Tải bản đầy đủ (.pdf) (198 trang)

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc từ năm 2001 đến năm 2011 - Copy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.15 MB, 198 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công
trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nêu ra trong luận án
là trung thực có nguồn gốc, xuất xứ
rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

NguyÔn §øc Ph- ¬ng


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT

Viết đầy đủ

Viết tắt

1

Ban Chấp hành Trung ương

BCHTW

2

Bộ Chính trị

BCT

3



Chính trị quốc gia

CTQG

4

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

5

Chủ quyền biển, đảo

CQBĐ

6

Chủ quyền biển, đảo Tổ quốc

CQB,ĐTQ

7

Công an nhân dân

CAND

8


Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

9

Học viện Chính trị

HVCT

10

Học viện Chính trị Quân sự

HVCTQS

11

Học viện Chính trị Quốc gia

HVCTQG

12

Học viện Quốc phòng

HVQP

13


Kinh tế - xã hội

KT-XH

14

Luận án

LA

15

Nhà xuất bản

Nxb

16

Quân đội Nhân dân

QĐND

17

Quốc phòng – an ninh

QP-AN

18


Trang

Tr

19

Trung ương

TW

20

Tư bản chủ nghĩa

TBCN

21

Xã hội chủ nghĩa

XHCN


MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU

TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ
BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO TỔ QUỐC TỪ
NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005
1.1.
Bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc là yêu cầu khách
quan, cấp thiết
1.2.
Chủ trương của Đảng về bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ
quốc trong những năm 2001 – 2005
1.3.
Đảng chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển,
đảo trong những năm 2001 – 2005
Chương 2
ĐẢNG LÃNH ĐẠO TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ CHỦ
QUYỀN BIỂN, ĐẢO TỔ QUỐC TỪ NĂM 2006 ĐẾN
NĂM 2011
2.1.
Những nhân tố tác động đến nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền
biển, đảo Tổ quốc trong những năm 2006 - 2011
2.2.
Chủ trương của Đảng về tăng cường bảo vệ chủ quyền
biển, đảo Tổ quốc trong những năm 2006 - 2011
2.3.
Đảng chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển,
đảo Tổ quốc trong những năm 2006 - 2011
Chương 3
ĐÁNH GIÁ VÀ KINH NGHIỆM
3.1.

Đánh giá quá trình Đảng lãnh đạo bảo vệ chủ quyền biển,
đảo Tổ quốc trong những năm 2001 – 2011
3.2.
Một số kinh nghiệm
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

5
9

23
23
41
53

70
70
79
88
111
111
128
150
153
155
165



5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ
quốc từ năm 2001 đến năm 2011”, được thực hiện dưới góc độ của khoa học
chuyên ngành Lịch sử Đảng. Đây là đề tài tập trung nghiên cứu quá trình Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc (CQB,ĐTQ) giai
đoạn 10 năm (2001- 2011). Trên cơ sở phương pháp luận sử học và bằng các
phương pháp chuyên ngành cụ thể như: lịch sử, logic đồng đại, lịch đại, thống kê,
tổng hợp, so sánh, chuyên gia..., đề tài luận án đã hệ thống hóa và luận giải làm rõ
chủ trương, cũng như sự chỉ đạo của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ CQB,ĐTQ; đánh giá
khách quan quá trình Đảng lãnh đạo bảo vệ CQB,ĐTQ trong những năm 2001 2011, đồng thời rút ra những kinh nghiệm có ý nghĩa lịch sử và hiện thực.
Kết cấu của luận án gồm: phần mở đầu; tổng quan vấn đề nghiên cứu; 3
chương (8 tiết); kết luận; danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả; danh
mục tài liệu tham khảo; phụ lục.
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Việt Nam là một quốc gia ven Biển Đông, có lợi thế chiến lược đặc biệt
thuận lợi về biển. Vùng biển, đảo Việt Nam với hơn 1 triệu km2 thềm lục địa,
khoảng 3000 đảo lớn, nhỏ, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nằm ở
giữa Biển Đông, được coi là vùng biển giàu tiềm năng, có vị trí địa kinh tế chính trị - quân sự vô cùng quan trọng không chỉ đối với sự phát triển của Việt
Nam, mà còn đối với cả khu vực và thế giới.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt Nam coi vùng biển,
đảo của Tổ quốc là địa bàn trọng yếu gắn với bước đường sinh tồn, phát triển
của dân tộc. Vì vậy, vấn đề khai thác kinh tế biển, đi đôi với giữ gìn, bảo vệ
CQB,ĐTQ đối với dân tộc Việt Nam luôn được đặt ra như một tất yếu.
Bước vào thế kỷ XXI, trong bối cảnh nguồn tài nguyên trên lục địa ngày
càng cạn kiệt, sự gia tăng dân số khiến không gian sống trở nên chật chội, các
nước ven biển, kể cả những nước không có biển, đều nhất loạt hướng về biển, hiện
thực hóa quá trình vươn ra biển, nhằm khẳng định ưu thế quốc gia trong tìm kiếm,

tranh giành nguồn lợi ích to lớn trên biển.


6
Biển Đông, vốn là một vùng biển có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự giao
lưu, phát triển của khu vực và thế giới, cho nên luôn được nhiều quốc gia quan tâm,
chú ý. Các nước trong khu vực luôn đẩy mạnh, tăng cường quá trình tranh chấp
CQBĐ. Một số nước có tiềm lực khoa học - công nghệ, tiềm lực kinh tế, quân sự
mạnh, như: Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản… vì các tham vọng kinh tế, chính trị
riêng đã và đang tìm mọi cách can thiệp sâu vào địa bàn chiến lược này, khiến cho
tình hình Biển Đông vốn phức tạp, càng trở nên phức tạp hơn. An ninh chủ quyền
biển đảo của khu vực bị đe dọa nghiêm trọng...
Tất cả các yếu tố nêu trên đã và đang tác động mạnh mẽ tới an ninh quốc gia,
cũng như tới chiến lược bảo vệ CQBĐ của Việt Nam. Nhiệm vụ bảo vệ CQB,ĐTQ
trong giai đoạn hiện nay càng ngày càng khó khăn và nhiều thách thức.
Thực tiễn quá trình bảo vệ CQB,ĐTQ dưới sự lãnh đạo của Đảng trong
hơn 20 năm đổi mới đất nước, nhất là giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2011, Việt
Nam đã đạt được những thành công nhất định. Về cơ bản, CQBĐ của đất nước
được giữ vững. Vấn đề kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố QP-AN
trên biển trong điều kiện mới đã có bước tiến triển tốt so với thời gian trước đây.
Năm 2007, với việc Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra Chiến lược biển Việt Nam
đến năm 2020 và trải qua gần 5 năm thực hiện chiến lược đó, sức mạnh quốc gia
về biển bước đầu đã được phát huy, tạo điều kiện thuận lợi bảo vệ vững chắc
CQB,ĐTQ. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, thiếu sót cần khắc phục.
Làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo bảo vệ CQB,ĐTQ trong thời kỳ đổi mới
toàn diện đất nước, nhất là trong thập niên đầu tiên đầy biến động của thế kỷ
XXI, qua đó rút ra một số kinh nghiệm để vận dụng vào nhiệm vụ bảo vệ CQBĐ
ở những giai đoạn tiếp theo là việc làm cần thiết, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và
mang tính thời sự sâu sắc và cấp thiết.
Với ý nghĩa đó, tác giả chọn vấn đề: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo

bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc từ năm 2001 đến năm 2011”, làm đề tài
luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Thông qua việc hệ thống, phân tích, đánh giá chủ trương và sự chỉ đạo
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc của Đảng trong khoảng


