Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Phân tích những hạn chế và yếu kém của những dự án đầu tư công kém hiệu quả nhất tại việt nam hiện nay giải pháp nâng cao hiệu quả trong đầu tư công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.52 KB, 44 trang )

Đề tài:

Phân tích những hạn chế và yếu kém của những
dự án đầu tư công kém hiệu quả nhất tại Việt
Nam hiện nay & giải pháp nâng cao hiệu quả
trong đầu tư công
1.

Dự án nhà máy xơ sợi Đình Vũ

Năm 2008, khi hạ bút phê duyệt đầu tư xây dựng Nhà máy X ơ s ợi Đình V ũ, T ập
đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Công ty cổ ph ần Hóa d ầu và X ơ s ợi d ầu khí (PVTex)
ôm tham vọng sẽ đáp ứng 40% thị phần s ản phẩm x ơ và 12% th ị ph ần s ợi trong n ước.
Qua đó, hỗ trợ ngành dệt may tự chủ ngu ồn nguyên li ệu trong n ước, gi ảm d ần t ỷ l ệ
nhập khẩu. Tuy nhiên, khi b ước vào v ận hành th ương m ại, nhà máy liên t ục thua l ỗ,
mất khả năng cân đối tài chính và hiện đang đứng bên bờ phá sản.
1


Thua l ỗ tri ền miên
Có m ặt t ại Nhà máy X ơ s ợi Đình V ũ, chúng tôi không kh ỏi ch ạnh lòng khi ch ứng ki ến
công trình được đầu t ư h ơn 7.200 t ỷ đồng, v ới các trang thi ết b ị, công ngh ệ hi ện đại
thu ộc hàng tiên ti ến nh ất th ế gi ới đang “ đắp chi ếu” và ngày càng tr ở nên xác x ơ, xu ống
c ấp. Toàn b ộ nhà máy luôn trong tình tr ạng c ửa đóng then cài, ch ỉ lác đác m ột vài công
nhân lo đi ện n ước, b ảo d ưỡng thi ết b ị,… ph ần nào cho th ấy tình tr ạng bi đát ở đây.
Theo đại di ện lãnh đạo PVTex ( đơn v ị qu ản lý nhà máy), vi ệc d ừng s ản xu ất là do bi ến
động b ất l ợi c ủa th ị tr ường x ơ s ợi trong n ước và qu ốc t ế. S ự bi ến động giá này xu ất
phát t ừ m ột s ố nguyên nhân nh ư: Giá d ầu th ế gi ới liên t ục gi ảm sâu, th ấp nh ất trong
vòng g ần 10 n ăm; s ự tr ượt giá c ủa đồng Vi ệt Nam so USD ảnh h ưởng l ớn đến hi ệu
qu ả s ản xu ất c ủa PVTex vì PVTex ph ải nh ập nguyên li ệu để s ản xu ất và bán hàng n ội
địa; s ản ph ẩm khó c ạnh tranh được v ới hàng ngo ại,… Do đó, n ếu không d ừng ho ạt


động, PVTex s ẽ ngày càng thua l ỗ và khó có c ơ h ội v ực d ậy khi th ị tr ường “ ấm” lên.
Nhà máy X ơ s ợi Đình V ũ được xây d ựng v ới tham v ọng tr ở thành nhà s ản xu ất, cung
c ấp ngu ồn nguyên li ệu x ơ s ợi l ớn nh ất Vi ệt Nam, đáp ứng 40% th ị ph ần s ản ph ẩm x ơ
và 12% th ị ph ần s ợi trong n ước, h ỗ tr ợ ngành d ệt may gi ảm nh ập kh ẩu, ch ủ động v ề
nguyên li ệu,… Th ế nh ưng, m ục tiêu đó đến nay v ẫn ch ỉ là mong ước xa v ời. B ởi trên
th ực t ế, các doanh nghi ệp (DN) d ệt may trong n ước không mua, không s ử d ụng x ơ s ợi
c ủa PVTex do ch ất l ượng th ấp và giá bán không c ạnh tranh so v ới hàng ngo ại nh ập.
Theo đánh giá c ủa các chuyên gia, v ới công su ất 500 t ấn s ản ph ẩm/ngày (175 nghìn
t ấn/n ăm), nhà máy s ẽ t ạo đi ều ki ện thúc đẩy ngành d ệt may phát tri ển, t ừng b ước gi ảm
d ần t ỷ l ệ nh ập kh ẩu và giúp ngành tránh ph ụ thu ộc vào ngu ồn nguyên ph ụ li ệu t ừ n ước
ngoài. Th ế nh ưng, s ự k ỳ v ọng đã không nh ư mong mu ốn. Đi ều đó th ể hi ện trong quá
trình đầu t ư xây d ựng, ch ạy th ử, v ận hành khi nhà máy liên t ục g ặp tr ục tr ặc và ch ậm
ti ến độ. K ể c ả khi nhà th ầu hoàn thành thay th ế thi ết b ị b ị h ỏng và lúc duy trì ho ạt động
2


ở m ức 50% công su ất thi ết k ế (t ừ ngày 29-8-2013) nh ưng sau đó PVTex l ại quy ết định
d ừng nhà máy do h ết nguyên li ệu và không tiêu th ụ đượ c s ản ph ẩm. Ti ếp đến, sau
nhi ều l ần v ận hành r ồi t ạm d ừng ho ạt độ ng, nhà máy đã “s ản xu ất” ra kho ản l ỗ h ơn
1.085 t ỷ đồ ng n ăm 2014, chính th ức ph ải d ừng ho ạt động t ừ ngày 17-9-2015 đến nay,
khi ến g ần 1.000 cán b ộ, nhân viên không có vi ệc.
Theo báo cáo c ủa PVN, t ổng tài s ản c ủa PVTex t ại th ời đi ểm 31-12-2015 là h ơn 6.456
t ỷ đồ ng; v ốn ch ủ s ở h ữu b ị âm h ơn 528 t ỷ đồ ng do PVTex b ị l ỗ trong n ăm 2015. Trong
khi đó, n ợ ph ải tr ả h ơn 6.984 t ỷ đồ ng, ch ủ y ếu là n ợ vay dài h ạn để đầu t ư d ự án, n ợ
vay v ốn l ưu độ ng để v ận hành nhà máy,… Chính vì v ậy, xét h ệ s ố n ợ ph ải tr ả trên v ốn
ch ủ s ở h ữu và h ệ s ố kh ả n ăng thanh toán n ợ đế n h ạn cho th ấy, PVTex đã r ơi vào tình
tr ạng m ất cân đố i tài chính nghiêm tr ọng, c ạn ki ệt ngu ồn v ốn, n ợ ph ải tr ả l ớn và không
b ảo đả m kh ả n ăng thanh toán n ợ đế n h ạn, không b ảo toàn đượ c v ốn ch ủ s ở h ữu.
Trong b ản báo cáo nghiên c ứu kh ả thi, nhi ều s ố li ệu ch ứng minh d ự án có hi ệu qu ả,
c ần ph ải xây d ựng nhà máy, nh ưng th ực t ế v ận hành đều cho k ết qu ả ng ược l ại. Trong

