Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh sơn la trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 70 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài “Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay”, thì ngồi sự
nỗ lực cố gắng của bản thân, em còn nhận được sự giúp đỡ của các phòng ban chức
năng của Trường Đại học Tây Bắc, của các thầy cơ giáo trong Khoa Lý luận chính trị.
Đặc biệt sự dẫn dắt, chỉ bảo giúp đỡ tận tình của cô giáo Thạc sĩ: Giang Quỳnh
Hương - người đã trực tiếp hướng dẫn em hồn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Em cịn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các phòng ban chức năng: Ủy ban
nhân dân tỉnh Sơn La, cục thống kê tỉnh Sơn La, phòng lưu trữ ủy ban nhân dân tỉnh
Sơn La đã cung cấp tài liệu, số liệu thống kê chính xác về nguồn nhân lực của tỉnh.
Em cũng nhận được sự động viên, giúp đỡ rất nhiều từ gia đình, cùng các thầy
cơ bạn bè.
Đề tài được hồn thành em khơng biết nói gì hơn, em xin gửi lời tới các phịng
ban chức năng, các thầy cơ, gia đình, bạn bè và những người đã giúp đỡ em hoàn
thành đề tài lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất.
Em xin chân thành cảm ơn!
Người thực hiện đề tài
Lò Văn phong


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .........................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...........................................................................................2
3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ...........................................4
3.1. Khách thể nghiên cứu ............................................................................................... 4
3.2. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................... 4
3.3. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................................4
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................5
4.1. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................ 5
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................... 5


5. Giả thuyết khoa học .....................................................................................................5
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 5
7. Đóng góp của đề tài .....................................................................................................5
8. Kết cấu của đề tài.........................................................................................................6
CHƯƠNG 1: NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRỊ CỦA NĨ TRONG SỰ
NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC ............................7
1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản
Việt Nam về nguồn nhân lực ...........................................................................................7
1.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và nguồn nhân lực ..............7
1.1.2 Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản về con người và nguồn
nhân lực .........................................................................................................................13
1.2 Quan niệm về nguồn nhân lực và vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước .................................................................................21
1.2.1 Quan niệm về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực ............................... 21
1.2.2 Vai trò của nguồn nhân lực trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước trong giai đoạn hiện nay .......................................................................................27
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC Ở TỈNH SƠN LA TRONG SỰ NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI
HĨA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ............................................33
2.1 Thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đạon hiện nay .....................................................33


2.1.1 Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La
hiện nay..........................................................................................................................33
2.1.2 Thực trạng phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay 43
2.1.3 Thực trạng về cơ cấu nguồn nhân lực ..................................................................49
2.1.4 Những yêu cầu đặt ra đối với phát triển nguồn lực con người ở Sơn La..................52
2.2 Giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La trong sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước ............................................................................................. 52

2.2.1 Định hướng phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La đến năm 2020 ........................53
2.2.2 Giải pháp phát triển nguồn lực con người ở tỉnh Sơn La giai đoạn 2012 - 2020
.......................................................................................................................................58
KẾT LUẬN ..................................................................................................................63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển nguồn nhân lực một trong những vấn đề thời sự được quan tâm
hàng đầu trong các quyết sách phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia nhằm đảm
bảo sự phát triển bền vững. Nguồn nhân lực có việc làm, thu nhập ổn định không chỉ
mang lại cho họ cuộc sống ấm no mà cịn góp phần tạo điều kiện để phát triển kinh tế
xã hội của đất nước.
Hội nhập kinh tế thế giới là xu hướng tất yếu của thời đại, Việt Nam là quốc gia
khơng nằm ngồi quy luật đó, nước ta hiện đang thực hiện q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, bên cạnh sử dụng nguồn nhân lực nội sinh, cần biết sử dụng
những thành tựu của khoa học công nghệ bắt kịp tri thức mới để phát triển nền kinh tế.
Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay cho Việt Nam là phát triển nguồn nhân lực có tri thức,
trình độ tay nghề cho sự phát triển kinh tế. Đây cũng được xem là giải pháp tốt nhất
đẩy nhanh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nhanh chóng đưa đất nước hội
nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản nước ta
trở thành một nước cơng nghiệp.
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X đã khẳng định: “Nguồn lực con người yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng cường kinh tế nhanh và bền vững… con người
và nguồn lực là yếu tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đảng đã lấy phát triển nguồn nhân lực, giáo dục - đào tạo, khoa học
công nghệ là một trong ba khâu đột phá đưa đất nước vào thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ tổ quốc” [11, 96]. Thực tế cho thấy sự
phát tiển kinh tế - xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện nhưng chủ yếu

nhất vẫn là nguồn lực con người và hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn lực con
người chiếm một vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước
ta, là nhân tố quan trọng để đưa nước ta nhanh chóng trở thành một nước công nghiệp
phát triển.
Việc khai thác, sử dụng, phát triển nguồn nhân lực là chìa khóa của sự thành
cơng trong cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Muốn nâng cao chất lượng nguồn
lực con người, phải có những hoạt động tích cực phát triển con người, trước hết là bắt
đầu từ việc giáo dục và đào tạo. Giáo dục và đào tạo mang lại kiến thức kinh nghiệm,
1


giúp cho cá nhân hình thành những kĩ năng, kĩ xảo trong hoạt động, hình thành nên
phẩm chất chính trị tư tưởng đạo đức, định hướng cho sự phát triển nhân cách. Phải
đặt con người vào vị trí trung tâm vì khi con người ở vào vị trí trung tâm mới phát huy
hết tiềm lực của nước ta. Muốn làm được điều đó chúng ta cần phải nghiên cứu thực
trạng một cách chính xác, đề ra giải pháp một cách hợp lý để nâng cao hiệu quả nguồn
nhân lực ở từng vùng, từng địa phương trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đạ hóa.
Như vậy, việc phát triển nguồn nhân lực khơng chỉ có ý nghĩa quyết định đối
với đất nước, hiện nay việc phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La càng trở nên ý
nghĩa và cấp thiết hơn khi mà chất lượng nguồn lực của tỉnh chưa thực sự cao và chưa
đáp ứng được yêu cầu phát triển của cả nước và khơng khí hội nhập tồn cầu hóa. Trong
những năm qua tồn tỉnh đã, đang cố gắng tìm ra những biện pháp và định hướng đi mới
cho sự phát triển nguồn lực, đưa tỉnh phát triển thốt nghèo, là người con của q hương
muốn đóng góp một phần nhỏ để xây dựng quê nhà ngày càng giàu đẹp, vì vậy tơi đã
lựa chọn đề tài: “phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ trước đến nay vấn đề con người luôn được nghiên cứu và được xem như
một “đề tài đã cũ nhưng vẫn luôn luôn mới”.
Trong nền triết học Trung Hoa suốt chiều dài lịch sử trên hai ngàn năm cổ trung đại, các nhà tư tưởng của Nho gia va Pháp gia đã tiếp cận từ góc độ hoạt động

