Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT về cổ PHẦN hóa TỔNG CÔNG TY NHÀ nước ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.95 KB, 115 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong những năm qua cùng với việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ
nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý và điều tiết của
nhà nước, khu vực kinh tế nhà nước đã có những thay đổi đáng kể. Đổi mới
khu vực kinh tế nhà nước đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước được coi là một
trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và yêu cầu cần phải được tiến hành với
nhịp độ nhanh nhưng vững chắc và có hiệu quả. Việc tìm ra mô hình tổ chức
mới nhằm phát huy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ngày càng trở nên cần thiết, nhất là khi
một loạt mô hình tổ chức như tổng công ty đã bộc lộ ngày càng rõ sự bất cập
và không thích ứng của nó đối với nền kinh tế đang phát triển của Việt Nam
hiện nay.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
ngày 24/9/2001 về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về một số chủ trương, chính sách,
giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX của Đảng ngày 3/2/2000 đã khẳng định: "Đẩy nhanh tiến độ cổ
phần hóa và mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hóa".
Nghị quyết đã đưa ra một bước đột phá trong chính sách đổi mới và cải cách
doanh nghiệp nhà nước đó là tiến hành cổ phần hóa "kể cả một số tổng công
ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành như điện lực, luyện kim, cơ khí, hóa
chất, phân bón, xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng
không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm... ".
Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đã đặt ra theo phương án tổng thể
sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, tại Quyết định số 84/2004/QĐ-TTg ngày

1



13/5/2004, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thực hiện thí điểm cổ phần hóa
một số tổng công ty nhà nước lớn trong năm 2004. Theo quyết định này, ba
tổng công ty lớn đầu tiên trong các ngành xây dựng, giao thông vận tải, công
nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép thí điểm cổ phần hóa gồm:
Tổng công ty Xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam (sau đây gọi là
VINACONEX) (Bộ Xây dựng), Tổng công ty Thương mại - Xây dựng (Bộ
Giao thông Vận tải); Tổng công ty Điện tử - Tin học (Bộ Công nghiệp).
Ngoài ra, Thủ tướng cũng đã cho phép Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là
ngân hàng quốc doanh đầu tiên trong hệ thống các ngân hàng được tiến hành
thí điểm cổ phần hóa.
Khác với việc cổ phần hóa một doanh nghiệp nhà nước hoặc bộ phận
doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện trong thời gian qua, cổ phần hóa tổng
công ty nhà nước là một vấn đề hoàn toàn mới và chưa được thực hiện trên
thực tế. Nhiều vấn đề như phương thức thực hiện cổ phần hóa, xác định giá trị
của toàn tổng công ty, tên gọi, mô hình tổ chức và hoạt động của tổng công ty
sau cổ phần hóa... chưa được xác định cụ thể trong các văn bản pháp luật. Do
vậy, việc nghiên cứu và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về cổ phần
hóa tổng công ty nhà nước ở Việt Nam là một vấn đề rất cấp thiết, góp phần
triển khai cổ phần hóa thành công các tổng công ty khác. Chính vì vậy, tác giả
quyết định lựa chọn đề tài: "Hoàn thiện khung pháp luật về cổ phần hóa
tổng công ty nhà nước ở Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đang được sự quan tâm
đặc biệt trong lý luận và thực tiễn hiện nay ở nước ta. Trong hơn 10 năm qua,
đã có nhiều văn bản của Đảng, Chính phủ, các Bộ, ngành được ban hành về
công tác cổ phần hóa. Bên cạnh đó, cũng đã có nhiều đề tài khoa học, luận án
tiến sĩ, thạc sĩ, các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học đề cập và nghiên
cứu chuyên sâu về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Các công trình
nghiên cứu đó đều thống nhất ở sự cần thiết phải thực hiện cổ phần hóa và


2


hoàn thiện cơ chế chính sách về cổ phần hóa. Qua nghiên cứu, tìm hiểu, tác
giả có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như sau:
- Trương Văn Bân, Bàn về cải cách toàn diện doanh nghiệp nhà nước,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996;
- Đoàn Văn Hạnh: Công ty cổ phần và chuyển doanh nghiệp nhà nước
thành công ty cổ phần, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1998;
- Nguyễn Thị Thu Vân, Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật công ty
ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998;
- Hoàng Kim Huyền, Một số giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong công nghiệp Việt Nam, Luận án tiến
sĩ kinh tế, 2003;
- PGS, TS Lê Hồng Hạnh, Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004;
- Lê Văn Tâm (Chủ biên), Cổ phần hóa và quản lý doanh nghiệp nhà
nước sau cổ phần hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004...
Tất cả các công trình nghiên cứu kể trên mới chỉ nghiên cứu việc cổ
phần hóa một doanh nghiệp nhà nước đơn lẻ độc lập, doanh nghiệp nhà nước
trực thuộc tổng công ty hoặc cổ phần hóa một bộ phận trực thuộc doanh
nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, chưa có bất kỳ công trình nào nghiên cứu đầy đủ
và toàn diện về đề tài "Hoàn thiện khung pháp luật về cổ phần hóa tổng
công ty nhà nước ở Việt Nam" nói trên.
Khác với cổ phần hóa một doanh nghiệp thông thường, cổ phần hóa
tổng công ty nhà nước có tính chất phức tạp hơn nhiều. Bởi vì, tổng công ty
nhà nước ở Việt Nam là một tổ hợp nhiều doanh nghiệp hạch toán độc lập, có
hình thức pháp lý khác nhau. Nhiều vấn đề rất mới mẻ như nhận diện tổng
công nhà nước được cổ phần hóa, phương thức cổ phần hóa, quy trình cổ

