Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận kinh tế vĩ mô giải pháp kích cầu nông sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.35 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

2

PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

3

1. Khái niệm phát triển bền vững

3

2. Các nội dung cơ bản của phát triển bền vững

3

2.1 Phát triển bền vững về kinh tế

3

2.2 Phát triển bền vững về xã hội

4

2.3 Phát triển bền vững về môi trường

6

PHẦN II: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ CÁC
MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY



8

1. Tình hình thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay

8

1.1 Những kết quả đạt được

8

1.2 Những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển bền vững của Việt Nam hiện nay

9

2. Mục tiêu phát triển của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020

11

PHẦN III: GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

12

1. Công tác lãnh, chỉ đạo

12

2. Hoàn thiện cơ chế thị trường


12

3. Cải cách hành chính

13

4. Về cơ chế, chính s

13

5. Đầu tư cơ sở hạ tầng

14

6. Vấn đề xã hội, an sinh và đời sống

15

7. Công tác môi trường

15

8. Hội nhập quốc tế

15

9. Quốc phòng, an ninh

16


KẾT LUẬN

17

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

18


Môn học: Phương pháp nghiên cứu khoa học

LỜI MỞ ĐẦU
Phát triển bền vững là sự phát triển bảo đảm duy trì mức tăng trưởng
kinh tế cao và liên tục, giải quyết tốt vấn đề môi trường, bảo đảm an sinh và
công bằng xã hội trong một thể chế chính trị vững mạnh, trong đó có sự minh
bạch, rõ ràng, có tính hiệu lực của hệ thống luật pháp, chính sách, sự đồng thuận
của xã hội, sự ổn định về chính trị.
Trong quá trình hội nhập và phát triển, nền kinh tế Việt Nam đã bộc lộ
nhiều tồn tại, yếu kém do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ
quan là chưa xây dựng được các giải pháp nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh
và thời cơ thuận lợi để tạo bước phát triển nhanh và bền vững. Phân tích, đánh
giá thực trạng kinh tế - xã hội trong thời gian qua, đề xuất các nhóm giải pháp
chủ yếu nhằm phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế Việt Nam là một vấn đề
mang tính thời sự và đòi hỏi bức thiết của thực tiễn.
Qua quá trình học tập và rèn luyện môn học Phương pháp nghiên cứu
khoa học, được sự hướng dẫn của các thầy giáo bộ môn, em xin trình bày
Phương pháp nghiên cứu khoa học với đề tài: “Tình hình phát triển bền vững
và một số giải pháp để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam
hiện nay”.
Do thời gian còn hạn hẹp và sự hiểu biết các vấn đề chưa sâu sắc, chắc

chắn bài viết còn có rất nhiều thiếu sót, hạn chế nhất định. Bởi vậy em mong
được sự quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn, bổ sung của các thầy giáo để có thể sửa
chữa, khắc phục những mặt kiến thức còn yếu của mình và để bài viết có thể
hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Yên Bái, ngày

tháng 06 năm 2016

Người viết

Đỗ Tiến Hữu

2


Môn học: Phương pháp nghiên cứu khoa học

PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1. Khái niệm phát triển bền vững:
Quan niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời
sống xã hội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững manh nha trong cả
quá trình sản xuất xã hội và bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm quan trọng của bảo
vệ môi trường và tiếp đó là nhận ra sự cần thiết phải giải quyết những bất ổn
trong xã hội. Chính vì thế, năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và
Phát triển của Liên hợp quốc được tổ chức ở Ri-ô đơ Gia-nê-rô đề ra Chương
trình nghị sự toàn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền vững được xác
định là: “Một sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà
không làm hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai”. Theo

đó, ba trụ cột phát triển bền vững được xác định là: Thứ nhất, bền vững về mặt
kinh tế, hay phát triển kinh tế bền vững là phát triển nhanh và an toàn, chất
lượng; Thứ hai, bền vững về mặt xã hội là công bằng xã hội và phát triển con
người, chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu chí cao nhất về phát triển xã
hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình độ dân trí, giáo dục, sức
khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh; Thứ ba, bền vững về sinh
thái môi trường là khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ
môi trường và cải thiện chất lượng môi trường sống.
Cho tới nay, quan niệm về phát triển bền vững trên bình diện quốc tế có
được sự thống nhất chung và mục tiêu để thực hiện phát triển bền vững trở
thành mục tiêu thiên niên kỷ.
2. Các nội dung cơ bản của phát triển bền vững:
2.1 Phát triển bền vững về kinh tế:
Phát triển bền vững về kinh tế là sự tiến bộ về mọi mặt của nền kinh tế,
thể hiện ở quá trình tăng trưởng kinh tế cao, ổn định và sự thay đổi về chất của
nền kinh tế, gắn với quá trình tăng năng suất lao động, quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường theo hướng tiến bộ.
Mục tiêu của phát triển bền vững về kinh tế là: Đạt được sự tăng trưởng
kinh tế cao, ổn định với cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao
đời sống của nhân dân, tránh được sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai và
không để lại gánh nặng nợ nần lớn cho các thế hệ mai sau. Đồng thời với mục
tiêu tăng trưởng kinh tế đạt được như trên thì các mục tiêu về tiến bộ, công
bằng xã hội và bảo vệ môi trường vẫn được bảo đảm.
3


Môn học: Phương pháp nghiên cứu khoa học

Để đạt được sự phát triển bền vững về kinh tế với quan niệm và mục tiêu
nêu trên, thì các tiêu chí cơ bản cần đạt được là:

(1) Sự gia tăng thực tế về quy mô giá trị tổng sản phẩm hàng hóa và dịch
vụ của nền kinh tế với mức tăng trưởng cao hợp lý và ổn định trong dài hạn.
(2) Tăng trưởng kinh tế phải dựa trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế
hợp lý theo hướng tiến bộ.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, theo hướng tiến bộ có nghĩa là: Trong
mọi thời kỳ cơ cấu kinh tế quốc gia và vùng lãnh thổ đều phát huy tốt những lợi
thế so sánh của đất nước hay vùng lãnh thổ và phù hợp với xu thế phát triển của
thời đại.
(3) Tăng trưởng kinh tế phải dựa vào năng lực nội sinh là chính và phải
làm tăng năng lực nội sinh.
Năng lực nội sinh là năng lực bên trong của một quốc gia hay một nền
kinh tế. Năng lực nội sinh được thể hiện ở những tiêu chí như: chất lượng
nguồn nhân lực, năng lực sáng tạo khoa học - công nghệ quốc gia, mức độ tích
lũy vốn của nền kinh tế và mức độ hoàn thiện, hiện đại của hệ thống kết cấu
hạ tầng, mức độ tham gia của công dân vào quá trình tăng trưởng kinh tế của
đất nước.
Mặt khác, năng lực nội sinh của nền kinh tế được nâng cao còn đòi hỏi
tỷ lệ nợ nước ngoài của quốc gia và của chính phủ so với GDP ở giới hạn cho
phép (an toàn) và có xu hướng ngày càng giảm. Tiêu chí này bảo đảm cho sự ổn
định kinh tế vĩ mô và tránh để lại gánh nợ nước ngoài cho thế hệ mai sau.
Tăng trưởng kinh tế phải dựa chủ yếu vào năng lực nội sinh, song như
thế chưa đủ, tăng trưởng kinh tế còn phải làm tăng năng lực nội sinh. Có như
vậy mới tạo được cơ sở để tiếp tục duy trì và nâng cao nhịp độ tăng trưởng kinh
tế. Nếu chỉ chăm lo đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà không quan tâm đúng
mức đến làm tăng năng lực nội sinh thì chắc chắn không đảm bảo tăng trưởng
kinh tế ổn định, do đó sẽ không tạo được cơ sở cho phát triển kinh tế bền vững.
Chính nhờ tăng trưởng kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý,
theo hướng tiến bộ, dựa vào năng lực nội sinh là chính và phát triển năng lực
nội sinh nên đã tạo cho nền kinh tế nước ta trong những năm qua đạt được sự
tăng trưởng ổn định.

2.2 Phát triển bền vững về xã hội:
Phát triển bền vững về xã hội là quá trình phát triển đạt được kết quả
ngày càng cao trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm chế độ
dinh dưỡng và chất lượng chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, mọi người đều có
cơ hội được học hành và có việc làm, giảm tình trạng đói nghèo, nâng cao trình
4


Môn học: Phương pháp nghiên cứu khoa học

độ văn minh về đời sống vật chất, tinh thần cho mọi thành viên xã hội, tạo được
sự đồng thuận và tính tích cực xã hội ngày càng cao.
Phát triển bền vững về xã hội phải bao hàm đầy đủ những nội dung và
tiêu chí trọng yếu sau:
(1) Tăng trưởng kinh tế phải cùng đồng hành với giải quyết việc làm và
tăng thu nhập cho người lao động.
Có việc làm vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ của người lao động. Có việc
làm, người lao động mới có thu nhập và mới có điều kiện để tự hoàn thiện nhân
cách và kỹ năng của chính mình. Người lao động nếu không có việc làm, bị thất
nghiệp sẽ không có thu nhập để tồn tại, phát triển và do đó dễ lâm vào tình
trạng bi quan, mất niềm tin, làm nảy sinh nhiều tiêu cực. Các bậc tiền nhân đã
có câu: "nhàn cư vi bất thiện".
Nếu tăng trưởng kinh tế không đồng hành với giải quyết việc làm, để
tình trạng thất nghiệp cao thì chẳng những làm lãng phí nguồn lực xã hội mà
còn tiềm ẩn nhiều vấn đề xã hội tiêu cực, thậm chí an sinh xã hội bị đe dọa.
Vì vậy, để có phát triển bền vững, đòi hỏi trước hết phải thực hiện gắn kết
mục tiêu tăng trưởng kinh tế với mục tiêu tạo việc làm và tăng thu nhập cho
người lao động.
Tiêu chí đo lường tăng trưởng gắn với việc làm được đo lường bằng số
lượng việc làm được tạo ra hay tỷ lệ thất nghiệp hàng năm của một quốc gia, tỷ

lệ tăng việc làm so với tốc độ tăng GDP ( hay còn gọi là độ co giãn của việc
làm so với tốc độ tăng GDP)
(2) Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo và chống
tái nghèo.
Xóa đói giảm nghèo và chống tái nghèo không chỉ là công việc trước mắt
(xóa hộ đói, giảm hộ nghèo) mà còn là nhiệm vụ lâu dài (xóa nghèo tuyệt đối,
giảm nghèo tương đối, chống tái nghèo, xây dựng xã hội giàu mạnh, công bằng,
dân chủ, văn minh).
Xóa đói, giảm nghèo và chống tái nghèo tạo động lực thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Bởi vì xóa đói, giảm nghèo và chống tái nghèo làm tăng năng
lực sản xuất cho người nghèo (thông qua nâng cao kiến thức, kỹ năng cho
người nghèo, hỗ trợ vốn cho người nghèo).
Xóa đói, giảm nghèo và chống tái nghèo còn tạo ra mặt bằng xã hội phát
triển tương đối đồng đều, đảm bảo an sinh xã hội - một điều kiện cơ bản, cần
thiết cho phát triển bền vững. Như vậy, xóa đói giảm nghèo và chống tái nghèo
không chỉ là mục tiêu của tăng trưởng kinh tế mà còn là động lực thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội vì sự phát triển bền vững.
5


