Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ LUẬT học CHẾ độ THI HÀNH HÌNH PHẠT tử HÌNH TRONG LUẬT tố TỤNG HÌNH sự VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.38 KB, 104 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đất nước ta
chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại với nhiều nước trên thế giới. Sự vận hành của nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang đem lại sự chuyển
biến tích cực trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, được bạn bè
quốc tế đánh giá cao.
Bên cạnh những mặt tích cực đã nêu ở trên, nền kinh tế thị trường
cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó tình hình tội phạm diễn
biến phức tạp. Các vụ án giết người, cướp tài sản, hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em,
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tham nhũng, buôn lậu, các tội phạm về ma túy...
xảy ra nhiều, với tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng. Tình hình trên
không những xâm hại tính mạng, sức khỏe của người dân, lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, tổ chức, làm thiệt hại đến nền kinh tế đất nước, mà còn thực sự
đe dọa phá vỡ chính sách kinh tế - xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân đối
với sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, gây ra những hậu
quả nặng nề về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Thậm chí tình hình tội
phạm còn tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tình báo nước ngoài lợi
dụng tiến hành các hoạt động mua chuộc, thu thập tình báo, phá hoại sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trước tình hình trên, các cơ quan bảo vệ pháp luật đã áp dụng các
biện pháp có hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, xử lý kịp thời,
nghiêm minh mọi hành vi phạm tội và người phạm tội. Tòa án các cấp đã xử
phạt tử hình nhiều người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, có tác dụng răn đe,
phòng ngừa tội phạm, phục vụ yêu cầu chính trị chung. Việc thi hành hình

1



phạt tử hình đã được các cơ quan chức năng tiến hành theo đúng quy định của
pháp luật, được dư luận nhân dân đồng tình, đồng thời có tác dụng đề cao sự
cần thiết phải áp dụng hình phạt này trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành hình phạt tử hình cũng đã đặt ra nhiều
vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học luật tố tụng hình sự phải nghiên cứu giải
quyết như khái niệm thi hành hình phạt tử hình, các hình thức thi hành hình
phạt tử hình, việc người bị kết án tử hình xin hiến xác cho khoa học, gia đình
người bị kết án xin xác về mai táng theo phong tục, tập quán, sự phân công
trách nhiệm giữa các cơ quan chức năng với chính quyền địa phương nơi có
pháp trường trong việc quản lý khu vực chôn cất người bị thi hành hình phạt
tử hình... Trong khi đó, xét về mặt lý luận, chế định thi hành hình phạt tử hình
chưa được quan tâm nghiên cứu một cách thỏa đáng, và xung quanh chế định
này, còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Chế định thi hành hình phạt tử hình
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam", mang tính cấp thiết, không những về
lý luận, mà còn là đòi hỏi thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả thi hành hình
phạt tử hình ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Thi hành hình phạt tử hình là vấn đề quan trọng và nhạy cảm, đã được
một số nhà luật học ở trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. TS. Giang
Sơn - Văn phòng Chủ tịch nước đã có công trình "Một số vấn đề về thi hành
án tử hình" (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9 năm 1996); Tòa án nhân dân
tối cao có công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ: "Áp dụng và thi hành hình
phạt tử hình - những vấn đề lý luận và thực tiễn" (Tòa án nhân dân tối cao, Hà
Nội, 2002); ThS. Vũ Trọng Hách - Học viện Hành chính Quốc gia có công
trình: "Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về thi hành án hình sự ở nước ta hiện
nay" (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5 năm 2002);…

2



Các công trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau về thi
hành hình phạt tử hình, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện và có hệ thống về chế định hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình
sự, cũng như thực tiễn thi hành hình phạt tử hình ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận
văn
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách toàn diện, có hệ thống
những vấn đề lý luận về thi hành hình phạt tử hình, phân tích, đánh giá đúng
thực trạng những quy định về thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng
hình sự hiện hành, thực tiễn thi hành hình phạt tử hình, xác định những vướng
mắc trong thực tiễn thi hành hình phạt tử hình, để trên cơ sở đó, đề xuất hệ
thống các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ khái niệm thi hành hình phạt tử hình, các hình thức thi
hành hình phạt tử hình.
- Phân tích, làm rõ sự hình thành và phát triển các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình ở Việt Nam.
- Nghiên cứu, làm rõ các quy định của pháp luật về thi hành hình phạt
tử hình của một số nước trên thế giới.
- Làm sáng tỏ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành và
thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình
phạt tử hình ở nước ta.

3



- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về thi
hành hình phạt tử hình, các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành
về thi hành hình phạt tử hình và thực tiễn thi hành hình phạt này ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu đề tài này dưới góc độ luật tố tụng hình sự.
Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng những quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình từ năm 1993 đến
năm 2002.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân,
về chính sách đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, về thi hành hình
phạt tử hình nói riêng.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quán triệt các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Cơ sở thực tiễn của luận văn là các báo cáo chuyên đề thi hành hình
phạt tử hình của cơ quan Công an, các báo cáo tổng kết, số liệu của Tòa án
nhân dân tối cao về thi hành hình phạt tử hình.
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các
phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, lôgíc, thống kê, so sánh
pháp luật, xã hội học để hoàn thành các nhiệm vụ mà tác giả luận văn đã đặt
ra.