đó, nhi ều d ữ li ệu tính toán trong nghiên c ứu kh ả thi “phi th ực t ế” khi ến kho ản chênh
l ệch phát sinh r ất l ớn so v ới tính toán. C ụ th ể, chi phí đi ện c ả n ăm theo báo cáo nghiên
c ứu kh ả thi kho ảng 4,69 tri ệu USD, nh ưng th ực t ế v ọt lên t ới 12 tri ệu USD; chi phí hóa
ch ất, ph ụ li ệu khác theo tính toán 500 nghìn USD, song th ực t ế lên t ới 11 tri ệu USD. D ự
ki ến nhà máy khi hoàn thành ch ỉ c ần kho ảng 500 nhân viên nh ưng đến lúc ho ạt động
ph ải c ần t ới 1.000 cán b ộ, công nhân viên v ận hành,…
Trong v ăn b ản báo cáo Th ủ t ướng Chính ph ủ, B ộ Công th ương cho bi ết, n ăm tháng
đầu n ăm 2015, PVTex s ản xu ất h ơn 32 nghìn t ấn s ản ph ẩm nh ưng ch ỉ tiêu th ụ được 23
nghìn t ấn, ch ưa k ể còn m ột ph ần hàng t ồn c ủa n ăm 2014. Có ngh ĩa v ừa tiêu th ụ h ết
hàng t ồn n ăm 2014 thì ti ếp t ục t ồn kho s ản ph ẩm n ăm 2015. Trong khi đó, m ỗi t ấn s ản
ph ẩm PVTex l ỗ ít nh ất 3,3 tri ệu đồ ng và đế n th ời đi ểm 31-12-2015, t ổng l ỗ c ủa PVTex
lên t ới g ần 3.000 t ỷ đồ ng.
3


Tìm ki ếm đố i tác ti ềm n ăng
Để g ỡ khó cho PVTex, th ời gian qua PVN đã đề ngh ị Nhà n ước h ỗ tr ợ b ằng c ơ ch ế đặc
thù nh ằm đư a nhà máy “nghìn t ỷ” này ho ạt độ ng ổn đị nh, có th ể thu h ồi v ốn đầu t ư. C ụ
th ể, dù ảnh h ưởng đế n các DN ngành d ệt may nh ưng để DN trong n ước t ăng mua s ản
ph ẩm c ủa PVTex, PVN đề ngh ị B ộ Tài chính áp thu ế nh ập kh ẩu và h ạn ng ạch đối v ới
s ản ph ẩm x ơ s ợi pô-li-e-xte nh ập kh ẩu (B ộ Tài chính đã nâng thu ế t ừ 0% lên 2%). PVN
c ũng đề ngh ị mi ễn gi ảm thu ế giá tr ị gia t ăng; chi phí đi ện, n ước; ti ền thuê đất, chi phí
quản lý, xử lý n ước th ải của Khu công nghi ệp Đình V ũ v ới PVTex trong hai n ăm,...
Đáng chú ý, dù ho ạt động theo c ơ ch ế th ị tr ường nh ưng PVN đề ngh ị cho phép xây
d ựng c ơ ch ế tiêu th ụ s ản ph ẩm trong n ước theo h ướng yêu c ầu các DN d ệt may “ph ải
s ử d ụng các s ản ph ẩm c ủa PVTex”. Tuy nhiên, hi ện PVTex v ẫn thua l ỗ và ch ưa cho
th ấy tín hi ệu ngày ho ạt độ ng tr ở l ại. Th ậm chí, để “ đổi v ận đen”, m ới đây lãnh đạo PVN
đã đi ều động và b ổ nhi ệm nhân s ự m ới vào ch ức Ch ủ t ịch H ĐQT kiêm T ổng Giám đốc
c ủa PVTex v ới mong mu ốn nhà máy s ẽ đượ c v ực d ậy, s ớm ch ấm d ứt l ỗ và tr ở l ại ho ạt
động kinh doanh có hi ệu qu ả.

Đánh giá v ề th ực tr ạng ho ạt động c ủa nhà máy, m ột chuyên gia trong l ĩnh v ực x ơ s ợi
cho bi ết, x ơ s ợi Đình V ũ ph ải tr ả giá, không bán đượ c hàng xu ất phát t ừ vi ệc đầu t ư
thi ếu t ầm nhìn chi ến l ược. Vi ệc đầ u t ư s ản xu ất x ơ s ợi đòi h ỏi công ngh ệ cao, kinh
nghi ệm và độ ổn đị nh r ất l ớn v ề ch ất l ượng s ản ph ẩm. Ngay ở các n ước phát tri ển và đi
đầu trong l ĩnh v ực này, h ọ c ũng ph ải tr ả giá r ất nhi ều m ới n ắm gi ữ được bí quy ết, s ở
h ữu đượ c công ngh ệ và ki ểm soát đượ c ch ất l ượng s ản ph ẩm s ản xu ất ra. M ặc dù
PVTex có thi ết bị hi ện đạ i nh ưng vi ệc không có kinh nghi ệm, cùng v ới quy mô đầu t ư
nh ỏ, giá c ả khó c ạnh tranh đượ c v ới nh ững đối th ủ nh ư Trung Qu ốc,… thì chuy ện “ch ết
y ểu” là đi ều khó tránh.

4


Theo đánh giá c ủa PVN, nguyên nhân gây ra thua l ỗ c ủa PVTex là do doanh thu không
đủ bù đắp bi ến phí, m ột s ố kho ản định phí trong giai đo ạn đầu nhà máy đi vào v ận hành
th ương m ại l ớn; giá d ầu thô và giá bông (s ản ph ẩm c ạnh tranh, thay th ế x ơ s ợi) trên th ị
tr ường th ế gi ới liên t ục gi ảm m ạnh trong vài n ăm g ần đây, đã d ẫn đến giá các s ản
ph ẩm x ơ s ợi t ổng h ợp xu ống r ất th ấp.
Vị trí nhà máy không thu ận l ợi, xa vùng nguyên li ệu, xa th ị tr ường tiêu th ụ d ẫn đến chi
phí phát sinh cao; d ự án ch ậm ti ến độ hai n ăm; ch ất l ượng s ản ph ẩm ch ưa hoàn toàn
ổn định,… Do đó, vi ệc thu x ếp v ốn l ưu động để v ận hành l ại nhà máy là r ất khó kh ăn,
bên c ạnh đó, ph ương án PVTex t ự v ận hành l ại, ti ếp t ục s ản xu ất, kinh doanh dài h ạn
ch ưa th ể kh ẳng đị nh đượ c tính kh ả thi và hi ệu qu ả. Chính vì v ậy, PVTex ph ải tìm ki ếm,
h ợp tác v ới các đố i tác khác để cùng s ản xu ất và tr ường h ợp cu ối cùng, n ếu không tìm
được sẽ xem xét th ực hi ện phá sản theo quy định.

D ự án Nhà máy X ơ s ợi Đình V ũ có t ổng m ức đầ u t ư h ơn 324 tri ệu USD (h ơn 7.200
t ỷ đồ ng); c ổ đông tham gia góp v ốn hi ện t ại g ồm PVN (75%) và PVFCCo (25%);
công su ất thi ết k ế 175 nghìn t ấn/n ăm, v ới các s ản ph ẩm nh ư x ơ ng ắn, s ợi
filament, hạt chip,… Ngày 29-5-2014, nhà máy chính th ức v ận hành th ương m ại

và ngày 17-9-2015 ph ải d ừng ho ạt độ ng cho đế n nay.

5


2.

