Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Bước đầu nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình di cư lao động trên địa bàn xã La Phù, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.25 KB, 112 trang )

TÓM TẮT LUẬN VĂN
Mục đích chính của bài nghiên cứu này là bước đầu nghiên cứu các yếu
tố ảnh hưởng đến quyết định di cư của người lao động ở khu vực nông thôn
nói chung và trên địa bàn xã La Phù, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ nói
riêng. Bao gồm các nhân tố thuộc nhóm yếu tố đẩy ở địa phương (Thu nhập
thấp, thiếu việc làm, thiếu vốn, thiếu đất sản xuất) và nhóm yếu tố hút ở nơi
đến ( Thu nhập cao, dễ tìm việc làm, các điều kiện phát triển kinh tế và con
người). Ngoài ra báo cáo còn phân tích một số nguyên nhân tồn tại ở cấp độ
cá nhân ( muốn gần gũi người thân, không muốn ở lại địa phương).
Nghiên cứu đã cung cấp khá đầy đủ những thông tin cần thiết về mặt cơ
sở lý luận cũng như cơ sở thực tiễn về vấn đề di cư giúp cho việc tiếp cận vấn
đề di cư một cách thực tế hơn.
Kết quả nghiên cứu trên địa bàn xã La Phù cho thấy số lượng lao động di
cư ngày một tăng lên, tốc độ tăng bình quân qua 3 năm (2006 – 2008) là
14.61%. Lao động di cư ở độ tuổi khá trẻ ( trên 60% lao động trong độ tuổi 20 –
35 di cư). Nam giới di cư nhiều hơn nữ giới, tuy nhiên về mặt cơ cấu thì nữ giới
có sự gia tăng nhanh hơn ( nam tăng bình quân 12.69%, nữ tăng bình quân
17.58%).
Kết quả phân tích chỉ rõ tầm quan trọng những yếu tố thuộc nhóm yếu
đẩy và hút chi phối đến quyết định di chuyển của người lao động. Thu nhập
thấp và thiếu việc làm là ở khu vực nông thôn là hai yếu tố đẩy được đánh giá
cao điểm nhất. Thu nhập cao, dễ tìm việc làm ở nơi đến lại có sức hút mạnh
nhất đối với người lao động. Nghiên cứu đã khẳng định yếu tố kinh tế là lý do
quan trọng nhất ảnh hưởng đến quyết định di chuyển của người lao động. Kết
quả này cũng thống nhất với kết quả của hầu hết các nhà nghiên cứu.
Nghiên cứu tiến hành trên phạm vi nhỏ, thu thập thông qua các chủ hộ
nên tính khái quát chưa cao. Mặc dù vậy nó cũng phần nào giúp chúng ta có
đánh giá sơ bộ về vấn đề di cư xã La Phù nói riêng và khu vực nông thôn nói
chung, làm căn cứ để phát triển cho các nghiên cứu tiếp theo.

i




MỤC LỤC
Lời cam đoan...................................................................................................i
Lời cảm ơn.......................................................................................................i
Tóm tắt............................................................................................................iii
Mục lục............................................................................................................iv
Danh mục bảng biểu........................................................................................vi
Danh mục đồ thị và hộp..................................................................................vii
Danh mục các từ viết tắt................................................................................viii

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1: Tình hình sử dụng đất đai của xã La Phù qua 3 năm ( 2006 – 2008)........Error:
Reference source not found
Bảng 3.2 Tình hình dân số dân số và lao động xã La Phù qua 3 năm ( 2006 – 2008)Error:
Reference source not found
Bảng 3.3: Hệ thống cơ sở hạ tầng xã La Phù năm 2008...Error: Reference source not
found
Bảng 3.4: Kết quả sản xuất kinh doanh của xã La Phù qua 3 năm ( 2006 – 2008)
.................................................................................Error: Reference source not found
Bảng 4.1 Di cư lao động xã La Phù qua 3 năm (2006 – 2008)..........Error: Reference
source not found
Bảng 4.2 Di cư lao động của xã qua 3 năm (2006 – 2008) theo giới tính và độ tuổi......Error:
Reference source not found
Bảng 4.3 Đặc trưng của hộ.....................................Error: Reference source not found
Bảng 4.4 Trình độ văn hoá chủ hộ và nhân khẩu của hộ..Error: Reference source not
found
Bảng 4.5 Đặc trưng của hộ di cư theo loại hình di cư......Error: Reference source not
found


ii


Bảng 4.6 Tuổi của lao động di cư theo giới tính....Error: Reference source not found
Bảng 4.7 Trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn của lao động di cư.............Error:
Reference source not found
Bảng 4.8 Thời gian di cư của lao động...................Error: Reference source not found
Bảng 4.9 Hình thức di cư của lao động..................Error: Reference source not found
Bảng 4.10 Nơi đến của lao động di cư...................Error: Reference source not found
Bảng 4.11 Loại hình công việc của lao động di cư Error: Reference source not found
Bảng 4.12 Nguyên nhân “đẩy” lao động di cư.......Error: Reference source not found
Bảng 4.13 Thu nhập của hộ gia đình theo nhóm hộ di cư và không di cư..........Error:
Reference source not found
Bảng 4.14 Thu nhập của lao động trước khi di cư. Error: Reference source not found
Bảng 4.15 Tình trạng công việc của lao động trước khi di cư theo loại hình di cư và
theo nhóm tuổi.........................................................Error: Reference source not found
Bảng 4.16 Diện tích đất của hộ...............................Error: Reference source not found
Bảng 4.17 Tình hình vay vốn của hộ gia đình có lao động di cư......Error: Reference
source not found
Bảng 4.18 Các yếu tố “kéo” lao động di cư...........Error: Reference source not found
Bảng 4.19 Thu nhập của lao động di cư phân theo giới tính và loại hình di cư...........Error:
Reference source not found
Bảng 4.20 Thu nhập của lao động theo loại hình công việc, trình độ và dộ tuổi.......Error:
Reference source not found
Bảng 4.21 Các nguyên nhân khác ảnh hưởng đến quyết định di cư. .Error: Reference
source not found
Bảng 4.22 Mức tiền gửi về nhà của lao động di cư theo giới tính.....Error: Reference
source not found
Bảng 4.23 Mức tiền gửi về nhà của lao động theo loại hình di cư....Error: Reference
source not found

Bảng 4.24 Mức sống của hộ sau khi có lao động di cư....Error: Reference source not
found