thực tiễn chính trị, đạo đức và đi đến kết luận bản tính con người là thiện (Nho gia) và
bất thiện (Pháp gia).
Đạo phật tiếp cận con người từ góc độ suy tư về con người và đời người ở tầm
chiều sâu tâm lý siêu hình mang nặng tính tư duy và nhận thức phiến diện.
Đối lập với đạo phật triết học phương tây cổ đại Hy Lạp, trung cổ, phục hưng
và cận đại đã tiếp cận con người theo góc độ khoa học tự nhiên.
Vào những năm 40 của thế kỷ XX, trong nhiều tác phẩm của mình C.Mác và
Ănghen đã luận chứng về con người một các sâu sắc theo nhiều góc độ khoa học trước
hết là nhân loại học, triết học và kinh tế học. Hai ông cho rằng con người là một thực
thể xã hội mang bản chất xã hội đồng thời là thực thể tự nhiên và chính con người đã
tạo ra lịch sử xã hội. Tiếp tục kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm con người tồn tại với tư cách là cá nhân, gia
2


đình đồng thời là cộng đồng “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu
bạn. Nghĩa rộng là cả nước. Rộng hơn nữa là cả loài người” [1, 271 - 272].
Vào khoảng mấy thập niên trở lại đây, trước những yêu cầu mới của loài người
với sự phát triển khoa học kĩ thuật mà vấn đề con người càng được quan tâm hơn bao
giờ hết. Rất nhiều cơng trình nghiên cứu xoay quanh vấn đề con người và nguồn lực
con người nổi bật hơn cả là công trình nghiên cứu của các tác giả:
“Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta” của
PGS. Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (viện kinh tế thế giới), Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1996. Quyển sách đã giới thiệu khái quát về vai trò của nguồn nhân lực ở
một số nước trên thế giới dưới tác động của giáo dục - đào tạo, đồng thời nêu bật vai
trò của giáo dục - đào tạo trong việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam.
“Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước” do PTS. Mai Quốc Chánh chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1999. Cuốn sách đã phân tích vai trò của nguồn nhân lực và sự cần thiết
phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từ đó đề xuất những giải chủ yếu nhằm nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực nước ta đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước.
“Nguồn nhân lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam”, của TS. Bùi Thị
Ngọc Lan, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Tác giả đã phân tích rõ vị
trí, vai trị, chức năng của nguồn lực trí tuệ - bộ phận trung tâm, làm nên chất lượng và
mạnh ngày càng tăng của nguồn lực con người là tài sản vô giá của mỗi quốc gia, dân
tộc và của toàn nhân loại. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra huy những phương hướng
và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong cơng cuộc đổi
mới và xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
“Ngiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”
của GS.VS Phạm Minh Hạc, nhà xuất bản chính trị quốc gia - Hà Nội, 2001; “Sử dụng
hiệu quả nguồn nhân lực con người ở Việt Nam” của TS. Nguyễn Hữu Dũng, nhà xuất
bản Lao động - xã hội, Hà Nội, 2003. Tác giả đã trình bày có hệ thống một số vấn đề
lý luận và thực tiễn liên quan đến phát triển, phân bố, sử dụng nguồn lực con người
trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; đơng thời đề
xuất các chính sách và giải pháp để phát triển, phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả
nguồn lực con người trong phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
3


Vấn đề con người và nguồn lực con người cũng là đề tài nghiên cứu của một số
luận văn, luận án, đáng chú ý như: Luận án tiến sĩ “nguồn lực con người trong q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của tác giả Đồn Văn Khái (2000); Luận
án tiến sĩ “Phát huy nguồn lực thanh niên trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Tú Oanh (1999); Luận án tiến sĩ
“Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay” của tác giả Vũ Thị Phương Mai (2004)... Nhìn
chung, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu làm rõ các vấn đề nguồn lực con người, nguồn
lực thanh niên, nguồn lực chất lượng cao và vai trị của những nguồn lực này trong
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Qua phân tích thực trạng, các tác giả đã đề xuất những
giải pháp để phát huy, phát triển nguồn lực này trong thời gian tới.

Ngoài ra nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đã có những cơng trình, bài viết về
vấn đề nguồn lực con người và đã được đăng tải trên các tạp trí, các kỷ yếu khoa học.
Việc đánh giá đúng thực trạng nguồn lực con người làm cơ sở thực tiễn quan trọng để
tìm ra những phương hướng, giải pháp phát triển và sử dụng hữu hiệu nguồn lực con
người vẫn là một đề tài cần tiếp tục nghiên cứu, nhất là từ góc độ chính trị - xã hội và
thực tiễn của tỉnh Sơn La hiện nay. Thực tế ở tỉnh Sơn La đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu về các vấn đề kinh tế - xã hội cũng như con người nhưng mới chỉ dừng lại
ở việc tiếp cận vấn đề trên cơ sở chung chứ chưa đi vào thực trạng và giải pháp cụ thể
để phát triển nguồn lực con người trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Vì vậy tơi nghiên cứu vấn đề “Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay” được đặt ra
như một vấn đề cấp thiết cần nghiên cứu.
3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh
Sơn La trong giai đoạn hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Con người và nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La