Nhà máy Đạm Ninh Bình

Mới đây, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (Vinachem) công bố báo
cáo tài chính hợp nhất sáu tháng đầu năm 2016 với kết quả bất
thường nhưng không gây bất ngờ: Toàn tập đoàn lỗ sau thuế tới 203,5
tỷ đồng (trong khi cùng kỳ năm 2015 lãi hơn 998 tỷ đồng); công ty mẹ
lỗ gần 477 tỷ đồng (cùng kỳ năm 2015 lãi hơn 535 tỷ đồng).
Chuyện lỗ dường như được coi là tất yếu, khi hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp phân đạm thuộc Vinachem lao dốc không
phanh… Hạt đạm trắng mà “đắng”, tương lai của các nhà máy đạm đang
6


phủ một mầu xám xịt!
Theo các số liệu báo cáo, ngay từ năm 2015, đã có 4 trong số 24
đơn vị của Vinachem sản xuất, kinh doanh bị lỗ, bao gồm Đạm Hà Bắc,
DAP số 2 - Vinachem (DAP Lào Cai), Đạm Ninh Bình và Công ty cổ phần
Xà phòng Hà Nội (Haso) với tổng lỗ phát sinh 1.460 tỷ đồng. Trong đó,
Đạm Hà Bắc và DAP Lào Cai lỗ kế hoạch do dự án mới đi vào hoạt động
từ quý II-2015.
Nhưng năm nay, lợi nhuận từ các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả
vẫn không thể bù nổi cho những khoản lỗ “khủng” từ “bộ tứ” ngành
phân bón của Vinachem, bao gồm: DAP Đình Vũ, DAP Lào Cai, Đạm Hà

Bắc và Đạm Ninh Bình. Theo đó, nửa đầu năm 2016, Đạm Ninh Bình lỗ
457 tỷ đồng, DAP Lào Cai lỗ 281 tỷ đồng, DAP Đình Vũ lỗ 212 tỷ đồng.
Còn Đạm Hà Bắc trong chín tháng qua lỗ khoảng 701 tỷ đồng, dự
kiến cả năm lỗ gần 1.000 tỷ đồng. Việc sản xuất u-rê và DAP của
Vinachem ngày càng khó khăn khi các dự án có chi phí khấu hao và lãi
vay rất lớn. Hơn nữa, cả hai nhà máy sản xuất u-rê của tập đoàn sử
dụng công nghệ khí hóa than cho nên giá thành cao hơn nhiều so sản
xuất phân đạm từ khí (do giá khí giảm mạnh và đang duy trì ở mức
thấp).
Sáu tháng qua, các doanh nghiệp của Vinachem sản xuất 160
nghìn tấn u-rê, giảm 44,3% so với cùng kỳ năm 2015, tồn kho 31 nghìn
tấn, tăng 767%; DAP sản xuất 142 nghìn tấn, giảm 33%, tồn kho 229
nghìn tấn, tăng 1,5%,… Do chịu tác động của sản lượng tiêu thụ và giá
bán giảm, số đơn vị lỗ và số lỗ đều tăng so cùng kỳ năm trước. Trong số
đó, ba đơn vị doanh thu giảm mạnh là DAP Đình Vũ (giảm 50,8%), Đạm
Ninh Bình (giảm 51,8%), các đơn vị còn lại giảm từ 0,9% đến 24%.
7


Theo dự báo, năm nay, với đà lao dốc nêu trên, Vinachem sẽ lỗ
hơn 800 tỷ đồng. Tính đến cuối quý II-2016, nợ phải trả của Vinachem
lên tới hơn 38.800 tỷ đồng, tương đương 65,9% tổng tài sản tại cùng
thời điểm. Tại thời điểm cuối năm 2015, Vinachem có số dư vay nợ
ngắn và dài hạn hơn 30 nghìn tỷ đồng, bao gồm nợ vay của các công ty
con. Trong đó, bốn công ty thua lỗ nêu trên “đóng góp” 13.223 tỷ đồng
nợ vay của Vinachem.
Nhà máy Đạm Ninh Bình là dự án có quy mô lớn của Vinachem,
khởi công năm 2008 với công suất 560 nghìn tấn/năm, vốn đầu tư
khoảng 647 triệu USD, theo dạng “công nghệ châu Âu, tổng thầu Trung
Quốc”. Vì thế, “điệp khúc lỗ” kéo dài suốt từ khi nhà máy đi vào hoạt

động đến nay: Năm 2012 lỗ 75 tỷ đồng, năm 2013 lỗ 759 tỷ đồng, năm
2014 lỗ 500 tỷ đồng, năm 2015 lỗ 370 tỷ đồng. Tính lũy kế đến cuối
tháng 6 vừa qua, Đạm Ninh Bình lỗ tổng cộng gần 2.700 tỷ đồng và hiện
nhà máy đang “đắp chiếu”.
Tổng Giám đốc Vinachem Nguyễn Gia Tường cho biết, đến nay,
vẫn chưa quyết toán được gói thầu EPC, dẫn đến chưa quyết toán dự
án hoàn thành. Từ đầu năm 2014 đến nay, Vinachem và nhà thầu Tập
đoàn Hoàn Cầu (Trung Quốc) trải qua 11 lần đàm phán nhằm giải quyết
các tồn tại của hợp đồng EPC và bồi thường thiệt hại của nhà thầu do
không đạt yêu cầu. Hồ sơ dự án, tài liệu hoàn công, báo cáo cuối cùng,
nhà thầu cam kết sẽ cung cấp cho chủ đầu tư trước ngày 25-6 vừa qua,
tuy nhiên, đến nay chủ đầu tư vẫn chưa nhận được.
Còn Đạm Hà Bắc từng là một trong những nhà máy sản xuất phân
đạm lớn và lâu đời nhất miền bắc. Năm 2010, nhà máy khởi công dự án
cải tạo và mở rộng với tổng mức đầu tư hơn 568 triệu USD (tương
đương 12.500 tỷ đồng, trong đó vốn tự có khoảng 1.815 tỷ đồng, còn lại
8


vay ngân hàng). Theo báo cáo nghiên cứu khả thi, năm đầu đi vào hoạt
động, công ty sẽ lỗ khoảng 596 tỷ đồng, năm sau lỗ khoảng 127 tỷ
đồng. Tuy nhiên, ngay năm 2015, công ty đã lỗ tới 669 tỷ đồng, cao hơn
cả Đạm Ninh Bình.
Lý giải nguyên nhân thua lỗ, Phó Tổng giám đốc công ty Phạm Văn
Trung cho biết: Sau khi vận hành, công ty phải chịu thêm chi phí 136 tỷ
đồng ngừng chạy máy và đấu nối hệ thống không có sản phẩm, chi phí
khấu hao và lãi vay phát sinh 864 tỷ đồng, thuế giá trị gia tăng không
được hoàn 101 tỷ đồng, chênh lệch tỷ giá 145 tỷ đồng,... Chỉ tính riêng
ba khoản phát sinh là tăng thuế giá trị gia tăng, chênh lệch tỷ giá và giá
than cho sản xuất tăng 620 tỷ đồng, công ty đã phải chịu lỗ lên đến 908

