫn với nhau); nếu họ
không cử đ-ợc ng-ời thay mặt họ làm ng-ời đại diện hợp pháp của
ng-ời bị hại hoặc quyền và lợi ích của họ mâu thuẫn với nhau thì phải
xác định tất cả những ng-ời là ng-ời đại diện hợp pháp của ng-ời bị
hại. Trên nhiều cơ sở đó để giới thiệu việc xác định tr-ờng hợp nhiều
ng-ời cùng là ng-ời đại diện hợp pháp của ng-ời bị hại và về quyền
kháng cáo của ng-ời đại diện hợp pháp của ng-ời bị hại.
Ng-ời đại diện hợp pháp theo uỷ quyền của ng-ời bị hại: Ng-ời
đại diện hợp pháp của ng-ời bị hại theo uỷ quyền là ng-ời đ-ợc ng-ời

bị hại hoặc ng-ời đại diện hợp pháp đ-ơng nhiên của ng-ời bị hại uỷ
quyền tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ng-ời
bị hại hoặc của chính mình.
Khác với ng-ời đại diện hợp pháp đ-ơng nhiên của ng-ời bị hại,
ng-ời đại diện hợp pháp theo uỷ quyền khi tham gia tố tụng chỉ đ-ợc
thực hiện những quyền và nghĩa vụ trong phạm vi đ-ợc uỷ quyền.
Ng-ời bị hại hoặc ng-ời đại diện hợp pháp đ-ơng nhiên có thể uỷ
quyền toàn bộ quyền và nghĩa vụ của mình cho ng-ời đại diện hợp
pháp đ-ợc uỷ quyền, nh-ng cũng có thể chỉ uỷ quyền một số quyền và
nghĩa vụ nhất định, Đây là vấn đề thực tiễn xét xử các Toà án th-ờng


mắc sai lầm, cứ cho rằng ng-ời bị hại hoặc ng-ời đại diện hợp pháp
đ-ơng nhiên đã uỷ quyền cho ng-ời khác thì ng-ời đ-ợc uỷ quyền có
tất cả các quyền và nghĩa vụ của ng-ời đã uỷ quyền nên khi giải quyết
vụ án đã không chú ý đến phạm vi đ-ợc uỷ quyền.
Tr-ờng hợp có nhiều ng-ời bị hại hoặc nhiều ng-ời đại diện hợp
pháp đ-ơng nhiên của bị hại, trong đó có ng-ời uỷ quyền cho ng-ời
khác có ng-ời tự mình tham gia tố tụng thì ng-ời đ-ợc uỷ quyền chỉ
đ-ợc thực hiện phạm vi quyền và nghĩa vụ của ng-ời đã uỷ quyền cho
mình, chứ không đ-ợc thực hiện quyền và nghĩa vụ vủa tất cả những
ng-ời đại diện đ-ơng nhiên của ng-ời bị hại.

đại diện hợp pháp không? và họ có đ-ợc tham gia tố tụng và có đ-ợc
h-ởng các quyền của ng-ời bị hại không? Thực tiễn xét xử cho thấy
trong tr-ờng hợp ng-ời bị hại là ng-ời ch-a thành niên, ng-ời có nh-ợc
điểm về thể chất tinh thần các CQTHTT vẫn xác định có đại diện hợp
pháp của ng-ời bị hại và đ-a họ vào tham gia tố tụng với t- cách là
ng-ời đại diện hợp pháp của ng-ời bị hại để tiến hành xét xử và cho họ
h-ởng các quyền nh- ng-ời bị hại .


Để bảo đảm việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của ng-ời đại diện
hợp pháp đ-ợc uỷ quyền của ng-ời bị hại thì việc uỷ quyền phải đ-ợc
thực hiện bằng văn bản theo đúng quy định của pháp luật về uỷ quyền.
Ng-ời đ-ợc uỷ quyền không đ-ợc uỷ quyền lại cho ng-ời khác (ng-ời
thứ ba) tham gia tố tụng, nếu ng-ời bị hại đồng ý để ng-ời thứ ba
(ng-ời đ-ợc uỷ quyền lại) tham gia tố tụng thì ng-ời bị hại hoặc đại
diện hợp pháp đ-ơng nhiên của bị hại phải làm lại văn bản uỷ quyền
cho ng-ời thứ ba.

Việc các CQTHTT xác định đại diện hợp pháp của ng-ời bị hại
trong tr-ờng hợp đã nêu trên là không chính xác vì khoản 5 điều 51
BLTTHS chỉ quy định trong tr-ờng hợp ng-ời bị hại chết thì mới có
đại diện hợp pháp, còn ng-ời bị hại ch-a thành niên, ng-ời có nh-ợc
điểm về thể chất hoặc tâm thần nếu cần phải có ng-ời bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ thì đã có ng-ời bảo vệ quyền và lợi của đ-ơng
sự đ-ợc quy định tại Điều 59 BLTTHS. Chúng tôi cũng đồng tình với
quan điểm này vì theo tinh thần của quy định tại Điều 59 BLTTHS thì
ng-ời bị hại là ng-ời ch-a thành niên, ng-ời có nh-ợc điểm về thể chất
và tinh thần thì ng-ời bảo vệ quyền lợi cho ng-ời bị hại là luật s-, bào
chữa viên nhân dân và có thể là ng-ời khác đ-ợc tham gia tố tụng để
bảo vệ quyền và lợi ích của ng-ời bị hại. Nội dung các quyền của
ng-ời này không khác nhiều so với nội dung các quyền quy định cho
ng-ời bị hại (Điều 51). Vì vậy, thực tế gặp tr-ờng hợp này CQTHTT
th-ờng cho phép đại diện hợp pháp của ng-ời bị hại là ng-ời ch-a
thành niên, ng-ời có nh-ợc điểm về tâm thần hoặc thể chất sử dụng
các quyền của ng-ời bị hại nh- tinh thần của khoản 5 Điều 51
BLTTHS.