4


4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tìm ra thực trạng của chất lượng nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La
đồng thời tìm ra những phương hướng, giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực đáp ứng nhu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Hệ thống hóa những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài.
Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay.
Đề ra một số phương hướng, giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng
nhu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay.
5. Giả thuyết khoa học
Việc nghiên cứu thực trạng, tìm ra giải pháp phù hợp sẽ giúp nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, nâng cao việc phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống của
nhân dân tỉnh Sơn La trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với những phương hướng phát triển đúng đắn tạo định hướng cho sự phát triển
nguồn nhân lực theo hướng hợp lý hơn, nhờ đó khơng ngừng cải thiện trình độ nhận
thức của con người.
6. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
 Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
 Phương pháp thống kê
 Phương pháp phân tích
 Phương pháp tổng hợp
 Phương pháp so sánh
 Phương pháp logic - lịch sử
7. Đóng góp của đề tài
Đề tài mang lại cho mọi người cái nhìn tổng quát nhất về nguồn nhân lực và vai
trị của nguồn nhân lực nói chung cũng như thực trạng và giải pháp để phát triển nguồn
nhân lực ở tỉnh Sơn La một cách hợp lý, phù hợp với xu thế tồn cầu hóa hiện nay.
Đối với tỉnh Sơn La việc nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực giúp tuyên truyền,
giáo dục mọi người hiểu thêm về vai trị của mình trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
5


hiện đại hóa từ đó có hành động đúng đắn phát huy được vai trị của mình trong sự

nghiệp cơng nghiệp hóa. Là tài liệu tham khảo cho các bộ tỉnh hoạch định chính sách.
Đối với sinh viên nhất là sinh viên chuyên nghành giáo dục chính trị đây là tài
liệu tham khảo cho các sinh viên chuyên nghành muốn tìm hiểu sâu hơn về nguồn
nhân lực và vai trị của nguồn nhân lực trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
8. Kết cấu của đề tài
Ngồi phần mở đầu, kết luận, phục lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
gồm 3 chương
Chương 1: Nguồn nhân lực và vai trị của nó trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Sơn la trong giai đoạn hiện nay.

6


CHƯƠNG 1
NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRỊ CỦA NĨ TRONG SỰ NGHIỆP
CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT NƯỚC
1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
cộng sản Việt Nam về nguồn nhân lực
1.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và nguồn nhân lực
Từ khi xã hội hình thành cho đến nay, vấn đề con người luôn được nghiên cứu
và xem xét như một đề tài đã cũ nhưng luôn luôn mới. Con người là một trong những
đề tài trường kỳ của các nhà khoa học cũng như các nhà nghiên cứu từ xa xưa. Tùy theo
điều kiện lịch sử của mỗi thời đại, tùy theo giác độ tiếp cận khác nhau mà các trường
phái triết học, các nhà triết học trong lịch sử có những phát hiện, đóng góp khác nhau
trong việc lý giải về con người. Mặt khác trong khi giải quyết những vấn đề trên, mỗi
nhà triết học, mỗi trường phái triết học có thể lại đứng trên lập trường thế giới quan,
phương pháp luận khác nhau: Duy vật hoặc duy tâm, biện chứng hoặc siêu hình...

Triết học cổ đại coi con người là tiểu vũ trụ, bản chất con người là bản chất của
vũ trụ. Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là hoa của đất, là chúa tể của mn
lồi, chỉ đứng sau có thần linh. Con người được chia ra thành phần hồn và phần xác.
Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cho rằng phần hồn là do thượng đế sinh ra và
qui định, chi phối phần xác, linh hồn con người là bất tử. Các học thuyết triết học duy
tâm tuyệt đối hoá hoạt động của đời sống tinh thần, coi toàn bộ thế giới tinh thần bao
gồm tư tưởng, tình cảm, khát vọng của con người như một thực thể bị chia cắt khỏi
quá trình tâm sinh học. Các quan niệm duy tâm về bản chất của con người tìm thấy sự
hồn thiện của mình trong hệ thống triết học duy tâm của Hêghen. Đặc biệt, Hêghen
đã đưa ra nhiều kiến giải có giá trị về vấn đề con người mặc dù hệ thống triết học là
hiện thân của ý niệm tuyệt đối, đời sống con người chỉ được xem xét về mặt tinh thần.
Song Hêghen cũng là người đầu tiên thông qua việc xem xét cơ chế hoạt động của đời
sống tinh thần mà phát hiện ra quy luật về sự phát triển của đời sống cá nhân. Phơbách
sau khi đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm Hêghen đã phê phán tính siêu tự nhiên, phi
thể xác trong quan niệm con người của triết học Hêghen. Phơbách quan niệm con
người là sản phẩm tự nhiên, có bản tính tự nhiên, là con người sinh học trực quan, bị
phụ thuộc vào hoàn cảnh. Phơbách chứng minh mối liên hệ không chia cắt được của tư
duy với những quá trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người.
7


Nhìn chung, các quan điểm triết học trước Mác và ngồi Mácxit cịn có một hạn
chế cơ bản là phiến diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết học về con
người, cũng như vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu tượng về bản
chất con người và những quan niện phi thực tiễn trong lý giải nhân sinh, xã hội cũng như
phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người.
Chủ nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế, đồng thời phát triển
những quan niệm về con người đã có trong các học thuyết triết học trước đây để đi tới
quan niệm về con người hiện thực, con người hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên và
xã hội. Với tư cách là con người hiện thực, con người vừa là sản phẩm của tự nhiên