4



5. Những đóng góp mới của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt
Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ
thống về chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự Việt
Nam, trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình ở Việt Nam. Có thể xem
những nội dung sau đây là những đóng góp mới của luận văn:
1. Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thi hành hình phạt tử hình.
2. Phân tích làm rõ thực trạng những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự hiện hành về thi hành hình phạt tử hình và thực tiễn áp dụng ở nước
ta.
3. Nghiên cứu, so sánh những quy định của pháp luật tố tụng hình sự
của Việt Nam về thi hành hình phạt tử hình với những quy định tương ứng
trong pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới để rút ra những
giá trị hợp lý về hoạt động lập pháp tố tụng hình sự.
4. Đề xuất phương hướng nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan
trọng đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, thi hành hình
phạt tử hình nói riêng. Thông qua kết quả nghiên cứu và các đề xuất, tác giả
mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển của kho tàng
lý luận luật tố tụng hình sự và tổng kết, nghiên cứu thực tiễn thi hành hình
phạt tử hình ở Việt Nam. Với việc đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
việc áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình
phạt tử hình, tác giả hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học cho việc
đổi mới tổ chức, bộ máy, bố trí cán bộ các cơ quan có trách nhiệm trong việc


5


thi hành hình phạt tử hình, góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta
hiện nay.
Vì vậy, luận văn này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật
tố tụng hình sự, khoa học kỹ thuật hình sự, tội phạm học nói riêng, cũng như
trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên ngành về thi hành hình phạt tử hình
thuộc các ngành Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 8 mục.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH

1.1. KHÁI NIỆM, CÁC HÌNH THỨC THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
VÀ Ý NGHĨA CỦA CHẾ ĐỊNH THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1.1. Khái niệm thi hành hình phạt tử hình
Để có thể đưa ra khái niệm thi hành hình phạt tử hình, trước hết cần
làm sáng tỏ khái niệm hình phạt tử hình.
Trong hệ thống hình phạt được quy định trong luật hình sự Việt Nam,
tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất, thể hiện mức độ trừng trị cao nhất của

Nhà nước đối với người phạm tội, bởi lẽ nó tước đi quyền sống của người bị
kết án, loại bỏ sự tồn tại của người phạm tội khỏi đời sống cộng đồng. Hiện
nay, trên thế giới, có hai loại quan điểm trái ngược nhau về hình phạt tử hình:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, để bảo đảm an ninh xã hội, công bằng
và công lý, cần thiết phải duy trì hình phạt tử hình đối với những tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng; đối với những kẻ khủng bố quốc tế, giết người hàng loạt,
thì không thể có biện pháp giáo dục nào có tác dụng, ngoài việc tước đi sự tồn
tại của chúng [48, tr. 54].
Quan điểm thứ hai cho rằng, cần phải bỏ hình phạt tử hình, vì sự sống
của con người là thiêng liêng nhất mà tạo hóa đã dành cho họ; việc áp dụng
hình phạt này là tàn khốc, vô nhân tính, không thể chấp nhận được trong xã
hội văn minh. Mặt khác, các cơ quan tố tụng có thể sai lầm khi áp dụng hình
phạt này và khi phát hiện ra sai lầm, thì lại không thể khắc phục được, bởi lẽ
người đã chết, thì không thể có biện pháp nào có thể khắc phục để họ sống trở
lại [48, tr. 54].

7


Thể hiện hai quan điểm trên, theo số liệu chính thức của Ủy ban về
quyền con người của Liên hợp quốc, hiện có 71 quốc gia vẫn duy trì hình phạt
tử hình, 15 quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình đối với các tội thông thường,
nhưng vẫn duy trì hình phạt tử hình đối với tội giết người; 77 quốc gia hoàn
toàn xóa bỏ hình phạt tử hình, 33 quốc gia tuy còn quy định hình phạt tử hình,
nhưng không thi hành hình phạt tử hình trên thực tế. Như vậy, 110 quốc gia
đã xóa bỏ hình phạt tử hình hoặc không thi hành hình phạt tử hình trên thực
tế, chỉ còn 86 quốc gia vẫn duy trì loại hình phạt này. Đáng chú ý, một số
quốc gia lớn và đông dân như Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa Ấn
Độ, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Vương quốc Nhật Bản, Cộng hòa Inđônêxia...
vẫn còn duy trì hình phạt này.

Việt Nam là quốc gia vẫn duy trì hình phạt tử hình. Cơ sở lý luận của
việc duy trì hình phạt này là: do tính chất đặc biệt nghiêm trọng của tội phạm
đã được thực hiện và những đặc điểm về nhân thân người phạm tội, Nhà nước
ta xét thấy không còn khả năng giáo dục, cải tạo họ. Vì vậy, hình phạt tử hình
không đặt ra mục đích giáo dục, cải tạo đối với người bị kết án. Việc tước bỏ
mạng sống của người bị kết án là nhằm loại bỏ hoàn toàn khả năng thực hiện
tội phạm ở họ, đồng thời răn đe mạnh mẽ những người không vững vàng, dễ
bước vào con đường phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội, góp phần nâng cao khí
thế đấu tranh phòng, chống tội phạm của người dân. Cơ sở thực tiễn của việc
duy trì hình phạt tử hình này là thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở
nước ta cho thấy, địa phương nào hữu khuynh, không áp dụng hình phạt
nghiêm khắc nhất đối với những kẻ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng với nhiều
tình tiết tăng nặng, thì ở đó tình hình tội phạm diễn biến phức tạp cả về tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và phong trào quần chúng tham gia đấu
tranh phòng, chống tội phạm không mạnh. Vì vậy, hình phạt tử hình cần được
áp dụng đối với những người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, gây ảnh hưởng
xấu đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bị dư luận kịch liệt lên án.