Theo khoản 5 Điều 51 BLTTHS quy định: Trong tr-ờng hợp

Ng-ời bị hại chết thì ng-ời đại diện hợp pháp có những quyền đ-ợc
quy định tại điều này. Nếu căn cứ vào quy định này thì chỉ có tr-ờng
hợp ng-ời bị hại chết thì mới có đại diện hợp pháp của ng-ời bị hại.
Vậy tr-ờng hợp ng-ời bị hại không chết mà là ng-ời ch-a thành niên,
ng-ời có nh-ợc điểm về tâm thần, thể chất khi tham gia tố tụng thì có

BLTTHS chỉ quy định tr-ờng hợp ng-ời bị hại chết mà ch-a
quy định tr-ờng hợp ng-ời bị hại mất tích. Vậy tr-ờng hợp ng-ời bị hại
đ-ợc xác định là mất tích thì vấn đề ng-ời đại diện hợp pháp của họ
đ-ợc quy định và giải quyết nh- thế nào? Họ có đ-ợc phép tham gia tố
tụng và đ-ợc thực hiện các quyền của ng-ời bị hại không? Thực tiễn
giải quyết vụ án cho thấy CQTHTT giải quyết không thống nhất với

Ví dụ: ông A là ng-ời bị hại trong vụ án giết ng-ời, ông A chết
còn có vợ, bố, mẹ đẻ. Những ng-ời này đều là ng-ời đại diện hợp pháp
của ng-ời bị hại nh-ng chỉ có vợ ông A uỷ quyền cho ông B là em ông
A tham gia tố tụng thì ông B chỉ đ-ợc thực hiện quyền và nghĩa vụ mà
vợ ông A uỷ quyền, chứ không đ-ợc thực hiện quyền và nghĩa vụ của
bố và mẹ ông A, vì ông B không đ-ợc bố và mẹ ông A uỷ quyền.


nhau. Chẳng hạn nh- trong vụ án mà bị cáo bị truy tố về tội mua bán
phụ nữ, những ng-ời phụ nữ bị mua bán không có địa chỉ, họ cũng
không có th- từ gì nhờ ng-ời khác bảo vệ quyền lợi của mình.
Có ý kiến cho rằng, thân nhân của ng-ời phụ nữ bị mua bán này
tham gia tố tụng không phải là ng-ời đại diện hợp pháp của ng-ời bị
hại mà chỉ là ng-ời có quyền, nghĩa vụ liên quan, và trong tr-ờng hợp
ng-ời bị hại mất tích nếu do việc ng-ời phụ nữ bị mua bán mà ng-ời
thân của họ phải mất thời gian và tiền bạc, công sức vào việc tìm
kiếm tức là có bị thiệt hại về vật chất và có yêu cầu bồi thường thì

xác định là nguyên đơn dân sự.
Nh-ng có ý kiến cho rằng trong tr-ờng hợp ng-ời bị hại mất tích
hoặc tuy ch-a xác định là mất tích thì ng-ời thân thích của ng-ời bị hại
tham gia tố tụng với t- cách là ng-ời đại diện hợp pháp của ng-ời bị
hại;
Theo quan điểm của chúng tôi, trong tr-ờng hợp trên do pháp luật
TTHS không quy định cụ thể nên xác định ng-ời thân của ng-ời bị hại
bị mất tích là ng-ời đại diện hợp pháp cho ng-ời bị hại vì ng-ời thân
của họ nếu là ng-ời đại diện hợp pháp của họ thì họ có quyền nhng-ời bị hại. Vì vậy, sẽ đảm bảo và bảo vệ đ-ợc quyền lợi hợp pháp
cho ng-ời bị hại. Nếu coi là ng-ời liên quan, nguyên đơn dân sự thì
không chính xác và nếu xác định nh- vậy thì ng-ời bị hại sẽ bị thiệt
thòi vì quyền của ng-ời bị hại rộng hơn quyền của ng-ời có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự.
Trong tr-ờng hợp ng-ời đại diện hợp pháp của ng-ời bị hại có
quyền và nghĩa vụ mâu thuẫn với nhau thì giải quyết nh- thế nào? Cho
đến nay vấn đề này ch-a đ-ợc cơ quan có thẩm quyền h-ớng dẫn cụ
thể mà chỉ đ-ợc thể hiện trong kết luận của Chánh án Toà án Nhân dân
tối cao tại hội nghị tổng kết ngành năm 1990. Trong tr-ờng hợp này
mặc dù vẫn có ý kiến khác nhau nh-ng theo chúng tôi cần xác định họ
đều là những ng-ời đại hiện hợp pháp của ng-ời bị hại và họ có quyền

và nghĩa vụ tham gia tố tụng nh- nhau. Tuy nhiên, khi tham gia tố tụng
Toà án cần yêu cầu những ng-ời có cùng quyền lợi cử một ng-ời tham
gia, nh-ng Toà án cần quyết định riêng đối với từng ng-ời, những
ng-ời không tham gia tố tụng phải làm thủ tục uỷ quyền cho ng-ời
tham gia tố tụng.
- Vấn đề trình bày lời buộc tội của ng-ời bị hại hoặc ng-ời đại
diện hợp pháp của ng-ời bị hại.
Khoản 3 Điều 51 BLTTHS quy định Trong tr-ờng hợp vụ án đ-ợc
khởi tố theo yêu cầu của ng-ời bị hại quy định tại Điều 105 của Bộ

luật này thì ng-ời bị hại hoặc ng-ời đại diện hợp pháp của họ trình
bày lời buộc tội tại phiên toà.
Mặc dù BLTTHS quy định trong tr-ờng hợp vụ án đ-ợc khởi tố
theo yêu cầu của ng-ời bị hại thì ng-ời bị hại hoặc ng-ời đại diện hợp
pháp của họ có quyền trình bày lời buộc tội tại phiên toà, nh-ng lại
không quy định cụ thể trình tự về việc trình bày lời buộc tội đó nh- thế
nào. Tại Điều 217 BLTTHS quy định về trình tự tranh luận tại phiên
toà cũng không thấy quy định về việc trình bày lời buộc tội của ng-ời
bị hại hoặc ng-ời đại diện hợp pháp của họ. Do BLTTHS không quy
định cụ thể nh- vậy nên có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, ng-ời bị hại và ng-ời đại diện hợp
pháp của họ đ-ợc trình bày lời buộc tội vào thời điểm mở đầu tranh
luận. Trong tr-ờng hợp này họ sẽ trình bày lời buộc tội tr-ớc, sau đó
Kiểm sát viên trình bày ý kiến bổ sung.
Quan điểm khác lại cho rằng, trong các vụ án đ-ợc khởi tố theo
yêu cầu của ng-ời bị hại thì phần tranh luận nên thực hiện trình tự:
đầu tiên là Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, sau đó bị cáo hoặc
ng-ời bào chữa thực hiện bào chữa, tiếp đến ng-ời bị hại hoặc đại
diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội.
Chúng tôi không đồng ý với cả hai quan điểm trên, bởi lẽ: Kiểm
sát viên là ng-ời đại diện cho Viện Kiểm sát thực hành quyền công tố


tại phiên toà. Qua xét hỏi tại phiên toà, nếu thấy cáo trạng của Viện
kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ thì tại phần tranh luận Kiểm sát
viên phải trình bày lời luận tội để bảo vệ cáo trạng. Tr-ờng hợp không
có căn cứ để kết tội bị cáo thì kiểm sát viên trình bày lời luận tội để rút
quyết định truy tố. Vì vậy không thể để cho ng-ời bị hại hoặc ng-ời
đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tr-ớc rồi Kiểm sát viên
trình bày ý kiến bổ sung. Vì nh- vậy sẽ làm mờ nhạt chức năng thực