phần hóa, xác định giá trị doanh nghiệp của tổng công ty, mô hình tổ chức,

3


quản lý và điều hành doanh nghiệp sau cổ phần hóa… chưa được nghiên cứu
cụ thể. Đây là cơ hội thuận tiện để tác giả, xuất phát từ thực tiễn công tác của
mình, mạnh dạn đề xuất những ý tưởng nhưng cũng đồng thời là một khó
khăn cho tác giả trong quá trình nghiên cứu vì không được kế thừa kết quả
nghiên cứu của những người đi trước nên luận văn khó tránh khỏi những thiếu
sót.
3. Mục đích của đề tài và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn về việc hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa tổng công ty nhà
nước ở Việt Nam. Do cổ phần hóa tổng công ty nhà nước là một vấn đề mới
và hiện nay mới chỉ có ba tổng công ty 90 và một tổng công ty nhà nước loại
đặc biệt (Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam) được Thủ tướng Chính phủ cho
phép thí điểm cổ phần hóa, nên phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn
ở việc nghiên cứu thực tiễn thí điểm cổ phần hóa Tổng công ty VINACONEX
(một trong ba tổng công ty 90 được thí điểm cổ phần hóa và là tổng công ty
hội tụ đầy đủ nhất những điều kiện chín muồi cho việc cổ phần hóa tổng công
ty nhà nước). Đây cũng là nơi tác giả đang công tác và do vậy sẽ thuận lợi cho
tác giả trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn của mình.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ nghiên cứu
sau:
- Làm rõ khái niệm và các đặc điểm của cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước;
- Thực trạng các chính sách và pháp luật về cổ phần hóa tổng công ty
nhà nước;
- Thực trạng triển khai thí điểm cổ phần hóa Tổng công ty VINACONEX

và những khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai thí điểm cổ phần hóa
(một trong ba tổng công ty được thí điểm cổ phần hóa);
- Kinh nghiệm cải cách doanh nghiệp nhà nước trong đó có các doanh
nghiệp nhà nước quy mô lớn ở một số nước trên thế giới.

4


- Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa tổng
công ty nhà nước ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở bám sát những chủ trương, đường
lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về đổi mới và phát triển doanh
nghiệp nhà nước trong đó có các doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn trong
nền kinh tế thị trường của Việt Nam.
Luận văn vận dụng phương pháp luận, các quy luật và phạm trù của
triết học Mác - Lênin trong quá trình nghiên cứu mà hạt nhân là phép duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, các phương pháp phân tích, so sánh,
tổng hợp cũng được vận dụng kết hợp giải quyết những vấn đề mà đề tài tiếp
cận nghiên cứu.
5. Những đóng góp của luận văn
Luận văn được triển khai trên cơ sở đúc rút những kinh nghiệm từ
việc thí điểm triển khai cổ phần hóa Tổng công ty VINACONEX. Vì vậy,
trong luận văn sẽ thể hiện những ý tưởng trong quá trình thực hiện cổ phần
hóa tổng công ty nhà nước; những vấn đề đặt ra từ thực tiễn cổ phần hóa tổng
công ty nhà nước và những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa
tổng công ty nhà nước ở Việt Nam. Tác giả hy vọng rằng, những ý tưởng của
mình sẽ được xem xét và ứng dụng trong thực tế. Do những ý tưởng khoa học
trong luận văn xuất phát chính ngay trong quá trình hoạt động, công tác thực
tiễn của tác giả nên nó rất gần với tiếng nói của các tổng công ty thực hiện thí

điểm cổ phần hóa và điều này sẽ rất thuận lợi cho việc áp dụng tại các tổng
công ty nhà nước sẽ được cổ phần hóa tiếp trong tương lai.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm ba chương với kết cấu như sau:

5


Chương 1: Những vấn đề chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước và pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Chương 2: Thực trạng các chính sách và quy định của pháp luật về cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước và tổng công ty nhà nước.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa tổng công ty nhà nước
ở Việt Nam và một số kiến nghị

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC

1.1.1. Khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Hiện nay, kinh tế nhà nước đã trở thành một bộ phận quan trọng có tác
dụng thiết thực trong cơ cấu kinh tế của mỗi nước. Khu vực kinh tế nhà nước

giữ một vai trò như một công cụ kinh tế của nhà nước, vừa thực hiện chức
năng kinh tế, vừa thực hiện chức năng xã hội, góp phần thực hiện sự tăng
trưởng và ổn định kinh tế của mỗi nước. Do vậy, không một nước nào lại
không sử dụng các doanh nghiệp nhà nước ở những lĩnh vực quan trọng nhằm
thực hiện chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô, đặc biệt vì lợi ích xã hội. Tuy
nhiên, kinh tế nhà nước trong quá trình phát triển của nó đã bộc lộ nhiều hạn
chế, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
Việc đổi mới và phát triển các doanh nghiệp nhà nước để thích ứng
với các đòi hỏi của nền kinh tế thị trường là một yêu cầu đặt ra đối với tất cả
các nước đặc biệt là các nước đang phát triển. Một trong những giải pháp
quan trọng thúc đẩy chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước là cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước. Quá trình cổ phần hóa ở các nước này đã góp phần
khắc phục hạn chế và yếu kém trong hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp nhà nước, là một đòi hỏi khách quan nhằm để đáp ứng những yêu cầu
về cải cách, đổi mới khu vực kinh tế nhà nước cho phù hợp với các yêu cầu
phát triển của nền kinh tế.
Xét về bản chất kinh tế, cổ phần hóa là việc nhà nước hoặc giữ
nguyên vốn hiện có trong doanh nghiệp nhưng phát hành cổ phiếu để thu hút