8


Do những đặc điểm tâm lý, thể chất của người chưa thành niên, phụ
nữ có thai và xuất phát từ quan điểm nhân đạo, luật hình sự Việt Nam quy
định không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm
tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm hình phạt tử hình như
sau: Tử hình là hình phạt đặc biệt, tước bỏ quyền sống của người bị kết án
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm thi hành án hình sự.
"Thi hành" theo Hán Việt Từ điển của tác giả Đào Duy Anh là "đem cái việc

đã định sẵn mà làm cho có hiệu quả" [1, tr. 398]; theo Từ điển tiếng Việt của
Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, "thi hành" là "làm cho thành, có hiệu lực điều đã
được chính thức quyết định" [55, tr. 936]; còn theo Đại từ điển tiếng Việt thì
"thi hành" được hiểu là "thực hiện điều đã chính thức quyết định" [59, tr. 1559].
Thi hành bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án (Thi hành án)
có thể được hiểu theo một cách chung nhất là "việc các cơ quan nhà nước,
tổ chức xã hội và các cá nhân có liên quan theo quy định của pháp luật nhằm
đưa bản án, quyết định đó ra thi hành làm cho nó phát huy hiệu lực trên thực
tế" [17, tr. 371].
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm thi hành án hình sự
như sau: Thi hành án hình sự là việc các các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã
hội, các cá nhân có liên quan đưa bản án và quyết định hình sự đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án ra thi hành làm cho nó phát huy hiệu lực trên thực
tế.
Nghiên cứu khái niệm thi hành án hình sự nói trên, có thể rút ra những
đặc điểm của nó như sau:
Một là, thi hành án hình sự là giai đoạn cuối cùng của hoạt động tố
tụng hình sự, phản ánh kết quả của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự của các

9


cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án
hình sự.
Hai là, mục đích của hình phạt chỉ có thể được thực hiện thông qua thi
hành án hình sự. Điều đó có nghĩa, thi hành án hình sự chính là quá trình thực
tiễn hóa mục đích của hình phạt. Ngoài ra, thi hành án hình sự còn có mục
đích: đưa vào cuộc sống một cách đúng đắn và đầy đủ mọi nội dung của hình
phạt đã được Tòa án phán quyết trong bản án, quyết định hình sự, khắc phục
hậu quả do chính tội phạm đó gây ra cho xã hội, làm mất khả năng phạm tội

của kẻ phạm tội, giáo dục, cải tạo kẻ phạm tội thành người lương thiện và tái
hòa nhập cộng đồng người đó thành người có ích cho gia đình và xã hội.
Ba là, thi hành án hình sự trước hết được điều chỉnh bằng các quy
phạm pháp luật tố tụng hình sự và do nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân thi hành
nhằm bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật và công bằng xã hội. Ngoài ra,
do thi hành án hình sự thường diễn ra trong thời gian dài, liên quan đến nhiều
lĩnh vực, cho nên, ngoài các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự, cho nên thi
hành án hình sự còn được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật khác như
hành chính, dân sự, lao động...
Thi hành hình phạt tử hình là một bộ phận của thi hành án thi hành án
hình sự. Từ khái niệm thi hành án hình sự nói trên, có thể đưa ra khái niệm thi
hành hình phạt tử hình như sau: Thi hành hình phạt tử hình là hoạt động của
cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền đưa bản án tử hình của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật ra thực hiện trên thực tế theo những trình tự, thủ tục do
pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Thi hành hình phạt tử hình cũng mang đầy đủ các đặc điểm của thi
hành án hình sự, ngoài ra còn có những đặc điểm riêng sau:
Đặc điểm thứ nhất của thi hành hình phạt tử hình là sự thực hiện trên
thực tế việc tước đi quyền sống của người phạm tội, do đó cơ quan thi hành

10


án hình sự phải tuân theo những thủ tục hết sức nghiêm ngặt, chặt chẽ. Đây là
đặc điểm chủ yếu nhất để có thể phân biệt việc thi hành hình phạt tử hình với
thi hành các loại hình phạt, biện pháp tư pháp khác. Ví dụ: trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988, cũng như trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,
đều đã quy định thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành,
trong đó quy định rất cụ thể về trình tự, thủ tục gửi hồ sơ vụ án lên Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao, gửi bản án cho Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân

tối cao, thời hạn quy định Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định kháng nghị hoặc quyết định
không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm; thủ tục xin ân giảm trình lên
Chủ tịch nước... Đây là những thủ tục mà đối với việc thi hành các hình phạt,
biện pháp tư pháp khác, pháp luật tố tụng hình sự không quy định.
Đặc điểm thứ hai, khác với việc thi hành các hình phạt, biện pháp tư
pháp khác, nếu việc thi hành hình phạt tử hình có sai lầm, thì không thể khắc
phục được hậu quả. Đặc điểm này bắt nguồn từ bản chất của hình phạt tử hình
là tước đi quyền sống của người bị kết án, vì vậy, nếu như thi hành hình phạt tử
hình không đúng đối tượng bị kết án, thì sai lầm này không thể khắc phục được.
Đặc điểm thứ ba, việc thi hành hình phạt tử hình không những tước đi
sự sống của người bị kết án, mà còn gây ra nỗi đau thương, mất mát lâu dài
cho người thân của họ, đồng thời có những tác động tâm lý tiêu cực nhất định
lên những cá nhân trực tiếp thực hiện việc thi hành hình phạt tử hình. Đây là
đặc điểm chúng ta cần lưu ý khi thực hiện công tác chính trị, tư tưởng đối với
người thân của người bị kết án, cũng như đối với số cán bộ, chiến sĩ trực tiếp
làm nhiệm vụ tước đi mạng sống của người bị kết án.
1.1.2. Các hình thức thi hành hình phạt tử hình

11


Hình thức thi hành hình phạt tử hình là cách thức tước bỏ sự sống của
người bị kết án tử hình do cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền thực
hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Trong lịch sử tồn tại và phát triển, loài người đã áp dụng rất nhiều
hình thức thi hành hình phạt tử hình. Việc lựa chọn hình thức thi hành hình
phạt tử hình nào cho phù hợp, phụ thuộc vào các điều kiện chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, cũng như chính sách hình sự của mỗi quốc gia. GS.TS người
Nga A.Ph. Kixthiacốpxki đã dày công nghiên cứu về những hình thức thi