Môn học: Phương pháp nghiên cứu khoa học

Để thực hiện tăng trưởng kinh tế đi đối với xóa đói giảm nghèo và chống
tái nghèo, đòi hỏi phải đặt nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo và chống tái nghèo
thành một bộ phận của chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài
hạn, trung hạn, ngắn hạn, từ Trung ương đến địa phương, cơ sở. Xóa đói, giảm
nghèo và chống tái nghèo không chỉ là bổn phận của người nghèo mà còn là
nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn thể cộng đồng.
Tiêu chí của xóa đói giảm nghèo gắn với tăng trưởng kinh tế được đo
lường bằng tỷ lệ hộ nghèo phải giảm hoặc tốc độ giảm nghèo tăng hàng năm;

tỷ lệ hộ tái nghèo phải giảm.
(3) Tăng trưởng kinh tế phải đảm bảo ổn định xã hội và nâng cao chất
lượng cuộc sống của mọi người dân.
Sự ổn định xã hội được biểu hiện cụ thể là không có những xáo trộn lớn
trong các mối quan hệ xã hội giữa các giai tầng, các giới; không có sự xung đột
giữa các sắc tộc, tôn giáo, các bộ phận dân cư và xã hội không có những rối ren.
Xã hội ổn định là điều kiện cơ bản tiên quyết của tăng trưởng kinh tế, đồng thời
cũng chịu sự tác động rất lớn của tăng trưởng kinh tế. Do đó tăng trưởng kinh tế
phải đảm bảo giữ vững ổn định xã hội.
Chất lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư được biểu hiện ở các tiêu
chí chủ yếu sau: thu nhập bình quân đầu người, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ trẻ em
sơ sinh tử vong, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, tỷ lệ bác sĩ trên
1.000 dân, tỷ lệ dân số được sử dụng nước sạch, tỷ lệ người lớn biết chữ, tỷ lệ
trẻ em trong độ tuổi được đi học...
Để đánh giá đầy đủ, toàn diện về chất lượng cuộc sống của các tầng lớp
dân cư và mức độ phát triển xã hội, Liên Hợp Quốc đã sử dụng chỉ số phát triển
con người (HDI) để phản ánh. Đây là chỉ số tổng hợp bao hàm ba chỉ số cơ bản
là chỉ số thu nhập bình quân đầu người, chỉ số về hưởng thụ giáo dục (tỷ lệ %
người lớn biết chữ) và chỉ số về chăm sóc y tế (tuổi thọ trung bình).
Tăng trưởng kinh tế phải có tác dụng nâng cao chất lượng cuộc sống
nhân dân ở mọi vùng, miền của đất nước thì mới hướng tới phát triển bền vững.
Nếu tăng trưởng kinh tế chỉ mang lại lợi ích cho một số ít người, một số ít vùng
của quốc gia và tăng trưởng kinh tế làm giãn rộng khoảng cách giàu nghèo
trong xã hội, doãng rộng khoảng cách chênh lệch giữa các vùng, miền thì kết
cục tăng trưởng kinh tế đó không góp phần phát triển bền vững mà ngược lại.
2.3 Phát triển bền vững về môi trường:
Phát triển bền vững về môi trường là môi trường sinh thái được đảm bảo, tài
nguyên thiên nhiên được khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả, phòng
ngừa, ngăn chặn, kiểm soát và xử lý kịp thời tình trạng ô nhiễm môi trường.
6



Môn học: Phương pháp nghiên cứu khoa học

Phát triển bền vững về môi trường bao gồm những nội dung và chỉ
tiêu trọng yếu sau:
(1) Tăng trưởng kinh tế không gây ra tình trạng ô nhiễm, suy thoái và hủy
hoại môi trường.
Trong thực tế, để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nhiều doanh
nghiệp, nhiều quốc gia đã không quan tâm hoặc không quan tâm đúng mức đến
vấn đề môi trường. Họ không chỉ khai thác làm cạn kiệt tài nguyên mà còn thải
ra môi trường nhiều chất độc hại gây ô nhiễm tài nguyên đất, nước, không khí...
làm mất cân bằng sinh thái, mất đi sự đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu trái
đất... đe dọa trực tiếp cuộc sống của con người hiện tại chứ chưa nói đến việc
gây tổn hại cho khả năng đáp ứng yêu cầu cuộc sống của các thế hệ tương lai.
Vì vậy, nội dung đầu tiên của phát triển bền vững về môi trường chính là sự
tăng trưởng kinh tế không làm ô nhiễm và hủy hoại môi trường.
Tiêu chí cơ bản đo lường của nội dung trên được thể hiện ở tỷ lệ các chất
thải đặc biệt là các chất độc hại ra môi trường của các ngành kinh tế không
được vượt quá mức độ quy định cho phép, đa dạng sinh học được bảo đảm.
(2) Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với nuôi dưỡng và cải thiện chất
lượng môi trường.
Để thực hiện tăng trưởng kinh tế đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà
không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai, đòi
hỏi quá trình thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phục hồi và
cải thiện chất lượng môi trường, cụ thể là phải: Bảo vệ rừng và trồng rừng mới,
thể hiện ở các chỉ tiêu tỷ lệ che phủ rừng và chất lượng rừng ngày càng tăng;
Bảo vệ tài nguyên nước, thể hiện các chỉ tiêu như nguồn nước ngầm và nước
mặt được bảo vệ về khối lượng và chất lượng; tỷ lệ nước được tái tạo; Bảo về
nguồn lợi thủy hải sản, thể hiện qua các chỉ tiêu cơ bản như đánh bắt đúng kỹ

thuật, trong giới hạn không mang tính chất hủy diệt; các giống thủy sản quan
trọng được bảo vệ; Sáng tạo nhiều vật liệu mới nhân tạo thay thế vật liệu tự nhiên
truyền thống.
(3) Tăng trưởng kinh tế phải dựa trên cơ sở khai thác hợp lý, sử dụng tiết
kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên.
Khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên
có nghĩa là phải có kế hoạch lựa chọn, cân nhắc khi quyết định khai thác nguồn
tài nguyên thiên nhiên xét cả về hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả
môi trường.
Tiêu chí thể hiện khai thác và sử dụng tài nguyên hợp lý là chất lượng
xây dựng chiến lược và quy hoặc tài nguyên của quốc gia; tỷ lệ tiêu hao
nguyên, nhiên liệu/ sản phảm hoặc/ đơn vị GDP.
7