7


thêm vốn, hoặc bán bớt một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong
doanh nghiệp cho các đối tượng là tổ chức hoặc cá nhân trong và ngoài nước
hoặc cho cán bộ quản lý và cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp bằng đấu
giá công khai hay thông qua thị trường chứng khoán.
Tại Việt Nam, Điều 3, Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của
Chính phủ đã quy định cụ thể các hình thức cổ phần hóa công ty nhà nước gồm
có:
- Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ

phiếu thu hút thêm vốn áp dụng đối với những doanh nghiệp cổ phần hóa có
nhu cầu tăng thêm vốn điều lệ.
- Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp
vừa bán bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút
vốn.
- Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa
bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn [23, tr. 2].
Xét về mặc cấu trúc sở hữu, cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi sở
hữu doanh nghiệp nhà nước, chuyển doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của
nhà nước thành doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu với mục đích bảo đảm sự
tồn tại và phát triển không ngừng của doanh nghiệp theo sự phát triển của
kinh tế - xã hội. Sự chuyển hóa này không phải chỉ là sự thay đổi về tên gọi mà
là sự thay đổi căn bản trên ba mặt:
Thứ nhất, chuyển hóa quyền sở hữu (từ đơn sở hữu sang đa sở hữu). Từ
đó dẫn đến việc thay đổi cả quyền quản lý điều hành doanh nghiệp, tạo nên sự
gắn kết chặt chẽ giữa ba quyền liên quan đến vốn và tài sản của doanh nghiệp.
Đây cũng là điều kiện thiết yếu để đảm bảo quyền làm chủ thực sự của những
người góp vốn và để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.

8


Thứ hai, thay đổi căn bản về tổ chức các quan hệ quản lý nội bộ. Với
cơ cấu tổ chức chặt chẽ gồm đại hội cổ đông, hội đồng quản trị, ban kiểm soát,
ban điều hành đã có sự phân công, phân cấp và giám sát lẫn nhau, công ty cổ
phần có khả năng bảo đảm hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, thay đổi căn bản về quan hệ quản lý giữa nhà nước và doanh
nghiệp. Từ chỗ doanh nghiệp nhà nước bị chi phối toàn diện bởi nhà nước
(nhà nước là chủ sở hữu 100% vốn điều lệ trước đây) sang quyền tự chủ kinh

doanh được mở rộng và tính chịu trách nhiệm được đề cao.
Điều 1, Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16//11/2004 của Chính phủ
đã nêu rõ mục tiêu, yêu cầu của việc chuyển công ty nhà nước thành công ty
cổ phần là:
1. Chuyển đổi công ty nhà nước mà nhà nước không cần
nắm giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở
hữu; huy động vốn của cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
trong và ngoài nước để tăng năng lực tài chính, đổi mới công nghệ,
đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế.
2. Đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp, nhà
đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp [23, tr. 1].
Xét về mặt pháp lý, cổ phần hóa là việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà
nước sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần. Cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước là quá trình thực hiện đa dạng hóa sở hữu, chuyển các doanh
nghiệp nhà nước thuộc sở hữu của nhà nước thành công ty cổ phần thuộc sở
hữu của các cổ đông thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia mua cổ phiếu.
1.1.2. Đặc điểm pháp lý của cổ phần hóa
Qua khái niệm trên, có thể thấy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
có những đặc điểm pháp lý sau:

9


Thứ nhất, cổ phần hóa là biện pháp chuyển doanh nghiệp từ sở hữu
nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần hay còn gọi là đa sở hữu.
Trước khi cổ phần hóa, toàn bộ vốn của doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà
nước. Hội đồng quản trị (đối với doanh nghiệp có hội đồng quản trị) hoặc
giám đốc (đối với doanh nghiệp không có hội đồng quản trị) là đại diện sở
hữu trực tiếp của nhà nước tại doanh nghiệp. Họ không phải là chủ sở hữu

thực sự mà chỉ là người được nhà nước giao quyền quản lý và khai thác tài
sản mà nhà nước đã đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh
và các mục tiêu kinh tế - xã hội mà nhà nước giao. Khi tiến hành cổ phần
hóa, nhà nước sẽ tiến hành xác định giá trị phần vốn nhà nước tại doanh
nghiệp, xác định số lượng cổ phiếu phát hành thông qua hình thức bán một
phần vốn nhà nước hoặc giữ nguyên phần vốn nhà nước và phát hành cổ
phiếu ra bên ngoài để thu hút vốn cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, doanh
nghiệp bán cổ phiếu của mình cho các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành
phần kinh tế. Những người mua cổ phiếu trở thành cổ đông của công ty cổ
phần, có quyền sở hữu chung đối với công ty, tương ứng với tỷ lệ phần vốn
góp trong vốn điều lệ, đồng thời phải chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ
của công ty tương ứng với phần vốn góp vào công ty. Các cổ đông góp vốn
sẽ thể hiện quyền và nghĩa vụ của mình thông qua đại hội cổ đông và được
giới thiệu đại diện tham gia ứng cử hội đồng quản trị của công ty cổ phần
nếu đủ điều kiện do điều lệ công ty quy định.
Hiện nay, theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, các tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, công dân Việt Nam đều có quyền mua cổ phần ở
các doanh nghiệp cổ phần hóa với số lượng không hạn chế; còn các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài hoạt động hợp pháp ở
Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua cổ phần của các
doanh nghiệp cổ phần hóa theo quy định của pháp luật Việt Nam [23, tr. 2].

10


Việc chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước từ hình thức sở hữu
đơn nhất sang hình thức đa sở hữu đã thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư
bên ngoài doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp thay đổi căn bản phương
thức quản lý điều hành doanh nghiệp, nâng cao tính cạnh tranh của doanh
nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đặc biệt làm tăng hiệu quả