hành quyền công tố tại phiên toà của Kiểm sát viên.
Nếu để ng-ời bị hại và ng-ời đại diện hợp pháp của họ trình bày
lời buộc tội sau khi ng-ời bào chữa và bị cáo đã bào chữa (quan điểm
thứ hai) thì cũng không hợp lý ở chỗ: bào chữa chính là việc bên bào
chữa dùng chứng cứ, lý lẽ để phản bác lại quan điểm của bên buộc tội.
Khi bên buộc tội ch-a đ-a ra lời buộc tội thể hiện quan điểm của mình
thì bên bào chữa sẽ bào chữa cái gì? Phải chăng chỉ bào chữa trên cơ sở
luận tội của Kiểm sát viên? Nh- vậy sẽ là mất ý nghĩa của lời buộc tội.
Theo chúng tôi, trong phiên toà xét xử vụ án đ-ợc khởi tố theo yêu
cầu của ng-ời bị hại nên để ng-ời bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ
trình bày lời luận tội ngay sau khi Kiểm sát viên trình bày lời luận tội.
Trình tự này vừa đảm bảo cho việc thực hành quyền công tố của Kiểm
sát viên tại phiên toà lại vừa đảm bảo quyền trình bày lời buộc tội của
ng-ời bị hại, đồng thời đảm bảo cho quyền bào chữa của bị cáo.
Vì BLTTHS không quy định cụ thể nội dung này nên trong thực
tiễn xét xử còn có nhiều hạn chế nh-: ng-ời bị hại hoặc đại hiện hợp
pháp của họ ít khi đ-ợc Hội đồng xét xử cho thực hiện quyền trình bày
lời buộc tội tại phiên toà. Những ng-ời tiến hành tố tụng tại phiên toà
d-ờng như quên hẳn nội dung này, với người bị hại trong vụ án được
khởi tố theo yêu cầu của ng-ời bị hại cũng nh- ng-ời bị hại trong các
vụ án thông thường, Th-ờng thì thẩm phán chủ toạ phiên toà đồng
nhất bị hại có yêu cầu khởi tố cũng nh- các bị hại khác trong vụ án khi
tham gia phiên toà và ng-ời bị hại chỉ đ-ợc phép tham gia tố tụng theo
thủ tụng bình th-ờng; có nghĩa là ở phần tranh luận họ chỉ đ-ợc trình

bày ý kiến; hoặc trong vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị
hại có luật s- bảo vệ quyền lợi cho ng-ời bị hại, khi luật s- và ng-ời bị
hại yêu cầu đ-ợc trình bày lời luận tội thì Thẩm phán chủ tọa phiên toà
lúng túng, không biết cho họ trình bày lời buộc tội vào thời điểm nào.
Theo chúng tôi có lẽ đây cũng là một khiếm khuyết của các quy định

pháp luật, thực chất cùng với các chủ thể khác nh- kiểm sát viên,
nguyên đơn dân sự, người bị hại cũng làm một bên trong tranh tụng,
hành vi tố tụng của ng-ời bị hại góp phần quan trọng trong tiến trình đi
tìm sự thật của vụ án, công lý và sự công bằng của pháp luật, đặc biệt
là trong những vụ án mà việc khởi tố phải do ng-ời bị hại yêu cầu.
- Vấn đề về nghĩa vụ khai báo của ng-ời bị hại hoặc ng-ời đại
diện hợp pháp của ng-ời bị hại.
Tại khoản 4 Điều 51 BLTTHS quy định nghĩa vụ khai báo của
ng-ời bị hại và nếu ng-ời bị hại không khai báo mà không có lý do
chính đáng có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 BLHS.
Theo quan sát của chúng tôi, cho đến nay ch-a có ng-ời bị hại nào bị
truy cứu trách nhiệm về tội từ chối khai báo theo Điều 308 BLHS;
đến nay ch-a có h-ớng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về tr-ờng hợp
từ chối khai báo có lý do chính đáng và cũng chính vì vậy có nhiều ý
kiến cho rằng quy định này là không thực tế. Mặt khác, đã là ng-ời bị
hại lại còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ về họ từ chối khai báo,
trong khi đó bị can, bị cáo là ng-ời bị buộc tội từ chối khai báo lại
không phải chịu trách nhiệm gì, nh- vậy là không công bằng. Thực
tiễn xử lý vụ án hình sự cho thấy không ít tr-ờng hợp ng-ời bị hại hoặc
ng-ời đại diện hợp pháp của họ bị kẻ phạm tội hoặc những ng-ời thân
của ng-ời này khống chế, đe doạ, mua chuộc, lừa dối hoặc có những
thủ đoạn khác làm cho người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp
của họ không thể thạm gia tố tụng hoặc không dám khai báo để bảo vệ
quyền và lợi ích của mình, không thể có mặt để thực hiện việc khai báo
theo yêu cầu của CQTHTT và vô hình chung họ lại phạm vào tội từ
chối khai báo theo Điều 308 Bộ luật hình sự. Chúng tôi cho rằng quyền


công dân bao giờ cũng đi đôi với nghĩa vụ công dân, việc khai báo của
ng-ời bị hại sẽ góp phần tìm ra sự thật của vụ án vì vậy khó có thể loại

bỏ quy định này. Tuy nhiên, làm thế nào để một tội danh đ-ợc quy
định có phải tính khả thi? Việc không truy cứu trách nhiệm hình sự
người bị hại nào về tội từ chối khai báo là do chúng ta ch-a có h-ớng
dẫn cụ thể thế nào là không có lý do chính đáng làm căn cứ áp dụng
và trong thực tế gặp tr-ờng hợp này cơ quan có thẩm quyền ch-a xử lý
nghiêm khắc. Để khắc phục tình trạng trên, bên cạnh quy định về bảo
vệ ng-ời làm chứng, cũng cần bổ sung quy định về bảo vệ ng-ời bị hại
khi ng-ời bị hại yêu cầu và CQTHTT có cơ sở cho rằng ng-ời bị hại bị
đe doạ
*