Môn học: Phương pháp nghiên cứu khoa học

PHẦN II
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ CÁC MỤC TIÊU PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Tình hình phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay:
1.1 Những kết quả đạt được:
Bắt nhịp bước đi của thời đại, Đảng và Chính phủ đã sớm nhận thức tầm
quan trọng của phát triển bền vững. Ngày 25-6-1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị
số 36-CT/TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong các văn kiện Đại hội IX, X, và đặc
biệt là văn kiện Đại hội XI của Đảng, quan điểm phát triển bền vững càng được
chú trọng hơn và nhấn mạnh nhiều lần trên nhiều góc độ tiếp cận. Để chỉ đạo
thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Đảng ta
đã đưa ra 5 quan điểm phát triển, trong đó, quan điểm đầu tiên là: “Phát triển

nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên
suốt trong Chiến lược”.
Thực hiện quan điểm của Đảng, căn cứ vào Chương trình hành động thế
kỷ XXI của quốc tế, ngày 17-8-2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 154/2004/QĐ-TTg “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt
Nam” (còn gọi là Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Định hướng chiến
lược phát triển bền vững ở Việt Nam nêu bật những vấn đề đang đặt ra trong ba
lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường, những thách thức mà nước ta đang phải
đối phó. Chiến lược đã tạo lập mối quan hệ tương hỗ giữa các lĩnh vực kinh tế,
xã hội, môi trường; đã xác định khung thời gian để thực hiện và gắn trách
nhiệm của các ngành, các địa phương, các tổ chức và các nhóm xã hội; đã tính
tới việc sử dụng các nguồn lực tổng hợp để thực hiện chiến lược. Chính phủ
cũng đã thành lập Hội đồng phát triển bền vững quốc gia để chỉ đạo, giám sát
việc thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
Mặc dù việc triển khai tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển bền vững
chưa lâu nhưng chúng ta đã đạt được một số kết quả nhất định như đã đạt được
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm, giải quyết tốt vấn đề an sinh xã
hội, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường và chống biến đổi khí hậu. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế năm 2013 đạt 5,42%, chặn đà suy giảm tăng trưởng từ năm
8


Môn học: Phương pháp nghiên cứu khoa học

2010, cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2012 và 2011, kinh tế ổn định, tỷ
lệ lạm phát ở mức 6,04% năm.
Công tác an sinh xã hội cũng đạt được một số kết quả: Thực hiện chi trả
trợ cấp xã hội thường xuyên cho 2,6 triệu người với hơn 7 nghìn tỷ đồng; chi trả
trợ cấp ưu đãi thường xuyên, kịp thời cho 1,5 triệu người có công với cách
mạng; tạo việc làm cho khoảng 1,543 triệu người; lao động tham gia bảo hiểm

xã hội bắt buộc tăng 3,6% so với cuối năm 2012 và đạt hơn 10 nghìn người.
Tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện tăng 16,4% so với cuối năm 2012, đạt 156
nghìn người; mạng lưới y tế được tăng cường, chất lượng chăm sóc sức khỏe
nhân dân được nâng lên...
Trong thời gian qua, Việt Nam đã đạt được một số kết quả khả quan
trong phát triển bền vững: tỷ lệ năng lượng tái tạo trong cơ cấu sử dụng năng
lượng năm 2011 là 3%; nợ Chính phủ trên GDP là 45,7%; nợ nước ngoài trên
GDP là 42,2%; tỷ lệ nghèo là 10%; tỷ lệ thất nghiệp 2,88%; tỷ lệ lao động đang
làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo là 40%; hệ số bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập (Gini) là 0,455 lần; tỷ lệ người dân được hưởng bảo hiểm y
tế là 60%; tỷ lệ che phủ rừng là 39,7%; tỷ lệ đất được bảo vệ, duy trì đa dạng
sinh học là 7,6%; tỷ lệ các đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công
nghiệp được xử lý chất thải rắn, nước thải đạt tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia tương ứng là 50%; tỷ lệ chất thải rắn thu gom, đã xử lý đạt tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng là 83%...
Chỉ số phát triển con người trung bình năm trong 10 năm đạt 1,24%, thấp
hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế (7,25%) cho thấy HDI của Việt Nam ở mức
trung bình thấp và ít được cải thiện: năm 2001 là 0,5127, năm 2010 là 0,5721.
Hệ số tăng trưởng vì con người (GHR) giảm dần trong các năm, cụ thể
năm 2001 là 0,2607, năm 2010 còn 0,1984. Trong giai đoạn 2001-2010, hệ số
tăng trưởng vì con người (GHR) của Việt Nam lớn hơn 0, cho thấy phát triển
con người đang được cải thiện nhờ vào tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sự tác
động cùng chiều ấy đang có xu hướng giảm dần, giá trị GHR nhỏ dần. Giai
đoạn 2001-2005, giá trị bình quân của hệ số tăng trưởng vì con người là 2,272
thì giai đoạn 2006-2010 chỉ còn 0,2054. GHR năm 2010 chỉ là 0,1984, thấp hơn
nhiều so với năm 2001 (0,2607).
Bên cạnh những kết quả nêu trên, để phát triển bền vững cần phải phấn
đấu và nỗ lực nhiều hơn nữa. Chỉ tiêu tăng trưởng xanh đến nay cũng chưa có
tính toán đầy đủ. Chỉ số ESI và nhiều chỉ tiêu khác cũng xác định chưa đầy đủ.
Hơn nữa, điều kiện môi trường vẫn còn ô nhiễm, môi sinh chưa được cải thiện