hoạt động của doanh nghiệp vì lợi ích của các cổ đông công ty và sự phát
triển lâu dài, bền vững của công ty cổ phần.
Thứ hai, cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi hình thức hoạt động từ
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang công ty cổ phần. Điều đó có nghĩa là
một doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa sẽ không tồn tại dưới loại
hình doanh nghiệp nhà nước nữa mà chuyển sang loại hình công ty cổ phần.
Khác với doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà
nước trước cổ phần hóa, doanh nghiệp sau khi chuyển đổi hình thức hoạt
động sang công ty cổ phần thì địa vị pháp lý của doanh nghiệp đó được xác
định theo pháp luật về công ty cổ phần, được quy định trong Luật Doanh
nghiệp. Toàn bộ các vấn đề liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp từ địa
vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ, cơ chế quản lý đến việc thành lập, giải thể, phá
sản đều được điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật Doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước trước cổ phần hóa được
thực hiện theo cơ chế chủ quản có nghĩa là cơ chế cấp trên cấp dưới quan hệ
chủ yếu mang nặng cơ chế hành chính, thiếu sự bình đẳng về lợi ích. Các quy
định của Luật Doanh nghiệp nhà nước điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp
rất khắt khe, làm triệt tiêu quyền chủ động và sáng tạo của doanh nghiệp. Khi
chuyển sang công ty cổ phần hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, cơ quan cao
nhất của công ty là đại hội đồng cổ đông. Công ty được quản lý bởi hội đồng
quản trị do đại hội đồng cổ đông bầu ra và được điều hành bởi giám đốc (hoặc
tổng giám đốc) được hội đồng quản trị bổ nhiệm hoặc ký hợp đồng thuê. Các
quy định của Luật Doanh nghiệp về quản lý công ty cổ phần có tính chất mềm
dẻo, linh hoạt và tạo cơ chế cho công ty cổ phần được phát huy quyền chủ

11


động trong hoạt động của doanh nghiệp vì lợi ích của các công ty và của các
cổ đông công ty.

Thứ ba, quá trình cổ phần hóa được tiến hành thông qua hình thức nhà nước
bán một phần hay toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. Việc bán cổ
phần được áp dụng cho các đối tượng sau:
+ Bán cổ phần cho những người lao động trong doanh nghiệp: Khi
xây dựng phương án bán cổ phần, doanh nghiệp sẽ dành một số cổ phần để
bán cho những người quản lý và những người lao động theo giá ưu đãi tương
ứng với thời gian công tác của họ tại doanh nghiệp. Việc bán cổ phần cho
những người lao động với giá ưu đãi nhằm mục đích ghi nhận những đóng
góp của họ trong doanh nghiệp trong thời gian qua đồng thời thu hút sự tham
gia của họ vào công tác quản lý doanh nghiệp, nâng cao trách nhiệm và tinh
thần sáng tạo của họ trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Việc bán cổ
phần như vậy có ý nghĩa xã hội rất lớn và cũng là một trong những lý do để
thu hút người lao động tham gia mua cổ phần của doanh nghiệp.
+ Bán cổ phần cho một số nhà đầu tư chiến lược: Trong phương án
bán cổ phần, doanh nghiệp sẽ xác định một số lượng cổ phần phát hành cho
một số nhà đầu tư chiến lược. Các cổ đông chiến lược là những nhà đầu tư có
khả năng hỗ trợ doanh nghiệp về tài chính, nguồn nguyên liệu thiết yếu, thị
trường tiêu thụ sản phẩm..., góp phần quan trọng vào việc thực hiện chiến
lược phát triển lâu dài của doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Các nhà đầu tư
chiến lược được hưởng một mức giá ưu đãi hơn so với các nhà đầu tư thông
thường khác. Tuy nhiên, số lượng cổ phần bán cho các nhà đầu tư chiến lược
sẽ bị giới hạn ở một mức độ nhất định.
+ Bán cổ phần của doanh nghiệp ra công chúng: Nhà nước bán toàn
bộ hay một phần sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp cho công chúng,
thường được thực hiện thông qua một tổ chức tài chính trung gian hoặc sàn

12


giao dịch chứng khoán. Thông qua việc bán cổ phần ra công chúng, các nhà

đầu tư các cá nhân và tổ chức có thể mua được cổ phần của doanh nghiệp nhà
nước cổ phần hóa. Để thu hút được công chúng tham gia mua cổ phần phát
hành của doanh nghiệp, đòi hỏi doanh nghiệp có phương án sản xuất kinh
doanh hiệu quả, có tỷ lệ sinh lợi cao đồng thời có các biện pháp bảo vệ quyền
lợi của các cổ đông tham gia mua cổ phần đặc biệt là các cổ đông thiểu số.
Thông qua việc bán cổ phần của doanh nghiệp ra công chúng, doanh
nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa có thể thu hút sự tham gia mua cổ phần
của những người có trình độ và kinh nghiệm về kỹ thuật, tài chính, quản lý và
thương mại. Họ là những người quản lý giỏi, có tinh thần trách nhiệm cao và
hoạt động thực sự vì lợi ích của doanh nghiệp.
Cổ phần hóa thực sự là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước,
một giải pháp quan trọng để đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước,
hình thành các doanh nghiệp có tính cạnh tranh cao không chỉ tại thị trường
Việt Nam mà còn tại thị trường nước ngoài. Cho đến nay, việc cổ phần hóa
chỉ được thực hiện và áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước đơn lẻ hoặc bộ
phận doanh nghiệp nhà nước với quy mô nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp, cơ cấu
tổ chức đơn giản, giá trị phần vốn nhà nước thấp và số lượng lao động ít. Tuy
nhiên, cổ phần hóa đối với các tổng công ty nhà nước lớn là một vấn đề hoàn
toàn mới mẻ.
Tính phức tạp của cổ phần hóa tổng công ty nhà nước thể hiện ở chỗ
tổng công ty nhà nước có quy mô lớn, thậm chí rất lớn; phạm vi và lĩnh vực
hoạt động rộng, đa dạng không chỉ ở Việt Nam mà cả ở nước ngoài; cơ cấu tổ
chức phức tạp bao gồm hàng chục, thậm chí hàng trăm doanh nghiệp với các
loại hình khác nhau như doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh; giá trị phần vốn nhà nước tại tổng
công ty nhà nước cũng rất lớn; đông lao động... Nhiều vấn đề như phương
thức cổ phần hóa tổng công ty nhà nước, xác định giá trị doanh nghiệp của

