Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.56 KB, 17 trang )

u

NỘI DUNG CƠ BẢN
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA


2

Mục lục


3

1. Cơ chế quản lý trước thời kỳ đổi mới.
1.1. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp.
Trước đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta là cơ chế kế hoạch hoá tập
trung với những đặc điểm chủ yếu là:
Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính
dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các
doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản
xuất, nguồn vật tư, tiền vốn; định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền
lương... đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế
hoạch cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản
phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất,
kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại chịu trách nhiệm gì về vật chất và
pháp lý đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết
định không gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các doanh nghiệp
không có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, cũng không bị ràng buộc trách
nhiệm đối với kết quả sản xuất, kinh doanh.


Thứ ba, quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện
vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ "cấp phát - giao
nộp". Vì vậy, rất nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng
chế, tư liệu sản xuất quan trọng không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.
Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động,
vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu
nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động.
Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau:
Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa
thấp hơn nhiều lần so với giá trị thực với chúng trên thị trường. Do đó, hạch
toán kinh tế chỉ là hình thức.
Bao cấp qua chế độ tem phiếu: Nhà nước quy định chế độ phân phối vật
phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên theo định mức qua hình thức tem
phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế
độ tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực tích thích người lao động
và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động.
Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng không có chế tài
ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa


4

làm tăng gánh nặng đối với ngân sách, vừa làm cho việc sử dụng vốn kém
hiệu quả, nảy sinh cơ chế "xin - cho".
Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế này
có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào
các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong
quá trình công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.
Nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học - công nghệ, triệt
tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không kích thích tính năng động,

sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Khi nền kinh tế thế giới chuyển
sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng các thành
tựu của cuộc cách mạng khoa học — công nghệ hiện tại thì cơ chế quản lý
này càng bộc lộ những khiếm khuyết của nó, làm cho kinh tế các nước xã hội
chủ nghĩa trước đây; trong đó có nước ta, lâm vào tình trạng trì trệ, khủng
hoảng.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường,
chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường
chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa nhận trên thực
tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh tế
quốc doanh, và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và
kinh tế cá thể, tư nhân. Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
1.2. Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, chúng ta đã có những bước cải tiến nền kinh tế theo hướng thị trường,
tuy nhiên còn chưa toàn diện, chưa triệt để. Đó là khoán sản phẩm trong nông
nghiệp theo Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương khóa IV; bù giá
vào lương ở Long An; Nghị quyết Trung ương 8 khóa V (năm 1985) về giá lương — tiền; thực hiện Nghị định số 25 - CP và Nghị định số 26 - CP của
Chinh phủ... Đó là những căn cứ thực tế để Đảng đi đến quyết định thay đổi
về cơ bản cơ chế quản lý kinh tế.
Đề cập sự cần thiết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI khẳng định
"Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ
chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được
động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử
dụng, và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm
năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông, và đẻ
ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội". Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách.



5

2. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII.
2.1. Nội dung.
Đây là giai đoạn hình thành và phát triển tư duy của Đảng về kinh tế thị
trường. So với thời kì trước đổi mới , nhận thức về kinh tế thị trường có sự
thay đổi căn bản và sâu sắc:
Một là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản mà là
thành tựu phát triển chung của nhân loại.
Khái niệm kinh thế thị trường: Là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao,
mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quan hệ cungcầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.
Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội cho thấy, sản xuất và trao đổi hàng hóa
là tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường. Trong
quá trình sản xuất và trao đổi, các yếu tố thị trường như cung, cầu, giá cả có
tác động điều tiết quá trình sản xuất hàng hóa, phân bổ các nguồn lực kinh tế
và tài nguyên thiên nhiên như vốn, tư liệu sản xuất, sức lao động... phục vụ
cho sản xuất và lưu thông. Thị trường giữ vai trò là một công cụ phân bổ các
nguồn lực kinh tế.
Kinh tế thị trường đã có mầm mống từ trong xã hội nô lệ, hình thành trong xã
hội phong kiến và phát triển cao trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó, kinh tế thị trường
với tư cách là kinh tế hàng hóa ở trình độ cao không phải là sản phẩm riêng
của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.
Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Tại Đại hội VI (12/1986): Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới
cơ chế quản lý.
Đại hội VII của Đảng (1/1994): Xác định cơ chế vận hành củ nền kinh tế là
“cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Tiếp tục đường lối trên, Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đề ra nhiệm vụ

đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.