tỷ đồng.
Giải pháp là xin ưu đãi, bảo hộ
Ông Trung khẳng định, việc thua lỗ của công ty hoàn toàn do
khách quan mang lại, bộ máy lãnh đạo của công ty đã và đang đoàn kết,
thống nhất đưa ra nhiều giải pháp đồng bộ nhằm vực công ty vượt qua
khó khăn. Công ty đã kiến nghị Vinachem báo cáo Chính phủ, các Bộ: Tài
chính, Công thương xem xét khoanh nợ gốc và lãi vay của công ty tại
Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) trong 5 năm; gia hạn thời hạn hợp
đồng vay đến hết năm 2028; điều chỉnh giảm lãi suất đối với các dư nợ
gốc vay từ 10,8%/năm trở lên về lãi suất 8,55%/năm. Đồng thời, công ty
được giãn thời gian trích khấu hao trong ba năm và ưu đãi giảm 20% giá
bán than,... Nếu như không được Chính phủ và các bộ, ngành xem xét,
có chính sách ưu đãi bằng các cơ chế nêu trên, công ty sẽ phải ngừng
sản xuất vào đầu năm 2017.
Lãnh đạo công ty cho rằng, nếu Đạm Hà Bắc bị đóng cửa, nghĩa là
Việt Nam sẽ không còn khả năng chủ động nguồn u-rê sản xuất trong
9


nước, thương hiệu Đạm Hà Bắc trị giá gần 200 tỷ đồng có nguy cơ biến
mất, hơn 1.500 người lao động mất việc, không giữ được đội ngũ kỹ sư,
công nhân lành nghề,...
Mới đây, Vinachem đề xuất Bộ Công thương (đơn vị chủ quản)
kiến nghị Thủ tướng Chính phủ “gói giải pháp tổng thể hơn” gồm 14
“hạng mục” để cứu doanh nghiệp, âm hưởng chủ đạo là xin cơ chế ưu
đãi, bảo hộ. Theo đó, Vinachem đề nghị được bổ sung đủ vốn điều lệ từ
nguồn Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và Phát triển doanh nghiệp T.Ư; kiến nghị
Thủ tướng ban hành cơ chế bán than của TKV cho sản xuất phân bón
bằng 80% so giá than hiện nay trong thời gian 36 tháng (từ ngày 1-72016). Đồng thời, cho phép chuyển nợ vay tại VDB cho Đạm Ninh Bình
thành vốn đầu tư của Nhà nước tại tập đoàn, với số tiền 2.708 tỷ đồng.

Đây là số dư nợ gốc đến thời điểm 29-2-2016 tại VDB, gồm 2.669 tỷ
đồng và 1,7 triệu USD.
Trong trường hợp không được chuyển nợ thành vốn góp,
Vinachem đề nghị cho phép khoanh nợ khoản vay tại VDB trong thời
gian 5 năm (2016 - 2020), không trả nợ gốc và không tính lãi phát sinh
trong 5 năm. Vinachem cũng đề nghị như vậy đối với khoản nợ vay của
Đạm Ninh Bình tại Ngân hàng Eximbank Trung Quốc. Tương tự,
Vinachem đề nghị khoanh nợ khoản vay của dự án cải tạo - mở rộng
Nhà máy Đạm Hà Bắc tại VDB, dư nợ tính đến ngày 29-2-2016 là 3.957
tỷ đồng trong thời gian 5 năm.
Về lãi suất, Vinachem đề nghị cho phép điều chỉnh giảm lãi suất
đối với toàn bộ dư nợ gốc vay tại VDB cho dự án Đạm Ninh Bình (gần
372 tỷ đồng) và dự án cải tạo - mở rộng Đạm Hà Bắc (gần 3.044 tỷ đồng)
có lãi suất hơn 8,55%/năm về mức 8,55%. Riêng Đạm Hà Bắc được giãn
trích khấu hao 50% trong hai năm 2016, 2017 và 30% cho năm 2018
10


(tương tự cơ chế đã được áp dụng tại Đạm Ninh Bình). Ngoài ra, kiến
nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo người
đại diện vốn tại các ngân hàng thương mại tiếp tục cho Đạm Ninh Bình
và Đạm Hà Bắc vay vốn để bảo đảm hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Vinachem còn kiến nghị Bộ Công thương đưa việc khai thác, chế
biến quặng a-pa-tit vào một đầu mối, các đơn vị đã được Thủ tướng
Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép thăm dò hoặc chủ
trương cho thăm dò phải hợp tác với Vinachem từ khâu khai thác,
tuyển đến sử dụng a-pa-tit; không xem xét, cấp phép đầu tư dự án sản
xuất phân bón cho các doanh nghiệp, nhất là u-rê, lân, NPK. Về phía
chính quyền sở tại, tỉnh Bắc Giang và Ninh Bình cũng có văn bản kiến
nghị Thủ tướng Chính phủ có cơ chế ưu đãi đối với hai nhà máy đạm

đang “ngắc ngoải” trên địa bàn.
Việc đầu tư mở rộng sản xuất là điều bình thường của doanh
nghiệp nếu xác định phương án đó phù hợp với năng lực và nhu cầu của
thị trường. Tuy nhiên, đối với Đạm Hà Bắc và Đạm Ninh Bình, có thể
thấy rõ việc đầu tư của hai nhà máy đã “không gặp thời”. Ra đời khi thị
trường bão hòa, sản phẩm u-rê trong nước của Đạm Hà Bắc và Đạm
Ninh Bình bị cạnh tranh gay gắt từ sản phẩm u-rê nhập khẩu, nhất là từ
Trung Quốc - quốc gia cung cấp tới 49% tổng sản lượng phân bón nhập
khẩu của Việt Nam, với giá thấp hơn nhiều so giá sản xuất trong nước.
Nhiều chuyên gia nhận định, kể cả đổ thêm tiền, cũng khó có thể cứu
vớt các nhà máy đạm của Vinachem do nguồn cung phân bón đang dư
thừa tới 400 nghìn tấn/năm.
Theo báo cáo về quỹ tiền lương, thưởng của Vinachem năm
2015, mặc dù lợi nhuận sụt giảm hơn 20% trong năm 2015 và báo lỗ
hơn 200 tỷ đồng trong sáu tháng đầu năm 2016, song viên chức quản
11


lý tại Vinachem vẫn có mức thu nhập “khủng”. Theo đó, với 13 người
quản lý doanh nghiệp trong năm 2015, mức lương (cơ bản) hằng
tháng bình quân mà viên chức quản lý tại Vinachem nhận được là
32,31 triệu đồng/người, tiêu tốn quỹ tiền lương 7,56 tỷ đồng. Cụ thể,
năm 2015, thu nhập bình quân hằng tháng của lãnh đạo Vinachem
đạt 48,5 triệu đồng/người, tương ứng 582 triệu đồng/năm. Năm
2016, ban lãnh đạo Vinachem đặt kế hoạch nâng thu nhập lên 647
triệu đồng, tương ứng gần 54 triệu đồng/tháng (tăng 11,2% so với
năm 2015).
Thanh tra Chính phủ vừa công bố kết luận thanh tra về việc đầu
tư xây dựng dự án Nhà máy sản xuất xơ sợi pô-li-e-xte Đình Vũ. Theo
đó, sau hai năm đi vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, dự án không