hành hình phạt tử hình trong lịch sử và đưa ra 21 hình thức thi hành hình phạt
tử hình chủ yếu đã được loài người áp dụng như sau: 1) treo cổ; 2) chặt đầu;
3) đun người bị kết án trong vạc dầu, nước sôi; 4) dùng bánh xe cán chết; 5)
xé xác người bị kết án ra thành các mảnh nhỏ; 6) thiêu chết; 7) chôn sống; 8)
bóp cổ hoặc làm cho chết ngạt trong bao tải; 9) lột da người bị kết án cho đến
chết; 10) mổ bụng, moi ruột; 11) cho ngồi lên cọc nhọn hoặc dùng cọc nhọn
đâm thủng người; 12) đốt cổ họng bằng chì đun sôi; 13) đẩy người bị kết án
từ đỉnh núi xuống vực; 14) thắt cổ; 15) voi dày, ngựa xéo; 16) quăng người bị
kết án cho hổ, báo ăn thịt; 17) dùng đá ném đến chết; 18) cho người bị kết án
chết đói, chết khát; 19) đầu độc chết; 20) dùng gậy đánh chết; 21) xử bắn.
Từ sự thống kê này, GS.TS A.Ph. Kixthiacốpxki đã chia các hình thức
thi hành hình phạt tử hình thành hai loại: loại hình thức thi hành hình phạt tử
hình bình thường (treo cổ, xử bắn...) và loại hình thức thi hành hình phạt tử
hình đặc biệt ngoài việc tước sự sống của người bị kết án, còn có mục đích
làm đau đớn một cách thảm khốc cho họ như đun người bị kết án trong vạc
dầu, nước sôi, lột da, xé xác... [60, tr. 136].
Hiện nay, pháp luật tố tụng hình sự của các nước trên thế giới quy
định bảy hình thức thi hành hình phạt tử hình.
Hình thức thứ nhất: xử bắn.

12


Đây là hình thức thi hành hình phạt tử hình mang tính phổ biến nhất.
Theo số liệu của Tổ chức Ân xá quốc tế, có 86 quốc gia trên thế giới áp dụng
hình thức thi hành hình phạt tử hình này. Việc xử bắn có thể do một người
hoặc một nhóm người thi hành. Trường hợp việc xử bắn do một người thi
hành, thì người đó dùng súng ngắn, bắn vào đầu người bị kết án ở cự ly ngắn,
làm người đó chết ngay. Trường hợp việc xử bắn do một nhóm người thi hành
(đội thi hành án), thì cự ly bắn được thực hiện xa hơn. Trong cả hai trường

hợp, người bị kết án có thể được bố trí đối diện người thi hành án; riêng ở
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, người bị kết án được bố trí quay lưng về phía
đội thi hành án, vì theo phong tục của nước này, người bị kết án không được
nhìn về phía người bắn để hồn ma không thể về trả thù được.
Hình thức thứ hai: treo cổ.
Đây là hình thức thi hành hình phạt tử hình bị Ủy ban Ân xá quốc tế
cho là dã man và cần phải bãi bỏ. Tuy nhiên, vẫn còn có 70 nước trên thế giới
áp dụng hình thức này như: Cộng hòa Singpore, Cộng hòa Ấn Độ, Nhật Bản...
Ở Nhật Bản, việc thi hành hình phạt tử hình được giữ bí mật tuyệt đối, người
bị kết án bị tròng vào cổ chiếc dây được xát xà phòng trơn, đầu bị trùm một
tấm vải kín và được đứng trên một chiếc ghế đẩu. Khi được lệnh, người thi
hành án hất đổ chiếc ghế và việc thi hành án được coi như đã hoàn tất.
Hình thức thứ ba: chém đầu.
Đây là hình thức thi hành hình phạt tử hình được 6 quốc gia trên thế
giới áp dụng. Cách thức chém đầu có hai cách: dùng máy chém hoặc dùng
kiếm. Hiện nay, Vương quốc Ảrập Xêút (Saudi Arabia) là quốc gia thường áp
dụng hình thức này.
Hình thức thứ tư: ném đá đến chết.
Đây là hình thức thi hành hình phạt tử hình vô nhân đạo nhất hiện nay,
trong đó người bị kết án bị chôn, chỉ để hở đầu lên khỏi mặt đất, sau đó bị

13


ném đá cho đến chết. Điều 119 Bộ luật hình sự hồi giáo nước Cộng hòa Iran
còn quy định rõ: "Các viên đá không được có kích thước lớn, để người bị kết
án không bị chết ngay sau khi ném một, hai viên; đồng thời chúng cũng
không được có kích thước nhỏ quá" [60, tr. 142]. Hình thức thi hành hình phạt
tử hình này còn được áp dụng ở Cộng hòa Xu Đăng và ở một số nước khu
vực Trung Cận Đông.

Hình thức thứ năm: ngồi ghế điện.
Đây là hình thức thi hành hình phạt tử hình bằng cách cho dòng điện
chạy qua thân thể người bị kết án, lần đầu được thực hiện vào năm 1888 tại
Nữu Ước, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Trước khi hành hình 4 tuần lễ, người bị
kết án được chuyển đến khu giam giữ đặc biệt, được viết nguyện vọng về nơi
chôn cất và tài sản thừa kế. Người ta thử ba lần ghế điện, chuẩn bị dung dịch
Amôniác dùng làm chất cách điện, thấm vào một cái đệm để áp vào đầu
người bị kết án (bị cạo trọc), chân phải người đó được bôi chất dẫn điện.
Người bị kết án bị buộc vào ghế điện. Hai cực điện được đặt vào đầu, chân
phải của người bị kết án và dòng điện mạnh 2500 vôn được đóng. Việc cắm
điện làm người bị kết án ngất ngay lập tức, nhưng cái chết chỉ xuất hiện sau
một thời gian nhất định, trong một số trường hợp, phải sau từ 10 đến 15 phút,
người bị kết án mới chết (có trường hợp phải 5 lần cắm điện, người bị kết án
mới chết). Ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ xảy ra một trường hợp, cho người bị
kết án ngồi ghế điện, nhưng không chết, dẫn đến việc Tòa án tối cao phải ra
phán quyết rằng, việc thi hành hình phạt tử hình lần thứ hai là không vi phạm
Hiến pháp và người bị kết án bị hành quyết lần thứ hai sau một năm [60, tr.
143].
Hình thức thứ sáu: dùng hơi ngạt.