DANH MỤC ĐỒ THỊ VÀ HỘP
iii


Hình 2.1 Quyết định Di cư..........................Error: Reference source not found
Hộp 4.1 Thu nhập của nông dân còn quá thấp.......Error: Reference source not
found
Hộp 4.2 Ở quê không có đủ việc làm nên phải di cư...Error: Reference source
not found
Hộp 4.3 Ruộng đất ít đi, không cần nhiều lao động ở nhà......Error: Reference
source not found

iv


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT

BQ

Bình quân

CC

Cơ cấu

CNH – HĐH


Công nghiệp hoá - hiện đại hoá

DT
ĐVT
GTSX

NN
SL

Diện tích
Đơn vị tính
Giá trị sản xuất
Lao động
Nông nghiệp
Số lượng

TH

Thương mại dịch vụ

THCS
THPT
TMDV

Tiểu học
Tiểu thủ công nghiệp
Trung học cơ sở

TTCN


Trung học phổ thông

v


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người di cư
được xem như là một quy luật tự nhiên của quá trình phát triển dân số và ngày
càng trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến, có tính khách quan. Di
cư gắn liền với sự hình thành và phát triển của các dân tộc, quốc gia, thậm chí
của các phương thức sản xuất. Di cư giúp con người thoát khỏi những thảm họa
do thiên tai (động đất, bão lũ…), chiến tranh gây ra, giúp họ thoát khỏi cuộc
sống bần hàn do đất chật, người đông, đất đai khô cằn, tài nguyên cạn kiệt ở nơi
cũ, tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên việc di dân tự do không có
kiểm soát đã gây nên những thách thức không nhỏ cho mỗi quốc gia.
Khi Việt Nam chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường
vào cuối thập niên 80. Toàn cầu hóa, sự khác biệt về mức sống, chênh lệch
trong thu nhập, cơ hội việc làm, sức ép về kinh tế, tiếp cận dịch vụ xã hội… là
những nguyên nhân cơ bản tạo nên dòng di cư. Kinh tế thị trường đã tạo ra sự
đổi mới về kinh tế xã hội, mở ra cơ hội mới cho đất nước, tạo ra những đòi
hỏi khách quan cho việc hình thành thị trường lao động. Có thể nói di dân
chính là hệ quả tất yếu từ những biến đổi kinh tế xã hội của đất nước trong đó
có sự phát triển của cơ chế thị trường và thị trường sức lao động.
Trong thời gian vừa qua, sự tăng cao của năng suất lao động một mặt
giúp đảm bảo an ninh lương thực cho quốc gia, mặt khác tạo ra sự dư thừa lao
động nông thôn. Với sự khan hiếm, manh mún đất nông nghiệp và sự tăng
trưởng dân số cao, thu nhập từ nông nghiệp thấp, vấn đề dư thừa lao động
ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn. Thất nghiệp và bán thất nghiệp đang trở
thành vấn đề lớn vì khả năng tạo việc làm cho lao động khu vực nông thôn

hiện nay vẫn là bài toán khó cho các nhà hoạch định chính sách. Theo số liệu
điều tra của Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam năm 2006 cho thấy trong tổng
số 486500 người di cư giai đoạn 5 năm trước cuộc điều tra số người đến khu
1


vực thành thị là 57%, nông thôn là 30%, luồng di cư thành thị - nông thôn
chiếm 13%. Chính sự cách biệt về thu nhập, mức sống giữa khu vực thành thị
và nông thôn đã sinh ra các dòng di cư lao động.
Sau hơn 20 năm thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước đề
ra ở Đại hội VI (tháng 12 năm 1986), kinh tế đất nước đã có những bước khởi
sắc. Chúng ta đang phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản trở thành nước công
nghiệp. Cùng với quá trình CNH – HĐH, khu vực thành thị tiếp tục được mở
rộng, vùng nông thôn ngày một thu hẹp lại. Vì vậy việc di chuyển dân cư giữa
các vùng lãnh thổ trên thực tế là không thể tránh khỏi. Di cư liên quan chặt
chẽ với việc phát triển kinh tế xã hội, với những chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước. Mặc dù đã có một số nghiên cứu phân tích các khía cạnh
khác nhau của di cư nhưng những nghiên cứu về di cư lao động nông thôn
còn ít được chú ý, trong đó chúng ta cần quan tâm đến các yếu tố ảnh hưởng
đến việc di cư của người lao động nông thôn.
Trong những năm gần đây dòng lao động di cư tự do ra các thành phố
lớn, vùng kinh tế phát triển ngày càng lớn. Điều này gây ra những tác động
nhất định tới gia đình, cộng đồng địa phương nơi xuất cư. Vậy những nguyên
nhân, yếu tố nào dẫn đến tình trạng di cư của người lao động nông thôn?. Để
hiểu rõ hơn về vấn đề này chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Bước
đầu nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình di cư lao động trên
địa bàn xã La Phù, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng tình hình di cư lao động tại xã La Phù,

bước đầu nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến việc di cư lao động nông thôn.
Từ đó đưa ra các khuyến nghị phù hợp nhằm tối đa hóa lợi ích của việc di cư
đối với việc phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương.

2


1.2.2Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về di cư.
- Tìm hiểu thực trạng di cư lao động tại xã La Phù.
- Xác định và phân tích các yếu tố chính thúc đẩy tình hình di cư lao
động ở địa phương.
- Đánh giá ảnh hưởng của di cư lao động đến đời sống, kinh tế - xã hội
của các đối tượng trong xã. Từ đó đưa ra một số giải pháp cụ thể giải quyết
việc di cư lao động tại xã La Phù.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến di cư lao động trên địa bàn xã,
đặc biệt là các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình di cư lao động nông thôn. Đối
tượng cụ thể là những người lao động di cư và các hộ có người di cư.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1 Phạm vi về nội dung
- Di cư bao gồm hai quá trình xuất cư và nhập cư nhưng đề tài của chúng
tôi chỉ nghiên cứu ở khía cạnh xuất cư của người lao động.
- Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới di cư của người lao động thông
qua gia đình người di cư và cộng đồng địa phương nơi xuất cư.
- Những người di cư vì lý do học tập, di cư ra nước ngoài và những
người di cư không nằm trong độ tuổi lao động không đề cập đến trong nghiên
cứu này.
1.3.2.2 Phạm vi về thời gian

- Thời gian làm luận văn: Từ ngày 08/01 – 23/05/2009.
- Đề tài thu thập số liệu trong 3 năm gần đây (từ 2006 – 2008). Số liệu sơ
cấp được thu thập thông qua điều tra được tiến hành vào tháng 3 năm 2009.
1.3.2.3 Phạm vi về không gian
Nghiên cứu được tiến hành trên địa bàn xã La Phù, huyện Thanh Thủy,
tỉnh Phú Thọ.
3


PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Khái niệm và phân loại di cư
2.1.1.1 Khái niệm di cư (di dân - migration)
Di cư là một hiện tượng kinh tế xã hội mang tính đa dạng, phức tạp.
Mỗi cách tiếp cận sẽ cho ta hiểu về di cư theo những khía cạnh khác nhau và
không phải mọi sự di chuyển của con người đều được coi là di cư, do đó khó
có thể đưa ra được một khái niệm thống nhất về di cư. Dưới đây là một số
cách hiểu về di cư:
Theo nghĩa rộng di cư là sự chuyển dịch bất kì của con người trong một
không gian và thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời
hay vĩnh viễn. Với khái niệm này di cư đồng nhất với sự di động dân cư
( Liên hợp quốc).
Theo nghĩa hẹp, di cư là sự chuyển dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này
đến một đơn vị lãnh thổ khác, nhằm thiết lập một nơi cư trú mới trong một
không gian, thời gian nhất định .Với khái niệm này đã khẳng định mối liên hệ
giữa việc di chuyển với việc thiết lập nơi cư trú mới (Liên hợp quốc).
Trong tác phẩm "Di cư" Havery B.King cho rằng : Di cư là chuyển
đến một chỗ ở khác cách chỗ ở cũ một khoảng cách đủ lớn buộc người di cư
phải thay đổi hộ khẩu thường trú: chuyển đến một thành phố khác, một tỉnh
khác hay một nước khác.

Di cư là sự di chuyển dân cư trong nước (từ nông thôn ra thành thị và
ngược lại, hoặc từ vùng này sang vùng khác) và từ nước này sang nước khác.
Việc di dân từ nông thôn ra thành thị có thể là biểu hiện trình độ công nghiệp
hoá đất nước, mặt khác cũng có khi phản ánh sự phát triển chậm chạp hơn hoặc
sự lạc hậu về các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội của nông thôn so với thành thị.
Đây là một xu hướng ít nhiều có tính phổ biến ở các nước đang phát triển (Bach
khoa toan thu. gov. vn).
4


Bộ môn dân số học trường Đại học Y Tế Công Cộng (2006) đã nêu: Di cư
là việc di chuyển nơi cư trú đi từ nơi này sang nơi khác, từ quốc gia này sang
quốc gia khác để sinh sống tạm thời hay vĩnh viễn, thời gian ngắn hoặc dài.
Liên hợp quốc (1958) đã đưa ra định nghĩa về di cư: Di cư là một hình
thức di chuyển trong không gian của con người từ một đơn vị lãnh thổ này tới
một đơn vị lãnh thổ khác, hoặc là sự di chuyển với khoảng cách tối thiểu quy
định Sự di chuyển này diễn ra trong khoảng thời gian di cư xác định và đặc
trưng bởi sự thay đổi nơi cư trú thường xuyên. Sự thay đổi nơi cư trú được thể
hiện ở khía cạnh sau:
+ Xuất cư ( nơi đi ) là nơi người di cư chuyển đi
+ Nhập cư ( nơi đến) là nơi người di cư chuyển đến
Định nghĩa này đã loại bỏ những người đang sống lang thang, dân du
mục và di cư theo kiểu con lắc (đi về hàng ngày).
Theo Uỷ Ban Kế Hoạch Nhà Nước (1992, 1994) đã định nghĩa: Di cư
là sự di chuyển của người dân từ chỗ này sang chỗ khác, nghĩa là từ một
huyện, tỉnh, nước này sang huyện, tỉnh, nước khác trong một năm hoặc hơn.
Di cư bao gồm 2 quá trình trái ngược nhau nhưng lại diễn ra song song
đó là xuất cư và nhập cư. Xuất cư là rời khỏi nơi cá nhân đang sống, còn nhập
cư là việc chuyển đến một nơi khác ngoài vùng lãnh thổ mìmh đang sống làm
thay đổi về mặt xã hội, gắn với không gian và thời gian.

Xuất phát từ các định nghĩa trên chúng ta có thể hiểu di cư lao động là
sự di chuyển của người lao động theo lãnh thổ với chuẩn mực về không gian
và thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú.
2.1.1.2 Phân loại di cư
* Theo địa bàn nơi đến
- Di cư quốc tế: Gồm di cư hợp pháp, di cư bất hợp pháp, chảy máu chất
xám, cư trú tị nạn, buôn bán người qua biên giới.
- Di cư nội địa: Gồm di cư nông thôn - đô thị, di cư nông thôn - nông
thôn, di cư đô thị - nông thôn, đô thị - đô thị.
5


* Theo độ dài nơi cư trú
- Di chuyển lâu dài (vĩnh viễn): thay đổi nơi cư trú thường xuyên và nơi
làm việc với mục đích định cư sinh sống lâu dài tại nơi mới. Phần lớn người
di cư là do điều động nơi công tác, người tìm cơ hội việc làm mới và thoát ly
gia đình,... Những đối tượng này thường không quay trở về sống tại quê
hương cũ.
- Di chuyển tạm thời: khả năng quay trở về là chắc chắn. Loại hình này
bao gồm các hình thức di chuyển làm việc theo mùa vụ, đi công tác dài ngày,
hoặc như trường hợp ra nước ngoài học tập rồi về nước.
- Di cư mùa vụ, di chuyển con lắc: di chuyển của cư dân nông thôn vào
thành phố trong thời kì những dịp nông nhàn hoặc trong điều kiện thiếu việc
làm thường xuyên, việc làm có thu nhập thấp.
* Theo đặc trưng di cư
- Di cư có tổ chức: hình thái di chuyển dân cư được thực hiện theo kế
hoạch và các chương trình mục tiêu nhất định do nhà nước, chính quyền các
cấp vạch ra và tổ chức, chỉ đạo thực hiện với sự tham gia của các tổ chức
đoàn thể xã hội.
- Di dân tự phát: mang tính cá nhân do bản thân người di chuyển hoặc bộ

phận gia đình quyết định, không có và không phụ thuộc vào kế hoạch và sự
hỗ trợ của nhà nước, các cấp chính quyền. Loại hình di cư này phản ánh tính
năng động và vai trò của cá nhân và gia đình trong việc giải quyết đời sống,
tìm công ăn việc làm.
2.1.1.3 Những luồng di cư lao động nội địa
Di cư nông thôn - thành thị: Đây là dòng di chuyển lao động từ khu vực
nông thôn ra các thành phố, khu công nghiệp, đô thị mới. Đối với các nước
đang phát triển thì dòng di cư này là phổ biến nhất. Làn sóng đổi mới đã tác
động đến xã hội nông thôn, xuất hiện tâm lý làm giàu vươn lên trong cuộc
sống. Một số người lên thành phố theo tính chất mùa vụ, một số có ý định ở
lại lâu dài. Có thể nói, chính quá trình đô thị hóa diễn ra đã tạo tiền đề và tác
6