đáng kể, vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn đang là vấn đề nhức nhối, biến đổi khí
hậu đang đe dọa, bão lụt, hạn hán vẫn là nguy cơ trước mắt, sức khỏe con người
chưa được bảo đảm tốt....
9


Môn học: Phương pháp nghiên cứu khoa học

1.2 Những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển bền vững của Việt
Nam hiện nay:
Có thể thấy rõ rằng, trong những năm qua, chúng ta đã triển khai và thực
hiện khá thành công một số nhiệm vụ để hướng tới phát triển bền vững. Tuy
nhiên, những thành tựu và tiến bộ đã đạt được chưa tương xứng với tiềm năng
của đất nước. Trình độ phát triển kinh tế còn thấp so với các nước trên thế giới
và ngay cả một số nước trong khu vực. Xem xét ở ba khía cạnh để tăng trưởng
bền vững là: kinh tế, xã hội và môi trường để thấy rõ còn nhiều vấn đề đặt ra
cần được giải quyết.
Thứ nhất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung vẫn còn
yếu. Tích lũy nội bộ còn thấp; tăng trưởng kinh tế có bước chững lại, thấp hơn
mức tăng của những năm trước do di chứng của cuộc khủng hoảng tài chính,
suy thoái kinh tế toàn cầu. Đầu tư của Nhà nước hiệu quả thấp, còn thất thoát và
lãng phí. Tỷ lệ nợ công so với GDP của các năm 2010, 2011, 2012 lần lượt là:
56,8%, 54,9% và 55,6%. Đây là mức nợ tương đối cao. Cho dù tổng khối lượng
nợ vẫn được coi là trong ngưỡng an toàn, nhưng tiềm ẩn đằng sau đó là nhiều
rủi ro.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng hiện tại chưa có chuyển biến đáng kể
trong việc đổi mới và phát triển các doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế vĩ mô chưa
thật ổn định, còn những yếu tố thiếu vững chắc, các thành phần kinh tế chưa
phát huy hết năng lực, chưa thực sự được bình đẳng và yên tâm đầu tư kinh
doanh. Cơ chế quản lý, chính sách phân phối có mặt chưa hợp lý, chưa thúc đẩy

tiết kiệm, tăng năng suất, kích thích đầu tư phát triển. Hệ thống tài chính, ngân
hàng đổi mới chậm, chất lượng hoạt động hạn chế; môi trường đầu tư, kinh
doanh còn một số vướng mắc, chưa tạo điều kiện hỗ trợ tốt cho kinh tế phát
triển...
Thứ hai, chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu phát
triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế, chưa chuyển
mạnh sang đào tạo theo nhu cầu xã hội. Chương trình, nội dung, phương pháp
dạy và học còn lạc hậu, chậm đổi mới; cơ cấu đào tạo không hợp lý giữa các
lĩnh vực, ngành nghề.
Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Quản lý văn
hóa còn bất cập; môi trường văn hóa bị xâm hại, thiếu lành mạnh; các tệ nạn xã
hội và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức,
nhất là trong thanh, thiếu niên ở mức đáng lo ngại.
Tình trạng thiếu việc làm còn cao. Chính sách tiền lương, thu nhập chưa
động viên được người lao động tận tâm với công việc. Đời sống của một bộ
phận dân cư, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, xóa đói, giảm
10


Môn học: Phương pháp nghiên cứu khoa học

nghèo chưa bền vững, tình trạng tái nghèo cao. Khoảng cách chênh lệnh giàu nghèo còn khá lớn và ngày càng doãng ra.
Chất lượng chăm sóc sức khỏe còn thấp, hệ thống y tế và chất lượng dịch
vụ y tế chưa đáp ứng được yêu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân. Vệ sinh an
toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Thứ ba, việc xây dựng pháp luật và chính sách bảo vệ môi trường còn
thiếu và chậm, thực hiện chưa nghiêm, hiệu lực, hiệu quả còn thấp. Môi
trường ở nhiều nơi tiếp tục xuống cấp, một số nơi đã tới mức báo động. Chưa
có những giải pháp thực thi để đối phó với sự biến đổi khí hậu; hậu quả thiên
tai còn nặng nề; tình trạng chặt phá, cháy rừng còn tiếp tục diễn ra. Ô nhiễm

nguồn nước, đất, ô nhiễm không khí còn nghiêm trọng ở một số nơi. Chưa huy
động được nhiều nguồn lực để bảo vệ môi trường sinh thái và môi trường sống
của nhân dân.
2. Mục tiêu phát triển của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020:
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 xác định mục tiêu tổng
quát: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận;
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao
hơn trong giai đoạn sau”, trong đó, có các chỉ tiêu kinh tế, văn hóa, môi trường
cụ thể sau:
Ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP)
bình quân 7% - 8%/năm; GDP năm 2020 theo giá so sánh gấp khoảng 2,2 lần
năm 2010. GDP bình quân đầu người giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD; cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, tăng nhanh tỷ trọng các ngành công
nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng các ngành nông nghiệp, đưa tỷ trọng các
ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP. Giá trị sản phẩm công
nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế
tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có
bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn
khoảng 30% - 35% lao động xã hội. Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào
tăng trưởng ít nhất 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5% 3%/năm. Kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại. Tỷ
lệ đô thị hóa đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%; chỉ
số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế giới; tốc độ tăng
dân số ổn định ở mức khoảng 1%; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi; đạt 9 bác sĩ và
26 giường bệnh trên 10.000 dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; lao động qua
đào tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% tổng lao động xã hội; tỷ lệ hộ
nghèo giảm bình quân 1,5% - 2%/năm; thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng
11