6

Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy, có thể cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Ở bất kỳ xã hội nào, khi lấy thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân
bổ các nguồn lực kinh tế, thì kinh tế thị trường cũng có những đặc điểm sau:
Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong sản
xuất, kinh doanh - lỗ, lãi tự chịu
• Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng
bộ và hoàn hảo.
• Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn có của kinh tế
thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.
• Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.


Thực tế cho thấy, chủ nghĩa tư bản không sinh ra kinh tế thị trường nhưng đã
biết thừa kế và khai thác có hiệu quả các lợi thế của kinh tế thị trường để phát
triển. Thực tiễn đổi mới ở nước ta cũng đã chứng minh sự cần thiết và hiệu
quả của việc sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
2.2. Kết quả, ý nghĩa.
Đại hội VIII của Đảng (6-1996) đưa ra đường lối công nghiệp hóa, hiện đại

hoá có nhiều điểm khác căn bản về hình thức, nội dung, bước đi và giải pháp
tiến hành so với công nghiệp hóa thời kỳ trước đây, đánh dấu bước phát triển
mới trong tư duy lý luận của Đảng về công nghiệp hóa đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội VIII đã có nhận định quan trọng sau khi nhìn lại đất nước sau mười
năm đổi mới: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, nhiệm vụ đề ra
cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp
hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội XI.
3.1. Nội dung.
Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) xác định nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế
thị trường chỉ như một công cụ, một cơ chế quản lý, đến nhận thức coi kinh tế
thị trường như một chính thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.


7

Vậy thế nào là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Đại hội IX xác
định, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là "một kiểu tổ chức kinh
tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự
dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội". Trong
nền kinh tế đó, các thế mạnh của "thị trường" được sử dụng để "phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân", còn tính "định hướng xã hội

chủ nghĩa" được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ
chức quản lý và phân phối, nhằm mục đích cuối cùng là "dân giàu, nước
mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội do nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn
hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức và bất công, tạo điều kiện cho mọi người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc".
Đảng xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình
kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội,
đồng thời làm rõ một số khía cạnh liên quan đến nội hàm của mô hình kinh tế
này:











Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo
mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và

thông qua phúc lợi xã hội.
Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; đều
được khuyến khích phát triển trong những ngành nghề sản xuất, kinh
doanh mà pháp luật không cấm.
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển.
Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức
kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản
xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc
phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân
lao động, của toàn thể nhân dân.


8

Bên cạnh đó, Đảng ta cũng chỉ rõ, để nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa vận hành thông suốt cần tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị
trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước theo
hướng hình thành về cơ bản và vận hành thông suốt, có hiệu quả thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với các nhiệm vụ thúc đẩy sự hình
thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, triệt để xoá bỏ bao cấp trong kinh doanh; đổi mới và hoàn
thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục
hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển
sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế; tiếp tục cải thiện môi trường
đầu tư theo hướng giảm mạnh, tiến tới xoá bỏ sự phân biệt về chính sách và
pháp luật giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; tạo môi trường pháp

lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát
triển, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Như vậy, mô hình kinh tế
tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội về cơ bản vẫn
kế thừa những nội dung trước đó, nhưng nội hàm đã được mở rộng hơn. Có
thể nói, chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là bước phát triển mới về tư duy lý luận kinh tế của Đảng - từ
nhận thức kinh tế thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý, sang nhận
thức kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đến Đại hội X (4-2006), trên cơ sở kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại
hội IX của Đảng, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 và
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010, nhìn lại 20 năm đổi
mới, Đảng tiếp tục khẳng định mô hình kinh tế đã được lựa chọn đồng thời
nhấn mạnh, để đi lên chủ nghĩa xã hội, phải phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế với các nhiệm vụ chủ yếu sau: Tiếp
tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo
hướng phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị
trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh; thực hiện quản lý nhà nước
bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động
của thị trường và doanh nghiệp, xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình
thức sở hữu, định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị
trường; phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất
kinh doanh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật
chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi
trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển, kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân, kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong
những động lực của nền kinh tế.