động mạnh mẽ tới người lao động, nhu cầu về việc làm cộng với thu nhập
cao ở thành phố, khu công nghiệp là lý do người lao động di chuyển đông tới
khu vực này.
Di cư nông thôn - nông thôn: Là dòng di chuyển lao động từ khu vực nông
thôn nơi họ đang sống đến một vùng nông thôn khác, thường nơi đến là nơi có
người thân quen, diện tích đất đai sản xuất lớn hơn nơi xuất cư, sau khi di cư
những người lao động này thường vẫn làm việc trong ngành nông nghiệp.
Di cư thành thị - thành thị: Những người lao động sẽ chuyển từ khu vực
thành thị này đến thành phố, khu công nghiệp khác. Nó thường gắn với sự
luân chuyển, thay đổi nơi công tác.
Di cư thành thị - nông thôn: Lao động từ khu vực thành thị chuyển về
các vùng nông thôn. Dòng di chuyển này chủ yếu gắn với các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Đội ngũ cán bộ sau khi được đào tạo sẽ trở
về các vùng nông thôn công tác. Luồng di cư này nhằm mục đích làm giảm
bớt sự chênh lệch quá lớn giữa khu vực thành thị và nông thôn. Tuy nhiên di
cư theo chiều hướng này chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ.

2.1.2 Một số lý thuyết phân tích về vấn đề di cư.
2.1.2.1 Lý thuyết của Ravestein
Đây là một trong những lý thuyết về di dân sớm nhất trong trường phái cổ
điển, được đưa ra vào cuối thế kỉ XIX. Theo ông, di cư xảy ra sớm bởi sự khác
biệt về trình độ phát triển, bởi tiến trình công nghiệp hoá và phát triển thương
mại giữa các khu vực của một quốc gia. Mặt khác, sự di cư bị chi phối bởi khát
vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những người sống ở khu vực kém phát triển
hay nghèo khổ thường có xu hướng chuyển đến những khu vực phát triển hơn.
Theo Ravestein, tỉ lệ người tham gia di cư có quan hệ thuận với khoảng cách
giữa hai khu vực nơi họ xuất phát và nơi họ đến.
Lý thuyết này của Ravestein đã bị một số học giả phê phán vì nó không
tính đến các yếu tố văn hoá, lịch sử và tâm lí - những yếu tố con người có ảnh
hưởng quan trọng đến quá trình di cư (www.tamlyhoc.net).
7


2.1.2.2 Lý thyết của Lewis:
Lý thuyết này ra đời vào những năm 50 của thế kỉ XX. Lý thuyết của
Lewis ra đời trong bối cảnh các nước trong thế giới thứ 3 bước vào giai đoạn
công nghiệp hoá, dẫn đến sự bùng nổ của làn sóng di cư từ nông thôn ra các
thành phố công nghiệp và các đô thị.
Lewis đã trình bày quan điểm của di cư từ nông thôn ra thành thị
trong cuốn: “ Sự phát triển kinh tế đối với việc cung cấp không giới hạn về
lao động” (Economic Development with Unlimited Suplies of Labour, 1954).
Theo ông, lí do di cư dân số từ nông thôn ra đô thị là:
Thứ nhất, sự tăng trưởng kinh tế và sự mở rộng của khu vực công nghiệp
đặt ra đòi hỏi phải có thêm lực lượng lao động đáp ứng. Sự tăng lên không
ngừng của dân số trong khi đất đai không tăng đã làm cho lao động nông
nghiệp dư thừa. Số lao động dư thừa này có khuynh hướng tìm kiếm các cơ
hội làm việc tại các khu công nghiệp và thành phố, nơi có nhu cầu tuyển

dụng. Lewis coi đây là sự điều tiết có tính chất tự nhiên, là sự cân bằng lao
động giữa các khu vực, các ngành nghề.
Thứ hai, do sự chênh lệch về mức lương giữa nông thôn và đô thị. Sự di cư
lao động này sẽ dừng lại khi mức lương ở đô thị cân bằng với mức thu nhập của
người dân ở nông thôn. Từ quan điểm này người ta gọi lí thuyết của Lewis là mô
hình cân bằng. Lý thuyết của Lewis đã đặt nền móng cho lý thuyết mới có tên
gọi là Mô hình kinh tế đôi của Ranis và Fei ra đời vào thập kỉ 60.
Trong thập kỉ 50, khi mà các làn sóng di cư từ nông thôn ra thành thị không
ngừng tăng lên ngay cả khi lao động ở đô thị thất nghiệp nhiều. Điều này làm cho lý
thuyết của Lewis đã đơn giản hoá nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng di dân từ
nông thôn ra thành thị là do yếu tố kinh tế quyết định (www.tamlyhoc.net).
2.1.2.3 Lý thuyết di cư của Lee
Trong cuốn sách: “ Một học thuyết chung về di cư” ( A general theory
of migration,1966), Lee đã tổng kết một số các yếu tố quyết định đến việc di
cư của người dân từ nông thôn ra thành thị. Ông chia thành hai nhóm yếu tố:
8


a/ Nhóm yếu tố tiêu cực - nghèo đói, sự thiếu thốn các cơ hội kinh tế,
thiếu đất, mức sống thấp ở quê nhà
b/ Nhóm yếu tố tích cực - sự thịnh vượng, cơ hội, công việc làm ăn, mức
sống cao ở nơi đến.
Trong hai nhóm yếu tố này, những yếu tố tiêu cực tác động mạnh hơn
buộc người ta phải rời nơi sinh sống của mình còn các yếu tố tích cực phản
ánh sự hấp dẫn của nơi đến.
Ngoài ra, Lee còn phân tích một số các yếu tố khác ảnh hưởng đến việc di
dân. Đó là nhận thức, sự thông minh, hiểu biết của người di cư qua kinh nghiệm
bản thân hay qua các kênh thông tin đại chúng, qua bạn bè, họ hàng… Đây là
điều mà các lý thuyết trước đó ít đề cập tới. Việc di cư, theo Lee còn phụ thuộc
vào tính toán và thu nhập mong đợi trong thời gian nhất định hơn là tính toán về

khác biệt thu nhập giữa thành thị và nông thôn (www.tamlyhoc.net).
2.1.2.4 Lý thuyết di cư nông thôn - thành thị của Harris - Todaro
Todaro là một nhà kinh tế học người Mỹ đã từng làm việc ở Châu Phi.
Lý thuyết của Harris - Todaro nghiên cứu dòng người lao động di chuyển từ
nông thôn ra thành thị trong các nước đang phát triển vào thập kỉ 60-70. Đây
được coi là một mô hình kinh tế nổi tiếng nhất về di cư trong các nước đang
phát triển. Trong các công trình nghiên cứu của mình, hai ông chỉ ra giữa
nông thôn và thành thị luôn có những chênh lệch về tiền lương. Chính sự khác
biệt này đóng vai trò thúc đẩy sự di cư. Để có thể tham gia vào thị trường lao
động ở đô thị, người lao động chấp nhận tất cả các công việc có thể làm được
dù là nặng nhọc, ngắn hạn, không ổn định. Những người di cư tiềm năng sẽ
tính toán và tiếp tục di cư khi mà tiền lương của họ mong đợi ở thành thị vượt
qua thu nhập cơ bản của nông nghiệp.
Phương trình cơ bản: Mt = f (Wu - Wr)
Trong đó
Mt: Dân di cư trong thời điểm t
Wu: Lương thành thị
Wr: Lương nông thôn
9