13



tổng công ty với tư cách là tổng hợp của nhiều doanh nghiệp, xác định giá trị
thương hiệu chung của tổng công ty và các đơn vị thành viên... là những vấn
đề cần làm rõ và có cách hiểu thống nhất, tạo điều kiện cho việc triển khai cổ
phần hóa thành công tổng công ty nhà nước. Do đó, việc lựa chọn một số tổng
công ty nhà nước để thí điểm cổ phần hóa sẽ làm tiền đề cho việc đúc rút kinh
nghiệm và triển khai cổ phần hóa các tổng công ty tiếp theo nếu việc thí điểm
này thành công.
1.2. THÍ ĐIỂM CỔ PHẦN HÓA MỘT SỐ TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM

1.2.1. Sự cần thiết phải cổ phần hóa tổng công ty nhà nước
Các tổng công ty nhà nước được thành lập chủ yếu dựa vào việc tập
hợp mang tính chất thu gom các doanh nghiệp nhà nước có quan hệ ngang
theo quyết định hành chính nhằm làm giảm đầu mối quản lý. Do đó, tổng
công ty chưa thực sự thành một thể thống nhất, phát huy được sức mạnh tổng
thể của toàn tổng công ty; chưa đạt được mục tiêu khắc phục sự rời rạc, tạo sự
liên kết giữa các đơn vị thành viên gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công
nghệ, thị trường, chiến lược kinh doanh...; trong nội bộ cơ quan quản lý và
điều hành tổng công ty còn nhiều vấn đề chưa hợp lý, cản trở quá trình phát
triển kinh doanh của tổng công ty.
Đồng thời, các cơ chế, chính sách đầu tư, tài chính đối với tổng công
ty, doanh nghiệp thành viên cũng chưa tạo điều kiện để tổng công ty phát
triển thành tập đoàn kinh tế mạnh nhằm tăng cường khả năng kinh doanh của
các đơn vị thành viên. Vì vậy, cho đến nay chúng ta chưa có các tập đoàn
kinh tế mạnh. Tổng công ty chưa có được những đặc trưng của một doanh
nghiệp có khả năng và tạo điều kiện để phát triển các đơn vị thành viên, bảo
đảm các đơn vị này độc lập tương đối trong mối liên hệ với tổng công ty và
tạo điều kiện phát triển chung tổng công ty. Ngoài ra, các quy định của pháp
luật về tổng công ty nhà nước còn thể hiện một số bất cập sau:


14


- Thứ nhất, không tách bạch rõ tư cách pháp nhân của tổng công ty và
của các doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập tương tự như tư cách pháp
nhân của công ty mẹ và công ty con dẫn đến tình trạng pháp nhân (doanh
nghiệp thành viên hạch toán độc lập) trong pháp nhân (tổng công ty) làm quan
hệ về vốn, tài sản, lợi ích trong nội bộ tổng công ty không rõ. Luật quy định
nhà nước giao vốn cho tổng công ty sau đó vốn được giao cho các đơn vị
thành viên nên dẫn đến tình trạng không rõ tính chất pháp lý của hành vi giao
vốn chỉ là uỷ quyền quản lý, sử dụng vốn cho doanh nghiệp thành viên còn
tổng công ty vẫn chịu trách nhiệm cuối cùng hay vốn sau khi giao thuộc về
pháp nhân doanh nghiệp thành viên và tổng công ty có quyền và nghĩa vụ như
cổ đông nắm toàn bộ vốn điều lệ của doanh nghiệp. Hơn nữa, do vốn, tài sản
của tổng công ty đã nằm ở doanh nghiệp thành viên trước khi thành lập tổng
công ty nên thực chất tổng công ty giao cái mà tổng công ty không có và sau
khi giao vốn thì tổng công ty không còn gì để quản lý. Đồng thời, pháp luật
cũng chưa phân định rõ quyền, lợi ích giữa tổng công ty và doanh nghiệp
thành viên. Do đó, quan hệ pháp lý khi xẩy ra tranh chấp, hợp đồng kinh tế
giữa một doanh nghiệp thành viên với các đơn vị khác, đặc biệt với các doanh
nghiệp nước ngoài không rõ ràng, dẫn đến tình trạng tổng công ty phải liên
đới chịu trách nhiệm.
- Thứ hai, cơ chế quản lý trong tổng công ty còn có nhiều bất cập
như: việc giao kế hoạch nhiều khi chỉ mang tính hình thức vì tổng công ty
không có thực lực và chế tài; tổng công ty quản lý các doanh nghiệp thành
viên như một cấp hành chính biểu hiện thông qua việc chỉ đạo, quản lý, hướng
dẫn, theo dõi các doanh nghiệp thành viên, quản lý nhà nước về ngành kinh tế kỹ
thuật (xây dựng chiến lược, quy hoạch ngành; ban hành định mức kinh tế kỹ
thật, đơn giá).

Như vậy, cơ chế điều chỉnh quan hệ giữa tổng công ty và doanh
nghiệp thành viên là theo kiểu hành chính mà không dựa trên cơ sở quan hệ
vốn, đầu tư, hợp đồng kinh tế hoặc các quan hệ bình đẳng diễn ra giữa các

15


pháp nhân nên trong hoạt động chưa có sự thống nhất về quyền và lợi ích giữa
tổng công ty và doanh nghiệp thành viên, gây khó khăn cho việc điều hành
các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty.
- Thứ ba, theo quy định, các doanh nghiệp có quyền gia nhập tổng
công ty do yêu cầu khách quan về phát triển kinh tế; tuy nhiên thực tế áp dụng
pháp luật cho thấy quyền quyết định tham gia hay không tham gia vào tổng
công ty là quyền của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại tổng công
ty. Như vậy, việc không thực hiện quy định này và không có cơ chế liên kết
nêu trên đây làm cho mô hình tổng công ty khó phát huy được tác dụng.
- Thứ tư, quan hệ pháp lý giữa tổng công ty và các cơ quan quản lý
nhà nước mang các đặc điểm quan hệ của pháp nhân doanh nghiệp nhà nước
với đại diện sở hữu, đồng thời lại có các đặc điểm không phải của pháp nhân
kinh tế, đặc biệt là đối với tổng công ty 91. Các tổng công ty 91 vừa được coi
là các đơn vị sản xuất - kinh doanh, đồng thời lại có thể coi là một cấp hành
chính (đơn vị hành chính ngang Bộ trong tiếp nhận, xử lý các văn bản pháp
quy).
- Thứ năm, tổng công ty do hội đồng quản trị quản lý. Về hình thức,
hội đồng quản trị là cơ quan có quyền hạn cao nhất trong tổng công ty, thực
hiện quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong
thực tế ở nhiều tổng công ty vai trò của hội đồng quản trị trong đó có chủ tịch
hội đồng quản trị rất mờ nhạt. Lý do chính là do các thành viên hội đồng quản
trị thực hiện quyền của mình rất hạn chế. Do không phải là chủ thực sự của
doanh nghiệp nên họ tham gia hội đồng quản trị chỉ là hình thức. Nhiều vấn