7
thời gian 10 năm (2001 - 2011), làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng về bảo vệ chủ
quyền biển, đảo Tổ quốc từ năm 2001 đến năm 2011, đồng thời rút ra một số
kinh nghiệm nhằm góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Tổ quốc.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo
vệ CQB,ĐTQ của Đảng trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2011.
- Đánh giá khách quan hoạt động lãnh đạo bảo vệ CQB,ĐTQ của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong 10 năm (2001 - 2011).
- Rút ra những bài học kinh nghiệm từ quá trình Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo bảo vệ CQB,ĐTQ trong những năm 2001 - 2011 dưới góc độ
khoa học Lịch sử Đảng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hệ thống chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện chủ trương
của Đảng về bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc từ năm 2001 đến 2011.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi nghiên cứu: Sự lãnh đạo của Đảng về bảo vệ CQB,ĐTQ từ năm
20011 đến năm 2011.
- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng
về bảo vệ CQB,ĐTQ; đánh giá khách quan quá trình lãnh đạo của Đảng về bảo
vệ CQB,ĐTQ và rút ra những kinh nghiệm.

- Về thời gian: Toàn bộ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về bảo
vệ CQB,ĐTQ từ năm 2001 đến năm 2011.
- Về không gian: Toàn bộ những vấn đề liên quan có tác động đến
nhiệm vụ bảo vệ CQB,ĐTQ trong những năm 2001 - 2011.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; luật pháp
quốc tế về biển và các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước và toàn bộ thực tiễn bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc là cơ sở lý
luận, thực tiễn để tác giả thực hiện luận án.
Trên cơ sở lý luận và phương pháp luận sử học, các phương pháp: lịch sử,
logic, đồng đại, lịch đại, quy nạp, so sánh, thống kê, tổng hợp và phương pháp
chuyên gia... là những phương pháp được tác giả sử dụng để thực hiện đề tài.


8
6. Đóng góp mới của đề tài luận án
- Hệ thống hóa các tài liệu, tư liệu, bước đầu phân tích, đánh giá nội dung
một số tài liệu, tư liệu liên quan đến quá trình Đảng lãnh đạo bảo vệ chủ quyền
biển, đảo Tổ quốc từ năm 2001 đến năm 2011.
- Trình bày một cách có hệ thống và làm rõ các chủ trương cũng như sự
chỉ đạo của Đảng đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc trong
những năm 2001 - 2011. Thông qua đó khẳng định vai trò của Đảng trong bảo vệ
chủ quyền biển, đảo của đất nước.
- Đánh giá ưu điểm, hạn chế hoạt động lãnh đạo của Đảng về nhiệm vụ
bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc trong những năm 2001 - 2011, trên cơ sở đó
rút ra một số kinh nghiệm cần thiết góp phần đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền
biển, đảo Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Nghiên cứu về đề tài Biển Đông (bao gồm các vấn đề: kinh tế, chính trị
xã hội, QP-AN) nói chung và đề tài bảo vệ CQB,ĐTQ dưới sự lãnh đạo của

Đảng Cộng sản Việt Nam là một vấn đề có tính lý luận, thực tiễn sâu sắc.
- Luận án góp phần vào công tác tổng kết hoạt động lãnh đạo của Đảng
đối với nhiệm vụ bảo vệ CQB,ĐTQ từ năm 2001 đến năm 2011 trên nhiều vấn
đề thuộc về chủ trương, đường lối chỉ đạo thực hiện.
- Luận giải và làm rõ hơn các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng về bảo vệ CQB,ĐTQ trong những năm 2001 - 2011.
- Trên cơ sở đánh giá hoạt động lãnh đạo, luận án đã chỉ ra 5 kinh nghiệm.
Đây là những kinh nghiệm cần thiết góp phần thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
CQB,ĐTQ thiết thực, hiệu quả hơn.
- Luận án là cơ sơ sở tư liệu dùng để tham khảo phục vụ cho công tác
tuyên truyền, công tác nghiên cứu và giảng dạy một số vấn đề liên quan đến
biển, đảo ở phạm vi trong và ngoài quân đội.
8. Kết cấu của luận án
Kết cấu của luận án gồm: phần mở đầu; tổng quan vấn đề nghiên cứu; 3
chương (8 tiết); kết luận; danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả; danh
mục tài liệu tham khảo; phụ lục.


9
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài có liên quan đến đề tài
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài, nội dung đề cập nhiều vấn đề
liên quan đến kinh tế, chính trị, QP-AN của khu vực Biển Đông nói chung và
vùng biển, đảo Việt Nam nói riêng. Trong đó, chủ yếu các công trình tập trung
luận giải mấy vấn đề chính sau:
Một là, về vấn đề tranh chấp CQBĐ giữa các quốc gia trong khu vực,
nhất là vấn đề tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Những công trình đề cập trực tiếp đến vấn đề này, tiêu biểu có: “Cuộc
tranh chấp quần đảo Trường Sa: Ai là người sở hữu đầu tiên?” của Daniel J.Dzuck [32]; “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” của
Monique Cheminier [61]; “Phân tích về địa lý - chính trị cuộc xung đột và

tranh chấp biên giới Việt - Trung liên quan đến quần đảo Paracel và Sparaly ở
biển Nam Trung Hoa” của Peaun Medes Antunes [67]; “Các đảo tranh chấp ở
vùng biển Nam Trung Hoa, Hoàng Sa - Trường Sa - Pratas - Bãi
Maccelesfield”, công trình nghiên cứu của Viện Nghiên cứu các vấn đề châu Á
tại Hamburg [2]; “Quần đảo Trường Sa: liệu có còn thích hợp khi tranh cãi về
vấn đề chủ quyền”, công trình nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp
lý (trường Đại học Tổng hợp Philippin) [3]; “Chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa: Thử phân tích lập luận của Việt nam và Trung Quốc”
của Từ Đặng Minh Thu [78]; “Lập trường của Trung Quốc trong tranh chấp
chủ quyền trên hai hòn đảo Hoàng Sa, Trường Sa và luật quốc tế” của Đào
Văn Thụy [81]; “Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và sự sử dụng luật quốc tế
trong tranh chấp chủ quyền quần đảo Trường Sa” của Michael Bennett [57]…
Điểm chung của các công trình nghiên cứu về tình hình Biển Đông,
nhất là về tình hình tranh chấp chủ quyền trên biển giữa các quốc gia trong
khu vực đều khẳng định: Biển Đông đang là “vùng biển nóng”, nơi hội tụ
nhiều mâu thuẫn về kinh tế, chính trị của khu vực và thế giới; tranh chấp chủ
quyền trên biển ở khu vực vừa là vấn đề của lịch sử vừa là vấn đề hiện tại
đang diễn ra hết sức phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường.