Nhưng không phải ai cũng tìm được việc làm ở thành thị, do đó
Mt = h* ((1-Uu)* Wu – Wr )
Trong đó
Uu: Tỷ lệ thất nghiệp đô thị
h: Mức độ hưởng của người di cư
((1- Uu )* Wu ): Mức lương thành thị kì vọng
Mô hình của Harris – Todaro cho thấy di cư phụ thuộc vào 3 yếu tố :
- Sự phản ứng của người di cư tiềm năng
- Thất nghiệp đô thị

- Chênh lệch tiền lương thành thị/ nông thôn
Lý thuyết của Harris - Todaro được một số nhà nghiên cứu đánh giá tích
cực: đã chỉ ra được qui mô, mức độ của làn sóng di cư phụ thuộc vào những
mong đợi cá nhân về lợi ích mà sự mong đợi này được đo bằng sự khác nhau
về thu nhập thực tế giữa thành thị và nông.
Có hai kết luận cần được quan tâm từ lý thuyết của Harris - Todaro:
1/ Càng có nhiều cơ hội làm việc ở đô thị thì lượng người di cư đến càng
tăng vì thế tỉ lệ người thất nghiệp càng lớn.
2/ Quyết định di cư trên cơ sở hi vọng có việc làm nơi đô thị phản ánh
một tư tưởng ngụ ý rằng di cư lao động nông thôn là bị mù tương đối, vì thế
những người di cư nông thôn dễ rơi vào nguy cơ thất nghiệp mới
(www.tamlyhoc.net).
2.1.2.5 Mô hình kinh tế của di cư.
Nguyên nhân chủ yếu (song không phải là duy nhất) của hiệntượng di cư
là nguyên nhân kinh tế.Mọi người di chuyển chỗ ở khi độ thỏa dụng mong đợi
của việc chuyển đi cao hơn so với độ thỏa dụng mong đợi của việc ở lại sau
khi đã trừ đi chi phí của việc di chuyển.
Trong một môi trường kinh tế đơn giản, người ta chỉ chuyển đi khi giá trị
hiện tại PV(lợi ích của việc chuyển đi) > PV(chi phí của việc chuyển đi),
trong đó chi phí bao gồm tiền công bị mất tại nơi rời đi, chi phí thực tế của
10


việc di dời, chi phí thỏa dụng của việc di dời (đôi khi vẫn thường gọi là chi
phí tâm lý - psychic costs).
Bởi vậy, quyết định di cư rất giống với quyết định đầu tư vào vốn con
người như minh họa trong đồ thị dưới đây.
Hình 2.1 Quyết định Di cư
Lợi
ích,

chi
phí

Chi phí

B

A
Lợi ích

C

Thời gian

Chi phí của giáo dục đào tạo tăng lên cùng với thời gian
Càng học lên cao ( thời gian đào tạo tăng) thì lợi ích cũng tăng tuy nhiên
tăng một cách chậm dần
Kết luận: Thời gian có mối quan hệ tỷ lệ thuận với chi phí, lợi ích và tốc
độ tăng của chi phí lớn hơn tốc độ tăng của lợi ích
Nhìn vào mô hình ta nhận thấy:
Tại A: Chi phí bỏ ra > lợi ích thu về
Tại B: Chi phí bỏ ra = lợi ích thu về (điểm cân bằng)
Tại C: Chi phí bỏ ra < lợi ích thu về
Do đó C là điểm có lợi nhất và chúng ta nên đầu tư tại điểm này.
11


Quyết định di cư cũng vậy, con người chỉ quyết định di cư khi mà lợi ích
đem lại lớn hơn những gì họ bỏ ra.
2.1.3 Tác động và ảnh hưởg của di cư lao động

2.1.3.1 Tác động của di cư đối với người di cư
Các nhà tuyển dụng có xu hướng thích tuyển những người dân bản địa
hơn là người di cư từ nơi khác đến: việc kiểm tra lý lịch của họ dễ dàng hơn,
họ sẽ hoà nhập tốt hơn vào văn hoá bản địa và ít có khả năng bỏ việc hơn…
Bởi vậy những người nhập cư ban đầu chịu mức lương thấp hơn.
Tuy nhiên, người di cư có đầu óc nhanh nhạy hơn. Về lâu dài họ có xu
hướng đạt được những mức lương cao hơn. Một nghiên cứu của Mỹ đã so
sánh người nhập cư với những công dân bản địa tương tự ( có cùng trình độ
học vấn, kinh nghiệm làm việc…) và phát hiện ra rằng sau 10 năm những
người nhập cư có mức thu nhập cao hơn người dân gốc là 3%.
2.1.3.2 Tác động của di cư đối với thị trường lao động nơi đến
Có nên lo ngại rằng dòng người nhập cư đang tràn ngập vào thị trường
lao động, gây sức ép cắt giảm mức tiền công và tạo ra thất nghiệp?
Hầu như không có mấy bằng chứng chứng minh rằng di cư tạo ra thất
nghiệp trong thị trường nơi đến. Suy nghĩ một cách lôgic, những người di cư
không bao giờ chuyển đến những nơi có mức thất nghiệp cao vì mục đích của
họ là tối đa hóa lợi ích thu được. Họ đến cùng với nhu cầu về các dịch vụ nhà
ở, v.v. Những nhu cầu này tạo ra việc làm mới cho thị trường nơi đến, nhất là
khi người di cư thường đang còn trẻ và bắt đầu tạo dựng gia đình cho riêng
mình, v.v.
Có khá nhiều bằng chứng cho thấy rằng nhập cư không phải là nguyên
nhân khiến cho mức thất nghiệp tăng cao. Người ta cho rằng di cư là động lực
thúc đẩy các thị trường lao động đạt được mức cân bằng, điều chỉnh cung lao
động và mức tiền công cho đến khi chúng ta có được những khác biệt đền bù
hoàn hảo.