*
*

Tóm lại, qua nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS
Việt Nam quan các thời kỳ cho thấy, chế định ng-ời bị hại từ cách
mạng tháng 8/1945 ch-a đ-ợc quan tâm. Nh-ng pháp luật TTHS thời
kỳ này đến tr-ớc khi có BLTTHS năm 1988 đã đ-ợc đề cập đến một số
khía cạnh pháp lý đến ng-ời bị hại nh- ng-ời bị hại có quyền kháng
cáo, quyền yêu cầu bồi thường Đến khi có BLTTHS năm 1988, chế
định về ng-ời bị hại đã đ-ợc đề cầp t-ơng đối rộng, đầy đủ từ khái
niệm pháp lý đến các quyền của ng-ời bị hại, đại diện hợp pháp của
họ. Vị trí của ng-ời bị hại ngày càng đ-ợc quan tâm trong quá trình
giải quyết vụ án và thể hiện bằng Nhà n-ớc ta đã ban hành BLTTHS
năm 2003. Quy định của BLTTHS năm 2003 về ng-ời bị hại về cơ bản
vẫn kế thừa các quy định của BLTHS năm 1988 về ng-ời bị hại. Tuy
nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự hàng năm của ngành Toà
án vẫn có nảy sinh những v-ớng mắc trong việc áp dụng các quy định
về ng-ời bị hại nh- vẫn có tr-ờng hợp xác định sai t- cách ng-ời tham
gia tố tụng dẫn đến vụ án bị huỷ gây kéo dài ảnh h-ởng đến quyền và

lợi ích hợp pháp của ng-ời bị hại nói riêng và ng-ời tham gia tố tụng
nói chung. Hơn nữa trong các điều luật trong luật TTHS vẫn có sự mâu

thuẫn trong các điều luật nh- quyền, phạm vi kháng cáo của ng-ời bị
hại; quyền trình bày lời buộc tội của ng-ời bị hại và những v-ớng mắc
về việc xác định ng-ời đại diện hợp pháp của ng-ời bị hại trong tr-ờng
hợp ng-ời bị hại là ng-ời ch-a thành niên, ng-ời có nh-ợc điểm về thể
chất hoặc tinh thần, ng-ời bị hại trong tr-ờng hợp bị mất tích. Để đáp
ứng tiến trình cải cách t- pháp theo tình thẩn cải cách t- pháp của Nghị
quyết 49 ngày 02/62005 của Bộ chính trị, nhận thức về những vấn đề
ng-ời bị hại trong vụ án hình sự đ-ợc thống nhất và đầy đủ cần có sự
sửa đổi, bổ sung trong quy định của BLTTHS về ng-ời bị hại, ng-ời
đại diện hợp pháp của ng-ời bị hại.

Ch-ơng 3:
Hoàn thiện pháp luật TTHS về ng-ời bị hại
và những giải pháp đảm bảo sự tham gia có hiệu
quả của ng-ời bị hại trong quá trình giải quyết
vụ án.
3.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về ng-ời bị hại
Hiện nay quyền và nghĩa vụ của ng-ời bị hại đ-ợc quy định tại
Điều 51 BLTTHS. Theo quan sát của chúng tôi thì pháp luật tố tụng
hình sự về quyền và lợi ích hợp pháp của ng-ời bị hại qua quá trình tồn
tại và phát triển ngày càng đ-ợc bổ sung, sửa đổi đầy đủ và hoàn thiện
hơn. Tuy nhiên quá trình áp dụng cũng bộc lộ một số bất cập trong quy
định pháp luật cũng nh- thực tiễn áp dụng cần phải hoàn thiện đầy đủ
hơn.
Thứ nhất, về định nghĩa pháp lý của ng-ời bị hại, để thống nhất
trong thực tiến áp dụng chúng tôi đề nghị sửa đổi bổ sung quy định của
BLTTHS về khái niệm ng-ời bị hại.

Điều 51: Ng-ời bị hại là ng-ời, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về thể
chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra và đ-ợc CQTHTT công nhận.


Thứ hai, về vấn đề liên quan đến quyền của ng-ời bị hại: Ng-ời bị
hại là ng-ời bị thiệt hại về thể chất tinh thần, tài sản do tội phạm gây
ra. Do đó, BLTTHS quy định cho họ quyền t-ơng đối rộng nh- quyền
yêu cầu bồi th-ờng, quyền kháng cáo. Nh- đã phân tích ở trên, hiện
nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về quyền kháng cáo của ng-ời
bị hại và ng-ời đại diện hợp pháp của họ. Mặc dù, đã có h-ớng dẫn của
Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về quyền kháng cáo của
ng-ời bị hại nh-ng không chỉ rõ phạm vi kháng cáo của ng-ời bị hại và
ng-ời đại diện hợp pháp của họ và cũng không đáp ứng đ-ợc khiếm
khuyết của Điều 51 và Điều 231 của BLTTHS. Theo quan điểm chúng
tôi cần sửa lại nội dung Điều 51 BLTTHS theo h-ớng cho phép ng-ời
bị hại hoặc ng-ời đại hiện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo toàn
bộ bản án hoặc quyết định của toà án cấp sơ thẩm để thống nhất với
nội dung và tinh thần của điều 231 BLTTHS.
Điều 51: Ng-ời bị hại và đại diện hợp pháp của họ có quyền
kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án.
Thứ ba, vấn đề liên quan đến chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của
ng-ời bị hại.
Khác với ng-ời bị hại thông th-ờng, ng-ời bị hại có yêu cầu khởi
tố vụ án hình sự đ-ợc pháp luật tố tụng hình sự quy định một quyền
riêng đó là quyền được trình bày lời buộc tội quy định không cụ thể
nên trên thực tế ng-ời tiến hành tố tụng có nhận thức không thống nhất;
BLTTHS năm 2003 có quy định về nội dung này tại khoản 3 Điều 51
nh-ng không quy định rõ đó là quyền hay nghĩa vụ của ng-ời bị hại; các
quy định nh- vậy khiến cho dễ bị nhầm lẫn, ng-ời thi cho rằng đó là
quyền nh-ng cũng có ng-ời lại cho đó là nghĩa vụ dẫn tới việc thực hiện

không thống nhất.
Về nguyên tắc, trách nhiệm chứng minh trong tố tụng hình sự
thuộc về các CQTHTT, do đó, theo chúng tôi không thể coi việc buộc
tội là trách nhiệm của ng-ời bị hại đã yêu cầu khởi tố.