10
Trên cơ sở đánh giá thực trạng tranh chấp và nhận định cơ sở pháp lý,
lịch sử, có tính chứng cứ để khẳng định chủ quyền của các bên tranh chấp,
một số công trình đưa ra các giải pháp giải quyết các vấn đề tranh chấp, trong
đó nhấn mạnh đến giải pháp thương lượng hoà bình.
Điều đáng lưu ý là, nhiều công trình khi đề cập đến vấn đề chủ quyền
quốc gia ở hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đều nhận định: mặc dù khi tranh
chấp các bên đều đưa ra các chứng lý của riêng mình để khẳng định chủ quyền
ở hai quần đảo này, nhưng về mặt luật pháp, nhất là về cơ sở lịch sử, những
chứng cứ của Việt Nam đưa ra là có tính thuyết phục nhất. Luật gia người Mỹ

Michel Bennett trong bài báo “Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và sự sử dụng
luật pháp quốc tế trong tranh chấp quần đảo Trường Sa”, từng nhận xét:
Nếu các đảo hoặc không được quản lý bởi một chính phủ, hoặc không được
thăm viếng bởi các nhân viên nhà nước, vấn đề đặt ra ở đây là liệu những cuộc tiếp
xúc riêng rẽ bởi các ngư dân Trung Quốc có đủ thiết lập chủ quyền trên Spratlys (Trường
Sa) theo luật quốc tế không. Vì vậy giá trị lập trường chính thức của Trung Quốc (đưa ra
khi tranh cãi) là đáng nghi ngại [57, tr.91- 92].
Riêng nhà nghiên cứu người Pháp, giáo sư Monique Chemillier Gendrau
trong công trình nghiên cứu “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa”, thẳng thắn khẳng định: “Chủ quyền ở hai quần đảo (Hoàng Sa,
Trường Sa) trên Biển Đông (cũng như những yêu sách về biển của Trung Quốc
hiện nay) bộc lộ rõ tham vọng bá chủ khu vực, xa hơn nữa là bá chủ thế giới
của Trung Quốc, đe doạ trực tiếp tới an ninh khu vực và thế giới” [61, tr.83].
Tuy nhiên, có một số nhà khoa học trong các công trình nghiên cứu, do
nhiều yếu tố chủ quan (chủ yếu là xuất phát từ lập trường chính trị) và khách
quan (chủ yếu xuất phát từ tính phức tạp, nhậy cảm của vấn đề, sự thay đổi
trong thực tiễn luật pháp quốc tế về biển…), dưới góc độ này hay góc độ khác
cũng có những quan điểm khác nhau về nhiều vấn đề liên quan đến tranh chấp
CQBĐ ở khu vực Biển Đông. Thực tế cho thấy, vẫn có một số nhà nghiên
cứu, nhất là những nhà nghiên cứu thuộc các nước có liên quan trực tiếp đến
vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, xuất phát từ lập trường dân tộc, từ
lợi ích của quốc gia, trong các công trình hay cố gắng tìm mọi cách đưa ra các


11
chứng lý mang tính chủ quan của mình nhằm khẳng định chủ quyền quốc gia
của họ trên vùng biển, đảo đang có tranh chấp. Vì lý do đó, những công trình
của họ thường thiếu tính khách quan khoa học.
Hai là, về chiến lược của một số nước lớn đối với Biển Đông và tác động
của nó tới an ninh khu vực, an ninh CQBĐ của Việt Nam.

Những công trình đề cập trực tiếp đến vấn đề này, tiêu biểu có: một số công
trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu nước ngoài được Trung tâm Thông tin tư
liệu Khoa học - Công nghệ và Môi trường (Bộ Quốc phòng) tập hợp lại trong tập tài
liệu có tiêu đề “Chiến lược của các nước lớn ở khu vực Đông Nam Á” [22], ví dụ
như: “Đặc điểm mới trong chính sách Đông Á của Mỹ” (Kim Xán Vinh, Chu Hán
Vũ); “Mỹ thúc đẩy chương trình đối tác cảnh vệ” ; “Chiến lược của Ấn Độ trong
việc tăng cường quan hệ với ASEAN” (Trương Đảng Nặc, Kiệt Nhân Quý); “Nga
tiến vào Châu Á thông qua Inđonêxia” (Đông Phương Thuần), “Trung Quốc và Ấn
Độ cạnh tranh ảnh hưởng đối với ASEAN” (Sheng Lijun); một số tham luận khoa
học tại Hội thảo quốc tế về Biển Đông, được tác giả Đặng Đình Quý tập hợp trong
cuốn sách “Biển Đông - Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực” [71], ví dụ
như: “Biển Đông: Chẳng lẽ cứ thụ động ngồi chờ làn gió mát?” của Geoffrey Till;
“Tranh chấp Biển Đông sẽ đi tới đâu?” của Mark J. Valencia; “Những diễn biến
gần đây ở Biển Đông - Hệ lụy đối với hòa bình, ổn định và hợp tác khu vực” của
Daniel Schaeffer; “Liệu có thể giải quyết được các tranh chấp về phân định biển
và chủ quyền đối với các đảo ở Biển Đông?” của Stein Tonesson; “Thực địa chính
trị của khu vực cùng tồn tại trong cái ao của Trung Quốc” của Ba Hamzah;
“Những diễn biến gần đây ở Biển Đông: Hệ lụy đối với hòa bình, ổn định và hợp
tác khu vực” của Carlyle A. Thayer; “Những biến chuyển gần đây trên Biển Đông:
lý do để quan ngại” của Ian Storey; “Cách tiếp cận quản lý các tranh chấp biên
giới của Trung quốc và Việt Nam - Bài học, liên hệ và tác động đối với tình hình
Biển Đông” của Ramses Amer; hoặc những công trình nghiên cứu khác, như:
“Chiến lược của Hải quân Trung Quốc và hàm ý của nó đối với khu vực Biển
Đông” của Ngô Vĩnh Long [53]; “Trung Quốc tấn công trên biển Nam Trung
Hoa” của Shigeo Hiramatsu [73]...


12
Về cơ bản các công trình nêu trên đều khẳng định: Biển Đông là vùng
biển chiến lược có tác động lớn tới sự phát triển về kinh tế, QP-AN không chỉ