14


Đây là hình thức thi hành hình phạt tử hình được áp dụng từ cuối
những năm 30 thế kỷ 20. Người bị kết án được buộc vào một chiếc ghế trong
một phòng được thiết kế hoàn toàn bằng thép. Ở ngực người bị kết án, người
ta gắn một ống nghe của bác sĩ và dây cao su dẫn tới phòng bên để bác sĩ theo
dõi nhịp tim của người bị kết án. Dưới ghế ngồi của người bị kết án được đặt
16 viên thuốc độc (xianua). Khi cánh cửa thép được đóng lại, người ta cho
chạy thiết bị làm những viên thuốc độc được hòa vào dung dịch axit, thuốc

độc bốc thành khói, làm ngạt thở người bị kết án, từ đó dẫn đến tim ngừng
đập. Hình thức thi hành phạt tử hình này bị coi là phức tạp và khá tốn kém.
Hình thức thứ bảy: tiêm thuốc độc.
Đây là hình thức thi hành hình phạt tử hình, trong đó người bị kết án
bị buộc chặt vào một cái cáng, được đưa vào một phòng kín, rồi bị tiêm thuốc
độc vào bắp thịt. Hình thức thi hành hình phạt tử hình lần đầu tiên được áp
dụng tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ vào năm 1977. Khi bị tiêm thuốc độc mạnh
vào mạch máu, thì người bị kết án sẽ bị chết trong khoảng thời gian từ 32 giây
đến 1 phút. Tuy nhiên, cũng đã xảy ra một số trường hợp người bị kết án
không chết ngay do dụng cụ truyền chất độc trượt khỏi mạch máu hoặc thuốc
độc không đủ mạnh khi pha chế.
Hình thức thi hành hình phạt tử hình này được dư luận coi là "nhân đạo",
tiết kiệm hơn cả, được 34 bang của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa và nhiều nước khác trên thế giới áp dụng. Ngày 30-01-2001,
Chính phủ Vương quốc Thái Lan đã phê chuẩn đề nghị thi hành hình phạt tử
hình bằng tiêm thuốc độc thay vì xử bắn.
1.1.3. Ý nghĩa của chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật
tố tụng hình sự Việt Nam

15


Chế định thi hành hình phạt tử hình lần đầu tiên được quy định trong
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 của nước
ta, có ý nghĩa về mặt lập pháp hết sức to lớn. Nó đánh dấu sự trưởng thành về
kỹ thuật lập pháp tố tụng hình sự của nước ta.
Trong chế định thi hành hình phạt tử hình, khái niệm thi hành hình
phạt tử hình là khái niệm cơ bản, khái niệm xuất phát, để từ đó xác định các
quy phạm khác của chế định thi hành hình phạt tử hình như hình thức thi hành
hình phạt tử hình, trình tự, thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi

hành, trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình, thủ tục hoãn thi hành án...
Việc nhận thức và áp dụng đúng đắn chế định thi hành hình phạt tử hình trong
thực tiễn là bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc pháp chế xã
hội chủ nghĩa trong lĩnh vực thi hành án hình sự, nhằm thi hành hình phạt tử
hình đúng người, không để xảy ra oan, sai trong lĩnh vực cực kỳ nhạy cảm
này.
Trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự nói
chung, thi hành hình phạt tử hình nói riêng, đóng vai trò hết sức quan trọng
trong việc bảo đảm hiệu quả đạt được của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự.
Vì vậy, việc quy định chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng
hình sự góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn,
vững mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tài sản của công dân. Tuy nhiên, việc áp dụng chế định thi hành hình
phạt tử hình một cách tùy tiện, không đúng pháp luật, bị coi là những hành vi
vi phạm pháp luật nghiêm trọng, bởi nó xâm phạm quyền được sống là một
trong những quyền con người cơ bản, xâm phạm đến tình cảm thiêng liêng
của những người thân thích của họ. Những hành vi vi phạm pháp luật về thi
hành hình phạt tử hình không những xâm hại hoạt động đúng đắn của các cơ
quan bảo vệ pháp luật, xâm hại quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công
dân, mà còn làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng,

16


sự quản lý của Nhà nước. Do vậy, việc quy định một cách chặt chẽ chế định
thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự thể hiện sự tôn trọng
quyền con người của Nhà nước ta, bảo đảm sự giám sát của nhân dân, xã hội
trong hoạt động thi hành án hình sự nói chung, thi hành hình phạt tử hình nói
riêng.
Việc quy định trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình trong luật tố

tụng hình sự, ngoài ý nghĩa về mặt lập pháp tố tụng hình sự, còn có ý nghĩa
nâng cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp
luật nói riêng về sự cần thiết phải tuân thủ các quy định chặt chẽ của pháp luật
tố tụng hình sự trong lĩnh vực thi hành hình phạt tử hình. Mặt khác, việc quy
định cụ thể, chi tiết trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình còn giúp các cơ
quan bảo vệ pháp luật nắm vững nội dung, bản chất pháp lý, từ đó áp dụng
đúng đắn chế định này, góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm, động viên quần chúng nhân dân tham gia tích vào cuộc đấu
tranh này.
Ngoài ra, chế định thi hành hình phạt tử hình, còn có ý nghĩa là cơ sở
pháp lý cho một số ngành khoa học pháp lý có liên quan chặt chẽ với khoa
học luật tố tụng hình sự như tội phạm học, tâm lý học tư pháp, khoa học kỹ
thuật hình sự... Đối với tội phạm học, chế định thi hành hình phạt tử hình
trong luật tố tụng hình sự là cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu về nhân
thân người bị kết án tử hình, từ đó tìm ra quy luật phạm tội của những người
này. Đối với tâm lý học tư pháp, chế định thi hành hình phạt tử hình có ý
nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu đặc điểm tâm lý của người bị kết án
tử hình ở giai đoạn xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành, cũng
như ở giai đoạn thi hành hình phạt tử hình, nhất là ở thời điểm trước khi thi
hành án. Kết quả nghiên cứu đặc điểm tâm lý của những người bị kết án tử
hình trong hoạt động thi hành hình phạt tử hình, sẽ là tài liệu quan trọng phục
vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử những người phạm tội đặc biệt