đề quan trọng của doanh nghiệp thuộc thẩm quyền hội đồng quản trị nhưng
thực chất đã được quyết định từ trước. Thậm chí, nghị quyết hay quyết định
của hội đồng quản trị chỉ là hợp pháp hóa các vấn đề đã được thực hiện từ
trước. Vì vậy, hội đồng quản trị đã không thực hiện tốt chức năng đại diện sở
hữu nhà nước tại tổng công ty [6, tr. 13].

16


Trong thực tế ở một số tổng công ty, Hội đồng quản trị thậm chí còn
bị vô hiệu hóa. Ngoài ra còn phải kể đến việc mâu thuẫn triền miên giữa chủ
tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc trong một số tổng công ty đã làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của doanh nghiệp như đã xảy ra tại Tổng
công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng công ty Thủy sản Việt Nam.
Như vậy, việc tổ chức thực hiện mô hình tổng công ty trong hơn 10
năm qua chưa đạt được kết quả như mong đợi, đồng thời mô hình tổng công
ty còn có nhiều ý kiến khác nhau, chủ yếu là do chưa xác định được rõ tư
cách pháp lý, quan hệ về tài sản, vốn, quyền lợi, nghĩa vụ giữa tổng công ty
và doanh nghiệp thành viên. Tổ chức quản lý tổng công ty theo mô hình hội
đồng quản trị và tổng giám đốc chưa phù hợp.
Do những bất cập và hạn chế của các quy định của pháp luật về tổng
công ty nhà nước nên trong thời gian qua, tổng công ty nhà nước đã bộc lộ
nhiều hạn chế, yếu kém và không thể hiện được vai trò đầu tàu của kinh tế
nhà nước, thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội mà nhà nước giao. Để có thể
đổi mới và phát triển các tổng công ty nhà nước thì việc nghiên cứu và áp
dụng các mô hình mới cho tổng công ty đóng vai trò rất quan trọng. Các mô
hình đã được áp dụng như chuyển một số tổng công ty nhà nước có quy mô
rất lớn sang mô hình tập đoàn, chuyển đổi tổng công ty nhà nước sang hoạt
động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Để thúc đẩy hơn nữa quá trình
đổi mới các tổng công ty nhà nước, Chính phủ đã cho phép thí điểm cổ phần

hóa ba tổng công ty nhà nước và tiến tới cổ phần hóa tiếp các tổng công ty
khác nếu thu được kết quả khả quan từ quá trình thực hiện thí điểm này.
1.2.2. Thí điểm cổ phần hóa một số tổng công ty nhà nước
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
ngày 24/9/2001 về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về một số chủ trương, chính sách,

17


giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng ngày 3/2/2000 đã đưa ra một bước đột phá trong chính
sách đổi mới và cải cách doanh nghiệp nhà nước, đó là tiến hành cổ phần hóa
kể cả một số tổng công ty nhà nước lớn hoạt động trong các ngành như điện lực,
luyện kim, cơ khí, hóa chất, phân bón, xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ,
đường sông, hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm [32].
Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đã đặt ra theo phương án tổng thể
sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, tại Quyết định số 84/2004/QĐ-TTg ngày
13/5/2004, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thực hiện thí điểm cổ phần
hóa một số tổng công ty nhà nước lớn trong năm 2004. Theo quyết định này,
ba tổng công ty lớn đầu tiên trong các ngành xây dựng, giao thông vận tải,
công nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép thí điểm cổ phần hóa
gồm: Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam (Bộ Xây dựng), Tổng
công ty Thương mại - Xây dựng (Bộ Giao thông Vận tải); Tổng công ty Điện
tử - Tin học (Bộ Công nghiệp) [21, tr. 1].
Các tiêu chí của các tổng công ty được lựa chọn tiến hành thí điểm cổ
phần hóa bao gồm:
- Hoạt động kinh doanh có hiệu quả;
- Có tình hình tài chính lành mạnh;

- Có nhiều đơn vị thành viên đã được chuyển đổi sang hoạt động theo
Luật Doanh nghiệp;
- Đã khẳng định được thương hiệu trên thị trường.
Khác với việc cổ phần hóa một doanh nghiệp nhà nước thông thường,
cổ phần hóa tổng công ty nhà nước là một vấn đề hoàn toàn mới mẻ và chưa
có văn bản pháp luật điều chỉnh cụ thể. Nhiều vấn đề như phương thức thực
hiện cổ phần hóa, xác định giá trị doanh nghiệp, tên gọi, mô hình tổ chức và
hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa... là những vấn đề rất mới mẻ

18


cần có sự đúc rút kinh nghiệm từ việc thực hiện thí điểm cổ phần hóa các tổng
công ty nêu trên.
Trên cơ sở thành công của thí điểm cổ phần hóa ba tổng công ty nêu
trên, Chính phủ sẽ xem xét tiếp tục cổ phần hóa các tổng công ty nhà nước
khác hội tụ đầy đủ các điều kiện cho việc cổ phần hóa. Việc cổ phần hóa các
tổng công ty nhà nước sẽ góp phần tạo ra một động lực mới cho sự phát triển
của các doanh nghiệp, thúc đẩy sự ra đời các doanh nghiệp quy mô lớn, tiềm
lực tài chính mạnh, cơ chế hoạt động năng động và hiệu quả đủ sức cạnh
tranh với các doanh nghiệp nước ngoài không chỉ tại thị trường Việt Nam mà
cả thị trường nước ngoài.