9

Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương 6 khoá X (01-2008), Đảng đã đưa ra một số
kết luận mới về kinh tế thị trường, khả năng sử dụng kinh tế thị trường làm
phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đồng thời xác định mục tiêu, quan điểm, chủ trương và giải
pháp tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường nhằm thúc
đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế
thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Các quan điểm nói trên về
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được Đại hội XI
(01-2011) của Đảng khẳng định và cụ thể hóa thêm trên một số phương diện
gắn với việc giải quyết các nhiệm vụ cấp bách của nền kinh tế trong giai đoạn
hiện nay và mục tiêu phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Đại hội khẳng định: “Nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị
trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ
sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã
hội”. Bên cạnh đó, Đảng cũng chỉ rõ, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội, phải tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ, trọng tâm là hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng đồng bộ và hiện
đại. Đổi mới, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới trên cơ sở tôn trọng và
vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật và cơ chế vận hành của kinh tế thị
trường. Phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân để

làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội. Mọi thành phần kinh tế, các
chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng phát triển lâu dài, hợp
tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo.
Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X và XI đã làm sáng tỏ thêm nội dung
cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở
nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí là:
Về mục đích phát triển: Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bàng,
văn minh" giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao
đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người
vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước
khá giả hơn.
Mục tiêu trên thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế vì con người, giải phóng
lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để nâng cao đời sống cho mọi người,
mọi người đều được hưởng những thành quả phát triển, ở đây thể hiện sự


10

khác biệt với mục đích tất cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích của các nhà tư bản,
bảo vệ và phát triển chủ nghĩa tư bản.
Về phương hướng phát triển: phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành
phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền... phát huy tối đa nội lực để
phát triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh
tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Để giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước phải nắm được
các vị trí then chốt của nền kinh tế bằng trình độ khoa học, công nghệ tiên

tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao chứ không phải dựa vào bao cấp, cơ
chế xin - cho hay độc quyền kinh doanh. Mặt khác, tiến lên chủ nghĩa xã hội
đặt ra yêu cầu nền kinh tế phải đuợc dựa trên nền tảng của sở hữu toàn dân
về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn
kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo,
giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Hạn chế tác
động tiêu cực của kinh tế thị trường.
Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua chế
độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, hệ thống an
sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Đồng thời, để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho
sự phát triển chúng ta còn thực hiện phân phối theo mức đóng góp vốn và các
nguồn lực khác.
Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò
quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh té thị trường, đảm
bảo quyền lợi chính đáng của mọi người.
Hoàn thiện nhận thức và chủ chương về nền kinh tế nhiều thành phần, đại hội
X khẳng định: "Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình
thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thế, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư
bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt
động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều
tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế

cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành


11

nền tảng vừng chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan
trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế". Trên cơ sở phát lý luận
và tổng kết thực tiễn, đại hội VI xác định: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển, về lâu dài, kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chấc
của nền kinh tế quốc dân. Trong 5, 10 năm tới, không xác định thành phần
kinh tế nào đóng vai trò nền tảng. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực
của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát
triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ
chức kinh tế đa dạng, ngày càng phát triển.
3.2. Kết quả, ý nghĩa.
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải
đơn giản là sự trở về với phương thức chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang
nền kinh tế công nghiệp, mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là phải
chuyển sang nền kinh tế hiện đại, văn minh nhằm mục tiêu từng bước đi lên
chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn phù hợp với các quy luật phát triển và
các điều kiện lịch sử cụ thể của thời đại và của những nước đi sau như nước
ta, cho phép các nước này giảm thiểu được những đau khổ và rút ngắn được
con đường đi của mình tới chủ nghĩa xã hội trên cơ sở sử dụng được ưu thế
cũng như hạn chế được những khuyết điểm của hai cơ chế: kế hoạch và thị
trường. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kiểu
tổ chức kinh tế đặc biệt, vừa tuân theo những nguyên tắc và quy luật của hệ
thống kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chính tính chất, đặc trưng cơ bản này chi phối và quyết định phương tiện,
công cụ, động lực của nền kinh tế và con đường đạt tới mục tiêu, là sử dụng