Môn học: Phương pháp nghiên cứu khoa học

3,5 lần năm 2010; tỷ lệ nhà ở kiên cố đạt 70%, bình quân 25 m 2 sàn xây
dựng/người; số sinh viên đạt 450 trên 10.000 dân. Cải thiện chất lượng môi
trường. Đến năm 2020, đưa tỷ lệ che phủ rừng lên 45%; hầu hết dân cư được sử
dụng nước sạch; 100% số cơ sở sản xuất, kinh doanh mới áp dụng công nghệ
sạch; trên 80% các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có đạt tiêu chuẩn về môi
trường; các đô thị loại 4 trở lên và tất cả các khu công nghiệp, khu chế xuất có
hệ thống xử lý nước thải tập trung, 95% chất thải rắn thông thường, 85% chất
thải nguy hại và 100% chất thải y tế được xử lý đạt tiêu chuẩn.

PHẦN III
GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Để đạt mục tiêu đề ra trên, trong thời gian tới cần quyết liệt thực hiện
đồng bộ nhiều nhóm giải pháp, trong đó tập trung vào một số giải pháp sau:
1. Công tác lãnh, chỉ đạo:
Tiếp tục tăng cường hơn nữa công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra và đôn
đốc tổ chức thực hiện của Đảng và Nhà nước.Trong thời gian tới, Đảng và Nhà
nước cần tiến hành đổi mới hệ thống chính trị thích ứng với thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo sự đồng thuận cao giữa các tầng lớp
nhân dân trong triển khai thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 2020. Hướng chỉ đạo tập trung vào phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế, xem
phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; tạo môi trường thuận lợi cho doanh
nghiệp, đặc biệt là các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, phát triển; tích cực
thí điểm nhiều mô hình, cơ chế, chính sách mới, từ đó rút kinh nghiệm, nhân
rộng điển hình; mở rộng thị trường quốc tế, tạo điều kiện hợp tác quốc tế, đầu
tư trong các lĩnh vực kinh tế.
2. Hoàn thiện cơ chế thị trường:

Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, cho phép thí điểm nhiều mô hình kinh tế mới.Việc xây dựng và hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa nền
tảng quan trọng hàng đầu đối với phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế
trong giai đoạn tới, trong đó cần tập trung vào một số trọng tâm chủ yếu sau:
- Trung ương Đảng chỉ đạo Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương khẩn
trương rà soát các văn bản bất hợp lý, cản trở phát triển kinh tế, đồng thời đề
xuất các cơ chế, chính sách tạo thuận lợi cho phát triển sản xuất; xây dựng hệ
12


Môn học: Phương pháp nghiên cứu khoa học

thống văn bản pháp luật đồng bộ, có tính khoa học cao. Sớm áp dụng quy trình
quản lý công vụ tiên tiến (theo quy chuẩn ISO), công khai, minh bạch.
- Xây dựng cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở
hữu cùng phát triển; tiếp tục đổi mới và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước,
nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; đổi mới việc kết hợp
kinh tế với quốc phòng theo hướng xây dựng một số tổ hợp công nghiệp quốc
phòng; tiếp tục có cơ chế, chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế, nhất
là khu vực kinh tế tư nhân, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
- Tạo hành lang pháp lý cho phép tiến hành thí điểm xây dựng một số mô
hình kinh tế mới, như khu kinh tế mở, khu kinh tế tự do, đặc khu kinh tế.
- Củng cố tổ chức nhằm hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế theo hướng
cung cấp thông tin một cách khoa học, chính xác phục vụ cho nhu cầu quản lý
nhà nước và nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh, trong đó trước hết là hệ thống
thông tin kinh tế đầy đủ, kịp thời để nhận dạng sớm những “bong bóng kinh tế”.
Chủ động xây dựng một lộ trình thực hiện hệ thống chỉ tiêu thống kê theo thông
lệ quốc tế cho cả giai đoạn 2011 - 2020, bảo đảm thực hiện mục tiêu “phù hợp
với tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế”. Có chế tài nghiêm khắc đối với hành động

đưa, phát tán thông tin không trung thực, thiếu chính xác gây ảnh hưởng xấu tới
phát triển kinh tế - xã hội.
3. Cải cách hành chính:
Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có đủ
phẩm chất, năng lực; chú trọng đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, đáp ứng
nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo
hướng phục vụ tốt nhất cho người dân và doanh nghiệp; xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt; đẩy mạnh phòng,
chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm.
Giai đoạn 2011 - 2020 nước ta nằm trọn trong thời kỳ “dân số vàng”, do
đó cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nhân lực và chính sách sử dụng nhân
lực. Các giải pháp chính sách cụ thể để phát triển nguồn nhân lực có phẩm chất
tốt, kỹ năng chuyên môn cao gồm:
- Đẩy mạnh cải cách giáo dục theo hướng nâng cao dân trí và đào tạo,
dạy nghề gắn với nhu cầu của xã hội và doanh nghiệp; chủ động dự báo cơ cấu
lao động để có hướng đào tạo đội ngũ lao động có thể đáp ứng đòi hỏi ngày
càng cao của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Tiếp tục đổi mới chế độ tuyển chọn, sử dụng nhân lực theo hướng “phải
tạo cơ hội bình đẳng trong việc tuyển dụng, đề bạt mới phát huy tối ưu khả
năng của đất nước và mới tạo khí thế hăng say làm việc”.
13