17


nghiêm trọng và góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Đối với khoa học kỹ thuật hình sự, việc quy định trình tự, thủ tục thi
hành hình phạt tử hình là cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu, đề xuất các
hình thức thi hành hình phạt tử hình tiết kiệm, dễ áp dụng, "nhân đạo" nhất

cho phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
1.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUY ĐỊNH VỀ THI
HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TRƯỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003

1.2.1. Những quy định về thi hành hình phạt tử hình trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Năm 938, sau khi Ngô Quyền lên ngôi, cùng với những hình phạt mang
nặng tính chuyên chính bạo lực, Nhà nước phong kiến sử dụng hình phạt tử
hình với những cách thức khủng khiếp như là công cụ bảo vệ sự thống trị của
giai cấp cầm quyền cũng như nền độc lập của quốc gia.
Dưới thời nhà Đinh, nhà tiền Lê, việc quy định tội phạm và hình phạt
đều tùy thuộc vào ý chí của nhà Vua. Đinh Bộ Lĩnh đặt vạc dầu lớn ở sân
triều, nuôi hổ giữ trong chuồng và quy định: "Kẻ nào trái phép phải chịu tội
bỏ vạc dầu, cho hổ ăn" [18, tr. 305].
Đến thời nhà tiền Lê, hình phạt tử hình còn được thi hành bằng những
cách thức tàn bạo hơn. Theo Đại Việt sử ký toàn thư:
Vua tính hiếu sát, phàm người bị hành hình, hoặc sai lấy cỏ
gianh quấn vào người mà đốt, để cho lửa cháy chết, hoặc sai kép hát
người nước Tống là Liêu Thủ Tâm lấy dao ngắn, dao cùn xẻo từng
mảnh, để cho không được chết chóng... Đi đánh dẹp bắt được tù thì
giải đến bờ sông, khi nước triều rút, sai người làm lao dưới nước,
dồn cả vào trong ấy, đến khi nước triều lên, ngập nước mà chết;

18


hoặc bắt trèo lên ngọn cây cao rồi chặt gốc cho cây đổ, người rơi
xuống chết [18, tr. 349].
Dưới thời nhà Lý, Lý Thái Tông cho soạn ra Hình thư, đây là bộ luật

thành văn đầu tiên của nước ta nhưng hiện nay không còn nên chúng ta không
biết rõ nội dung các điều luật.
Dưới thời nhà Trần, hình phạt tử hình đối với những người bị ghép tội
phản nghịch được thi hành bằng cách: cho voi dầy, lăng trì (cắt từng miếng
thịt cho đến chết), chôn sống, bêu đầu (sau khi chém người phạm tội bị chôn
xuống đất, chỉ để lộ ra cái đầu, rồi buộc đầu vào một cây tre uốn cong xuống
đất để bên cạnh. Khi xử tử, người ta lấy dao sắc chém đầu, đầu người tử tội sẽ
bị treo trên cành tre). Việc áp dụng các hình thức thi hành hình phạt tử hình
như trên là nhằm bảo vệ chế độ phong kiến khỏi sự xâm hại của những kẻ
phản nghịch.
Dưới thời nhà Lê (1428 – 1788), Quốc triều hình luật (Bộ Luật Hồng
Đức) - Bộ luật chính thống và quan trọng nhất, đã đề cập đến thi hành hình
phạt tử hình tại mục 5 Điều 1 chương danh lệ:
Tử hình có ba bậc: từ tội thắt cổ (giảo), chém, đến tội lăng
trì, chia làm ba bậc thắt cổ, chém là một bậc, chém bêu đầu (khiêu)
là một bậc, lăng trì là một bậc, tùy theo tội mà tăng giảm.
1. Thắt cổ, chém.
2. Chém bêu đầu.
3. Lăng trì [36, tr. 219].
Điều 680 chương đoán ngục quy định:
Đàn bà phải tội tử hình trở xuống, nếu đang có thai, thì phải
để sinh đẻ sau 100 ngày, mới đem hành hình, nếu chưa sinh mà
đem hành hình, thì ngục quan bị xử biếm hai tư, ngục lại bị tội đồ

19


làm bản cục đinh. Dù đã sinh rồi nhưng chưa đủ một trăm ngày mà
hành hình, thì ngục quan và ngục lại đều bị tội nhẹ hơn tội trên hai
bậc. Nếu đã đủ một trăm ngày mà không đem hành hình, thì ngục

quan và ngục lại bị tội biếm hoặc tội phạt... [36, tr. 231-232].
Việc quy định thi hành hình phạt tử hình đối với phụ nữ như trên thể
hiện tính nhân văn sâu sắc của cha ông chúng ta.
Dưới thời nhà Nguyễn, Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long) được khắc
in lần đầu năm 1982. Mặc dù chịu ảnh hưởng của luật Thanh Triều khá nặng
nề, nhưng nhiều điều luật, trong đó có các điều luật về thi hành hình phạt tử
hình vẫn tiếp thu các giá trị lập pháp trong Bộ luật Hồng Đức với một số quy
định có tính nhân văn cao hơn. Trong Bộ luật này, tại chương Giải thích ghi
rõ: "Các cực hình trong luật nhà Thanh như chu di tam tộc, lăng trì hoàn toàn
bị bãi bỏ. Việc thi hành hình phạt tử hình được quy định dưới hai hình thức
treo cổ và chém, chém thì thân và đầu mỗi nơi cách biệt, còn treo cổ thì chấm
dứt sự sống thân thể còn vẹn toàn" [31, tr. 55].
Dưới thời Pháp thuộc, thực dân Pháp chia đất nước ta ra làm ba kỳ:
Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ để dễ bề cai trị. Mỗi kỳ chịu sự cai trị bằng các
hệ thống pháp luật khác nhau. Điều 12 Bộ luật hình canh cải có hiệu lực ở
Nam kỳ, quy định:
Người nào bị xử tử thì phải bị chém đầu. Thủ phạm bị xử tử
về tội giết cha mẹ sẽ bị dẫn đến pháp trường, cho mặc áo vắn, đi
chơn không, đầu cho đội khăn chế trắng.
Để nó lên đài xử trong lúc ấy trưởng tòa đọc án xử nó cho
nhơn dân nghe, rồi lập tức thi hành cho nó chết. Nếu bà con người
bị chém xin xác lại, thì cho nó đem về chôn mà không đặng chôn tử
tế [25, tr. 3].
Tại Điều 5, 6, 7, 8 Luật hình An Nam thi hành ở Bắc kỳ quy định:

20


Tử hình sẽ bị chém ở chỗ công chúng đều biết, chỗ ấy thì do
trong án chỉ ra, nếu trong án chưa có chỉ ra, thì sẽ do quan trưởng lý

kiêm chức nam án thủ hiến định.
Tử hình nếu không do quan toàn quyền xét ý kiến quan
trưởng lý mà phê chuẩn, thì không được thi hành.
Phàm đàn bà con gái bị xử tử hình, mà tự xưng rằng có thai
hễ xét ra quả thật thì đợi đến khi sinh đẻ rồi mới thụ hình. Người
nào vì tội giết cha mẹ mà bị tử hình, thì chỉ cho mặc một cái áo lót
mình, đi chơn không, đầu bịt vải trắng, rồi giải đến chỗ hình trường.
Đem người phạm để chỗ hình trường rồi người thừa phát
lại đem án ra đọc trước công chúng. Khi đọc xong, thi hành ngay.
Cái xác người bị tử hình, nếu có người thân tộc đứng xin,
sẽ cho nhận lấy mà mai táng, nhưng mà không cho phô trương.
Phàm gặp ngày kỷ niệm nước đại Pháp và những ngày lễ mà
luật đại Pháp đã nhận, ngày chủ nhật, và theo như lịch An Nam, đầu
năm từ mồng một đến mồng bảy, rằm tháng bảy, rằm tháng tám, ba
ngày cuối cùng tháng chạp ngày vạn thọ nước Nam thì không được
hành hình [32, tr. 5].
Trong Hoàng Việt hình luật được ban hành năm 1933, có hiệu lực ở
Trung kỳ, Điều 6, 7, 8 chương 2 - Những tội danh đại hình, quy định:
Người bị tử hình sẽ bị bắn hoặc chém ở trước công chúng.
Còn chỗ hành hình nếu hội đồng thượng thơ không chỉ định, thời
quan tỉnh sở tại sẽ định một chỗ ở trong tỉnh mà tội nhân đã phạm
pháp. Nếu đàn bà bị tử hình xưng rằng có thai, mà xét ra quả thiệt,
thời sau khi sanh đẻ rồi một trăm ngày mới phải thụ hình.
Tội tử hình không đem ra hành hình trong những ngày quốc
khánh (đại Pháp) và những ngày lễ mà luật nước đại Pháp Việt

21


Nam đã công nhận, ngày chủ nhựt (cùng ngày lễ vạn thọ, ba ngày

trước và ba ngày sau lễ nam giao), tám ngày đầu tháng giêng Việt
Nam, ngày mồng 2, mồng 5 tháng 5, ngày rằm, tháng giêng, tháng
bảy, tháng tám và tháng mười, ngày mồng một và năm ngày cuối
cùng tháng chạp.
Nếu thân nhơn người bị xử tử có xin nhận xác về chôn thời
cũng cho, nhưng không được làm đám phô trương và có công
chúng dự lễ.
Nghiên cứu quy định trên cho thấy, việc thi hành hình phạt tử hình
mặc dù mang bản chất của giai cấp thực dân thống trị sâu sắc, nhưng đã được
quy định rất chi tiết, cụ thể, dễ áp dụng. Có thể nói, đây là một trong những
giá trị lập pháp mà chúng ta cần quan tâm xem xét.
1.2.2. Những quy định về thi hành hình phạt tử hình trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam thời kỳ từ khi Cách mạng tháng Tám thành công
cho đến trước khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ra đời
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đập tan chế độ thực
dân phong kiến và các thiết chế pháp luật, đồng thời thiết lập nên Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước công nông đầu tiên của Đông Nam Á,
cùng với hệ thống pháp luật mới bao gồm: Hiến pháp, các đạo luật, sắc lệnh,
nghị định, thông tư. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công ít ngày, thực
dân Pháp quay lại xâm lược nước ta một lần nữa. Vì vậy, trong suốt thời kỳ từ
khi bắt đầu cuộc xâm lược của thực dân Pháp cho đến năm 1954 là thời điểm
ký Hiệp định Giơnevơ, Quốc hội ta là Quốc hội kháng chiến, Chính phủ ta là
Chính phủ kháng chiến, pháp luật của ta cũng là pháp luật kháng chiến.
Trong thời kỳ này, Nhà nước ta cũng đã quan tâm đến sự điều chỉnh
pháp luật việc thi hành hình phạt tử hình. Ngày 31-6-1946, Bộ Tư pháp đã
ban hành thông tư số 498, trong đó quy định: "Thi hành hình phạt tử hình từ