19


Chương 2
THỰC TRẠNG CÁC CHÍNH SÁCH VÀ QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
VÀ TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC


2.1. THỰC TRẠNG CÁC CHÍNH SÁCH VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM

Tại Việt Nam, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được triển khai
thực hiện trong suốt 15 năm qua. Phù hợp với yêu cầu đổi mới và phát triển kinh
tế của từng thời kỳ, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước về cổ phần
hóa cũng khác nhau. Qua nghiên cứu các chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước về cổ phần hóa trong thời gian qua, có thể khái quát và đánh giá xu
hướng phát triển của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam theo các
nội dung sau:
2.1.1. Cổ phần hóa được thực hiện từ thí điểm đến xây dựng
thành một chính sách lớn của Đảng trong việc đổi mới và phát triển
doanh nghiệp nhà nước
Chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam đã được
đề cập từ năm 1987. Tuy nhiên, chủ trương này có thể coi là sớm so với điều
kiện thực tế lúc đó khi mà khu vực kinh tế quốc doanh vẫn chưa bộc lộ rõ
những yếu kém một cách đầy đủ, đồng thời những hiểu biết của chúng ta về
kinh tế thị trường, về cổ phần hóa vẫn còn nhiều hạn chế. Do vậy, trong thời
gian này, vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chưa được xem xét và
đánh giá một cách đầy đủ.
Đến năm 1990, Chính phủ có Quyết định số 143/HĐBT ngày
10/05/1990 về làm thí điểm một số doanh nghiệp nhà nước cùng với việc sắp
xếp lại khu vực kinh tế quốc doanh. Nhưng việc thí điểm cổ phần hóa trong

20


thời gian này cũng không đạt được kết quả nào. Nguyên nhân chính cản trở
việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian này là do:

- Trong một số lãnh đạo các cấp vẫn còn tồn tại quan điểm cho rằng
Chủ nghĩa xã hội là phải gắn với "quốc doanh", "quốc lập". Vì thế chưa thông
suốt với chủ trương cổ phần hóa, sinh ra chần chừ, do dự, thiếu quyết tâm.
- Lãnh đạo và công nhân một số doanh nghiệp nhà nước còn mang
nặng lối sống bao cấp, ỷ lại, muốn bám vào nhà nước đến cùng để khỏi vất
vả, để cho an toàn sản xuất kinh doanh theo lối "lời ăn, lỗ không chịu", còn tài
sản của nhà nước thì còn đục khoét; lãng phí, thất thoát, mất tài sản của nhà
nước thì chỉ là khuyết điểm chung, rút kinh nghiệm.
- Do quyết tâm của lãnh đạo các cấp chưa cao, nhận thức về cổ phần
hóa còn hết sức hạn hẹp, các cơ quan chức năng hướng dẫn chưa kịp thời,
việc tuyên truyền về cổ phần hóa chưa sâu rộng.
Đến năm 1991, chủ trương cổ phần hóa mới thực sự được quan tâm và
lần đầu tiên chủ trương này mới được đề cập đến trong Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (11/1991) đã nêu rõ "Chuyển
một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành
lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt
chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp". Tiếp
theo đó, Nghị quyết của kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII ngày 26/12/1991
về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (1991-1995) cũng nhấn mạnh:
"Cần thí điểm cổ phần hóa một số cơ sở kinh tế quốc doanh để rút kinh
nghiệm và có thêm nguồn vốn phát triển" [29].
Có thể phân chia các văn bản pháp quy liên quan đến tiến trình cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam theo các giai đoạn với các cơ
chế đặc thù và kết quả khác nhau như sau:

21


- Giai đoạn thí điểm cổ phần hóa (từ tháng 6/1992 đến tháng 5/1996):
Để thí điểm việc cổ phần hóa, ngày 8/6/1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng

(nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 202/HĐBT về tiếp tục thí điểm
chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Tiếp theo đó là
Quyết định số 203/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chọn
7 doanh nghiệp nhà nước làm thí điểm và ủy quyền cho Bộ trưởng Bộ Tài
chính xem xét và quyết định về danh sách các doanh nghiệp nhà nước khác
được phép làm thí điểm cổ phần hóa của các Bộ và Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị. Các bộ, ngành đã ban hành một số
văn bản liên quan để thực hiện cổ phần hóa như Thông tư 09/LĐTBXH ngày
22/7/1992 hướng dẫn về chính sách đối với người lao động trong doanh
nghiệp nhà nước, Thông tư 36 ngày 7/5/1993 hướng dẫn về tài chính khi cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Sau đó, ngày 4/3/1993 Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 84/TTg về
việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và các
giải pháp đa dạng hóa hình thức sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước.
- Giai đoạn mở rộng cổ phần hóa (từ tháng 5/1996 đến tháng
5/1998): Trên cơ sở đánh giá tình hình triển khai cổ phần hóa và kết quả bước
đầu của các công ty cổ phần, ngày 4/4/1997, Bộ Chính trị đã có Thông báo số
63/TB-TW về triển khai tích cực, vững chắc việc cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản của nhà nước ngày càng một
tăng lên. Tư tưởng cơ bản của Nghị quyết là cổ phần hóa phải xuất phát từ
yêu cầu phát triển doanh nghiệp nhà nước, phải làm cho tiềm lực kinh tế của
nhà nước tăng lên. Phải xây dựng chính sách khuyến khích cán bộ và công
nhân trong doanh nghiệp mua cổ phần và có chính sách hỗ trợ cho công nhân
nghèo mua cổ phần. Cần xây dựng phương án phân loại doanh nghiệp nhà
nước làm cơ sở áp dụng các hình thức đa dạng hóa các hình thức cổ phần hóa
và tùy điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp mà xác định hình thức cổ phần
hóa phù hợp.