đạt hiệu quả, thua lỗ lớn. Việc dự án không đạt hiệu quả, kinh doanh
thua lỗ nguyên nhân chủ yếu do công tác chỉ đạo, giám sát hoạt động
của PVN, Vinatex với vai trò đại diện chủ sở hữu vốn và người đại
diện vốn tại PVTex chưa thường xuyên và kịp thời, có nhiều thiếu sót,
vi phạm trong quá trình thực hiện; quản lý đầu tư xây dựng của chủ
đầu tư còn nhiều vi phạm quy định của pháp luật, dẫn đến chi phí
tăng cao, suất đầu tư lớn.
Trong quá trình thực hiện dự án này, các đơn vị đã không thực
hiện hết trách nhiệm được giao, để dự án hiệu quả kém. Theo đó,
Vinatex đã thiếu trách nhiệm trong việc góp vốn điều lệ, không thực
hiện trách nhiệm của cổ đông mà ủy quyền cho PVN làm chủ đầu tư
dự án. PVN trong quá trình chỉ đạo điều hành còn nhiều thiếu sót, vi
phạm; nhận chuyển nhượng vốn từ Vinatex và Tổng công ty cổ phần
Phong Phú không đúng quy định, dẫn đến thua lỗ. Bộ Công thương
thiếu thường xuyên kiểm tra, giám sát việc chuyển nhượng vốn.
Những thiếu sót, vi phạm trên thuộc Bộ Công thương; Hội đồng quản
12


trị, Tổng giám đốc PVN và Vinatex từ năm 2007 đến nay.
Thanh tra Chính phủ kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ
Công thương chỉ đạo và thực hiện kiểm điểm, xử lý trách nhiệm đối
với tổ chức và cá nhân tại Bộ Công thương, PVN và Vinatex thuộc
thẩm quyền có liên quan đến các khuyết điểm, sai phạm. Đối với PVN,
Vinatex, các đơn vị góp vốn và PVTex, chỉ đạo và tổ chức thực hiện
kiểm điểm, xử lý trách nhiệm theo quy định đối với người đại diện
vốn tại PVTex và các đơn vị, cá nhân thuộc thẩm quyền có liên quan
đến các khuyết điểm, sai phạm đã nêu trong Kết luận Thanh tra.

3.


Dự án Nhà máy Nhiên liệu sinh học Ethanol Phú Thọ

Theo Đề án phát triển nhiên liệu sinh học (bio-ethanol) được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt, hàng loạt nhà máy bio-ethanol đã
13


ra đời nhằm sản xuất, cung cấp nhiên liệu sinh học pha chế xăng
E5.
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đã quyết định chủ trương đầu
tư, chỉ đạo các đơn vị thành viên đầu tư ba nhà máy bio-ethanol ở
ba miền (tại Phú Thọ, Quảng Ngãi và Bình Phước), công suất mỗi
nhà máy 100 triệu lít/năm. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, các
nhà máy bio-ethanol được đầu tư hàng chục nghìn tỷ đồng, đến
nay đều rơi vào tình trạng bi đát,…
Niềm vui ngắn chẳng tày gang
Tính đến tháng 10-2015, cả nước đã có bảy nhà máy bio-ethanol
được xây dựng, tổng năng lực sản xuất dự kiến khoảng 502 nghìn
tấn/năm, đủ để pha chế 8,46 triệu tấn xăng E5 khi các nhà máy
này hoạt động đủ 100% công suất thiết kế. Trường hợp các nhà
máy chỉ hoạt động 65% công suất thiết kế, sản lượng ethanol đạt
khoảng 326.250 tấn/năm, đủ để pha chế 6,46 triệu tấn xăng E5.
Tuy nhiên, do diễn biến bất lợi của giá dầu thế giới (liên tục giảm
sâu) thời gian qua, cùng với giá thành xăng E5 chưa thật sự hấp
dẫn khiến người dân không mặn mà với xăng sinh học. Chính vì
vậy, các nhà máy bio-ethanol lần lượt rơi vào cảnh ế ẩm, không
tiêu thụ được sản phẩm, hoạt động lay lắt và buộc phải quyết định
đóng cửa (hiện nay, chỉ còn Nhà máy bio-ethanol Tùng Lâm hoạt
động).

Nhà máy bio-ethanol Phú Thọ (xã Cổ Tiết, huyện Tam Nông) do
Công ty cổ phần Hóa dầu và Nhiên liệu sinh học dầu khí (PVB) làm
chủ đầu tư, được khởi công từ tháng 6-2009, tổng vốn đầu tư ban
đầu hơn 1.317 tỷ đồng (sau điều chỉnh gấp gần hai lần, lên tới
2.484 tỷ đồng), dự kiến đi vào vận hành thương mại từ tháng 112011. Tuy nhiên, từ tháng 9-2012 cho đến nay, dự án đang tạm
14


dừng, tiến độ mới đạt 79%. Có mặt tại nhà máy, mới thấy hết vẻ
hoang tàn của dự án được đánh giá là “cánh chim đầu đàn” trong
hệ thống cung cấp nhiên liệu sinh học cho cả nước. Giữa mênh
mông đồng ruộng, khung cảnh nhà máy im lìm, hoang lạnh, không
có bất cứ dấu hiệu nào của việc thi công hay sản xuất.
Các hạng mục quan trọng đã chuẩn bị hoàn thành như nhà điều
hành, kho sắn, nhà nghiền, nhà sản xuất chính, khu bồn cồn thành
phẩm, điện, lò hơi,… lâm vào cảnh dang dở, đang dầm mưa, dãi
nắng nên hoen gỉ, xuống cấp nghiêm trọng. Quanh nhà máy, chỉ có
lác đác vài người làm công tác bảo vệ, cánh cổng luôn khép chặt, ở
tình trạng “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Người dân sống quanh
khu vực cho biết, chỉ khi nào có đoàn kiểm tra về, họ thuê người
cắt cỏ chung quanh để đỡ chướng mắt. Dù cỏ dại, dây leo đã được
cắt xén, nhưng vẫn không thể làm tươi mới hàng trăm tấn thiết bị
“đắp chiếu” bấy lâu.
Để dự án được triển khai thuận lợi, tỉnh Phú Thọ đã triển khai
nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn cùng doanh nghiệp như cấp giấy
chứng nhận đầu tư xây dựng khu nhà ở và các công trình phục vụ
cán bộ nhân viên; chuyển mục đích và giao đất cho chủ dự án; phê
duyệt đơn giá cho thuê đất cho chủ đầu tư triển khai thực hiện dự
án. Đồng thời, có văn bản chấp thuận cho chủ đầu tư triển khai
quy hoạch vùng nguyên liệu với quy mô 8.000 ha và chủ đầu tư đã

đầu tư gần 15 tỷ đồng để đầu tư giống, phân bón, kỹ thuật… Tuy
nhiên, kết quả chỉ như muối bỏ bể.
Phó Chủ tịch UBND huyện Tam Nông Phan Đức Tài ngao ngán:
Ngày xưa, đây là cánh đồng lúa bờ xôi ruộng mật, nông dân xót
của không chịu trả đất, chính quyền phải cưỡng chế thu hồi.
Tưởng rằng sau đó nhà máy sẽ thu hút lao động địa phương, cuối
cùng bỏ hoang, nông dân oán thán nhiều lắm. Huyện cũng đã
15