và xã hội, đồng thời vừa là chủ thể cảo tạo tự nhiên và xã hội.
Mác khẳng định rằng: “Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội trên
nền tảng sinh học của nó. Con người khơng phải là cái gì đó đồng nhất, tuyệt đối về
chất, mà đó là sự đồng nhất bao hàm trong mình sự khác biệt giữa hai yếu tố đối lập
nhau: Con người với tư cách là sản phẩm của giới tự nhiên là sự phát triển tiếp tục của
giới tự nhiên; Mặt khác, con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực
lượng đối lập với giới tự nhiên” [16, 389 - 390].
Thứ nhất: Con người là một bộ phận của tự nhiên
Con người là một thực thể sống được thiên nhiên phú cho những sức mạnh bẩm
sinh và sức sống. Con người là đại biểu thuộc bậc thang cao nhất của tiến hóa vật chất.
Con người bình đẳng với các sinh vật khác trên trái đất và cùng chung sống dưới mái
nhà chung. Con người bị chi phối bởi các quy luật chung của thế giới tự nhiên, sinh
vật. Con người hòa hợp với thiên nhiên, học hỏi thiên nhiên. Con người là một thực
thể tự nhiên hoạt động, bằng lao động con người đấu tranh với thiên nhiên, cải tạo
thiên nhiên và cũng bằng lao động con người sáng tạo ra chính bản thân minh. Ví như
vấn đề môi trường hiện nay đang là mối nguy cơ đe dọa lớn mà cả nhân loại đang phải
gánh chịu. Nó do chính con người tạo nên bởi sự thiếu hiểu biết và ý thức sai, hành
động sai trái chứ khơng phải do thiên nhiên. Có thể nói, thiên nhiên tồn tại được lâu
dài hay không cũng phụ thuộc phần lớn vào con người. Cái gọi là tính người là sản
phẩm của lao động của chính bản thân con người. Vì là thực thể tự nhiên hoạt động
nên con người đã tự hình thành cho mình những sức mạnh, những sức mạnh này tồn
tại trong con người dưới dạng các tư chất và những năng lực.

8


Thứ hai: Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội,
trong đó, mặt xã hội quyết định bản chất con người
Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, Mác đã đưa ra một
quan niệm hoàn chỉnh về khái niệm con người, cũng như về bản chất con người. Mác

phân biệt rõ hai mặt trong khái niệm con người: mặt sinh vật và mặt xã hội.
Trước hết, Mác thừa nhận con người là một động vật cao cấp nhất, sản phẩm của
sự tiến hóa lâu dài của giới sinh vật như tiến hóa luận của Đác Uyn chỉ ra. Như mọi
động vật khác, con người là một bộ phận của thiên nhiên, tìm thức ăn, nước uống… từ
trong thiên nhiên. Con người phải “đấu tranh” để tồn tại, ăn uống, sinh đẻ… Tuy
nhiên, Mác không trừ quan điểm cho rằng: Cái duy nhất tạo nên bản chất con người là
bản năng sinh vật của nó. Con người vốn là một sinh vật có đầy đủ những đặc trưng
của sinh vật, nhưng lại có nhiều điểm phân biệt căn bản với các sinh vật khác. Trước
Mác và cùng thời đã có nhiều nhà tư tưởng lớn đã đưa ra những tiêu chí phân biệt
người và động vật có sức thuyết phục, chẳng hạn như Phranklin cho rằng con người
khác con vật ở chỗ con người biết sử dụng công cụ lao động, Arixtốt đã gọi con người
là “một động vật có tính xã hội”, Pascal nhấn mạnh đặc điểm của con người là sức
mạnh của con người là ở chỗ con người biết suy nghĩ. Các nhận định trên đều đúng khi
nêu lên một khía cạnh về bản chất con người, nhưng những nhận định đó đều phiến
diện, khơng nói lên được nguồn gốc của những đặc điểm ấy và mối quan hệ biện
chứng giữa chúng với nhau.
Triết học Mác xem xét vấn đề bản chất con người một cách toàn diện, cụ thể,
xem xét bản chất con người không phải một cách chung chung, trừu tượng mà trong
tính hiện thực, cụ thể của nó, trong q trình phát triển của nó. Con người là một bộ
phận của tự nhiên, nhưng trong mối quan hệ với tự nhiên con người hoàn toàn khác
con vật. Mác phân biệt rõ ràng: “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, cịn con người
thì tái sản xuất ra tồn bộ giới tự nhiên” [16, 388]. Câu nói sâu sắc này nêu lên tính tất
yếu của sự hòa hợp giữa con người với tự nhiên; bởi tự nhiên là “thân thể vô cơ của
con người”. Tính lồi của con người khơng phải tính lồi trừu tượng. Nó cũng có
những là tính xã hội và lồi người chính là “xã hội người”. Con người có tính xã hội
trước hết bởi bản thân hoạt động sản xuất của con người là hoạt động mang tính xã
hội. Trong hoạt động sản xuất, con người không thể tách khỏi xã hội. Hoạt động của
con vật chỉ phục vụ nhu cầu trực tiếp của nó, cịn hoạt động của con người gắn liền với
9



xã hội và phục vụ cho cả xã hội, trong đó có bản thân mình. Hoạt động của con người
khơng phải hoạt động theo bản năng như động vật mà là hoạt động có ý thức. Tư duy
con người phát triển trong hoạt động và giao tiếp xã hội, trước hết là trong hoạt động
lao động sản xuất.
Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con
người. Con người là một bộ phận của tự nhiên, là kết quả của quá trình phát triển và
tiến hóa lâu dài của mơi trường tự nhiên.
Điều quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là phương diện xã
hội của nó. Mác khẳng định “Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức,
bằng tơn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu
bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra tư liệu sinh
hoạt của mình… sản xuất ra tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp
sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình. Thơng qua hoạt động sản xuất vật chất,
con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên” [16,387]. “Con vật chỉ sản xuất ra
bản thân nó, cịn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên” [16, 388]. Nhờ đó,
ta có thể rút ra kết luận: Lao động là yếu tố quyết định, hình thành bản chất xuất hiện
của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Bởi vì
lao động là nguồn gốc của nên văn minh vật chất và tinh thần. Lao động là nguồn gốc
trực tiếp của sự hình thành ý thức. Trong lao động, con người quan hệ với nhau trong
sản xuất, phân công lao động, phân phối sản phẩm.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của
con người chịu sự chi phối của ba quan hệ:
+ Hệ thống quy luật tự nhiên quy định phương diện sinh học của con người.
+ Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh
học của con người.
+ Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.
Ba quy luật trên khơng tách rời mà hịa quyện vào nhau tạo nên “chất nhân” với
tư cách là sự thống nhất của mặt tự nhiên và mặt xã hội trong một con người hiện thực.
Tóm lại, con người khác con vật về bản chất ở cả ba mặt: quan hệ với thiên

nhiên, quan hệ với xã hội, quan hệ với bản thân. Cả ba mối quan hệ đó đều mang tính
xã hội, trong đó quan hệ xã hội là quan hệ bản chất nhất, bao quát nhất trong mọi hoạt
động của con người, cả trong lao động sinh con đẻ cái và trong tư duy.
10