22



Tại Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII tháng
12/1997, Nghị quyết của Đảng nhấn mạnh thêm về đẩy mạnh, đổi mới và
quản lý có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp, tiếp tục đổi mới và phát triển
khu vực doanh nghiệp nhà nước. Nghị quyết chỉ rõ: "Đối với doanh nghiệp
mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn, cần lập kế hoạch cổ phần hóa để
tạo động lực phát triển, thúc đẩy làm ăn có hiệu quả". Nghị quyết đã đề ra định
hướng bán cổ phần cho người nước ngoài, khuyến khích nông dân sản xuất
nguyên liệu, tham gia mua cổ phần ở các doanh nghiệp chế biến nông sản [30,
tr. 4].
Sau ba năm thực hiện Chỉ thị 84/TTg, lần đầu tiên văn bản pháp luật
của nhà nước về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được nâng lên ở hành
lang pháp lý cao hơn; ngày 7/5/1996, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
28/CP về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, lần
đầu tiên quy định một cách hệ thống từ mục đích, yêu cầu, đối tượng đến
phương thức tiến hành, chế độ đối với doanh nghiệp và người lao động trong
doanh nghiệp cổ phần hóa. Vì vậy tốc độ cổ phần hóa đã nhanh hơn.
Trong 2 năm đã cổ phần hóa được 25 doanh nghiệp, bằng 5 lần giai
đoạn thí điểm. Diện cổ phần hóa cũng rộng hơn: 3 Bộ và 9 tỉnh, thành phố có
doanh nghiệp cổ phần hóa. Quy mô doanh nghiệp cũng lớn hơn, có doanh
nghiệp vốn trên 120 tỷ đồng, 5 doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng.
- Giai đoạn đẩy mạnh cổ phần hóa (từ tháng 6/1998 đến nay): Chính
phủ đã ban hành Nghị định 44/ CP ngày 29/6/1998 về chuyển doanh nghiệp
nhà nước thành công ty cổ phần thay thế cho Nghị định 28/CP trước đây,
cùng với các văn bản hướng dẫn Nghị định 28/CP. Nghị định này đã xác định
rõ và giảm thiểu danh mục ngành nghề nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, nhà
nước nắm giữ cổ phần đặc biệt, cổ phần chi phối, không hạn chế quy mô
doanh nghiệp. Do đó, chỉ trong 6 tháng, đến 31/12/1998 cả nước đã có 86
doanh nghiệp được cổ phần hóa, bằng 3 lần giai đoạn trước đây.


23


Đặc biệt từ khi có Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
và Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa VIII thì
chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được khẳng định rõ. Tuy
nhiên, trong quá trình áp dụng, Nghị định 28/CP đã bộc lộ nhiều thiếu sót,
chưa khuyến khích được các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa. Chính vì
vậy, sau hai năm thực hiện cổ phần hóa theo Nghị định 28/CP, ngày 29/6/1998,
Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/CP về chuyển doanh nghiệp nhà nước
thành công ty cổ phần thay thế Nghị định 28/CP. Nghị định này đã có nhiều
điểm mới so với Nghị định trước đây đặc biệt là vấn đề mua cổ phần và chính
sách đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa làm cho số
lượng doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần ngày càng nhiều,
góp phần mạnh mẽ vào việc đổi mới và cải cách khu vực quốc doanh.
Từ đầu năm 1999 đến nay, quá trình cổ phần hóa được đẩy nhanh hơn
các năm trước. Trong giai đoạn này Chính phủ đã ban hành một số văn bản
nhằm thúc đẩy hơn nữa quá trình cổ phần hóa như Quyết định 145/TTg ngày
28/6/1999 về ban hành quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương (khóa IX)
tháng 8/2001 về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp nhà nước đã nhấn mạnh: "Đẩy mạnh cổ phần hóa những
doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn, xem đó là khâu
quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước" [32].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương (khóa IX)
về một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, tháng 2/2002 đã chỉ
rõ:
Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa và mở rộng diện các doanh

nghiệp nhà nước cần cổ phần hóa, kể cả một số tổng công ty và

24


doanh nghiệp lớn. Giá trị tài sản doanh nghiệp nhà nước thực hiện
cổ phần hóa, trong đó có giá trị quyền sử dụng đất, về nguyên tắc
phải do thị trường quyết định. Việc mua bán cổ phiếu phải công
khai trên thị trường, khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín
trong nội bộ doanh nghiệp [32].
Trên cơ sở đánh giá 3 năm thực hiện sắp xếp, đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; ngày 22/10/2004,
Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị 45-CT/TW về đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trong hai năm 2004-2005.
Chỉ thị đã yêu cầu các cấp, các ngành nhất là các doanh nghiệp nhà nước phải
xác định việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước là một nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong năm 2005
và những năm tiếp theo. Phải đẩy nhanh tiến độ và mở rộng hơn diện doanh
nghiệp cổ phần hóa, kể cả một số tổng công ty lớn trong một số ngành quan
trọng. Đồng thời, Chỉ thị đã đưa ra những định hướng về cơ chế chính sách
trong quá trình cổ phần hóa, như: việc tiến hành cổ phần hóa trên cơ sở
phương án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, để xác định rõ nhu cầu vốn
đầu tư, số cổ phần để lại bán cho người lao động trong doanh nghiệp và số cổ
phần bán ra ngoài; việc bán cổ phiếu phải công khai trong doanh nghiệp cũng
như trên thị trường, kiên quyết không cổ phần hóa khép kín trong nội bộ
doanh nghiệp; khẩn trương thực hiện chủ trương thí điểm các doanh nghiệp
đầu tư kinh doanh tài chính của nhà nước để thực hiện hiệu quả chức năng đại
diện chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp.
Sau 4 năm thực hiện, Nghị định 44/1998/NĐ-CP đã được thay thế bằng
Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002. Sau gần 3 năm thực hiện, Chính

phủ đã ban hành Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về chuyển
doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần thay thế cho Nghị định
64/2002/NĐ-CP.

25


×