Môn học: Phương pháp nghiên cứu khoa học

- Nghiên cứu cải cách chế độ tiền lương, tạo cơ sở cho việc định hướng
đào tạo và sử dụng nhân lực, đặc biệt là nhân tài, trong đó phải bảo đảm công
chức có thể sống bằng lương như công chức ở các nước trong khu vực.
4. Về cơ chế, chính sách:
Xây dựng cơ chế, chính sách nhằm phát triển khoa học và công nghệ

phục vụ phát triển kinh tế, với các nội dung chính sau:
- Đầu tư kết cấu hạ tầng thiết yếu cho hoạt động nghiên cứu và triển khai;
hoàn thiện hơn nữa hệ thống thông tin khoa học - công nghệ quốc gia hiện có
ngang với trình độ của các nước trong khu vực và thế giới.
- Tạo cơ chế khuyến khích nhiều thành phần tham gia nghiên cứu khoa
học, nhất là khu vực doanh nghiệp; gắn khoa học với thực tiễn và hoạt động sản
xuất, kinh doanh.
- Sớm tạo các yếu tố cơ bản để hình thành và vận hành thị trường khoa
học - công nghệ. Đẩy mạnh thực hiện cơ chế “khoán” trong khoa học - công
nghệ (Nghị định số 115); tạo cầu nối để cung và cầu về khoa học - công nghệ
gặp nhau, làm cho khoa học - công nghệ có thể phục vụ hiệu quả việc phát triển
kinh tế.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học đủ mạnh, bảo đảm cho
nền kinh tế có cơ sở nội sinh về khoa học - công nghệ vững mạnh.
5. Đầu tư cơ sở hạ tầng:
Tiếp tục đầu tư, hoàn thiện cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng theo hướng
đồng bộ, hiện đại gắn với phát triển mạnh các vùng có tiềm năng một cách hài
hòa trong tổng thể chung của cả nước.
Việc phát triển kết cấu hạ tầng cần tuân thủ các nguyên tắc chủ yếu sau:
- Phát triển hạ tầng phải được thực hiện theo quy hoạch chung của cả
nước cũng như các vùng kinh tế trọng điểm; sớm xây dựng, phê duyệt và triển
khai thực hiện quy hoạch hệ thống hạ tầng kinh tế, kỹ thuật theo hướng phát
triển. Đối với một số lĩnh vực quy hoạch lớn, chuyên ngành có thể thuê chuyên
gia và tư vấn quốc tế để bảo đảm tính khoa học, khách quan và hội nhập kinh tế
quốc tế. Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật phải bảo đảm tính hiệu quả
tổng thể và tầm nhìn chiến lược có tính đến yếu tố vùng trong tổng thể cả nước.
- Phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật phải bảo đảm tính đồng bộ, hoàn
chỉnh về công nghệ, kỹ thuật, năng lực quản lý, vận hành... của hệ thống kết cấu
hạ tầng. Giai đoạn đến năm 2020, nên tập trung ưu tiên xây dựng một số công
trình giao thông lớn, các đầu mối giao lưu quốc tế (sân bay, thương cảng,

đường cao tốc, đường sắt), các khu đô thị hiện đại, các công trình cung cấp dịch
vụ viễn thông, điện, nước...
14


Môn học: Phương pháp nghiên cứu khoa học

Các giải pháp chính sách cụ thể gồm:
- Mở rộng các hình thức huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng. Mặt khác, cần mở rộng các hình thức huy động và sử dụng
các nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, như các dạng BOT (xây dựng vận hành - chuyển giao); BCC (Hợp đồng hợp tác kinh doanh); BTO (xây dựng
- chuyển giao - vận hành); BT (xây dựng - chuyển giao); PPP (hợp tác công tư).
- Tạo cơ chế, chính sách phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm,
tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng chung của cả nước. Bên cạnh đó, phát triển
các vùng một cách hài hòa không có nghĩa là phát triển dàn đều, đặc biệt là xét
ở góc độ đầu tư phát triển. Vì ở những thời điểm nhất định, với những nguồn
lực có hạn của xã hội, một mặt phải có sự tập trung vào những nơi có khả năng
mang lại hiệu suất cao nhất; mặt khác, lại không được bỏ rơi những nơi khó
khăn, điều kiện phát triển còn hạn chế.
6. Vấn đề xã hội, an sinh và đời sống:
Phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, bảo đảm an
sinh và đời sống của nhân dân ngày càng tốt hơn.Bên cạnh việc giải quyết
nhiệm vụ phát triển kinh tế, cần quan tâm tới bảo đảm an sinh xã hội nhằm phát
triển bền vững, ổn định, trong đó tập trung vào một số vấn đề sau:
- Xây dựng chính sách tạo việc làm và chống thất nghiệp; thực thi những
quy định ràng buộc các đơn vị sử dụng đất nông nghiệp chuyển đổi sang đất đô
thị và công nghiệp phải giải quyết việc làm hoặc chuyển đổi nghề cho những
người nông dân thuộc diện thu hồi đất.
- Kiên trì thực hiện mục tiêu chống đói nghèo và tái đói nghèo. Giải pháp
chống đói nghèo và tái đói nghèo căn bản, lâu dài vẫn là hỗ trợ giáo dục và đào

tạo nghề cho người nghèo; tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích tăng cường
đầu tư và sử dụng lao động là người nghèo.
- Thực hiện các chính sách bảo đảm an ninh, an toàn cuộc sống; phòng,
chống và hạn chế thiệt hại do các rủi ro về thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu;
ngăn ngừa và chủ động giảm thiểu các loại tội phạm; tích cực phòng, chống
tham nhũng; giải quyết tốt vấn đề dân tộc và tôn giáo.
7. Công tác môi trường:
Thứ bảy, tăng cường công tác bảo vệ môi trường, hướng tới mô hình phát
triển xanh. Bảo vệ môi trường sinh thái đòi hỏi thực hiện nghiêm các quy định
pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó đặc biệt chú ý bảo đảm quy trình phê
duyệt và giám sát việc thực hiện các dự án đầu tư. Quy định rõ trách nhiệm của
các bên liên quan đến việc phê duyệt, thẩm định dự án, quản lý môi trường và
của các nhà đầu tư kinh doanh, nhất là những dự án có nguy cơ gây ô nhiễm
môi trường. Khuyến khích nghiên cứu khoa học và áp dụng vào sản xuất các
15