đối với khu vực mà còn với cả thế giới, vì thế các quốc gia trong khu vực và các
nước khác, nhất là những nước lớn luôn tìm cách cạnh tranh, khẳng định vị thế,
tầm ảnh hưởng của mình ở địa bàn chiến lược này; tình hình Biển Đông đã và
đang diễn biến vô cùng phức tạp bởi sự tranh chấp về lợi ích, chủ quyền giữa các
quốc gia trong khu vực và sự can thiệp của các nước lớn vào địa bàn Biển Đông;
chiến lược của các nước lớn đối với Biển Đông một mặt góp phần tạo thế cân
bằng lực lượng ở khu vực nhưng mặt khác cũng khiến cho an ninh khu vực,
trong đó có Việt Nam thêm phức tạp.
Đối với Trung Quốc, một quốc gia có những lợi ích chiến lược trực tiếp ở
Biển Đông, đồng thời cũng là quốc gia hiện đang có nhiều tham vọng vươn lên trở
thành một cường quốc mà trước hết là một cường quốc về biển, các nhà nghiên cho
rằng: chiến lược biển của Trung Quốc, nhất là chiến lược đối với Biển Đông, có tác
động rất lớn đến an ninh chủ quyền biển, đảo của các nước trong khu vực. Trong
bài “Chiến lược của Hải quân Trung Quốc và hàm ý của nó đối với khu vực Biển
Đông”[53], nhà nghiên cứu Ngô Vĩnh Long trên cơ sở phân tích những động thái
mới của Trung Quốc trong những năm gần đây, đặc biệt là việc Trung Quốc tăng
cường xây dựng một lực lượng hải quân hùng mạnh, đã chỉ rõ ý đồ của Trung Quốc
là muốn thao túng khu vực Biển Đông, đồng thời dùng Biển Đông như lá bài để
mặc cả với các nước khác trong toan tính về kinh tế, chính trị của mình, cũng như
coi Biển Đông là bàn đạp để vươn ra biển xa khẳng định vị thế nước lớn đối với
khu vực và thế giới. Shigeo Hiramatsu, nhà nghiên cứu Nhật Bản với bài “Trung
Quốc tấn công trên biển Nam Trung Hoa”[73], trên cơ sở đặt ra giả thiết: nếu
Trung Quốc tấn công trên biển Nam Trung Hoa (tức Biển Đông) thì ảnh hưởng của
nó tới tình hình an ninh khu vực và thế giới như thế nào? Các nước sẽ có đối sách ra
sao để giữ gìn sự ổn định, hoà bình ở vùng biển chiến lược này? – Shigeo
Hiramatsu cho rằng: Trung Quốc có những động thái gây xung đột với các nước
trong cuộc tranh giành CQBĐ vừa coi đó như một đòn răn đe, vừa tạo lợi thế thực
hiện âm mưu về kinh tế, chính trị của mình trên trường quốc tế nhưng ít có khả
năng mở cuộc chiến tranh lớn trên Biển Đông . Bởi vì làm như thế, Trung Quốc sẽ



13
tự cô lập mình, vì phải đối đầu không chỉ với các nước Đông Nam Á, nhất là các
nước nằm ở Biển Đông mà còn với cả các nước lớn như Mỹ, Nga, Nhật Bản, Ấn
Độ. Tuy nhiên, thế giới cần phải cảnh giác với nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh
trên Biển Đông mà Trung Quốc là người châm ngòi, an ninh Đông Nam Á phụ
thuộc rất lớn vào chính sách về biển của Trung Quốc.
Đối với Mỹ, hầu hết giới quan sát và các nhà nghiên cứu đều cho rằng: vị
thế, tầm ảnh hưởng, sự chi phối của Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á nói chung
và Biển Đông nói riêng là rất lớn, không chỉ bởi Mỹ luôn coi địa bàn này là một
trong những địa bàn hết sức quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, là nơi
Mỹ có nhiều đồng minh cần được bảo vệ, mà còn bởi Biển Đông gắn với những
lợi ích sát sườn của Mỹ (cả về kinh tế và chính trị). Trong bài “Đặc điểm mới
trong chính sách Đông Á của Mỹ” [22], của Kim Hán Vinh - Chu Hán Vũ, hay
bài “Mỹ thúc đẩy chương trình đối tác cảnh vệ” [22] của Robert J. Coy, đã
khẳng định rằng Mỹ đã và đang điều chỉnh chiến lược của mình ở khu vực châu
Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, đồng thời tăng cường sự có mặt
ở khu vực bằng nhiều cách thức khác nhau; an ninh khu vực, an ninh Biển Đông
cũng sẽ phụ thuộc rất lớn vào Mỹ.
Đối với Ấn Độ, trong các bài: “Chiến lược của Ấn Độ trong việc tăng
cường quan hệ với ASEAN”[22], của hai tác giả Trương Đảng Nặc - Kiệt
Quý Nhân; “Trung Quốc và Ấn Độ cạnh tranh ảnh hưởng đối với
ASEAN”[22] của tác giả Sheng Lijun, hay bài “Ấn Độ tăng cường ảnh
hưởng tại Đông Nam Á” [22] của Viện Nghiên cứu và phân tích quốc phòng
Ấn Độ, đã làm rõ quyền lợi của Ấn Độ ở Đông Nam Á nói chung và Biển
Đông nói riêng. Các công trình trên cũng chỉ rõ, hiện nay Ấn Độ đang tìm
cách tăng cường sự có mặt của mình và cạnh tranh với các cường quốc khác
về lợi ích kinh tế, chính trị ở khu vực này.
Với nước Nga, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, nước Nga hiện nay cũng
đang mở cuộc chạy đua với các cường quốc khác vào khu vực Đông Nam Á và

Biển Đông vì lợi ích của Nga ở khu vực này là rất quan trọng. Công trình nghiên
cứu “Đông Nam Á nằm trong lợi ích của Nga” [22], của Viện nghiên cứu và phân
tích quốc phòng Ấn Độ, hay bài “Nga tiến vào châu Á thông qua Inđônêxia” [22],


14
của nhà nghiên cứu Đông Phương Thuần, phân tích lợi ích của Nga ở khu vực,
đồng thời chỉ rõ nỗ lực cũng như sự điều chỉnh chiến lược trong quá trình khẳng
định ảnh hưởng của Nga ở Đông Nam Á và trên địa bàn Biển Đông.
Đối với Nhật Bản, cuốn “Chính sách ngoại giao của Nhật Bản đối với
ASEAN trong thế kỷ mới” do nhà xuất bản Nhân dân (Trung Quốc), trên cơ sở
phân tích tổng quan chính sách ngoại giao của Nhật Bản với các nước ASEAN,
cuốn sách nhận định: một trong những ý đồ chiến lược trong chính sách ngoại
giao của Nhật Bản đối với ASEAN, bao gồm cả chính sách với Biển Đông chính
là cạnh tranh với các nước khác, đặc biệt là với Mỹ và Trung Quốc tạo cơ sở
khẳng định vị thế nước lớn về chính trị ở khu vực; việc can thiệp vào Biển Đông
không chỉ thuần tuý về mặt kinh tế bởi một lượng lớn hàng hoá của Nhật Bản
được vận chuyển qua Biển Đông, khai thác các nguồn lợi kinh tế ở Biển Đông
mà còn kiềm chế các cường quốc tạo lợi thế cạnh tranh về mọi mặt của Nhật Bản
trên trường quốc tế.
2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam có liên quan đến đề tài
Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu luận giải những vấn đề
chính cốt sau:
Một là, vị trí, vai trò của biển, đảo Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Hầu hết các công trình nghiên cứu khi đề cập đến vấn đề này đều thống nhất
khẳng định rằng: Việt Nam là quốc gia có vị trí chiến lược đặc biệt thuận lợi về
biển; với một vùng biển rộng lớn giàu tiềm năng, bao gồm hơn 1 triệu km2 thềm
lục địa, hơn 3000 hòn đảo, nhiều vịnh biển có giá trị kinh tế, QP-AN, vùng biển,
đảo Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với quá trình xây dựng, bảo vệ đất

nước và sự trường tồn của dân tộc; cần nâng cao ý thức của dân tộc về vị trí, vai trò
to lớn của biển, đảo, triệt để phát huy mọi tiềm năng, lợi thế của biển, đảo để phát
triển và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong công trình “Việt Nam đất, biển, trời” của tác giả Lưu Văn Lợi[54],
trên cơ sở phân tích vị trí, vai trò của biển, đảo nước ta, nhà nghiên cứu Lưu Văn
Lợi nhấn mạnh:


15
Biển đối với quốc gia là an ninh và phát triển, đối với hàng chục triệu con
người thuộc hơn nửa các tỉnh, thành, đặc khu (của Việt Nam) là đời sống và phồn
vinh, biển không thể tiếp tục bị coi nhẹ như hiện nay và chỉ hiểu là biển ven bờ.
Biển hiểu theo ý nghĩa đầy đủ của nó phải là một trong hai vế của chiến lược bảo vệ
và xây dựng đất nước để đưa dân tộc thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu.[54, tr.185].
Trong công trình “Biển và hải đảo Việt Nam” do Ban Tuyên giáo Trung
ương ấn hành [6], các tác giả khẳng định:
Việt Nam là một quốc gia ven biển có những ưu thế và vị trí chiến lược
đặc biệt đối với khu vực và trên thế giới. Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước của dân tộc, biển luôn gắn liền với quá trình dựng xây và
phát triển của đất nước và con người Việt Nam. Việc xây dựng, quản lý, phát
triển và bảo vệ quyền lợi biển là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với việc giữ
gìn toàn vẹn chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh
tế- xã hội của đất nước trong thời kỳ mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập
quốc tế [6, tr3].
Hai là, chủ quyền của Việt Nam trên biển, đặc biệt là chủ quyền lãnh thổ
của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Chủ quyền của Việt Nam trên biển, đặc biệt là đối với hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa, là vấn đề lớn được rất nhiều nhà khoa học cũng như các
nhà hoạt động chính trị quan tâm. Đã có nhiều công trình đề cập trực tiếp đến
vấn đề này dưới nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau, trong đó có những công

trình tập trung đi sâu luận giải về chủ quyền của Việt Nam trên biển, như các
công trình: “Vùng biển và quyền làm chủ” của Vũ Phi [66]; “Việt Nam đất,
biển, trời” của Lưu Văn Lợi [54]; “Biển và hải đảo Việt Nam” [6]; “Chiến lược
bảo vệ chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển Việt Nam đến
năm 2020”, đề tài nghiên cứu cấp nhà nước của Viện Nghiên cứu và Phát triển
[17]; “Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa”[64], luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Nhã.


16
Đây là những công trình có giá trị khoa học và thực tiễn, luận giải về chủ
quyền của Việt Nam trên Biển Đông. Những công trình này đã đưa ra bằng chứng
và những lập luận xác đáng về chủ quyền của Việt Nam trên biển, đồng thời khẳng
định chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Một số công trình đã có những đề xuất và đưa ra những giải pháp nhằm
góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền của đất
nước trên biển. Trong công trình “Việt Nam đất, biển, trời”[54], nhà nghiên cứu
Lưu Văn Lợi tập trung luận giải các vấn đề rất quan trọng về tiềm năng, lợi thế của
biển, đảo Việt Nam; về lịch sử tranh chấp chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa giữa hai quốc gia Việt Nam và Trung Quốc, đưa ra những luận chứng
xác đáng, khẳng định chủ quyền của nước ta đối với hai quần đảo này, đồng thời
cũng đặt ra các yêu cầu để Việt Nam tiếp tục cuộc đấu tranh bảo vệ, giành và giữ
chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa; liên quan đến vấn đề về bảo vệ CQBĐ của
đất nước, tác giả cũng đã đề cập đến kinh nghiệm quản lý biển, kinh nghiệm tiến
hành cuộc đấu tranh đòi CQBĐ của một số quốc gia trong lịch sử và kiến nghị cần
phải vận dụng những kinh nghiệm đó vào thực tiễn đấu tranh giành và giữ chủ
quyền quốc gia trên biển. Đặc biệt, với công trình Chiến lược bảo vệ chủ quyền và
quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo Việt Nam đến năm 2020[17], trên
cơ sở khảo cứu và luận giải nhiều vấn đề có tính chất cấp bách đối với việc quản lý,
khai thác và bảo vệ CQBĐ của Tổ quốc, công trình đã nhấn mạnh đến các vấn đề

như: thực tiễn tranh chấp chủ quyền trên biển giữa Việt Nam và các quốc gia khác ở
Biển Đông, đưa ra các dự báo và hướng giải quyết cho vấn đề này, nhất là đối với
việc đấu tranh khẳng định, giành chủ quyền của nước ta trên hai quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa; đánh giá thực trạng quản lý biển của Việt Nam, những hạn chế bất
cập của hệ thống luật pháp, các văn bản pháp luật của Nhà nước liên quan đến biển,
đồng thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước biện pháp giải quyết, tạo điều kiện nâng
cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước về biển, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế biển và tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia bảo


17
vệ CQB,ĐTQ. Những số liệu thống kê, các luận cứ mà công trình đưa ra, là hết sức
cần thiết, góp phần để Đảng, Nhà nước nhận thức rõ hơn về nhiều vấn đề liên quan
đến công tác phát triển kinh tế biển gắn với tăng cường củng cố QP-AN bảo vệ
vững chắc CQBĐ TQ.
Đối với công trình: Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa của tác giả Nguyễn Nhã [64]. Công trình này chủ yếu tập trung
luận giải vấn đề cơ bản: trình bày có hệ thống các vấn đề về lịch sử chủ quyền của hai
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, trên cơ sở đó chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, phản bác các luận chứng thiếu căn cứ mà một
số nhà nghiên cứu, cũng như chính quyền một số nước, nhất là chính quyền Trung Quốc
đưa ra để tranh giành chủ quyền hai quần đảo này với Việt Nam.
Ba là, phát triển kinh tế biển và tăng cường QP-AN bảo vệ CQB,ĐTQ.
Vấn đề phát triển kinh tế biển và tăng cường QP-AN bảo về CQB,ĐTQ đã
được một số công trình nghiên cứu đề cập đến ở nhiều góc độ nghiên cứu khác
nhau. Khi đề cập đến vấn đề này, hầu hết các công trình nghiên cứu thống nhất
cho rằng: vùng biển, đảo Việt Nam có một vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối
với quá trình phát triển đất nước, vì thế đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, đi đôi
với tăng cường QP-AN bảo vệ vững chắc CQB,ĐTQ là vấn đề cấp thiết mang
tính chiến lược đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; Việt Nam có tiềm

năng, lợi thế lớn về biển nhưng chưa phát huy thực sự có hiệu quả các tiềm năng,
lợi thế đó; ở cả tầm chiến lược và sách lược, quản lý Nhà nước về biển còn nhiều
bất cập khiến cho trong một thời gian dài nền kinh tế biển phát triển còn chậm,
chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế vốn có của đất nước; công tác QP-AN
bảo vệ CQBĐ còn có những hạn chế nhất định khiến cho việc bảo vệ chủ quyền,
an ninh biển, đảo chưa thực sự vững chắc; gắn với xu thế phát triển của thời đại,
yêu cầu thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong điều kiện tình hình tranh
chấp chủ quyền giữa các quốc gia ở khu vực Biển Đông diễn ra căng thẳng với
tính chất ngày càng phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường…, Việt Nam cần