Thứ ba: Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những
quan hệ xã hội
Khi phê phán quan niệm của Phơbách, Mác đã khái quát: “Bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [16, 389].
Sự hoạt động và phát triển của con người khác lồi vật ở ba phương diện chính.
Đó là con người quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội, quan hệ với chính bản thân
con người. Suy đến cùng, cả ba mối quan hệ đều mang tính xã hội trong đó quan hệ
giữa con người với con người là quan hệ bản chất. Khơng có con người trừu tượng,
thốt ly mọi điều kiện, hồn cảnh, lịch sử xã hội. Con người là cụ thể, xác định, sống
trong điều kiện lịch sử nhất định, một thời đại nhất định. Và chỉ khi tham gia các quan
hệ xã hội, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Ở đây, ta khơng phủ định mặt tự nhiên trong đời sống con người, song mặt tự
nhiên tồn tại trong sự thống nhất với mặt xã hội.
Thứ tư: Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Chủ nghĩa Mác - Lênin coi con người, người lao động, nguồn nhân lực là một
trong những yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, là yếu tố quan trọng nhất, quyết
định đến sự phát triển của lực lượng sản xuất, quyết định quá trình sản xuất và do đó
quyết định năng suất lao động.
Theo Mác tiền đề đầu tiên của mọi lịch sử là việc sản xuất ra tư liệu sinh hoạt,
con người muốn sống thì phải có thức ăn, vật dùng, nhà ở... để đáp ứng những nhu cầu
đó, buộc con người phải khơng ngừng sản xuất. Sản xuất vật chất là điều kiện cơ bản
quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Chủ nghĩa Mác coi lực lượng sản xuất cơ
bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động chân tay và lao

động trí óc, chính thực tiễn sản xuất của con người là cơ sở, động lực cho sự tồn tại và
phát triển của xã hội.
Khơng có giới tự nhiên, khơng có lịch sử xã hội thì khơng tồn tại con người. Bởi
vậy, con người là sản phẩm của lịch sử của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Song,
điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch - sử xã hội. C.Mác
khẳng định: “cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của
những hoàn cảnh và giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chinh những con người
làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cần phải được giáo dục” [16, 391].
11


Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ănghen cho rằng: “Thú vật cũng có một
lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng
cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và
trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà
chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng
xa con vật hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình
làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu” [16, 392].
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiến, tác động
vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch
sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người
thì trái lại, thơng qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự
nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong q trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình, con
người là sản phẩm của lịch sử đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản
thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con
người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm
bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần,
thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu con người
đặt ra. Khơng có hoạt động của con người thì cũng khơng tồn tại quy luật xã hội, và do

đó, khơng có sự tồn tại của lịch sử xã hội lồi người.
Khơng có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát
triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mối quan hệ với điều kiện
lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất
con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với các
điều kện tồn tại của con người. Mặc dù là “tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, con
người có vai trị tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông
qua đó bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi
sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng với sự vận động và biến đổi
của bản chất con người
Vậy, từ đó rút ra ba kết luận:
- Bản chất chung nhất, sâu sắc nhất của con người là tổng hoà các mối quan hệ
giữa người và người trong xã hội diễn ra trong hiện tại và cả trong quá khứ.
12


- Bản chất của con người không phải là cố định, bất biến mà có tính lịch sử cụ thể.
- Khơng thể hiểu bản chất con người bên ngồi mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
1.1.2 Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản về con người
và nguồn nhân lực
 Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả dân tộc,
đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam,
góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội.
Ngay từ khi ra đi tim đường cứu nước, người đã xác định cho mình một mục
tiêu cao cả đó là tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc và giải phóng con
người thốt khỏi thân phận lầm than nơ lệ. Trong q trình bn ba khắp thế giới,
người đã đi nhiều nơi, dừng chân ở nhiều chỗ đến khi bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin,
người đã vận dụng một cách sáng tạo. Từ đó, người rút ra nhận định đó là độc lập dân

tộc gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Trong đó vấn đề con người
là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm xuyên suốt trong toàn bộ
nội dung tư tưởng của người. Vận dụng chủ nghĩa Mác “cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln tin ở dân, dựa vào dân, tổ chức và
phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, bồi dưỡng, đào tạo và phát huy mọi năng lực
của dân với khẩu hiệu “dễ trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng
xong” [19, 212], điều này có ảnh hưởng quyết định đến sự nghiệp đấu tranh cách mạng
giành độc lập dân tộc cũng như xây dựng đất nước.
Đối với Hồ Chí Minh, con người bao giờ cũng là vốn quý nhất, là tâm điểm mà
xã hội cần tập trung giải quyết. Hồ Chí Minh nói cán bộ là cái gốc của mọi cơng việc.
Cây có đơm hoa kết trái, cành lá sum suê, đều ở cái gốc đó mà ra. Nhưng muốn có cán
bộ, trước hết phải xây dựng con người. Muốn trở thành cán bộ, trước hết phải trở
thành con người. Những năm 20, dưới sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa đế quốc, xã hội
được chia ra làm hai kiểu người. Một là đế quốc thực dân tàn bạo. Hai là những người
lao động bị áp bức bóc lột nặng nề: Dù màu da có khác nhau trên đời này có hai loại
người: giống người bị bóc lột và giống người bị bóc lột.
Cuối những năm 40, căn cứ vào đạo đức cách mạng Người đã đưa ra khái niệm:
“Trên trái đất có mn triệu người. Song số người ấy có thể chia làm hai hạng: Người
13


thiện và người ác”. Cuối cùng, Người khẳng định: “Bọn Việt gian bán nước…“, bọn
phát xít thực dân là ác quỷ ma tà” vào một nhóm, cịn tất cả những kiểu người khác
vào một nhóm. Trên cơ sở phân chia như vậy, Hồ Chí Minh cũng cho rằng những
người bị bóc lột, những người đi theo điều thiện dù màu da, tiếng nói có khác nhau
nhưng có thể coi nhau như anh em một nhà, có thể “đại đồn kết”, “đại hòa hợp”
trong “một thế giới đại đồng” [1, 170].
Theo Hồ Chí Minh, người ta sinh ra vốn tốt cả, nhưng về sau do ảnh hưởng của
gia đình, bạn bè, xã hội, mà dần dần mỗi người một khác. Đồng thời, ngay trong “mỗi
con người đều có thiện có ác trong lịng”. Vì vậy, “Ta phải biết làm cho phần tốt ở

trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi... Đối với
mỗi thói hư tật xấu trừ hạng người phản lại tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ
tiến bộ bằng cách làm cho phần thiện trong con người họ nảy nở cịn phần ác bị đẩy lùi
chứ khơng phải đập cho tơi bời” [1, 170].
Từ đó, Hồ Chí Minh đã rút ra được định nghĩa về chữ người. Xét theo nghĩa hẹp,
Chữ “Người” là gia đình, bạn bè, anh em. Xét theo nghĩa rộng: Chữ “Người” là đồng
bào cả nước, là cả loài người. Định nghĩa này đã nêu lên một con người toàn diện, là
con người của xã hội chứ không phải chỉ đơn thuần gắn với mỗi cá nhân của mỗi cá
thể riêng lẻ [1, 271 - 272].
Chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là: “Nhà nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ
nhân dân chỉ lo làm lợi cho nhân dân trước hết là nhân dân lao động, ngày càng được
tiến bộ về vật chất và tinh thần, làm cho trong xã hội khơng có người bóc lột người”.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội chính là làm cho đời sống nhân dân ngày càng sung sướng,
ăn ngon mặc ấm, được học hành, ốm đau có thuốc, được ấm no và sống một đời hạnh
phúc. Tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng mình và đặc biệt con người
được tự do phát triển nâng cao trình độ dân trí và trình độ nhận thức của mình. Người
khẳng định rằng: “Nếu xây dựng xã hội chủ nghĩa trước hết cần có những con người
xã hội chủ nghĩa”. Con người xã hội chủ nghĩa phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra.Hồ Chí
Minh quan niệm về con người xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau.
Đó là việc kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống. Thứ hai là hình
thành những phẩm chất mới như có tinh thần xã hội chủ nghĩa, có đạo đức cách mạng,
có trí tuệ, có bản lĩnh để làm chủ, có tác phong xã hội chủ nghĩa, có lịng nhân ái, vị
tha, độ lượng...[1, 99 - 108].
14


Có thể khẳng định rằng: Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người Việt Nam tiêu biểu
nhất cho những giá trị cao đẹp nhất của truyền thống dân tộc Việt Nam. Con đường
chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi - từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở
hội nhập lý tưởng và hiện thực giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc nhằm đem lại tự

do, hạnh phúc cho con người - phản ánh quy luật khách quan của sự hình thành con
người mới ở nước ta. Sự kết hợp đúng đắn các giá trị dân tộc với các giá trị tiến bộ của
thời đại - sự kết hợp mà trong đó các giá trị truyền thống được bổ sung, nâng cao và
hoàn chỉnh - sẽ tạo ra tiềm năng to lớn cho sự hoàn thiện từng bước con người cũng
như cho sự phát huy vai trò nhân tố con người ở nước ta.
 Quan điểm của Đảng cộng sản về nguồn nhân lực
Đảng cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động nên vấn đề con người và nguồn nhân lực của Đảng cộng sản Việt Nam
nhất quán với vấn đề con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự nhất quán ấy được thể
hiện qua đường lối lãnh đạo cách mạng và các chủ trương, chính sách của Đảng trong
suốt q trình lãnh đạo cơng cuộc đấu tranh giả phóng dân tộc và trong sự nghiệp đổi
mới xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Con người Việt Nam đang là trung tâm
trong “chiến lược phát triển tồn diện”; đang là động lực của cơng cuộc xây dựng xã
hội mới với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh,
vững bước đi lên Chủ nghĩa xã hội”.
Nhìn lại tồn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng từ ngày thành lập (3/2/1930) đến
nay. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: con người là vốn quý nhất chăm lo cho hạnh
phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Trên thực tế, trong
suốt những năm tháng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác Đảng ta đã cố gắng làm nhiều việc theo hướng đó. Tuy nhiên việc chăm lo cho
hạnh phúc con người chưa có nhiều thành cơng như mong muốn, việc nâng cao đời
sông vật chất và tinh thần cho những người lao động còn thấp, song phần nào đã đáp
ứng được nguyện vọng của nhân dân, của những người lao động, chăm lo cho hạnh
phúc của nhân dân. “việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân
ta phải hết sức tránh” đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ
trung tâm. Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh - “vì lợi ích mười năm chồng cây, vì lợi
ích trăm năm chồng người” và “muốn xây Chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những
15



con người xã hội chủ nghĩa” [1, 108] - đã trở thành tư tưởng quán xuyến toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của Đảng ta với tư cách là Đảng câm quyền ngay từ đầu mọi chủ
trương, chính sách, đường lối của Đảng đều quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và
phát huy nhân tố con người.
Văn kiện Đại đại hội lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam (1960) đã khẳng
định: “Con người là vốn quý nhất”. Sự nghiệp giáo dục của chúng ta phải bồi dưỡng
thế hệ trẻ thành những người lao động làm chủ đất nước, có giác ngộ xã hội chủ nghĩa,
có văn hóa và kỹ thuật, có sức khỏe, những người phát triển tồn diện để xây dựng xã
hội mới, đồng thời phải phục vụ đắc lực cho việc đào tạo cán bộ xây dựng kinh tế và
văn hóa xã hội chủ nghĩa và việc nâng cao khơng ngừng trình độ văn hóa của nhân dân
lao động.
Phải giáo dục quan điểm lao động xã hội chủ nghĩa, tự giác phục tùng kỷ luật lao
động mới, căm ghét bóc lột và kiên quyết trừ bỏ mọi tàn tích của tư tưởng bóc lột của
giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản...
Phải giáo dục chủ nghĩa yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc, kết hợp với tinh
thần quốc tế chủ nghĩa của giai cấp vô sản, căm thù đế quốc và phong kiến, bảo vệ của
cơng, chống tham ơ lãng phí, tinh thần khoa học tác phong làm việc mới.
Tại đại hội lần thứ IV của Đảng cộng sản Việt Nam (1976) đưa ra luận điểm giáo
dục, hình thành và phát triển con người mới, con người làm chủ tập thể.
Con người mới xã hội chủ nghĩa là con người Việt Nam mới mà đặc trưng nổi
bật là: làm chủ tập thể, lao động, yêu nước xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vơ
sản. Đó cũng là sự kết tinh và phát triển những gì cao đẹp nhất trong tâm hồn và cốt
cách việt nam hun đúc qua bốn ngàn năm lịch sử.
Con người mới là con người có tư tưởng đúng và tình cảm cao đẹp, có tri thức và
năng lực làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên làm chủ bản thân. Con người mới tất yếu
phải là người lao động biết phát huy truyền thống lao động cần cù và đấu tranh anh
dũng của dân tộc, lao động với tinh thần tự nguyện tự giác cao, với đầy đủ nhiệt tình,
tận tụy, sẵn sàng cống hiến mọi sức lực và trí tuệ cho sự nghiệp xây dựng xã hội chủ
nghĩa...con người mới phải biết xây dựng gia đình hạnh phúc trên cơ sở một xã hội