22



nay dùng súng thay máy chém" [38, tr. 211]. Quy định về hình thức tử hình
này thể hiện bản chất nhân đạo của chế độ mới, khác về chất so với hình thức tử
hình dã man dùng máy chém của chế độ thực dân phong kiến. Trong Quy tắc
trại giam được ban hành ngày 12-6-1951, đã quy định vấn đề chuẩn bị và kết
thúc việc thi hành án tử hình tại Điều 6: "Mỗi khi đưa phạm nhân ra chịu án tử
hình, Ban Giám thị phải xét kỹ căn cước để đề phòng nhầm lẫn" và tại Điều
21 quy định: "Khi thi hành xong một án tử hình, Tòa án phải báo cho Ủy ban
hành chính sở tại để đăng ký việc tử" [38, tr. 211]. Vấn đề xét ân giảm án tử hình
cũng đã được quy định trong Thông tư số 335/TTg ngày 6-7-1954 của Thủ
tướng phủ:
Sau khi Tòa án nhân dân đã lên án tử hình, phạm nhân vẫn
có quyền đệ đơn lên Chủ tịch nước xin ân giảm.
Đơn xin ân xá, ân giảm do Ủy ban kháng chiến hành chính
liên khu chuyển lên Bộ Tư pháp. Bộ Tư pháp làm tờ trình lên Chủ
tịch nước quyết định [38, tr. 213].
Nghiên cứu các văn bản pháp luật quy định việc thi hành hình phạt tử
hình trong thời kỳ này, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, pháp luật trong giai đoạn này mang tính chất thời chiến,
nhưng cũng đã kịp thời quy định một số vấn đề cơ bản của việc thi hành hình
phạt tử hình. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thi hành hình phạt tử
hình, góp phần vào cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và tay sai.
Thứ hai, việc thi hành hình phạt tử hình được quy định trong nhiều
văn bản pháp luật dẫn tới khó khăn trong việc thống nhất áp dụng pháp luật.
Mặt khác, các văn bản quy định về việc thi hành hình phạt tử hình đều là
những văn bản dưới luật do cơ quan hành pháp ban hành, hiệu lực pháp lý
không cao.
Thứ ba, nhiều vấn đề về thi hành hình phạt tử hình chưa được pháp
luật điều chỉnh như cơ quan chịu trách nhiệm thi hành hình phạt tử hình, trình

23



tự, thủ tục xử bắn tại pháp trường... Đây là những nhược điểm cần được khắc
phục trong thời gian tới.
Từ năm 1954 đến năm 1974, việc thi hành án tử hình do các khu, sở,
ty Công an phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân ở địa
phương thi hành. Ngày 13- 2-1974, Bộ Công an ra Chỉ thị số 138-KC1 quy
định cụ thể về công việc chuẩn bị, thủ tục và trình tự những việc làm từ lúc
bắt đầu cho đến khi kết thúc cuộc thi hành án, những trường hợp cần tạm
hoãn thi hành án. Về địa điểm pháp trường, thời gian thi hành án, Chỉ thị quy
định:
Tùy trường hợp, pháp trường có thể bố trí gần trại giam,
hoặc ở nơi xảy ra vụ án, nhưng nguyên tắc là phải bảo đảm tuyệt
đối an toàn cho nhân dân (xa nhà ở của dân, không để dân qua lại
khu vực pháp trường)...
Ngày giờ thi hành án, nếu không phải trường hợp cấp bách,
thì không nên định vào ngày kỷ niệm, ngày tết và các ngày lễ chính
của các tôn giáo, dân tộc [45, tr. 255].
Quy định này hoàn toàn phù hợp với phong tục, tập quán của dân tộc
và bảo đảm sự an toàn của nhân dân trong quá trình thi hành hình phạt tử
hình.
Về công tác chuẩn bị thi hành án tử hình, Chỉ thị quy định:
Lãnh đạo Khu, Sở, Ty Công an phải thành lập Hội đồng thi
hành án tử hình, lập kế hoạch và định ngày, giờ, địa điểm, pháp
trường, bố trí lực lượng vũ trang. Thành phần Hội đồng thi hành án
tử hình bao gồm:
- Một đại diện của cơ quan Công an (Chánh hoặc Phó giám
đốc, Trưởng hoặc Phó ty Công an).
- Một đại diện của Viện kiểm sát nhân dân (Viện trưởng,
Viện phó hoặc Ủy viên kiểm sát).


24


- Một đại diện của Tòa án nhân dân (Chánh án, Phó chánh
án hoặc Ủy viên thẩm phán).
- Một bác sĩ pháp y (do Hội đồng giám định pháp y ở địa
phương chỉ định).
- Một đại diện của trại giam (Chánh hoặc Phó giám thị).
Người chứng kiến việc thi hành án là một đại diện của Ủy
ban hành chính cơ sở nơi bố trí pháp trường. Người này có nhiệm
vụ lập giấy khai tử cho kẻ bị áp dụng hình phạt tử hình sau khi bắn.
Trước khi đưa phạm nhân ra pháp trường, cán bộ căn cước
của Sở, Ty Công an phải đến trại giam, lập danh chỉ bản mới, đem
đối chiếu với danh chỉ bản cũ và các tài liệu khác đầy đủ, chính xác
và xác định phạm nhân đó đúng là phạm nhân bị kết án tử hình và
đúng là kẻ sắp bị thi hành án trong kế hoạch đã định [45, tr. 256].
Về trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình, Chỉ thị quy định:
4. Sau khi trói tay phạm nhân vào cọc đã trông sẵn, thì đại
diện Tòa án nhân dân công bố tóm tắt tội trạng của phạm nhân và
đọc phần kết luận trong bản quyết định duyệt án tử hình hoặc quyết
định bác đơn xin ân giảm của phạm nhân.
5. Bịt mắt phạm nhân bằng một vải băng đen.
6. Hội đồng thi hành án ra lệnh thì cán bộ chỉ huy lực lượng
thi hành án hô đội viên (5 đội viên bắn giỏi được lựa chọn) bắn một
loạt súng trường nhằm thẳng vào tim phạm nhân. Để kết thúc việc
thi hành án tử hình, cán bộ chỉ huy bắn thêm một phát súng ngắn
vào thái dương của phạm nhân.
7. Bác sĩ pháp y khám nghiệm, xác định là phạm nhân đã
chết hẳn.


25


×