18
phải tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường QP-AN
bảo vệ CQB,ĐTQ.
Trong công trình “Chiến lược bảo vệ chủ quyền và quyền tài phán
quốc gia trên các vùng biển, đảo Việt Nam đến năm 2020”[17], trên cơ sở
khẳng định: “Việt Nam cần xây dựng cho riêng mình một chiến lược phát
triển bền vững không chỉ về kinh tế mà còn cả một chiến lược bảo vệ chủ
quyền và quyền tài phán quốc gia của mình” [17, tr.5], các nhà nghiên cứu
đã kiến nghị lên Đảng, Nhà nước những yêu cầu đối với chiến lược tổng hợp
nhằm bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên biển, trong đó đặc biệt nhấn
mạnh đến các vấn đề như: về mục tiêu, yêu cầu bảo vệ biển; chiến lược
phòng thủ biển; chiến lược phát triển kinh tê - xã hội (KT-XH) trên các vùng
biển và hải đảo Việt Nam; chiến lược ngoại giao gắn với nhiệm vụ bảo vệ
CQB,ĐTQ…[17, tr.118;119].
Trong công trình “Việt Nam đất, biển, trời”, nhà nghiên cứu Lưu Văn Lợi
cũng đã nhấn mạnh: “Nước ta cần có một chính sách toàn diện về biển cho bây
giờ, cho ngày mai” [54, tr.188-189].
Trong công trình “Kết hợp phát triển kinh tế biển với tăng cường củng cố
quốc phòng - an ninh bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới” [97], (bài

nghiên cứu đăng trên các số 9, 10, 11 Tạp chí Quốc phòng toàn dân năm 2008),
nhóm tác giả Quốc Toàn - Mạnh Hùng - Mạnh Dũng đã trình bày một số vấn đề
cơ bản liên quan đến phát triển kinh tế biển gắn với tăng cường củng cố QP-AN
bảo vệ CQB,ĐTQ của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Ở công trình này, các
tác giả trên cơ sở nêu bật vị trí, vai trò vùng biển, đảo quốc gia, trình bày khái
quát quan điểm của Đảng về bảo vệ CQB,ĐTQ đã bước đầu làm rõ thực trạng và
đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh kết hợp phát triển kinh tế biển với tăng
cường QP-AN bảo vệ CQB,ĐTQ.
Trong công trình “Quá trình triển khai chính sách về biển của Việt Nam
từ năm 1986 đến năm 2010” [60] (luận án tiến sĩ Lịch sử), tác giả Nguyễn


19
Thanh Minh trên cơ sở phân tích cơ sở hình thành chính sách về biển đã trình
bày khá rõ nét toàn bộ quá trình triển khai chính sách về biển của Việt Nam
trong giai đoạn 10 năm đổi mới đất nước trên các lĩnh vực cụ thể như: an ninh quốc phòng; kinh tế biển; hợp tác quốc tế biển; phân định biển; bảo vệ môi
trường biển, đồng thời đánh giá kết quả và rút ra một số kinh nghiệm trong quá
trình triển khai chính sách về biển.
Ở khía cạnh đối ngoại bảo vệ CQB,ĐTQ, trong công trình “Vận dụng
tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo
hiện nay” [55] (bài nghiên cứu đăng trên Tạp chí Lý luận Chính trị số
4/2013), nhà nghiên cứu Đinh Xuân Lý lại nhấn mạnh đến vấn đề cần phải
triệt để vận dụng sáng tạo tư tưởng đối ngoại của Hồ Chí Minh trong cuộc đấu
tranh bảo vệ CQB,ĐTQ.
Một số bài báo của các tác giả như: Thái Văn Long với bài “Lòng tin
chiến lược cho hòa bình và an ninh khu vực châu Á – Thái Bình Dương” [52]
(Tạp chí Lý luận Chính trị số 12/2013); Huỳnh Minh Chính với bài “Giải
quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, thúc đẩy hợp tác nhằm duy trì ổn
định và phát triển trên Biển Đông” [28] (Tạp chí Quốc phòng toàn dân số
6/2008)..., ở góc độ này hay góc độ khác cũng đã phần nào đề cập đến các vấn

đề liên quan đến chủ trương tăng cường phát triển kinh tế biển gắn với bảo
đảm QP-AN trên biển.
Bốn là, luật pháp quốc tế về biển và việc vận dụng luật pháp quốc tế trong
quản lý, khai thác, bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển của nước ta.
Việc tìm hiểu luật pháp quốc tế về biển, nhất là việc vận dụng luật pháp quốc
tế về biển vào thực tiễn quản lý, khai thác và bảo vệ CQBĐ đất nước là vấn đề lớn
rất được xã hội quan tâm, chú ý trong giai đoạn hiện nay. Đã có nhiều công trình
nghiên cứu đề cập đến vấn đề này dưới các góc độ: làm rõ những nội dung cơ bản
của Luật Biển quốc tế, nhất là Công ước về Luật Biển của Liên hiệp quốc năm
1982; sự vận dụng Luật Biển quốc tế vào vấn đề quản lý, khai thác, bảo vệ CQBĐ ở


20
Việt Nam; những vấn đề nảy sinh trong quá trình vận dụng luật pháp quốc tế về
biển; vấn đề tuân thủ các nguyên tắc theo đúng tinh thần luật pháp quốc tế trong giải
quyết tranh chấp chủ quyền đối với đất nước.
Trong công trình “Giới thiệu một số vấn đề cơ bản của Luật Biển ở Việt
Nam” [5]của Ban Biên giới - Bộ Ngoại giao ấn hành, trên cơ sở làm rõ những
nội dung cơ bản của Luật Biển quốc tế, đánh giá tiến trình phát triển luật lệ về
biển ở Việt Nam, các tác giả đã khẳng định:
Theo luật pháp quốc tế về biển, đặc biệt là Công ước của Liên hiệp quốc về Luật
Biển năm 1982, Việt Nam có chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển
thuộc lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với chế độ pháp lý khác
nhau. Lợi ích của quốc gia trên biển ngày càng có ý nghĩa quan trọng; từ đó vấn
đề bảo vệ quyền lợi cũng như nhu cầu hợp tác trên biển cũng ngày càng trở nên
thiết yếu. Nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình trên biển, sử dụng và khai
thác một cách hiệu quả, hợp lý và bền vững vì mục tiêu phát triển, giữ gìn hoà
bình, ổn định và tăng cường hợp tác quốc tế, Việt Nam cần đẩy mạnh và hoàn
thiện công tác quản lý nhà nước về biển [5, tr.7-8].
Công trình “Chiến lược bảo về chủ quyền và quyền tài phán quốc gia

trên các vùng biển, đảo Việt Nam đến năm 2020”[17], trên cơ sở đánh giá
kinh nghiệm quản lý, bảo vệ chủ quyền của những quốc gia mạnh về biển
như: Mỹ, Canada, Ôxtraylia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc…, xuất phát
từ thực trạng các văn bản pháp luật của Việt Nam về biển, cũng như việc vận
dụng Luật Biển quốc tế vào công tác quản lý, bảo vệ CQB,ĐTQ, công trình
này đã nêu rõ: Một trong những yêu cầu cấp thiết nhất đối với Việt Nam trong
quá trình phát triển kinh tế biển và bảo vệ vững chắc CQB,ĐTQ là phải nhanh
chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật nhà nước về biển. Đánh giá về hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước Việt Nam về biển, Công trình
khẳng định: về cơ bản, trên cơ sở phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế,
Công ước về Luật Biển 1982, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về biển
của Việt Nam bước đầu đã tạo điều kiện và cơ sở pháp lý cho việc tăng cường