hạnh phúc, trách nhiệm đầy đủ và một tình yêu chân thật trong quan hệ vợ chồng, có
trách nhiệm cao đối với việc xây dựng con cái thành những con người mới.

16


Xây dựng con người Việt Nam như vậy là xây dựng con người phát triển tồn
diện, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hòa và phong phú.
Đại hội lần thứ V Đảng cộng sản Việt Nam (1982) tiếp tục khẳng định về tư
tưởng và văn hóa, đẩy mạnh cơng cuộc xây dựng nền văn hóa mới và con người mới.
Người Việt Nam vốn có lịng u nước tha thiết, có tinh thần dân chủ và bình đẳng
trong quan hệ giữa người với người. “Thương nước - thương nhà - thương người thương mình” là truyền thống lâu đời của nhân dân ta. Nhờ có tinh thần yêu nước dân
chủ ấy mà trong suốt quá trình lịch sử mấy nghìn năm, dân tộc ta đã làm nên những
chiến công oanh liệt.
Tháng 12/1986 Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam (1986) đưa ra
đường lối đổi mới đất nước, đặc biệt nhấn mạnh vai trò quan trọng của nhân tố con
người, phát huy yếu tố con người; gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội, lấy việc
phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động, lấy sự quan tâm đến con
người và thái độ tôn trọng lẫn nhau là một tiêu chuẩn đạo đức trong mọi hoạt động
kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong các phẩm chất của con người đặc biệt nhấn mạnh, sức
sáng tạo, tài năng, nhiệt tình lao động và năng suất lao động, việc làm thu nhập, trật tự,
kỷ cương, tôn trọng và bảo vệ các quyền công dân, chú ý đến các đối tượng thiệt thòi.
Đến Đại hội lần thứ VII (1991) đã khẳng định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là một xã hội con người được giải phóng, nhân dân lao động được
làm chủ đất nước, có nền kinh tế phát triển cao và nền văn hóa tiên tiến, đậm là bản
sắc dân tộc; mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển tồn diện cá nhân, cơng bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo.
Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”
Đảng ta đã chỉ rõ phương hướng lớn của chính sách xã hội là: Phát huy nhân tố con
người trên cơ sở đảm bảo cơng bằng, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi công dân kết

hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh
thần, giữa đáp ứng các yêu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài giữa cá nhân với
tập thể và cộng đồng xã hội. Định hướng có ý nghĩa chiến lược đó chính là thể hiện tư
tưởng vì con người, của mục tiêu phát triển con người Việt Nam, toàn diện trong công
cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Đại hội lần thứ VIII (1996) của Đảng ta đã quyết định đưa nước ta bước vào thời
kỳ mới “Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Để phục vụ
17


nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới này “phương hướng chung của lĩnh vực giáo
dục, đào tạo trong 5 năm tới (1996 - 2000) là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng u
cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa [9, 12-38], đồng thời, “Lấy việc phát
huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” một
trong những quan điểm chỉ đạo tiến hành sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ngay sau Đại hội VIII, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã tiến hành hội nghị lần thứ
hai (12/1996) để bàn về giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ. Hội nghị xác định:
“Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng con người và thế hệ
thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong
sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực
tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người
Việt Nam, có ý thức cộng địng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức
và khoa học cơng nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác
phong cơng nghiệp, có tổ chức và kỷ luật, có sức khỏe là những người thừa kế xây
dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác [9, 28-29].
Vì vậy, trong những năm tới cần được tập trung và chăm sóc bồi dưỡng, đào tạo phát
huy sức mạnh của nguồn lực con người Việt Nam thành lực lượng lao động xã hội, lực
lượng sản xuất có đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước, đủ sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc, hợp tác cạnh tranh trong kinh tế thị trường

mở cửa với nhiều thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội Đảng toàn Quốc lần thứ IX (2001) đã khẳng định: “Con người và nguồn
nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa cần tạo chuyển biển cơ bản về giáo dục - đào tạo... Đào tạo lớp người lao
động có kiến thức cơ bản làm chủ kỹ năng, nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực,
nhạy cảm với cái mới có ý thức vươn lên về khoa học công nghệ. Xây dựng đội ngũ
công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà kinh doanh,
nhà quản lý. Chính sách sử dụng lao động và nhân tài phải tận dụng mọi năng lực, phát
huy mọi tiềm năng của các tập thể và cá nhân phục vụ sự nghiệ xây dựng và bảo vệ đất
nước” [10, 201- 202].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định rõ mục tiêu của chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 10 năm (2000 - 2010) là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
18


phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân, tạo nền
tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh
tế quốc phòng an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa được hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng
cao”. Đồng thời cũng khẳng định: “Nguồn nhân lực là một trong những động lực quan
trọng thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển kinh tế xã hội, tăng trưởng nhanh và
bền vững” [10, 159].
Trong vấn đề đổi mới giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “Đổi mới hệ thống giáo dục
đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng, trực tiếp phục vụ và chuyển đổi cơ
cấu lao động, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu
nghành. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài; nhanh chóng xây dựng
nguồn nhân lực hợp lý về nghành nghề, trình độ đào tạo, dân tộc, vùng miền...” đồng