Môn học: Phương pháp nghiên cứu khoa học

công nghệ không gây ô nhiễm môi trường và hình thành các ngành, nghề kinh
tế mới thân thiện với môi trường. Nghiên cứu áp dụng chỉ tiêu thống kê GDP
xanh, hạch toán tăng trưởng có tính tới yếu tố môi trường.
8. Hội nhập quốc tế:
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó giải pháp cơ bản, lâu dài về
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế cần được triển khai ở các nội dung chủ yếu
sau:
- Xây dựng các cơ chế, chính sách quản lý các hoạt động kinh tế, trong
đó chủ động thực hiện theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
- Để phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, cần lấy việc du nhập tri
thức, công nghệ, kỹ thuật, thiết bị, phương thức kinh doanh hiện đại của thế

giới làm căn cứ trực tiếp của việc lựa chọn đối tác để có hướng ưu tiên tiếp cận;
sớm xây dựng các giải pháp tăng cường xuất khẩu để nhập khẩu tri thức và
công nghệ - kỹ thuật nhằm tăng nhanh tốc độ hiện đại hóa nền kinh tế hướng tới
đuổi kịp các nước trung bình và tiến tới là các nước tiên tiến trong khu vực và
trên thế giới.
- Xác định rõ chiến lược thị trường (đối tác) và dành sự nỗ lực cho việc
giành và giữ thị phần ở các thị trường đó. Hướng thị trường ưu tiên là những thị
trường hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam gắn với các trung tâm kinh tế và khoa
học công nghệ tiên tiến trên thế giới, như Mỹ, Nhật Bản và EU, Trung Quốc,
Hàn Quốc, Trung Đông...
9. Quốc phòng, an ninh:
Bảo đảm quốc phòng, an ninh đủ mạnh để bảo vệ đất nước, duy trì ổn
định chính trị để phát triển kinh tế. Tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến
động phức tạp, việc hợp tác và đấu tranh giữa các Quốc gia đan xen phức tạp,
mâu thuẫn và xung đột luôn có thể xảy ra. Các thế lực thù địch luôn tìm cách
chống phá hòng lật đổ chế độ, phá thế ổn định phát triển của đất nước... Do đó
chúng ta cần xây dựng quân đội đủ mạnh để bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ. Đồng thời, cần bảo đảm và duy trì trật tự trị an xã hội nhằm giữ vững
ổn định chính trị, tạo thế và lực để phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an
ninh.
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, cũng như thực tiễn Việt Nam
đã chứng minh rằng, khả năng phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế của
một quốc gia, kể cả những nền kinh tế vốn rất nghèo tài nguyên thiên nhiên là
hoàn toàn có thể. Việt Nam đang trong giai đoạn có khả năng phát triển nhanh
và bền vững, do hội được các điều kiện thuận lợi khách quan và chủ quan, trong
nước cũng như quốc tế. Để thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
16


Môn học: Phương pháp nghiên cứu khoa học


công nghiệp theo hướng hiện đại”, chúng ta cần phát huy sức mạnh tổng hợp
của toàn dân tộc và hệ thống chính trị, tận dung thời cơ, vượt qua thách thức,
triển khai đồng bộ nhiều nhóm giải pháp, trong đó có những giải pháp như đã
đề xuất trên đây.
KẾT LUẬN
Phát triển bền vững là xu thế chung mà toàn nhân loại đang nỗ lực hướng
tới; Đó cũng là mục tiêu, chiến lược quan trọng mà Đảng, Nhà nước và Chính
phủ cùng toàn nhân dân Việt Nam quyết tâm thực hiện trong thời gian tới. Phát
triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm của Đảng, chủ trương, chính
sách của Nhà nước và được thể hiện rõ nét trong các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia cũng như của các ngành và địa
phương của Việt Nam.
Sau hơn 20 năm thực hiện, triển khai chiến lược phát triển bền vững, Việt
Nam đã tận dụng thời cơ thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và đã
đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi
trường. Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, kinh tế tăng trưởng khá
nhanh, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện, công tác
bảo vệ môi trường được quan tâm và có nhiều mặt được cải thiện. Vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng
để phát triển nhanh, bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng.
Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với những thách thức mang tính toàn cầu như
an ninh năng lượng, an ninh mạng thông tin, an ninh về nguồn nước và biến đổi
khí hậu,... đang là sự cản trở đối với tiến trình phát triển bền vững của Việt
Nam. Việt Nam sẽ phải tiếp tục nỗ lực để duy trì tính bền vững của những
thành quả phát triển đã đạt được.

17



Môn học: Phương pháp nghiên cứu khoa học

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Phát triển bền vững (cao học), Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh. Biên soạn: GS.TS. Hoàng Ngọc Hòa, PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường.
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
3. Báo cáo quốc gia tại Hội nghị cấp cao của Liên Hợp Quốc về Phát
triển bền vững (RIO+20).
4. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2004. Định
hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21
của Việt Nam).
5. Website của Đảng Cộng sản Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, Tổng cục Thống kê.

18



×