kinh tế thị trường, nâng cao hiệu lực và hiệu quả điều tiết của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa, phát triển khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực,
mở cửa và hội nhập nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và phát triển rút ngắn để trong khoảng thời gian không dài có thể khắc phục
tình trạng lạc hậu, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại.
Việc lựa chọn và đi theo mô hình kinh tế thị trường là hết sức đúng đắn và phù
hợp với hoàn cảnh của nước ta lúc bấy giờ. Thực tế đã chứng minh sự lựa
chọn đường lối đúng đắn của đảng ta là nền kinh tế thị trường mang lại là:
Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta đã từng bước hình thành và phát triển; thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN được quan tâm xây dựng và từng bước hoàn thiện.
Thực lực của nền kinh tế tăng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát
được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được duy trì hợp lý. Việt Nam được đánh
giá là nhóm quốc gia có mức tăng trưởng khá cao trên thế giới. Những kết


12

quả đó là thành tựu nổi bật trong thực hiện các chủ trương, giải pháp xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Một số ví dụ như:
Từ một quốc gia lạc hậu, thiếu đói thường xuyên, kém phát triển, đến
nay chúng ta đã trở thành nước xuất khẩu lúa gạo hàng đầu thế giới,
trở thành nước đang phát triển.
• Thành tựu kinh tế sau 30 năm đổi mới không thể không nhắc tới sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Theo đó, so với thời kỳ trước đổi mới,
đến nay diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ tăng
trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, đời sống Nhân dân
không ngừng được cải thiện. Ví như, giai đoạn 1986 - 1990, tăng
trưởng GDP bình quân hằng năm của nước ta chỉ đạt 4,4%, nhưng đến

giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân tăng 8,2%/năm, gấp đôi so với 5
năm trước đó. Giai đoạn 1996 - 2000, mặc dù chịu sự tác động của
khủng hoảng tài chính khu vực; thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp,
nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta vẫn đạt 7% (bình quân
giai đoạn này tăng 7,6%/năm). Những năm gần đây, tuy tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế có giảm do chịu nhiều tác động, nhưng kinh tế
nước ta vẫn đạt mức độ tăng trưởng cao so với các nước trên thế giới,
giai đoạn 2011 - 2015, GDP ước đạt mức tăng bình quân 5,9%. Cùng
với tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người ở nước ta
cũng được nâng lên. Năm 2015, thu nhập bình quân đầu người ở nước
ta đạt hơn 2.200USD. Đặc biệt, theo báo cáo cập nhật tình hình phát
triển kinh tế Việt Nam vừa được Ngân hàng Thế giới (World Bank) công
bố ngày 2-12-2015 nhận định, kinh tế Việt Nam đã ứng phó tương đối
tốt trước những biến động của môi trường kinh tế bên ngoài với tăng
trưởng GDP ước tính đạt mức 6,5% trong năm 2015 và dự báo đạt
6,6% trong năm 2016.
• Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy
tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở
hữu. Doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp, đổi mới, tổ chức lại, đóng
góp gần 40% GDP, chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt và tập trung
hơn vào những lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế. Doanh nghiệp tư nhân
phát triển nhanh, hoạt động hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, đóng góp hơn
45% GDP góp phần quan trọng cho phát triển kinh tế-xã hội, nhất là giải
quyết việc làm và cải thiện đời sống Nhân dân. Cùng với sự phát triển
về kinh tế, thực hiện đường lối đổi mới, Đảng, Nhà nước đã kết hợp
chặt chẽ giữa phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội; khắc phục căn bản tâm lý thụ động, trông chờ, ỷ lại vào Nhà
nước; tạo ra sự năng động của nền kinh tế, góp phần rất quan trọng
nâng cao mức sống của người dân. Theo đó, tỷ trọng đầu tư từ ngân