nhiều lần kiến nghị cấp trên nếu không thực hiện được thì sớm
chuyển mục đích dự án, tránh bỏ hoang năm này qua năm khác.
Liên tiếp từ năm 2013 đến nay, UBND tỉnh Phú Thọ có công văn đề
nghị Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công thương và PVN chỉ đạo chủ
đầu tư đẩy nhanh tiến độ, tuy nhiên, khả năng tìm cách đưa dự án
trở lại hoạt động, nghe ra còn khó hơn tìm đường lên trời.
Theo PVN, đối với dự án bio-ethanol Phú Thọ, do cổ đông chính
góp vốn trong dự án là cổ đông ngoài ngành dầu khí nên
PVN/PVOil không có quyền tự quyết định các vấn đề của dự án và
hiện các bên vẫn chưa tìm được tiếng nói chung về kế hoạch tiếp
theo. Bởi sau khi đánh giá lại, thấy hiệu quả kinh tế của dự án
không đáp ứng kỳ vọng đầu tư (nguyên nhân chính do giá nguyên
liệu sắn tăng cao, trong khi giá sản phẩm giảm so với dự báo được
duyệt). Tình hình tài chính của PVB rất khó khăn, hiện nay đã hết
vốn để hoạt động, việc xin ân hạn trả lãi tiền vay và nợ gốc, cơ cấu
lại các khoản đã vay gặp khó khăn. Các cổ đông chưa có phương
án huy động nguồn vốn còn thiếu để triển khai tiếp dự án (các cổ
đông ngoài ngành dầu khí không đồng ý góp thêm vốn).
Thực hiện chỉ đạo của Bộ Công thương, PVOil tiếp tục làm việc với
các cổ đông khác để xem xét, thống nhất phương án triển khai

tiếp theo như thành lập Tổ công tác đánh giá rõ hiện trạng máy
móc thiết bị của dự án, khả năng hoàn chỉnh, đưa vào sử dụng;
tính toán dự toán chi phí thực hiện các công việc còn lại của dự án
để đưa nhà máy vào hoạt động với quan điểm không phát sinh giá
trị Hợp đồng EPC,…
Cha chung không ai khóc
Dự án bio-ethanol Dung Quất do Công ty cổ phần Nhiên liệu sinh
học dầu khí miền trung (BSR-BF) làm chủ đầu tư, với tổng vốn
thực hiện gần 1.887 tỷ đồng, đã vận hành thương mại từ đầu năm
16


2014. Năm 2015, nhà máy vận hành bốn đợt, tổng số 36 ngày, sản
lượng chưa đầy 7.000 m3 xăng E100 (khoảng 12% công suất thiết
kế), cung cấp gần 90% sản lượng cho Tổng công ty Dầu Việt Nam
(PVOil) để phối trộn xăng E5. Nhà máy đang tạm dừng vận hành từ
ngày 21-4-2016 cho đến nay do thiếu vốn lưu động mua nguyên
liệu, giá thành sản xuất cao hơn giá bán sản phẩm, không có thị
trường tiêu thụ.
Theo đánh giá, các chỉ tiêu kinh tế trong thực hiện đầu tư cũng
như sau khi nhà máy đi vào hoạt động đều không đạt theo báo
cáo đầu tư dự án. Giá thu mua sắn nguyên liệu khi lập dự án là
1.650 đồng/kg, sau đó tăng lên gần 4.500 đồng/kg, trong khi chi
phí nguyên liệu chiếm khoảng 60 đến 65% giá thành sản phẩm
dẫn đến tăng giá thành sản phẩm. Ngoài ra, giá dầu trên thị
trường thế giới giảm sâu, khiến giá ethanol giảm theo, ảnh hưởng
đến hiệu quả sản xuất; thị trường tiêu thụ xăng E5 trong nước
cũng chưa phổ biến, nên hoạt động cầm chừng, tuy ngừng vận
hành nhưng vẫn phát sinh chi phí điện, nước, bảo dưỡng, khấu
hao tài sản,…

Báo cáo của chủ đầu tư cho biết, năm 2014, Nhà máy bio-ethanol
Dung Quất lỗ khoảng 164 tỷ đồng. Chủ đầu tư BSR-BF gặp khó
khăn về tài chính, thiếu vốn mua nguyên liệu phục vụ hoạt động
sản xuất, kinh doanh của nhà máy. Sản lượng tiêu thụ rất thấp so
với công suất thiết kế, doanh thu không đủ bù đắp chi phí hoạt
động, đặc biệt trong tình hình hiện nay khi giá dầu thô giảm sâu
nên giá ethanol không cạnh tranh được so với xăng khoáng. Do
đó, Bộ Công thương yêu cầu BSR-BF nghiên cứu áp dụng các giải
pháp tối ưu hóa sản xuất để giảm chi phí, giá thành sản phẩm như
nâng cao hiệu suất lên men, phối trộn nguyên liệu sắn, phối trộn
than, xem xét tận dụng các tiện ích (điện, hơi) từ Nhà máy lọc dầu
17


Dung Quất.
Nhà máy ngừng hoạt động, doanh nghiệp đành “động viên” 128
kỹ sư, công nhân nghỉ chờ việc không lương từ giữa tháng 3-2016.
Tháng 7 vừa qua, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Quảng Ngãi đã
có báo cáo nêu rõ, sản phẩm xăng E5 của Nhà máy bio-ethanol
Dung Quất không tiêu thụ được nên không có khả năng trả nợ
ngân hàng. Nhà máy đang nợ các ngân hàng trên địa bàn hơn
1.300 tỷ đồng, phần nợ của nhà máy bị các ngân hàng đưa vào
danh mục nợ xấu.
Nhà máy bio-ethanol Bình Phước có tổng mức đầu tư gần 1.500 tỷ
đồng (tương đương 80,684 triệu USD); nguồn vốn chủ sở hữu
30%, vay tín dụng 70%. Đầu tháng 4-2010, chủ đầu tư Công ty
Phương Đông và liên danh nhà thầu Công ty Toyo-Thai/Công ty cổ
phần Tư vấn đầu tư và Thiết kế dầu khí đã ký hợp đồng EPC với giá
trọn gói 58,38 triệu USD. Dự án được thực hiện trong 21 tháng.
Trong quá trình thực hiện, chủ đầu tư điều chỉnh tổng mức đầu tư

lên 84,533 triệu USD (tăng gần 3,85 triệu USD).
Theo báo cáo của chủ đầu tư, tính đến tháng 3-2013, nhà máy chỉ
hoạt động năm đợt, sản xuất gần 16,3 triệu lít ethanol với giá
thành khoảng 21.500 đồng/lít, tăng 10.459 đồng/lít (tăng 95%) so
với giá thành sản phẩm khi lập dự án đầu tư. Giá thành sản phẩm
cao, sức tiêu thụ hạn chế, nên từ tháng 4-2013 đến nay, nhà máy
gần như “đắp chiếu”. Do gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ sản
phẩm, hiệu quả sản xuất, kinh doanh thấp nên đối tác nước ngoài
quyết định tạm dừng vận hành nhà máy đến năm 2018, khi thị
trường thuận lợi mới hoạt động trở lại. Tính sơ sơ, mỗi năm nhà
máy lỗ khoảng 200 tỷ đồng (khấu hao tài sản cố định 86 tỷ đồng,
trả lãi vay 96 tỷ đồng,…).
Ngừng thi công, nợ nần chồng chất, ba nhà máy bio-ethanol rơi
18


vào thảm cảnh bi đát, như kiến bò trong chảo nóng. Sau khi thực
hiện xong dự án, các nhà máy đi vào hoạt động đều bị thua lỗ lớn
và hầu như không vận hành thương mại; toàn bộ vốn đầu tư vào
ba dự án với tổng số tiền đã thanh toán tính đến tháng
11-2014 lên tới hơn 5.400 tỷ đồng chưa có hiệu quả.
Dự án bio-ethanol Phú Thọ có tổng mức đầu tư 1.317,5 tỷ đồng,
sau điều chỉnh tăng lên gần 2.485 tỷ đồng (tăng hơn 1.167,4 tỷ
đồng). Quá trình thực hiện, nhà máy đầu tư dở dang, mặc dù
được khởi công sớm nhất. Nhà thầu PVC dừng thi công từ tháng
11-2011, vi phạm hợp đồng EPC, gây hậu quả nghiêm trọng. Chủ
đầu tư PVB, nhà thầu PVC và PVN đều bế tắc, không tìm ra giải
pháp để đưa nhà máy vào hoạt động.
Dự án bio-ethanol Dung Quất có tổng mức đầu tư hơn 1.493 tỷ
đồng, điều chỉnh tăng lên gần 1.887 tỷ đồng (tăng gần 394 tỷ