12


Tuy nhiên, rất nhiều bằng chứng chứng tỏ rằng di cư không làm được

điều đó, thị trường lao động không đạt được mức cân bằng. Nguyên nhân có
thể là do tính cứng nhắc của thị trường lao động, mức phí di cư cao hoặc thị
trường lao động bị bóp méo do các chương trình của chính phủ. Vẫn tồn tại
những khác biệt về tiền công và thất nghiệp lớn giữa các vùng. Trạng thái cân
bằng đầy đủ chưa bao giờ xảy ra.
2.1.3.3 Tác động của di cư đối với thị trường lao động nơi đi
Một quốc gia sẽ phải chịu bốn cái mất lớn từ hiện tượng chảy máu chất
xám do di cư lao động tạo ra.
i. Chính Phủ của quốc gia bị chảy máu chất xám phải chi trả cho phí đào
tạo những người di cư, phần lớn trong số họ là những người có học vấn cao.
ii. Những người di cư thường là những người đóng góp tài chính ròng.
Khoản thuế họ nộp nhiều hơn khoản trợ cấp chi cho họ.
iii. Một phần để hỗ trợ những cá nhân này là phải vay nợ song họ lại
không góp phần giúp chi trả những khoản nợ đó.
iv. Cái mất thứ tư, và cũng là cái mất nghiêm trọng nhất là những người
di cư bằng chính việc di cư đang thể hiện rằng họ chính là những người lao
động đầy tài năng và năng động, sáng tạo. Trong nhiều trường hợp họ chính
là các nhà phát minh, sáng chế của đất nước. Mất đi những cá nhân ưu tú này,
tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước sẽ bị kéo chậm lại.
Vậy đâu là giải pháp khả thi cho tình trạng Chảy máu Chất xám? Chính
cơ hội việc làm chứ không phải thu nhập sau thuế là động lực khuyến khích
mọi người di cư. Bởi vậy, việc ủng hộ cho nỗ lực theo đuổi các chính sách
kinh tế vĩ mô góp phần tạo ra nhiều việc làm hơn là cần thiết. Hơn nữa các cá
nhân sẵn sàng chấp nhận một mức thuế cao hơn, thu nhập thấp hơn nếu những
khía cạnh khác của đời sống của họ được đảm bảo ở mức cao hơn.
2.1.3.4 Ảnh hưởng của di cư
* Ảnh hưởng của di cư tới dân số
- Tác động tới quy mô, cơ cấu dân số: Cơ cấu theo tuổi và giới tính có
thể thay đổi. Người di cư thường là người trẻ tuổi ( từ 20 - 40 tuổi), không có
13



sự phân biệt về giới tính, cả nam và nữ đều di cư. Người di cư thường có tình
trạng kinh tế xã hội ở mức cao hơn trung bình ở nơi đi và thấp hơn trung bình
ở nơi đến.
- Tác động tới tăng trưởng dân số: phụ thuộc vào tổng lượng nhập cư và
số nhập cư tích luỹ, tương quan giữa số dân nhập cư so với số dân bản địa, sự
khác biệt về mức sinh giữa các nhóm dân cư này.
* Ảnh hưởng của di cư tới các vấn đề kinh tế xã hội
Di cư là một hiện tượng kinh tế xã hội mang tính quy luật, một cấu thành
tất yếu của sự phát triển. Nó gây ra một số tác động sau:
Tác động tích cực:
i. Góp phần nâng cao thu nhập
ii. Bù đắp vào phần thiếu hụt trong lực lượng lao động
iii. Đẩy mạnh quá trình phát triển công nghiệp dịch vụ
iv. Góp phần hình thành thị trường lao động thống nhất trong toàn quốc
v. Thúc đẩy quá trình giao lưu văn hóa xã hội ở vùng nông thôn
Tác động tiêu cực
i. Làm giảm năng lực sản xuất ở nơi đi ( do thanh niên di cư ra thành thị).
ii. Gây ra sự quá tải dân số tại thành phố lớn, sức ép đối với hệ thống vận
tải,nhà ở, y tế, cung ứng điện nước và vệ sinh môi trường.
iii. Một bộ phận người di cư gây ra tệ nạn xã hội và mất trật tự tại thành
phố lớn gây khó khăn trong việc quản lý và quy hoạch đô thị.
iv. Phần lớn những người dân di cư khó có khả năng tiếp cận các dịch vụ
xã hội.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Tình hình di cư trên thế giới
2.2.1.1 Khái quát về di cư lao động trên thế giới
Di cư là nét đặc trưng của toàn cầu hoá, có tác động rất lớn đến nền
kinh tế toàn cầu. Theo số liệu thống kê, đến năm 2010 trên toàn thế giới ước

tính có 190 triệu người lao động di cư quốc tế, tương ứng với 3% dân số thế
14


giới. Tại thời điểm hiện nay có trên 86 triệu lao động di cư, trong đó 34 triệu
người đang làm việc ở các nước đang phát triển và phụ nữ chiếm 49% người
lao động di cư trên thế giới. Trong số những người lao động di cư quốc tế,
khoảng 10 – 15% lao động di cư trong tình trạng không hợp pháp. Việc di cư
lao động đã giải quyết được phần lớn nạn dôi dư lao động ở một số nước, nhất
là các nước đang phát triển. Bên cạnh đó những người lao động di cư gửi về
nước họ một lượng tiền đáng kể. Năm 2007 công dân di cư từ các nước đang
phát triển đã chuyển về nước mình hơn 240 tỷ USD thông qua các kênh
chuyển tiền chính thống. Theo ngân hàng thế giới (WB) năm 2005 các nước
ngoài đã báo cáo thu 167 tỷ USD từ nguồn lao động hải ngoại, nhiều hơn
khoản viện trợ nước ngoài. Ở Mỹ ít nhất 39 tỷ USD đã chảy ra khỏi nước này
bởi dân nhập cư. Theo WB, số dân di cư trên thế giới tăng từ 120 triệu tới
175 triệu trong thập niên 90 và số tiền họ gửi về nước mỗi năm tăng lên gấp 3
lần trong thập niên này (www.sggp.org.vn).
2.2.1.2 Di cư lao động ở Châu Á
Từ những năm 1980 số lao động di cư hàng năm của châu Á mỗi năm
tăng gần 3 triệu người, tiền gửi về quê hương họ cũng lên đến khoảng 76tỷ
USD/ năm. Ở Philippin số tiền gửi về chiếm 14% GDP, ở Việt Nam con số
này là 7%. Điều đáng chú ý là tỷ lệ nữ di cư ngày một cao. Những năm gần
đây ở Sri-lanca và Inđônêsia tỷ lệ này lần lượt là 3/5 và 4/5. Về một mặt nào
đó, số lao động di cư tìm kiếm việc làm có thể minh chứng cho sự năng động
của khu vực nhưng đồng thời lại đặt ra không ít vấn đề phức tạp về chinh sách
quản lý. Nhiều lao động giản đơn, trình độ tay nghề thấp là nạn nhân của sự
lạm dụng và bóc lột. Chỉ tính riêng ở Đông Nam Á, mỗi năm ước khoảng
225000 phụ nữ và trẻ em rơi vào tệ nạn nói trên.
Lao động di cư đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng quốc gia. Các

nước xuất khẩu lao động thu được ngoại tệ, có thêm cơ hội nâng cao tay nghề
cho lao động nước mình. Tỷ lệ lao động di cư ở một số nước châu Á: Brunây