Cần bổ sung thêm quy định tại khoản 3 Điều 51 BLTTHS theo
h-ớng quy định cụ thể việc trình bày lời buộc tội là quyền của người
bị hại; cụ thể nên sửa đổi quy định tại đoạn này nh- sau:
3. Trong tr-ờng hợp khởi tố theo yêu cầu của ng-ời bị hại quy
định tại Điều 105 của Bộ luật này thì ng-ời bị hại hoặc đại diện của
họ có quyền trình bày lời buộc tội.
2. Sửa đổi quy định tại Điều 105 BLTTHS về khởi tố vụ án theo
yêu cầu của ng-ời bị hại
Thực tiễn áp dụng chế định này cho thấy có những vụ án cho đến
khi xét xử, qua diễn biến tại phiên toà giữa bị hại và bị cáo mới tìm
thấy sự cảm thông thực sự, muốn dàn xếp theo thoả thuận giữa hai bên,
lúc này ng-ời bị hại muốn rút yêu cầu nh-ng theo quy định của pháp
luật thì không đ-ợc, vụ án vẫn phải đ-ợc xét xử. BLTTHS chỉ cho phép
rút yêu cầu tr-ớc khi mở phiên toà sơ thẩm. Chúng tôi cho rằng, quy
định nh- vậy là khá cứng nhắc, nên trong thực tế một số vụ án vẫn
chưa đạt được mục đích là làm yên dân, vụ án đã được xét xử xong
rồi nh-ng ng-ời dân không thoả mãn, hai bên vẫn còn mâu thuẫn. Bởi
vậy, chúng tôi đề nghị nên quy định quyền này của ng-ời bị hại một
cách xuyên suốt các hoạt động tố tụng từ giai đoạn sơ thẩm đến phúc
thẩm với nguyên tắc chung là giải quyết vụ án hình sự, dân sự là nhằm
tới mục đích bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
đảm bảo trật tự an toàn xã hội, tôn trọng các xử sự thoả thuận giải
quyết mâu thuẫn nhỏ trong nhân dân và chính là làm yên dân. Nên
chăng cần sửa đổi nội dung này theo h-ớng quy định mở rộng phạm vi
quyền rút yêu cầu của ng-ời bị hại đến tr-ớc khi mở phiên toà phúc

thẩm.
3. Sửa đổi quy định tại Điều 217 BLTTHS năm 2003 về trình tự
phát biểu khi tranh luận.
Thực tiễn áp dụng chế định này còn có rất nhiều vấn đề đặt ra,
hầu hết các vụ án khởi tố theo yêu cầu ng-ời bị hại tại các phiên toà


xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, ng-ời bị hại hoặc ng-ời đại diện hợp pháp
của họ không trình bày lời buộc tội có chăng chỉ là trả lời các câu hỏi
do ng-ời tiến hành tố tụng đặt ra có tính chất buộc tội đối với bị cáo.
Qua nghiên cứu việc áp dụng thấy, sở dĩ có hiện t-ợng trên là nhiều lý
do:
Thứ nhất, họ ch-a đ-ợc báo tr-ớc là có quyền và có trách
nhiệm trình bày lời buộc tội tại phiên toà.
Thứ hai, về trình tự thủ tục ch-a có quy định cụ thể ng-ời bị hại
hoặc ng-ời đại diện hợp pháp của họ đ-ợc trình bày lời buộc tội vào lúc
nào tại phần nào trong quá trình xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Nh- vậy, cả
hai BLTTHS năm 1988 và năm 2003 đều chỉ mới quy định ở phần chung
là ng-ời bị hại có quyền buộc tội nh-ng không quy định cụ thể thủ tục
để thực hiện quyền này. Các văn bản h-ớng dẫn cũng ch-a đề cập đến
nội dung này nên quá trình thực hiện còn gặp nhiều lúng túng, ở một số
vụ án có luật s- tham gia cứ nhất thiết đòi phải thực hiện quyền buộc tội
của ng-ời bị hại thì Chủ toạ phiên toà không biết xử lý nh- thế nào cho
đúng.
Chúng tôi cho rằng quyền trình bày lời buộc tội của người bị
hại trong những vụ án khởi tố theo yêu cầu của ng-ời bị hại là quy
định có tính nguyên tắc nhằm xác định quyền nh-ng cũng là trách
nhiệm của ng-ời bị hại khi tham gia tố tụng. Do BLTTHS ch-a có quy
định cụ thể về thủ tục nên khi thực hiện quyền này còn có nhiều v-ớng
mắc; do đó, đay là vấn đề cần đ-ợc quan tâm nghiên cứu trong dịp sửa

đổi, bổ sung BLTTHS lần tới
Tuy nhiên so với yêu cầu đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
ng-ời bị hại, chế định này cũng đã bộc lộ một số bất cập. Chẳng hạn:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 51 BLTTHS, trong tr-ờng hợp vụ án
đ-ợc khởi tố theo yêu cầu của ng-ời bị hại quy định tại Điều 105 Bộ luật
này thì ng-ời bị hại hoặc ng-ời đại diện hợp pháp của họ trình bày lời
buộc tội tại phiên toà. Đây là một nội dung đã đ-ợc quy định từ những

năm 1988, qua các lần sửa đổi, bổ sung, BLTTHS vẫn giữ nguyên quy
định này. Tuy nhiên, cho đến nay ch-a có h-ớng dẫn của cơ quan có
thẩm quyền về việc ng-ời bị hại trình bày lời buộc tội bị cáo tại phiên
toà nh- thế nào. Tr-ờng hợp nếu ng-ời bị hại trình bày lời buộc tội thì
kiểm sát viên tham gia phiên toà có trình bày lời buộc tội nữa không?
Lời buộc tội của ng-ời bị hại có giá trị nh- thế nào? Sự có mặt của ng-ời
bị hại trong tr-ờng hợp này có bắt buộc nh- đối với kiểm sát viên
không? Thực tiễn xét xử cho thấy mọi việc đều do kiểm sát viên thực
hiện, còn ng-ời bị hại trong tr-ờng hợp này cũng không có gì đặc biệt so
với ng-ời bị hại trong các vụ án khác. Hơn nữa, bản thân quy định này
cũng ch-a thật đầy đủ và phù hợp, chẳng hạn trong giai đoạn tr-ớc khi
mở phiên toà thì ng-ời bị hại có các quyền hạn cụ thể nào, cách thức
thực hiện các quyền đó ra sao cũng ch-a đ-ợc quy định rõ. Chúng tôi
cho rằng đối với vụ án đ-ợc khởi tố theo yêu cầu của ng-ời bị hại phải
khác so với vụ án thông th-ờng, quyền của ng-ời bị hại đ-ợc thể hiện
trong suốt quá trình tố tụng chứ không chỉ đơn thuần là trình bày lời
buộc tội tại phiên toà nh- quy định hiện nay. Từ thực trạng nêu trên
chúng tôi đề nghị:
Thứ nhất, nghiên cứu để mở rộng hơn nữa phạm vi các tội mà cơ
quan có thẩm quyền chỉ đ-ợc khởi tố khi có yêu cầu của ng-ời bị hại.
Theo chúng tôi nên mở rộng đối với các tội xâm phạm sở hữu, các tội
xâm phạm danh dự, nhân phẩm và chỉ áp dụng đối với các tội ít nghiêm

trọng.
Thứ hai, nghiên cứu để bổ sung các quyền của ng-ời bị hại trong
giai đoạn tr-ớc xét xử, theo h-ớng cho phép ng-ời bị hại hoặc ng-ời
đại diện hợp pháp của họ có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết
liên quan đến vụ án nếu không thuộc bí mật nhà n-ớc để phục vụ cho
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ng-ời bị hại.
Thứ ba, cần quy định cụ thể thủ tục tố tụng riêng cho tr-ờng hợp
khởi tố theo yêu cầu của ng-ời bị hại. Theo chúng tôi thủ tục này nên
quy định theo h-ớng chỉ có ng-ời bị hại mới có quyền đ-a một ng-ời