đồng). Vốn đầu tư đã sử dụng cho dự án đến tháng 11-2014 là
2.124 tỷ đồng (chưa quyết toán), tăng 631 tỷ đồng (tăng 42% so
tổng mức đầu tư khi phê duyệt). Dự án đã đầu tư xong, nhưng
hầu như không vận hành thương mại.
Còn dự án bio-ethanol Bình Phước, có tổng mức đầu tư gần
1.493 tỷ đồng (tương đương 80,684 triệu USD), sau điều chỉnh
tăng lên hơn 1.570 tỷ đồng (tương đương 84,533 triệu USD).
Vốn đầu tư sử dụng cho dự án tính đến tháng 11-2014 lên gần
1.743 tỷ đồng, tăng hơn 250 tỷ đồng (tăng gần 17% so tổng mức
đầu tư khi phê duyệt). Dự án đã hoàn thành đầu tư, song đến
nay tạm dừng hoạt động.
Cả ba dự án này đều có công suất như nhau (100 triệu lít/năm)
cùng công nghệ sản xuất, thực hiện cùng giai đoạn. Dự án Dung
19


Quất và Phú Thọ thực hiện sớm hơn, nhưng chi phí đầu tư cao
hơn nhiều so dự án Bình Phước.

4.

Dự án Nhà máy Bột giấy Phương Nam

Tháng 3-2006, sau hai năm xây dựng, Nhà máy Bột giấy Phương Nam
tại xã Thuận Nghĩa Hòa, huyện Thạnh Hóa (Long An) đi vào vận hành
thử nghiệm và thất bại. Từ bấy đến nay, nhà máy giấy này luôn trong
cảnh “trùm mền”. Công nghệ không phù hợp, không thể khắc phục
khiếm khuyết, đồng nghĩa với việc hơn 3.400 tỷ đồng đầu tư nhà máy
đã bị “đốt” thành tro bụi...
20



“Đội” vốn, lỗi công nghệ
Nhà máy Bột giấy Phương Nam có công suất 100 nghìn tấn bột
giấy/năm, do Công ty TNHH một thành viên Phát triển công nghiệp và
Vận tải (Tracodi - thời điểm đó là Công ty Đầu tư phát triển giao thông
vận tải thuộc Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 6) làm chủ
đầu tư với tổng vốn 1.487 tỷ đồng. Theo đề nghị của Bộ Tài chính, dự án
được Chính phủ bảo lãnh khoản vay 67 triệu ơ-rô từ Ngân hàng Societe
Generale (CH Pháp).
Nhà máy sử dụng công nghệ PR - C - APMP, thiết bị được chế tạo đồng
bộ, mới 100%, hình thức triển khai là chìa khóa trao tay. Phương án khả
thi của dự án tính toán thời gian hòa vốn gần 10 năm 8 tháng. Đây là dự
án lớn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, được hy vọng là động lực thúc
đẩy tăng trưởng trong khu vực. Đầu năm 2004, nhà máy được khởi
công rình rang, lãnh đạo công ty phát biểu chắc nịch: “Nhà máy sẽ sản
xuất ra loại bột giấy tốt nhất Việt Nam, tương đương chất lượng châu
Âu”.
Tuy nhiên, cần phải nói thêm rằng, Tracodi là công ty chuyên về xây
dựng các công trình giao thông, xuất khẩu lao động, hoàn toàn “ngoại
đạo” với lĩnh vực sản xuất giấy. Tháng 11-2007, Tracodi quyết định điều
chỉnh tổng mức vốn đầu tư lên 2.286 tỷ đồng, nhưng dự án vẫn rơi vào
cảnh thiếu vốn. Tháng 6-2009, theo Quyết định 731/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ, dự án được chuyển đổi chủ đầu tư từ Tracodi sang
Tổng công ty Giấy Việt Nam (Vinapaco), sau đó tiếp tục điều chỉnh tổng
mức đầu tư lên hơn 3.400 tỷ đồng.
Tại thời điểm chuyển đổi, Tracodi chỉ mới thực hiện được 35% giá trị xây
lắp nhà máy sản xuất chính (38,8 tỷ đồng); khu xử lý nước thải đạt 40%
(36 tỷ đồng); khu nhà ở công nhân 30% (sáu tỷ đồng). Trong khi đó, tiến
21



độ chi tiền thiết bị cho nhà thầu Andritz được thực hiện nhanh kinh
ngạc: Thanh toán toàn bộ giá trị hợp đồng mua sắm thiết bị với số tiền
gần 57,1 triệu ơ-rô.
Thời điểm đó, Bộ Tài chính được yêu cầu tiếp tục cho chủ đầu tư vay từ
Quỹ Tích lũy trả nợ nước ngoài để thanh toán nợ gốc và lãi vay trong hai
năm 2009-2010, tổng cộng 18,9 triệu ơ-rô. Theo chỉ đạo, Vinapaco phải
nhận nợ bắt buộc với Bộ Tài chính và trả nợ trong thời gian tối đa 5 năm
(thời gian dự kiến từ khi dự án hoàn thành, nhà máy đi vào hoạt động
và có nguồn thanh toán). Song dù đã quá thời hạn này, nhà máy vẫn
chưa trả nổi một đồng tiền nợ.
Khi nhà máy chạy thử có tải, nguyên liệu đay không phù hợp công nghệ
sản xuất, cả hệ thống dây chuyền luôn trong tình trạng trục trặc. Khâu
chế biến nguyên liệu đầu vào cho chu trình sản xuất là công đoạn chặt
mảnh bị lỗi, không đạt yêu cầu. Theo lý giải của Bộ Công thương, Nhà
máy Bột giấy Phương Nam đầu tư trang thiết bị mới, có nguồn gốc xuất
xứ rõ ràng, nhưng được nhà thầu “cải tiến” từ dây chuyền sử dụng
nguyên liệu gỗ thành dây chuyền sử dụng đay cho phù hợp vùng
nguyên liệu ở Long An.
Kiểu dây chuyền “râu ông nọ cắm cằm bà kia” lần đầu được lắp đặt để
sản xuất tại Việt Nam, còn trên thế giới chưa có dây chuyền nào tương
tự đã đưa lại hậu quả tai hại. Khi chạy thử có tải, dây chuyền phát sinh
sự cố, khiếm khuyết, không thành công. Vinapaco năm lần bảy lượt mời
chuyên gia nước ngoài lẫn cầu cứu các đơn vị lĩnh vực cơ khí và công
nghiệp giấy Việt Nam tham gia khắc phục sự cố. Đồng thời, Viện Công
nghệ giấy và xen-lu-lô cũng dày công nghiên cứu, điều chỉnh về công
nghệ và nguyên liệu (thay cây đay bằng gỗ tràm cừ), tuy nhiên các
chuyên gia trong nước cũng như nước ngoài đều lắc đầu, bó tay trước
22