21
quản lý Nhà nước trên biển. Tuy nhiên, xét tổng thể, hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về biển của nước ta còn nhiều bất cập như thiếu tính đồng bộ,
việc hệ thống hoá, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện chậm, chưa theo kịp tình
hình và chưa được tiến hành một cách thường xuyên [17, tr.62-63].
Năm là, những chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước về biển.
Trong những năm vừa qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách quan trọng về biển nói chung và về bảo vệ CQB,ĐTQ nói
riêng (thể hiện ở Nghị quyết của Đảng, các Nghị định, Chỉ thị của Nhà nước).
Một số công trình (bao gồm các bài báo, sách...), dưới các góc độ phản ánh khác
nhau, bước đầu đã làm rõ một số vấn đề thuộc về chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước ta. Tuy nhiên đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu và có hệ thống vấn đề này.
3. Đánh giá khái quát kết quả các công trình nghiên cứu đã công bố
và những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết
Vấn đề biển, đảo nói chung và vấn đề bảo vệ CQBĐ đối với mỗi quốc gia

(trong đó có Việt Nam) nói riêng là những vấn đề lớn, mang tính thời sự trong giai
đoạn hiện nay, vì thế luôn được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tổng quan kết quả
nghiên cứu của các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài cho thấy:
Các công trình dưới các góc độ khoa học, trên nhiều bình diện khác nhau
đã đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến tình hình Biển Đông nói chung và việc
bảo vệ CQBĐ của Việt Nam nói riêng. Nhiều công trình đã đi sâu luận giải làm
rõ một số vấn đề như:
- Tầm quan trọng chiến lược của Biển Đông đối với sự phát triển của khu
vực và thế giới.
- Vị trí, vai trò của biển, đảo Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
- Tình hình Biển Đông và vấn đề tranh chấp chủ quyền giữa các quốc gia
trên Biển Đông, nhất là việc tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa giữa Việt Nam và một số nước.


22
- Luật pháp quốc tế về biển và việc vận dụng luật pháp giải quyết các vấn
đề tranh chấp trên biển; chiến lược và sự can thiệp của các nước lớn ở Biển
Đông và tác động của nó tới an ninh khu vực.
Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng, chưa có công trình nào
trực tiếp nghiên cứu chuyên sâu về quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
bảo vệ CQB,ĐTQ:
- Một số công trình đã đề cập và bước đầu luận giải một số quan điểm,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về
quản lý, khai thác và bảo vệ CQB,ĐTQ, nhưng mới chỉ là những vấn đề mang tính
cụ thể, đơn lẻ chứ chưa khái quát, hệ thống để làm rõ chủ trương, chính sách phản
ánh quá trình Đảng, Nhà nước lãnh đạo bảo vệ CQB,ĐTQ trong một thời kỳ, một
giai đoạn nhất định.
- Chưa có công trình đi sâu vào vấn đề tổng kết, trực tiếp đánh giá hoạt động

lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ CQB,ĐTQ trong các thời kỳ, nhất
là trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XXI (2001 - 2011), trên cơ đó rút ra những
kinh nghiệm vận dụng vào thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Đây là cơ sở để tác giả lựa chọn hướng nghiên cứu của Luận án.
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề tổng kết, làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo
bảo vệ CQB,ĐTQ từ năm 2001 đến năm 2011, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc từ năm 2001 đến năm 2011” làm đề tài luận
án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.


23
Chương1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ BẢO VỆ
CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO TỔ QUỐC TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005
1.1. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc là yêu cầu khách quan, cấp thiết
1.1.1. Vị trí, vai trò của biển, đảo Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực Biển Đông, một vùng biển giàu
tiềm năng phát triển kinh tế, đồng thời giữ vị trí quan trọng, có ảnh hưởng đến
quá trình phát triển của khu vực và thế giới.
Việt Nam nằm trên bờ phía Tây của Biển Đông, được coi là quốc gia có vị
trí chiến lược đặc biệt thuận lợi về biển. Việt Nam có chiều dài bờ biển vào
khoảng 3260 km, thuộc nhóm các nước có tỷ lệ chiều dài bờ biển so với diện
tích đất liền cao nhất thế giới.
Vùng biển Việt Nam, ngoài hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, nằm giữa
Biển Đông, còn có hệ thống đảo ven bờ dày đặc, bao gồm hơn 3000 hòn đảo lớn,
nhỏ, với tổng diện tích trên 1600km2. Trong đó có 24 đảo diện tích trên 10km2, 84
đảo diện tích 1km2, 66 đảo cư dân sinh sống. Tổng dân số sống ở các đảo vào
khoảng 155.000 người. Mật độ dân số trung bình trên đảo là 95người/km2. Các đảo

lớn nhất là Đảo Phú Quốc (567 km2 có 50.000 người dân sinh sống), đảo Cái Bầu
(200km2/ 21.000 dân), đảo Cát Bà (149km2/15.000 dân), đảo Phú Quý
(32km2/18.000 dân), Côn Đảo (56,7km2/21.000 dân), đảo Lý Sơn (3km2/ 16.000
dân)[10, tr.37]. Hệ thống các đảo ven bờ và xa bờ của Việt Nam có vị trí chiến lược
quan trọng: đó là những điểm tiền tiêu bảo vệ Tổ quốc, đồng thời cũng là điểm tựa
thuận lợi để khai thác các nguồn lợi, phát triển kinh tế biển và vươn ra khai thác
biển cả trong tương lai.
Theo luật pháp quốc tế về biển, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc
về Luật biển (1982), một quốc gia ven biển có chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán trên vùng biển bao gồm: vùng nội thuỷ, vùng lãnh hải, vùng tiếp
giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa [Phụ lục 3 của LA].
Ngày 23 - 6 - 1994, Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam khoá IX,
kỳ họp thứ 5, đã ra Nghị quyết phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật


24
biển năm 1982 (Công ước này có hiệu lực từ ngày 16-11-1994). Trên cơ sở phù
hợp với các quy định của Công ước 1982, vùng nội thuỷ, vùng lãnh hải, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được mở rộng về phía biển. Với
những quy định này, đất nước Việt Nam không chỉ đơn thuần là lục địa hình chữ
S, mà còn là một “Nước Việt Nam biển” với vùng biển, đảo rộng hơn 1 triệu
km2, gấp 3 lần diện tích lãnh thổ đất liền của Tổ quốc. Toàn bộ vùng biển, đảo
rộng lớn đó của Việt Nam là một bộ phận cấu thành không thể tách rời của lãnh
thổ Việt Nam.
Xét trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị - xã hội, QP-AN, vùng biển, đảo
Việt Nam là một địa bàn chiến lược vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về kinh tế: vùng biển, đảo Việt Nam là địa bàn giàu tiềm năng cho phát
triển kinh tế đất nước. Do có vị trí chiến lược, nằm trên các tuyến hàng hải
huyết mạch thông thương giữa khu vực châu Á-Thái Bình Dương và các khu vực

khác, vùng biển, đảo Việt Nam chính là “cầu nối” cực kỳ quan trọng để mở rộng
giao lưu kinh tế và thu hút đầu tư từ các nước trong khu vực, cũng như các nước
trên thế giới. Đồng thời, đó là nơi chứa đựng, cung cấp cho Việt Nam nhiều
nguồn tài nguyên có giá trị kinh tế cao, hết sức phong phú, đa dạng với một trữ
lượng tương đối lớn.