ra xét xử tại phiên toà, và tất nhiên ở đây quyền công tố không còn
nữa. Sự tham gia phiên toà của Viện kiểm sát lúc này chỉ thực hiện
chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật chứ không thực hiện chức
năng buộc tội. Toà án đ-a vụ án ra xét xử trên cơ sở đề nghị của ng-ời
bị hại. Tại phiên toà kiểm sát viên không đọc bản cáo trạng mà ng-ời
bị hại hoặc ng-ời đại diện hợp pháp của họ trình bày lời cáo buộc của
mình tr-ớc khi tiến hành xét hỏi. Kiểm sát viên cũng không trình bày
lời luận tội mà sẽ do ng-ời bị hại hoắc đại diện hợp pháp của ng-ời bị
hại trình bày. Trong tr-ờng hợp này ng-ời bị hại, đại diện hợp pháp
của họ bắt buộc phải có mặt tại phiên toà, nếu vắng mặt thì phải hoãn
phiên toà, kiểm sát viên không bắt buộc phải có mặt tại phiên toà.

- Bổ sung thêm vào nội dung tr-ờng hợp ng-ời bị hại là ng-ời
ch-a thành niên, ng-ời có ng-ợc điểm về tâm thần, thể chất khi tham
gia tố tụng thì đại diện hợp pháp của họ đ-ợc tham gia tố tụng và đ-ợc
h-ởng các quyền tại Điều 51 BLTTHS nh- ng-ời bị hại.

Thứ t-, vấn đề liên quan đến đại diện hợp pháp của ng-ời bị hại:
Tại khoản 5 Điều 51 BLTTHS quy định Trong tr-ờng hợp ng-ời bị

hại chết thì ng-ời đại diện hợp pháp của họ có những quyền quy định
tại điều này. Như vậy, theo quy định này thì chỉ trong trường hợp
ng-ời bị hại hại chết thì mới có ng-ời đại diện hợp pháp. Nh-ng trong
thực tế còn rất nhiều tr-ờng, khi tham gia tố tụng ng-ời bị hại phải có
ng-ời đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng để đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp chọ họ chẳng hạn nh-: Ng-ời bị hại là ng-ời ch-a
thành niên hoặc ng-ời có nh-ợc điểm về thể chất, hoặc tinh thần, ng-ời
bị hại mất tích. Trong tr-ờng hợp này họ không thể tự mình tham gia
tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đ-ợc mà phải có
ng-ời đại diện hợp pháp của họ tham gia để bảo vệ quyền lợi cho họ.
Nh- đã phân tích ở trên, có rất nhiều quan điểm khác nhau để giải
quyết tr-ờng hợp này nh-ng ch-a có quan điểm chính thống vì ch-a có
căn căn pháp lý, cũng không có tiền lệ nào đ-ợc xác định là mẫu mực.
Nh-ng vấn đề đặt ra vẫn buộc chúng ta phải giải quyết, để tranh sự vận
dụng pháp luật một cách thống nhất. Do vậy, cần sửa đổi, bổ sung quy
định của Điều 51 BLTTHS thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Cụ
thể:

- Khi tham gia tố tụng trong vụ án có nhiều ng-ời đại điện hợp pháp
cho ng-ời bị hại, Toà án cần yêu cầu những ng-ời có cùng quyền lợi cử
một ng-ời tham gia, nh-ng Toà án cần quyết định riêng đối với từng
ng-ời, những ng-ời không tham gia tố tụng phải làm thủ tục uỷ quyền cho
ng-ời tham gia tố tụng.

- Bổ sung tr-ờng hợp ng-ời bị hại mất tích thì ng-ời đại diện hợp
pháp của ng-ời bị hại mất tích đ-ợc tham gia tố tụng và đ-ợc thực
hiện các quyền của ng-ời bị hại.
- Tr-ờng hợp ng-ời bị hại không còn ai là ng-ời thân thì
CQTHTT yêu cầu đoàn luật s- phân công văn phòng luật s- cử ng-ời
bảo vệ quyền lợi cho họ.


Tất cả những sửa đổi trên đây nếu đ-ợc chấp nhận sẽ có thể đảm
bảo chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của ng-ời bị hại đi vào thực
chất, quyền và lợi ích hợp pháp của ng-ời bị hại mới đ-ợc đảm bảo.
3.2. Những giải pháp đảm bảo sự tham gia có hiệu quả của
ng-ời bị hại trong quá trình giải quyết vụ án.
Để nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BL TTHS Việt Nam về
ng-ời bị hại của các CQTTHS. Chúng tôi đề xuất một số việc nh- sau:
- Tăng c-ờng sự h-ớng dẫn đầy đủ và kịp thời về một số vấn đề
có liên quan đến ng-ời bị hại của các cơ quan t- pháp trung -ơng
và một số ngành có liên quan.
Chúng ta thấy rằng mặc dù trong BLTTHS đã có quy định về
những vấn đề ng-ời bị hại trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án
hình sự. Nh-ng để xác định đ-ợc những vấn đề này, trong thực tiễn
hoạt động của mình các CQTHTT phải xác định chính xác ng-ời tham


gia tố tụng trong đó có ng-ời bị hại hoặc đại diện hợp pháp của ng-ời
bị hại trong vụ án thì mới giúp cho việc giải quyết vụ án đ-ợc chính
xác kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ng-ời bị hại, khắc
phục thiệt hại nhỏ nhất cho ng-ời bị hại. Bởi vậy cần có sự h-ớng dẫn
kịp thời và đầy đủ của các ngành, liên ngành có thẩm quyền để tạo cơ
sở cho sự nhận thức thống nhất của các CQTHTT, ng-ời THTT về
những tình tiết là dấu hiệu pháp lý của ng-ời tham gia tố tụng trong đó
có ng-ời bị hại cũng nh- tạo điều kiện thuận lợi cho các CQTHTT giải
quyết triệt để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của ng-ời bị hại,
tránh để vụ án kéo dài, mất thời gian.
- Tăng c-ờng công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật, thực
hiện có hiệu quả các biện pháp bảo đảm cho công dân tham gia tích
cực tham gia vào việc đấu tranh chống tội phạm.