thời cũng chỉ rõ: “xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con
người Việt Nam, tăng tuổi thọ và chất lượng giống nòi”. “nguồn lực con người - yếu tố
cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững... Con người và
nguồn nhân lực là yếu tố quyết định phát triển đất nước trong thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ là một
trong ba khâu đột phá đưa đất nước vào thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng
Chủ nghĩa xã hội, bảo vệ tổ quốc” [11, 96 - 102].
Luật giáo dục Quốc hội sửa đổi và bổ sung năm 2009 đã ghi rõ “Mục tiêu giáo
dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo đức, trí tuệ, sức khỏe,
thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất năng lực của công dân, đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [23, 32].
Trong định hướng lớn về phát triển văn hóa, xã hội tại Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng (1/2011) khẳng định về con người: “Con người là trung tâm
của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền
19


làm chủ của nhân dân”, “Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tế
bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và
hình thành nhân cách” [12,38].
Đại hội cũng chỉ rõ vai trị, vị trí của giáo dục và đào tạo: “Giáo dục và đào tạo
có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần
quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam”. Khẳng
định rõ quan điểm đối với giáo dục và đào tạo: “Phát triển giáo dục và đào tạo cùng
với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và
đào tạo là đầu tư phát triển”. Đồng thời khẳng định: “Đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu

cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc
lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập,
tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời” [12, 38 - 39].
Có thể thấy vấn đề con người và nhất là nguồn nhân lực được Chủ tịch Hồ Chí
Minh quan tâm và xem xét đây là yếu tố quan trọng và có ý nghĩa quyết định cho sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong khi hoạch định chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội nhằm thực hiện từng bước cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng và nhà nước ta xuất phát từ quan
điểm coi mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là con người, do con người.
Quan điểm mục tiêu đó thể hiện ở những tư tưởng cơ bản sau:
Thứ nhất, đặt con người vào vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển hay gọi là
chiến lược con người, lấy lợi ích của con người làm điểm xuất phát của mọi chương
trình, kế hoạch phát triển.
Thứ hai, khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, tập thể lao động và cả cộng
đồng dân tộc trong việc thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước, ra sức làm giàu cho
đất nước.
Thứ ba, coi lợi ích cá nhân là đơng lực trực tiếp của sự phát triển trong sự gắn bó
hữu cơ giữa lợi ích của mỗi con người của từng tập thể và của toàn xã hội.
Thú tư, mọi người được tụ do kinh doanh theo pháp luật, được bảo vệ quyền sở
hữu và thu nhập hợp pháp.
Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là tất cả vì con người và do con
người. Vấn đề này hết sức quan trọng đòi hỏi phải được quán triệt trong mọi hoạt động
20


của đời sống xã hội từ lãnh đạo của Đảng, hoạt động quản lý của nhà nước, các tổ
chức quần chúng đến các chương trình phát triển kinh tê – xã hội và hoạt động của các
doanh nghiệp trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tóm lại:
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng

ta về nguồn nhân lực đồng thời căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, có thể
khẳng định con người xã hội chủ nghĩa:
Là con người có ý thức, trình độ và năng lực làm chủ. Đồng thời xã hội tạo ra
điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội...vv... để con người thực hiện được quyền làm
chủ đó.
Đó là con người lao động mới, có tri thức sâu sắc về cơng việc mình đang đảm
nhận, lao đơng có ý thức kỷ luật, có tinh thần hợp tác với đồng nghiệp, biết đánh giá
chất lượng lao động, hiệu quả lao động của bản thân.
Thêm nữa, con người xã hội Chủ nghĩa là con người sống có văn hóa, có tình
nghĩa với anh em, bạn bè, mọi người xung quanh, biết được vị trí của mình trong từng
mối quan hệ và giải quyết đúng đắn được những mối quan hệ đó, thường xuyên có ý
thức nâng cao trình độ tri thức về mọi mặt, ra sức rèn luyện sức khỏe, đảm bảo phát
triển tồn diện cá nhân.
Đó cũng là con người giàu lịng u nước, thương dân có tình thương giai cấp,
thương u đồng loại, sống nhân văn nhân đạo, có ý thức và kiên quyết đấu tranh bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ những thành quả cách mạng; kiên quyết đấu tranh
làm thất bại mọi âm mưu chống phá của kẻ thù.
1.2 Quan niệm về nguồn nhân lực và vai trị của nguồn nhân lực trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
1.2.1 Quan niệm về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
* Quan niệm về nguồn nhân lực
Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát triển kinh
tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - cơng nghệ, con người. Trong các nguồn
lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất quyết định trong sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Một nước cho dù
có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng khơng có

21



những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì khó có
khả năng có thể đạt được sự phát triển như mong muốn.
Quá trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước và ngày nay trong công cuộc
hội nhập và phát triển nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh”, Đảng ta luôn xác định: Nguồn lao động dồi dào, con người Việt
Nam có truyền thơng u nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hố, giáo dục, có khả
năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng
lực nội sinh.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực. Theo Liên Hợp
Quốc thì: Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng
lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và
của đất nước.
Theo tổ chức ngân hàng thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con
người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân. Như vậy, ở
đây nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất
khác: vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên.
Theo tổ chức lao động quốc tế thì: Nguồn nhân lực của một quốc gia là tồn bộ
những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được hiểu
theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn lực con người của một quốc gia, một
vùng lãnh thổ, là một bộ phận của các nguồn lực có khả năng huy động tổ chức để
tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội bên cạnh nguồn lực vật chất, nguồn
lực tài chính.
Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực
cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động (nam
đủ 15 đến hết 60 tuổi, nữ đủ 15 đến hết 55 tổi), có khả năng tham gia vào lao động, sản
xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng
thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Kinh tế phát triển cho rằng: nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong độ tuổi
quy định có khả năng tham gia lao động. nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt:

về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định
của Nhà nước và thời gian lao động có thể huy động được từ họ; về chất lượng, đó là
22


×