13

sách Nhà nước cho an sinh xã hội trong 30 năm qua khoảng hơn
28%/năm. Nguồn lực huy động từ cộng đồng, cá nhân, doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội và sự hợp tác quốc tế cho an sinh chiếm
khoảng 30%. Từ những chủ trương trên, tốc độ giảm nghèo ở nước ta
diễn ra nhanh và liên tục qua các năm. Theo chuẩn nghèo của Ngân
hàng Thế giới tính cho Việt Nam thì tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58,1% (năm
1993) xuống còn khoảng 5% (năm 2015). Số lượng đối tượng được trợ
giúp xã hội thường xuyên ngày càng mở rộng và tăng nhanh. Giáo dục,
y tế, văn hóa từng bước phát triển. Công tác đấu tranh phòng, chống tệ
nạn xã hội được tăng cường.
Đại hội IX (19/4-22/4/2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội.
 Một bước chuyển biến quan trọng trong nhận thức của Đảng (từ nhận thức
kinh tế thị trường chỉ như một công cụ, một cơ chế quản lý, đến nhận thức coi
kinh tế thị trường như một chính thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa).
Đại hội X (18/4- 25/4/2006) thông qua báo cáo phương hướng, nhiệm vụ phát
triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010.
Trong bối cảnh đất nước ta tiếp tục chuyển dịch theo cơ cấu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng bước đầu, kinh tế vĩ mô cơ bản
được ổn định.
• Trong việc hội nhập quốc tế và kinh tế đối ngoại:  tạo một bước phát
triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại, đặc biệt là xuất khẩu.
• Đề ra giải pháp khắc phục tình trạng còn yếu kém: Chất lượng phát triển

kinh tế- xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn kém, cơ cấu
kinh tế chuyển dịch chậm.  Rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn và những
tư tưởng chỉ đạo để phát triển kinh tế- xã hội.


Đại hội XI (12/1-19/1/2011): Kế thừa tư duy Đại hội IX và X, ở Đại hội XI đã
làm sang tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát
triển kinh tế thị trường ở nước ta.
 Trên cơ sở phát lý luận và tổng kết thực tiễn, đại hội XI xác định: Kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và
phát triển, về lâu dài, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chấc của nền kinh tế quốc dân. Trong 5, 10 năm tới,
không xác định thành phần kinh tế nào đóng vai trò nền tảng. Kinh tế tư nhân
là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước


14

ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan
kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng, ngày càng phát triển.
4. Giai đoạn hiện nay.

4.1. Thực trạng nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay.
Quá trình hình thành và phát triền nền kinh tế thị trường của nước ta.
Các thị trường phát triển không đồng nhất trong một nền kinh tế hay giữa các
nền kinh tế. Thị trường hình thành phụ thuộc vào nền kinh tế cao thấp, lớn
nhỏ khác nhau. Theo nghiên cứu nên kinh tế nước ta chia thành 6 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Nền nông nghiệp tự lực.
Ở giai đoạn này đa số nông dân tự cấp. Hệ thống thị trường có thể đã xuất
hiện nhưng không có tiền để mua sắm .

Giai đoạn 2: Nền tiền công nghiệp và thương mại.
Ở giai đoạn này nguyên vật liệu được chế biến hay khai thác có thể xuất khẩu.
Nền kinh tế tiền tệ ra đời cùng với máy móc thiết bị và đời sống xã hội khá dần
lên. Tuy nhiên thị trường còn nhỏ hẹp
Giai đoạn 3: Nền sản xuất sơ cấp.
Nhiều quá trình khai thác mỏ chế biến kim loại nhưng xuất khẩu nguyên liệu,
các nhà máy sử dụng lao động giá rẻ. Nhiều nhóm nghề có kỹ thuật và phát
triển công nông nghiệp phức tạp . Đông đảo thj trường địa phương mở rộng
nhưng số lớn dân cư nằm ngoài kinh tế tiền tệ.
Giai đoạn 4: Sản xuất sản phẩm tiêu dùng mau hỏng và nửa bền.
Sản xuất đầu tư nhỏ địa phương , công nghiệp chế biến nước giải khát , vải
sợi phát triển . Những nhà sản xuất nhỏ có thu nhập trung và cao, có nhu cầu
mở rộng. Khi thị trường tăng trưởng các doanh nghiệp địa phương bắt đầu tìm
lợi nhuận lớn . Do đó học có nhu cầu thấp về nhập khẩu nên cung ứng sản
phẩm mau hỏng và nửa bền.
Giai đoạn 5: Sản xuất sản phẩm tiêu thụ lâu bền và tư liệu sản xuất.
Sản xuất tư liệu và sản phẩm tiêu thụ bền lâu như xe hơi, tủ lạnh và máy móc
công nghệ địa phương. Nhiều nhu cầu về nguyên vật liệu thực phẩm và quần
áo. Công nghiệp hóa khởi sự nhưng lệ thuộc vào xuất khẩu nguyên liệu.
Giai đoạn 6: Xuất khẩu hàng hóa chế biến.
Hầu hết các hàng tiêu thụ đều ở trong nền kinh tế tiền tệ và trở thành giai cấp
trung lưu lớn có nhiều thu nhập.
Thực trạng nền kinh tế thị tường nước ta.