Thực tiễn cho thấy còn có một bộ phận dân c- do thiếu hiểu biết về
pháp luật nên đôi khi còn có thái độ tiêu cực trong đấu tranh chống tội
phạm do sợ mất thời gian, sợ liên lụy tới pháp luật, sợ bị trả thù...nên
không tích cực tham gia vào việc tố giác tội phạm. Thậm chí có ng-ời
còn vì những lý do cá nhân khác nhau mà cung cấp những thông tin
thiếu chính xác, sai sự thật gây khó khăn cho CQTHTT trong quá trình
giải quyết vụ án. Bởi vậy công tác tuyên truyền giáo dục cho nhân dân
là cần thiết và cần đ-ợc thực hiện bằng nhiều hình thức nh-: thông qua
các ph-ơng tiện thông tin đại chúng, thông qua các đoàn thể quần
chúng, thông qua việc tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật d-ới
dạng sân khấu hoá... và đặc biệt quan tâm hơn nữa công tác giáo dục
pháp luật trong các tr-ờng học để khi tham gia tố tụng họ có thể tự bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cũng góp phần giúp cho
CQTHTT làm sáng tỏ đ-ợc vụ án.
Thực hiện tốt công tác tiếp nhận và xử lý tin báo tố giác tội phạm.
Đảm bảo điều kiện thuận tiện cho nhân dân tham gia vào việc đấu
tranh phòng chống tội phạm nh- đa dạng hoá các hình thức tiếp nhận
tin báo (nhận tin trực tiếp, qua hòm th- tố giác...) đồng thời đảm bảo

an toàn cho những ng-ời tố giác tội phạm, ng-ời bị hại, ng-ời làm
chứng. Đối với những ng-ời có thành tích trong công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm cần đ-ợc khen th-ởng kịp thời cả về tinh thần
và vật chất.
- Nâng cao trình độ pháp lý nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm và
đạo đức nghề nghiệp của những ng-ời THTT.
Bên cạnh việc tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ theo quy định chung
trong giai đoạn hiện nay thì đòi hỏi phải th-ờng xuyên bồi d-ỡng kiến
thức pháp lý và kinh nghiệm thực tiễn trong việc xác định ng-ời tham
gia TTHS nói chung và ng-ời bị hại nói riêng cho những ng-ời THTT.
Tăng c-ờng công tác tổng kết rút kinh nghiệm, phát hiện những tồn tại

sai sót trong hoạt động TTHS liên quan đến việc xác định ng-ời tham
gia tố tụng trong đó có ng-ời bị hại để khắc phục uốn nắn kịp thời.
Làm rõ trách nhiệm đối với những ng-ời để xảy ra sai sót trên cơ sở đó
xem xét xử lý tuỳ theo mức độ vi phạm. Đối với những ng-ời cố ý vi
phạm thì cần nghiêm khắc xử lý để từ đó nâng cao hơn nữa ý thức
trách nhiệm và phẩm chất đạo đức của đội ngũ những ng-ời THTT.
- Thực hiện tốt sự phân công, chỉ đạo phối hợp trong giải quyết
án hình sự.
Trong mỗi cơ quan THTT cần có sự bố trí hợp lý những cán bộ có
năng lực sở tr-ờng trong lĩnh vực TTHS để họ đảm nhận nhiệm vụ và
phát huy đ-ợc khả năng trong quá trình TTHS. Thậm chí trong đó có
một số ng-ời lại có kinh nghiệm và khả năng chuyên sâu trong hoạt
động tố tụng đối với một số loại tội phạm cụ thể. Bởi vậy lãnh đạo từng
cơ quan phải biết phát huy điểm mạnh của từng ng-ời để giao nhiệm
vụ cho họ. Đồng thời cần có sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo trong quá
trình giải quyết án hình sự nói chung, trong việc giải quyết từng vấn đề
của vụ án nói riêng, để kịp thời tháo gỡ những khó khăn v-ớng mắc đối
với những vụ án phức tạp gặp nhiều khó khăn trong việc xác định
phạm vi đối t-ợng chứng minh, cũng nh- việc chứng minh từng vấn đề


thì cần phát huy trí tuệ của tập thể đơn vị, thậm chí cần phối hợp với
các cơ quan THTT có liên quan để có đ-ợc biện pháp giải quyết tối -u
đúng với quy định của pháp luật.
*

*
*

Ng-ời bị hại nói riêng và ng-ời tham gia tố tụng trong TTHS nói

chung có vai trò lớn trong việc chứng minh tội phạm, xác định sự thật
khách quan vụ án, tránh bỏ lọt tội phạm làm oan ng-ời vô tội, nh-ng
quá trình thực thi trên thực tế đã thấy có nhiều v-ớng mắc trong các
quy định của pháp luật về ng-ời bị hại, ng-ời đại diện hợp pháp của
ng-ời bị hại. Vì vậy, cần có những giải pháp đồng bộ và phù hợp để có
thể nâng cao hiệu quả tham gia tố tụng của ng-ời bị hại và việc áp dụng
thống nhất pháp luật tố tụng về ng-ời bị hại, ng-ời đại diện hợp pháp của
họ cũng góp phần cho thành công của công cuộc cải cách t- pháp nh- tinh
thần của Nghị quyết 49 đã đề ra xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách
nhiệm của ng-ời tiến hành tố tụng và ng-ời tham gia tố tụng theo
hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh. Những giải
pháp đó có thể là hoàn thiện nhiều lĩnh vực khác nhau của pháp luật
nh- những sửa đổi trong Bộ luật TTHS, trong các văn bản pháp luật
khác về các cơ quan t- pháp và bổ trợ t- pháp, các văn bản pháp luật về
tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, Tòa án.., tạo ra những cơ chế
đảm bảo cho cho ng-ời bị hại, ng-ời đại diện hợp pháp của họ thực
hiện tốt các quyền của mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình và góp phần hiểu quả trong công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm.
Và với tất cả những giải pháp đó có thể ch-a chuẩn xác và hoàn
toàn đầy đủ nh-ng tác giả cũng mong góp một tiếng nói trong việc
hoàn thiện pháp luật, đ-a ra giải pháp về việc tham gia tố tụng của
ng-ời bị hại, ng-ời đại diện hợp pháp của ng-ời bị hại trong quá trình
giải quyết vụ án và phát huy đ-ợc hiệu quả trên thực tiễn.