15


60%, Singapo 25.8%, Malaysia 17.7%, Hồng Kông 6.6%, Đài Loan 5.9%,
Thái Lan 5.5%, Nhật Bản 1.4%, Hàn Quốc 1.3%.
Trong khoảng 10 - 15 năm gần đây, ASEAN đang trở thành một khu
vực có hoạt động di cư quốc tế mạnh. Thực tế việc di chuyển các nhà kinh
doanh, lao động có kỹ năng và những người tài giỏi được coi là một trong
những chiến lược căn bản của ASEAN để tiến tới thiết lập thị trường lao động
luân chuyển nội bộ ASEAN vào năm 2015.
- Di cư lao động không có kỹ năng
Di cư lao động ở ASEAN tăng nhanh được thể hiện rõ ở mức tăng liên
kết thị trường lao động khu vực năm 2005. Số lao động di cư ASEAN làm
việc ở nước ngoài chiếm khoảng 13.6 triệu người, trong đó 39% làm việc nội
bộ ASEAN, Singapore phát triển kinh tế dựa vào chiến lược sử dụng lao động
di cư thông qua cơ chế quota và thuế. Trong khi đó Malaysia và Thái Lan
thực hiện chiến lược mở cửa đối với lao động di cư từ nước khác trong khu
vực. Trong các nước ASEAN, Philippin là nước có số lao động di cư ra nước
ngoài nhiều nhất với 4.7 triệu người, chỉ có 14% làm việc cho các nước trong
khu vực.
Do có sự khác biệt về thu nhập giữa các nước trong khu vực nên có sự di
cư lao động từ nước có mức tiền lương thấp tới nước có mức tiền lương cao hơn.
90% lao động Myanmar di cư sang Thái Lan, 59% lao động Inđônêsia tập trung
ở các nước ASEAN, 73% lao động Malaysia làm việc tại Singapore
Di cư tăng lao động tăng nhanh giữa các quốc gia ASEAN đem lại lợi
ích cho nước nhận lao động, nước gửi lao động, người lao động di cư. Đối với
nước nhận lao động lợi ích được thể hiện ở chỗ làm gảim sự thiếu hụt lao động

và nâng cao mức tăng trưởng kinh tế. Đối với nước gửi lao động, lao động di
cư có tác dụng tích cực đến việc giảm nghèo đói. Tổng số tiền gửi về của lao
động di cư ở các nước ASEAN ước tính lên tới 26 tỷ USD năm 2005, trong đó
Philippin chiếm 62% (đứng thứ 3 trên thế giới sau Ấn Độ và Thái Lan). Việt
16


Nam 15%. Tuy nhiên bên cạnh những lợi ich tích cực, di cư lao động cũng gây
nên một số tieu cực, đó là nạn chảy máu chất xám, sự phụ thuộc.

-Di cư lao động có kỹ năng
Khác với di cư lao động không có kỹ năng, phần lớn lao động di cư có
kỹ năng quản lý chuyên môn cao đến từ các nước ngoài ASEAN ( Mỹ, Châu
Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc...). Họ đến làm việc với danh nghĩa đầu tư trực tiếp
nước ngoài và theo yêu cầu của chính phủ các nước ASEAN. Các nhà quản lý
chuyên môn Nhật Bản nổi tiếng thế giới với các dự án FDI vào Malaysia,
Thái Lan, Philippin, Inđônêsia.Trong thời kỳ ngành công nghiệp suy thoái, xu
hướng chung của một số nước ASEAN là tập trung lao động có kỹ năng trong
các ngành chế tạo và dịch vụ. Phần lớn các chuyên gia có kỹ năng ở Iđônêsia
làm việc trong các ngành công nghiệp khai mỏ, chế tạo, nhà hàng, khách sạn,
công nghiệp du lịch. Ngược lại ở Philippin chủ yếu tập trung trong ngành chế
tạo. Các nước ASEAN đều có nhu cầu trao đổi lao động có kỹ năng chuyên
môn với nhau trong các ngành kế toán, cơ khí, kỹ sư thiết kế. Theo cơ quan
xúc tiến thương mại quốc tế Nhật Bản (JETRI) hiện ASEAN đang thiếu
khoảng 54.1% lao động có kỹ năng trong các ngành cơ khí, 39.7% trong
ngành điện, điện tử (www.cpv.org.vn).
2.2.1.3 Quản lý di cư lao động tại một số nước Châu Á
*Quản lý di cư ở Malaysia
Sự chuyển dịch cơ cấu lao động ở Malaysia diễn ra rất nhanh chóng bởi
sự tác động của quá trình CNH - HĐH. Nó khiến làn sóng di cư lao động từ

nông thôn ra thành thị tăng lên mạnh mẽ. Lao động nông nghiệp giảm mạnh
từ 60% năm 1957 xuống còn 12% năm 2005. Để quản lý luồng di cư này
Malaysia đưa ra chính sách nhằm làm giảm khoảng cách giữa nông thôn và
thành thị bằng việc phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn, cung cấp các điều
kiện tốt hơn cho nông thôn, đặc biệt chú ý giáo dục và đào tạo.

17


Chính Phủ Malaysia đưa ra 5 nhóm chính sách (bao gồm cả trực tiếp và
gián tiếp) để có thể quản lý lao động di cư.
i. Phát triển đa dạng sản xuất nông nghiệp, chuyển từ trồng cao su là
chính sang phát triển cọ dầu, cây lương thực và một số cây ngắn ngày khác.
Tăng cường chế biến công nghiệp đảm bảo liên kết giữa nhà máy chế biến và
người trồng nguyên liệu thông qua cơ chế lợi ích, phát triển bền vững gắn với
công nghệ sinh học thân thiện với môi trường.
ii. Đẩy mạnh thực hiện chương trình khai hoang để người dân nông thôn
có đủ điều kiện cần thiết ổn định cuộc sống , không rơi vào bần cùng hoá.
iii. Phát triển các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn, đặc biệt là các
hoạt động truyền thống, cần có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các nghệ nhân.
iv. Đầu tư cho giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Các
trường học và trường dạy nghề đều nhận được sự hỗ trợ của nhà nước, học
sinh nghèo được miễn học phí và nhận được học bổng của chính phủ.
v. Nhập khẩu lao động để đáp ứng nhu cầu sẩn xuất trong nước, năm
2004 Malaysia đã nhập khẩu 1359500 lao động ở nước ngoài.
* Quản lý di cư ở Trung Quốc
Trung Quốc duy trì chính sách kiểm soát di dân thông qua hệ thống
đăng kí hộ khẩu, giấy phép và làm việc tạm thời, hệ thống tem phiếu mua
lương thực cùng với các biện pháp khác để hạn chế di cư lâu dài, giới hạn tạm
thời chuyển dịch di chuyển nông thôn – thành thị. Luồng di cư với quy mô