15

Thành tựu:











Năm 1986-2000: Nền kinh tế tăng trưởng liên tục, nhiều năm đạt tốc độ
cao đưa đát nước ta thoát khỏi khủng hoảng và lạm phát, GDP năm
2000 tăng gấp đôi năm 1990. Nền kinh tế Việt Nam cơ bản thoát khỏi
kinh tế xã hội cuối năm 1995 . Ngành công nghiệp 1991-2000 tăng tốc
độ cao bình quân 13,6%, sản xuất nông nghiệp phát triển liên tục tăng
mức bình quân 3,6% hàng năm.
Cơ cấu kinh tế từng bước có sự chuyển dịch theo hướng đẩy manh
công nghiệp hóa hiện đại hóa, cũng là nội dung quan trọng của đường
lối mới cho nền kinh tế do Đảng và Nhà nước đề ra. Đổi mới cơ cấu
gồm: cơ cấu ngành , cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế. Tổng
sản phẩm quốc nội tỷ trọng khu vực nông nghiệp ngư nghiệp giảm
38,7% xuống 24,3% (2000) công nghiệp xây dựng tăng 22,7 lên 36,6%
dịch vụ từ 38,6 lên 39,1%... GDP tăng từ 18,2% lên 27%.
Mở cửa hội nhập kinh tế quan hệ đối ngoại không ngừng mở rộng ,
quan hệ hữu nghị hợp tác chủ động và thu được nhiều kết quả. Tích
cực mở rộng quan hệ quốc tế với các nước Tây Âu, Mỹ, các nước châu
Á. Năm 2000 ó 3170 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vốn lên tới 39,1
tỷ USD. Thu hút 35 vạn lao động. Việt Nam vượt qua những khó khăn
khi các thị trường truyền thống bị khủng hoảng và từng bước mở rộng
sang thị trường mới.
Kế hoạch pháp lệnh được dỡ bỏ, các doanh nghiệp tư nhân trong nước
và doanh nghiệp có vốn nước ngoài xuất hiện ngày càng nhiều, hộ

nông dân chuyển sang kinh doanh hàng hóa, hộ tư thương phát triển
mạnh, thị trường hàng hóa và dịch vụ phát triển với quy mô ngày càng
lớn, chủng loại phong phú hơn. Thị trường tài chính phát triển khá
nhanh, nhất là thị trường tín dụng, thị trường chứng khoán. Thị trường
bất động sản đã hình thành. Thị trường lao động và thị trường khoa học
- công nghệ, dù còn chưa phát triển một cách chuẩn tắc, nhưng cũng đã
hình thành.
Xuất, nhập khẩu phát triển mạnh, nước ta trở thành nước có nền kinh tế
mở ở mức độ cao. Tuy nhiên, các yếu tố xã hội chủ nghĩa, hoặc xuất
hiện nhưng không có hiệu quả, hoặc chưa rõ nét. Cụ thể là thành phần
kinh tế nhà nước, nếu hiểu là tổ hợp của ngân sách nhà nước, tài sản
công và doanh nghiệp nhà nước, thì đúng là chiếm tỷ trọng lớn trong
nền kinh tế, nhưng hiệu quả rất thấp, nhất là xét theo hệ số ICOR của
đầu tư công (khoảng 5-6), hay xét theo hiệu quả cá biệt của doanh
nghiệp nhà nước. Thậm chí một số tập đoàn kinh tế nhà nước lớn lâm
vào tình trạng mất vốn, phá sản, nợ nần (nợ của doanh nghiệp nhà
nước đến năm 2013 đạt con số hơn 1 triệu tỷ đồng).