kết luận
Bảo vệ quyền và lợi ích của những ng-ời tham gia tố tụng nói
chung và ng-ời bị hại nói riêng là một trong những nội dung quan
trọng trong định h-ớng cải cách t- pháp và hoàn thiện hệ thống pháp
luật TTHS ở n-ớc ta hiện nay. Bởi lẽ ng-ời bị hại là ng-ời mà quyền và

lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại nặng nề nhất, là ng-ời chịu thiệt
thòi nhiều nhất trong những ng-ời tham gia tố tụng. Vì vậy, ng-ời bị
hại cần phải đ-ợc bảo vệ kịp thời, thậm chí ngay khi họ bị đe doạ gây
thiệt hại. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, vì nhiều lý do khác nhau mà
quyền và lợi ích hợp pháp của ng-ời bị hại ch-a đ-ợc bảo vệ tốt và kịp
thời; trong quá trình giải quyết vụ án hình sự d-ờng nh- CQTHTT
ch-a xem ng-ời bị hại nh- một bên của quá trình tố tụng để có sự quan
tâm cần thiết. Chính vì tầm quan trọng của nó nên Nghị quyết 49/NQTW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị "Về chiến l-ợc cải cách t- pháp
đến năm 2020" chỉ rõ: xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm
của ng-ời tiến hành tố tụng và ng-ời tham gia tố tụng theo h-ớng bảo
đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh. Bởi vậy, luận văn đã giải
quyết nhiệm vụ:
1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của ng-ời bị hại trong luật TTHS Việt
Nam nh-: khái niệm, đặc điểm, cơ sở pháp lý quy định về ng-ời bị hại, ý
nghĩa của ng-ời bị hại tại phiên tòa, đ-a ra những dấu hiệu để phân biệt
ng-ời bị hại với một số ng-ời tham gia tố tụng khác nh- nguyên đơn dân
s-, bị đơn dân s-.
2. Sơ l-ợc về lịch sử các quy định của luật TTHS Việt Nam về
ng-ời bị hại. Trên cơ sở đó sơ bộ đánh giá đ-ợc những điểm còn ch-a
đầy đủ của pháp luật về ng-ời bị hại.
3. Phân tích, đánh giá thực trạng tham gia tố tụng của ng-ời bị hại
tại phiên tòa ở Việt Nam những năm gần đây, qua đó rút ra những
v-ớng mắc cũng nh- những tồn tại, hạn chế về ng-ời bị hại trong
TTHS Việt nam


4. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng về
ng-ời bị hại, luận văn nêu ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
tham gia tố tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự của ng-ời bị hại.
Từ những h-ớng nghiên cứu trên cho thấy có nhiều vụ án xác định

không đúng t- cách của ng-ời bị hại hoặc liên quan đến sự có mặt của
ng-ời bị hại hoặc ng-ời đại diện hợp pháp của họ tại phiên toà đã
không những gây ảnh h-ởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan tổ chức mà còn gây lãng phí thời gian, tiền của choa
CQTHTT. Bởi lẽ, trong một số tr-ờng hợp, việc xác định không đúng
t- cách của ng-ời bị hại, ng-ời đại diện hợp pháp của họ là một trong
những vi phạm nghiêm trong thủ tục tố tụng khiến cho bản án bị huỷ,
phải xét xử lại từ đầu. Từ phân tích trên cho thấy tiêu chí để xác định
ng-ời bị hại trong vụ án:
- Thứ nhất, về chủ thể, ng-ời bị hại là cá nhân, pháp nhân, cơ quan
Nhà n-ớc hoặc tổ chức khác;
- Thứ hai, thiệt hại do tội phạm gây ra có thể là thiệt hại về vật
chất, thiệt hại về tinh thần, thiệt hại về về tài sản. Tuy nhiên, cần l-u ý
hậu quả của sự thiệt hại không phải là điều kiện bắt buộc trong các
tr-ờng hợp.
- Thứ ba, thiệt hại của ng-ời bị hại phải là đối t-ợng tác động của
tội phạm, tức là phải có liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu
quả gây ra cho ng-ời bị hại.
Tuy nhiên, để đảm bảo việc xác định đúng, chính xác t- cách và
các quyền của ng-ời bị hại, ng-ời đại diện hợp pháp của ng-ời bị hại.
Tr-ớc hết cần phải có những quy định rõ ràng, cụ thể về ng-ời bị hại,
ng-ời đại diện hợp pháp của họ và các quyền, nghĩa vụ của họ khi
tham gia TTHS.
Thứ nhất, thống nhất phạm vi về quyền kháng cáo của ng-ời bị
hại, ng-ời đại diện hợp pháp của họ theo h-ớng cho phép họ có quyền
kháng cáo toàn bộ bản án, quyết định của Toà án.

Thứ hai, quy định cụ thể về ng-ời đại diện hợp pháp của ng-ời bị
hại trong tr-ờng hợp ng-ời bị hại là ng-ời ch-a thành niên hoặc có
nh-ợc điểm về thể chất hoặc tinh thần, ng-ời bị hại mất tích thì khi

tham gia TTHS thì ng-ời đại diện hợp pháp của họ có quyền nh- ng-ời
bị hại.
Thứ ba, về trình bày lời buộc tội của ng-ời bị hại, ng-ời đại diện
hợp pháp của họ trong những vụ án khởi tố theo yêu cầu của ng-ời bị
hại. Pháp luật TTHS phải quy định trong những vụ án khởi tố theo yêu
cầu cầu ng-ời bị hại thì trình bày lời buộc tội của ng-ời bị hại, ng-ời
đại diện hợp pháp của họ nh- là một quyền và có quy định cụ thể về
trình tự trình bày lời buộc tội.
Thứ t-, nghiên cứu để mở rộng hơn nữa phạm vi các tội mà cơ
quan có thẩm quyền chỉ đ-ợc khởi tố khi có yêu cầu của ng-ời bị hại.
Theo chúng tôi nên mở rộng đối với các tội xâm phạm sở hữu, các tội
xâm phạm danh dự, nhân phẩm và chỉ áp dụng đối với các tội ít
nghiêm trọng; nghiên cứu để bổ sung các quyền của ng-ời bị hại trong
giai đoạn tr-ớc xét xử, theo h-ớng cho phép ng-ời bị hại hoặc ng-ời
đại diện hợp pháp của họ có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết
liên quan đến vụ án nếu không thuộc bí mật nhà n-ớc để phục vụ cho
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ng-ời bị hại; cần quy định
cụ thể thủ tục tố tụng riêng cho tr-ờng hợp khởi tố theo yêu cầu của
ng-ời bị hại.
Thứ năm, cần bổ sung thêm những quy định về việc bảo vệ ng-ời
bị hại trong tr-ờng hợp họ có yêu cầu CQTHTT bảo vệ trong tr-ờng
hợp bị đe đoạ.
Cùng với việc hoàn thiện những quy định của pháp luật thì công tác
bồi d-ỡng nghiệp vụ cho những ng-ời THTT cũng là một việc hết sức
cần thiết. Th-ờng xuyên bồi d-ỡng nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cho đội ngũ những ng-ời THTT. Đảm bảo cho họ không


những giỏi về chuyên môn mà con tinh thông về nghiệp vụ, kịp thời nắm
bắt những thồn tin mới phục vụ cho công tác chuyên môn.

Ngoài ra, cũng cần tăng c-ờng tuyên truyền giáo dục nâng cao ý
thức pháp luật trong nhân dân để ng-ời dân biết đ-ợc tự bảo vệ mình
khi tham gia tố tụng trong những vụ việc cụ thể.
Từ những công tác trên nếu thực hiện tốt chắc chắn sẽ nâng cao
hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ pháp
luật.



×