lớn tại Trung Quốc đã trở thành vấn đề xã hội
Trung quốc không thể giải quyết hết việc làm cho người lao động vì
vậy khoảng 100 – 150 triệu lao động nông thôn buộc phải di chuyển. Thực tế
di cư lao động nông thôn ra thành thị đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Các
cuộc cải cách đã dẫn đến những thay đổi to lớn về phát triển kinh tế nhưng
đồng thời cũng tạo ra những bất bình đẳng mới, phân hoá ngày càng sâu sắc
đặc biệt sau quá trình triệt để hoá cải cách thị trường vào năm 1997 – 1999.
Ngoài nguyên nhân bất bình đẳng về thu nhập thuần tuý, còn nguyên nhân về
18


sự khác biệt trong tiếp cận dịch vụ an sinh xã hội, trợ cấp xã hội, nhà ở, giáo
dục, chăm sóc sức khoẻ trở nên ngày càng gay gắt khi hình thái kinh tế thị
trường được thay thế cho hệ thống sở hữu tập thể cũ ở nông thôn.
Chính quyền Trung Quốc đã nhận biết được những vấn đề nảy sinh của
việc di dân và xác định những năm cuối của thập niên 90s là thời điểm chín
muồi để thực hiện những thay đổi có tính quyết định, bao gồm đánh giá lại
vai trò của việc di cư. Lao động di cư được xác định có vai trò chính trong
phát triển kinh tế của đất nước, nhờ đó một số khởi xướng về chính sách đã
được thực hiện nhằm mục đích khơi thông thị trường lao động trong khắp
Trung Quốc, đảm bảo cho công nhân nhập cư được đối xử công bằng hơn,
nhằm giải quyết những xung đột giữa người nhập cư từ nông thôn và những
người sử dụng lao động ở nơi đến. Những cải cách quan trọng nhất đối với
vấn đề di cư nhằm hướng tới tự do hoá thị trường lao động trên khắp Trung
Quốc gồm các nội dung về cải cách hệ thống quản lý hộ khẩu, xây dựng thị
trường lao động thống nhất, chính sách về đảm bảo đối xử công bằng với lao
động di cư.
*Quản lý di cư ở Hàn Quốc
Sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị một phần là do quá trình
CNH – HĐH đất nước. Trong những năm 60 của thế kỉ XX sự di dân tới khu

vực đô thị đã gây ra nhiều vấn đề tiêu cực, thậm chí còn cản trở quá trình
phát triển nền kinh tế của Hàn Quốc. Biện pháp chính phủ nước này đưa ra là
khuyến khích phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn để người dân được tiếp
cận tốt hơn với cơ hội việc làm phi nông nghiệp ở ngay tại địa phương mình.
Có 5 hướng tạo việc làm phi nông nghiệp mà Hàn Quốc đã sử dụng:
i. Phát triển hoạt động phi nông nghiệp truyền thống ở nông thôn trong
đó đặc biệt chú ý đến chế biến nông sản và sử dụng tài nguyên tại chỗ kết
hợp với phát triển làng xã thông qua phong trào làng mới, phát triển các thị
trấn thị tứ, cơ sở hạ tầng nông thôn.
ii. Đưa nhà máy về nông thôn, xây dựng các cụm công nghiệp nông thôn
iii. Khuyến khích các loại hình kinh doanh du lịch dựa trên khai thác lợi
thế về sản xuất nông nghiệp, văn hóa xã hội của cộng đồng nông thôn
19


iv. Phát triển cơ sở hạ tầng đảm bảo điều kiện sinh sống và làm việc cho
lao động di cư ở nơi đến
v. Nhập khẩu lao động để giải quyết vấn đề thiếu hụt sức lao động trong
phát triển nền kinh tế (www.cpv.org.vn).
2.2.2 Tình hình di cư ở Việt Nam
2.2.2.1 Di cư lao động trong khu vực nội địa Việt Nam
* Di cư lao động giữa các vùng trong cả nước
Thực tế của quá trình di cư ở Việt Nam diễn ra từ rất lâu.Trong những
thập kỉ trước, số lượng người di cư lớn nhất là trong những đợt di cư có tổ
chức của nhà nước đi làm kinh tế mới. Thời gian gần đây, đặc biệt là 10 năm
trở lại đây, số lượng người di cư tự do tăng lên so tác động của các quan hệ
kinh tế thị trường hơn là theo kế hoạch của nhà nước. Các vùng có tốc độ
công nghiệp hoá và đô thị hoá nhanh là các vùng thu hút số lượng người nhập
cư lớn, ngoài ra cũng có một số lượng người di cư từ các vùng nông thôn tới
các vùng nông thôn khác, chẳng hạn người di cư từ các tỉnh phía Bắc vào Tây

Nguyên. Năm 2004 cả nước có tổng 387241 người di cư . Trong đó tỷ lệ lao
động di cư khỏi vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ trên tổng số người đang làm
việc của vùng là 3.38% lớn nhất so với các vùng khác trong cả nước, trong
khi tỷ lệ này ở ĐBSH, Bắc Trung bộ, ĐBSCL là tương đương nhau với
khoảng trên 1%. Số lượng lao động di cư ra khỏi vùng Duyên hải miền trung
tới hơn 118 ngàn người do vậy vẫn là vùng có điều kiện tự nhiên khó khăn,
phát triển kinh tế còn thấp, không thu hút được nhiều lao động địa phương.
Xét về phương diện tiếp cận lao động di cư, tỷ lệ lao động di cư tới vùng
Đông Nam Bộ là lớn nhất chiếm tới 4.16% lực lượng lao động hoạt động kinh
tế của vùng, tiếp đó là Tây Nguyên (1.1%) và vùng Đông Bắc (0.86%). Trước
đây nhà nước có các chưong trình di chuyển dân cư và lao động tới Tây
Nguyên theo kế hoạch. Hiện nay các chương trình này không còn thực sự tiếp
tục nhưng nông dân vẫn di chuyển vào đây do Tây Nguyên vẫn còn là vùng

20


×