16

Tồn tại:











Kinh tế vĩ mô đã ổn định nhưng chưa thật bền vững, còn phải đối mặt
với nhiều khó khăn, thách thức;
Sản xuất, kinh doanh còn nhiều khó khăn ,việc thực hiện tái cơ cấu tổng
thể nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng gặp nhiều khó khăn và
chưa đáp ứng được yêu cầu;
Những kết quả bước đầu của việc thực hiện ba đột phá chiến lược
chưa đủ để tạo ra sự chuyển biến về chất trong đổi mới mô hình tăng
trưởng, chất lượng tăng trưởng chưa thật sự được nâng cao và duy trì
một cách bền vững;
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém;
Công tác quản lý tài nguyên, môi trường còn nhiều bất cập;
Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu, mục
tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi;
An ninh chính trị vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định;
bảo vệ chủ quyền quốc gia còn nhiều thách thức; trật tự, an toàn xã hội
vẫn còn nhiều bức xúc.

4.2. Đánh giá, nguyên nhân, giải pháp.
Nhận xét, đánh giá.
Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ
khai.
• Thị trường dân tộc thống nhất đang trong giai đoạn hình thành nhưng
chưa đồng bộ.
• Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại,
hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ
phát triển kinh tế, kĩ thuật của nước ta thấp so với các nước khác.



Nguyên nhân.
Cơ sở vật chất kĩ thuật còn chưa tiến bộ, theo UNDP, Việt Nam đang ở
trình độ công nghệ lạc hậu 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 2-3
thế hệ (có lĩnh vực 4-5 thế hệ). Lao động thủ công vẫn chiếm tỉ trọng lớn
trong tổng số lao động xã hội. Do đó, năng suất, chất lượng, hiệu quả
sản xuất của nước ta còn rất thấp so với khu vực và thế giới (năng suất
lao động của nước ta chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới).
• Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống
thông tin còn lạc hậu, kém phát triển.
• Do cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao
động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Nền kinh tế
nước ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ. Nông
nghiệp vẫn sử dụng khoảng 70% lực lượng lao động, nhưng chỉ sản



17











xuất khoảng 26% GDP, các ngành kinh tế công nghệ cao chiếm tỉ trọng
thấp.

Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước,
cũng như thị trường nước ngoài còn rất yếu. Do cơ sở vật chất - kỹ
thuật và công nghệ lạc hậu, nên năng suất lao động thấp, do đó khối
lượng hàng hoá nhỏ bé, chủng loại hàng hoá còn nghèo nàn, chất
lượng hàng hoá thấp, giá cả cao vì thế khả năng cạnh tranh còn yếu.
Thị trường hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn
nhiều hiện tượng tiêu cực (hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn
hiệu vẫn làm rối loạn thị trường).
Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, một số trung tâm giới
thiệu việc làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã nảy sinh
hiện tượng khủng hoảng. Nét nổi bật của thị trường này là sức cung về
lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về sức lao
động giản đơn lại vượt quá xa cầu, nhiều người có sức lao động không
tìm được việc làm.
Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn
nhiều trắc trở, như nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân
rất thiếu vốn nhưng không vay được vì vướng mắc thủ tục, trong khi đó
nhiều ngân hàng thương mại huy động được tiền gửi mà không thể cho
vay để ứ đọng trong két dư nợ quá hạn trong nhiều ngân hàng thương
mại đã đến mức báo động. Thị trường chứng khoán ra đời nhưng cũng
chưa có nhiều "hàng hoá" để mua - bán và mới có rất ít doanh nghiệp
đủ điều kiện tham gia thị trường này.
Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường; do vậy nền kinh tế ở
nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hoá cùng tồn tại, đan xen
nhau, trong đó sản xuất hàng hoá nhỏ phân tán còn phổ biến.

Giải pháp.
Thực hiện nhất quán kinh tế thị trường nhiều thành phần.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa
học công nghệ, đẩy mạnh phân công lao động xã hội.

• Hình thành và đồng bộ các loại thị trường.
• Mở rộng và nâng cao kinh tế đối ngoại.
• Giữ vững , ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật.





×