Đối với nguồn tài nguyên sinh vật biển, vùng biển, đảo Việt Nam
được đánh giá là vùng biển có hệ sinh thái phong phú vào bậc nhất của
khu vực và thế giới. Chỉ tính riêng về cá, trong vùng biển Việt Nam đã
có tới 2.030 loài khác nhau với trữ lượng khoảng 2.770 nghìn tấn, trong
đó có tới hơn 100 loài cá có giá trị kinh tế cao. Biển, đảo Việt Nam có
thể cung ứng khoảng 20% nhu cầu thực phẩm cho cư dân Việt Nam,
đồng thời đáp ứng các yêu cầu xuất khẩu mang lại nguồn lợi kinh tế to
lớn cho đất nước [29, tr.35].
Đối với nguồn tài nguyên khoáng sản, vùng biển, đảo Việt Nam chứa
đựng trong lòng nhiều nguồn tài nguyên khoáng sản như: Titan, zircon, thiếc,
vàng, ilmenit, đất hiếm, cát thủy tinh, dầu khí… trong đó dầu khí được coi là
nguồn tài nguyên quan trọng và có giá trị kinh tế lớn nhất ở thềm lục địa Việt


25
Nam. Theo kết quả khảo sát của các nhà khoa học, trong vùng Biển Đông chỉ
tính riêng lượng dầu khí, trữ lượng đã lên tới 14,1 tỷ thùng, trong đó ở thềm
lục địa của biển Việt Nam trữ lượng vào khoảng 2,9 tỷ thùng. Hiện nay, Việt
Nam đã và đang tích cực đầu tư công nghệ, kỹ thuật kết hợp với hợp tác quốc tế
để thăm dò và từng bước khai thác nguồn dầu khí ở vùng biển quốc gia. Đến nay,
Việt Nam đã xác định được nhiều bồn trầm tích có khả năng dầu khí, như bồn
Cửu Long, Nam Côn Sơn, các bồn ở vùng biển Trung Bộ, bồn Sông Hồng và bồn
Thổ Chu - Mã Lai trong vịnh Thái Lan. Một số mỏ dầu khí đã đi vào khai thác với
kết qủa khả quan, mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước (mỏ Bạch Hổ, mỏ

Rồng…) [29, tr.37-38].
Triển vọng phát triển ngành dầu khí ở vùng biển Việt Nam là rất lớn. Hiện
nay ngành này đang có những bước khởi sắc và ngày càng khẳng định là một
ngành kinh tế mũi nhọn mang lại nguồn lợi kinh tế cao cho Việt Nam.
Đối với nguồn tài nguyên phục vụ cho phát triển giao thông vận tải
biển,Việt Nam là một quốc gia ven Biển Đông, có nhiều ưu thế về địa lý cho
việc phát triển ngành giao thông hàng hải. Người ta ví Việt Nam như một
“ngôi nhà mặt phố” để nói tới tiềm năng to lớn về phát triển thương mại, dịch
vụ trong nước và quốc tế. Trong đó, cần phải nói tới vị trí chiến lược của Việt
Nam trong lĩnh vực hàng hải. Bờ biển Việt Nam dài, vùng biển rộng với
nhiều eo, vịnh biển, cửa sông phân bố khá dày từ Bắc vào Nam rất thuận lợi
cho việc xây dựng hệ thống cảng biển, trong đó nhiều nơi có khả năng xây
dựng các cảng nước sâu mang tầm cỡ khu vực và quốc tế, như: Cái Lân, Cửa
Ông, Nghi Sơn, Chân Mây, Dung Quất, Văn Phong, Cam Ranh… hơn nữa bờ
biển và vùng biển Việt Nam, nhất là ở khu vực Trung Bộ, rất gần với các
tuyến hàng hải quốc tế. Những yếu tố đó cho phép Việt Nam bằng đường biển
có thể giao thông thuận lợi với tất cả các nước trong khu vực và trên thế
giới, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam phát triển ngành
dịch vụ hàng hải.
Đối với nguồn tài nguyên phục vụ cho phát triển du lịch biển, vùng ven
biển nói riêng và các vùng biển, đảo Việt Nam nói chung có ưu thế lớn trong


26
việc hình thành và phát triển các trung tâm du lịch. Dọc bờ biển có khoảng
trên 100 bãi biển lớn, nhỏ thuận lợi cho phát triển du lịch, trong đó có khoảng
20 bãi biển đạt quy mô và tiêu chuẩn quốc tế.
Trong xu thế, nguồn tài nguyên trên lục địa ngày càng cạn kiệt, việc
Việt Nam có một vùng biển, đảo rộng lớn, giàu tiềm năng kinh tế, sẽ là một
lợi thế không nhỏ cho quá trình xây dựng, phát triển đất nước. Nếu Việt

Nam quản lý, bảo vệ và khai thác tốt những tiềm năng đó, thì đây chính là
tiền đề cơ sở có ý nghĩa vô cùng quan trọng góp phần đưa Việt Nam phát
triển vững mạnh, nhanh chóng trở thành một nước giàu có và phồn thịnh.
Về chính trị xã hội: Việt Nam hiện nay có 28/63 tỉnh thành phố ven
biển với tổng dân số xấp xỉ 41,2 triệu người chiếm gần 50% dân số cả nước.
Trong đó có khoảng 21 triệu người trực tiếp sinh sống ở các vùng biển, đảo và
vùng ven biển. Tuy nhiên, mật độ dân số ở các vùng ven biển là không đồng
đều. Mật độ trung bình của các tỉnh ven biển trên cả nước là 369 người/km2.
Riêng ở các tỉnh vùng biển phía Bắc tính từ Quảng Ninh đến Ninh Bình mật
độ là 981 người/km2, còn ở khu vực từ Thanh Hoá đến Thừa Thiên Huế mật
độ là 198 người/km2; tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên cao; trình độ dân trí tương
đối thấp [29, tr.23-24]. Trong điều kiện, vùng biển, đảo quốc gia được mở
rộng ra phía biển với hơn 1 triệu km2, đây sẽ là địa bàn quan trọng để Việt
Nam có thể phân bố lại cơ cấu dân cư trong vùng và trong toàn quốc, gắn với
tiến hành phân công lại lao động xã hội, góp phần giải quyết sức ép về sự gia
tăng dân số và sự thiếu việc làm của cư dân trên phạm vi cả nước. Tiến hành
tốt các chính sách điều chỉnh cơ cấu dân cư và phân công lại lao động bằng
việc thúc đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế biển, sẽ là một việc làm hết
sức có ý nghĩa không chỉ đối với sự phát triển kinh tế chung của cả nước mà
còn mang ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc.
Đặt trong bối cảnh tranh chấp CQBĐ giữa Việt Nam và một số nước trong
khu vực diễn ra hết sức căng thẳng, nhiều vùng biển, đảo của Việt Nam đang bị
xâm phạm nghiêm trọng, cả đất nước, dân tộc đang hướng về biển đảo Tổ quốc với
sự quan tâm sâu sắc, vùng biển đảo không chỉ thuần túy có giá trị như một địa bàn
sống, nơi khai thác các tiềm năng to lớn về kinh tế, mà ý nghĩa chính trị quan trọng


×