công nghệ thuộc dạng “độc bảng A” của nhà máy, không có cách nào
“chữa trị”.
Bản thân chuyên gia của nhà thầu Andritz cũng không cam kết việc dây
chuyền sản xuất ra sản phẩm cuối cùng, trong khi máy móc thiết bị theo
hợp đồng đã ký không có thiết bị dự phòng, thay thế. Nếu tiếp tục thực
hiện dự án, cần phải chuẩn bị: hơn 70 tỷ đồng vốn chạy thử; vốn đầu tư
còn thiếu (hơn 636 tỷ đồng trường hợp sử dụng nguyên liệu đay, gần
1.300 tỷ đồng nếu sử dụng gỗ tràm cừ); chưa tính tới gần 630 tỷ đồng
vốn lưu động, các khoản vay bù đắp chi phí phát sinh hằng năm (hơn
450 tỷ đồng nếu trích khấu hao).
Với bài toán kinh tế này, nhà máy không có khả năng thu hồi vốn. Bên
cạnh đó, nhà máy tiêu hao nguyên liệu lớn và các chỉ tiêu sai lệch quá xa
so với khi lập dự án. Đơn cử, giá mua đay thời điểm nhà máy hoạt động
ở mức 850 đồng/kg, thay vì mức 180 đồng/kg như khi lập dự án. Chưa
kể giống đay được trồng năng suất thấp, lượng đay mua được trong hai
năm 2012-2013 thậm chí chỉ đủ cho nhà máy chạy trong… 14 ngày. Giả
dụ trong trường hợp thuận lợi nhất (nguyên liệu đủ 12 tháng vận hành
và có vốn lưu động), trên mỗi tấn sản phẩm của dây chuyền vẫn “đẻ
khoản lỗ” 4,6 triệu đồng. Toàn bộ hơn 11 nghìn tấn đay nguyên liệu đã
thu mua của nông dân được lưu kho biến thành thức ăn cho chuột, bọ,
côn trùng và đã bị mục nát, hư hỏng.
Xóa sổ vùng nguyên liệu
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Long An, sau khi dự án
khởi công, tỉnh đã phát động nông dân trồng đay nguyên liệu với diện
tích gần 9.000 ha tại ba huyện “bờ xôi ruộng mật” khu vực Đồng Tháp
Mười gồm Thạnh Hóa, Mộc Hóa và Tân Thạnh, diện tích quy hoạch đến
năm 2020 lên hơn 15.000 ha. Vấn đề phát triển vùng nguyên liệu quy
23



mô lớn được xem là khâu phức tạp, khó khăn nhất đối với các dự án
nhà máy bột giấy nhưng đã được chính quyền địa phương vận động
người dân đầu tư thành công. Tuy nhiên, thật tiếc là dự án gặp trục trặc
nên chủ đầu tư thu mua nguyên liệu không theo đúng cam kết ban đầu
và giá mua của nhà máy không bảo đảm cuộc sống của người trồng đay.
Trong năm 2007 và 2008, Tracodi ký hợp đồng trồng đay nguyên liệu với
nông dân hai huyện Thạnh Hóa và Mộc Hóa khoảng 450 ha, chỉ chiếm
5% diện tích đay cả vùng. Đến ngày thu hoạch, công ty thu mua hơn
10.600 tấn đay tươi và hơn 655 tấn đay sợi. Địa bàn huyện Thạnh Hóa,
do điều kiện thổ nhưỡng thuận lợi, trước đây cây đay phát triển rất
nhiều. Năm 2007, diện tích trồng đay của huyện có lúc lên đến hơn
4.900 ha. Đến năm 2013, đầu ra thiếu ổn định, diện tích trồng đay giảm
chỉ còn 70 ha. Chính quyền huyện đành phải vận động người dân
chuyển sang trồng lúa 2 vụ hoặc xen canh cá đồng. Từ khi chuyển sang
trồng lúa 2 vụ, kinh tế nhiều hộ gia đình phát triển, xóa nghèo bền vững
tại địa phương. Bây giờ, nhắc chuyện trồng đay xưa kia, bà con nông
dân trong vùng ai cũng lắc đầu ngao ngán.
Nông dân Lê Văn Rồi ở xã Thạnh Phước (huyện Thạnh Hóa) từng có hơn
20 năm trồng đay trên diện tích 15 ha cho biết: “Khi Nhà máy Bột giấy
Phương Nam đầu tư xây dựng, nông dân chúng tôi rất mừng vì có nơi
tiêu thụ ổn định, giá cả hợp lý. Tuy nhiên, hy vọng bao nhiêu thì thất
vọng bấy nhiêu, nhà máy chưa đi vào hoạt động đã ngưng miết, đến giờ
đã hơn tám năm. Chúng tôi chuyển sang trồng lúa, thu lãi gấp 10 lần
trồng đay, mỗi ha lúa đạt 7 đến 8 tấn/vụ, sau khi trừ chi phí, thu lãi mỗi
ha hơn 15 triệu đồng/vụ”.
Ông Nguyễn Thành Được, ngụ cùng xã Thạnh Phước cũng chia sẻ: “Nhà
máy bột giấy hoạt động không hiệu quả, nhiều người dân trồng đay rơi
24



vào cảnh lao đao. Trong cái khó ló cái khôn, nhà tôi quyết định chuyển 7
ha đất trồng đay sang nuôi cá trê, cá lóc, cuộc sống thay đổi hẳn. Năng
suất cá nuôi đạt 3 đến 4 tấn/ha, sau khi trừ chi phí, bỏ túi 20 đến 25
triệu đồng/ha, khỏe re!”.
Chủ tịch Hội Nông dân thị xã Kiến Tường Đào Văn Hùng nói: “Thấy Nhà
máy Bột giấy Phương Nam khởi công xây dựng, người dân trồng đay rất
háo hức. Thế nhưng khi vận hành sản xuất không thành công thì mọi hy
vọng cũng tắt ngấm. Để xoay xở cuộc sống, nông dân phải chuyển đổi
sang trồng lúa, nuôi thủy sản,… Đúng là trong cái rủi có cái may, nhà
máy không sản xuất được nên vùng Đồng Tháp Mười cũng khỏi lo ô
nhiễm!”.
Tháng 4-2014, sau nhiều lần rà soát, đánh giá kỹ, Bộ Công thương buộc
phải báo cáo Chính phủ, kiến nghị cho phép Vinapaco dừng đầu tư, tiến
hành tái cơ cấu toàn bộ dự án do công nghệ thiết bị, nguyên liệu, thị
trường, hiệu quả kinh tế... không đạt mục tiêu đề ra. Ngày 12-5-2014,
Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý đề nghị của Bộ Công thương về việc
dừng đầu tư Nhà máy Bột giấy Phương Nam, đồng thời giao Bộ Công
thương, Bộ Tài chính và UBND tỉnh Long An xây dựng phương án xử lý
dự án (thanh lý, nhượng bán) trình Chính phủ xem xét, quyết định.
Hiện nay, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công thương
yêu cầu Vinapaco xây dựng các phương án xử lý gắn với việc cổ phần
hóa Vinapaco. Theo nhận định của nhiều chuyên gia, thiết bị công nghệ
nhà máy sử dụng quá lạc hậu, nên dứt khoát phải thanh lý dây chuyền
cũng như nhà máy này. Không thể “cố đấm ăn xôi”, bởi càng làm càng
lỗ, không khắc phục nổi ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, nhà đầu tư nào
quan tâm, mua lại nhà máy này sẽ rất e ngại vì phải tiếp nhận khối nợ
hàng nghìn tỷ đồng để lại.
25



×