Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ PHÁT HUY VAI TRÒ của tổ CHỨC CÔNG đoàn TRONG các DOANH NGHIỆP có vốn đầu tư nước NGOÀI TRÊN địa bàn THÀNH PHỐ hà nội góp PHẦN GIỮ VỮNG ổn ĐỊNH CHÍNH TRỊ xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.21 KB, 107 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp
công nhân; là trường học XHCN, chỗ dựa tin cậy của người lao động Việt
Nam, chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị nước ta. Trong
suốt tiến trình lịch sử đấu tranh, xây dựng và phát triển của GCCN Việt Nam,
công đoàn đã từng bước trưởng thành, thể hiện rõ vai trò của là một tổ chức
đoàn thể CT - XH, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của công nhân,
viên chức - lao động, góp phần to lớn xây dựng GCCN, viên chức nhà nước,
cùng với hệ thống chính trị và toàn dân xây dựng môi trường chính trị - xã hội
ổn định đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ cách mạng.
Tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN là tổ chức
CĐCS - một bộ phận của Công đoàn Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong
việc đại diện cho công nhân đấu tranh bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng cho họ; tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức chính trị, giác ngộ
giai cấp ý thức pháp luật; tham gia quản lý doanh nghiệp, giải quyết quan hệ
lao động, quan hệ lợi ích giữa công nhân và người sử dụng lao động, xây
dựng cơ sở CT - XH vững chắc, góp phần giữ vững ổn định CT - XH trên địa
bàn.
Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học của cả nước.
Với ưu thế và tiềm năng của một Thủ đô ngàn năm văn hiến, Hà nội luôn là
nơi hấp dẫn của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, các doanh nghiệp
tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong những năm gần đây, Hà nội
hình thành và phát triển mạnh mẽ các khu công nghiệp tập trung, các doanh
nghiệp có vốn ĐTNN đã thu hút một lực lượng lao động lớn tham gia. Quá
trình hoạt động, Công đoàn trong các doanh nghiệp này đã thể hiện vai trò
của mình đối với công nhân và người sử dụng lao động, bảo đảm cho doanh
nghiệp hoạt động ổn định, bền vững, phát triển góp phần giữ vững ổn định CT



2

- XH Thủ đô. Tuy nhiên, trước những tác động của quá trình hội nhập quốc
tế, mặt trái của nền kinh tế thị trường và âm mưu “Diễn biến hoà bình” của kẻ
thù, thì vai trò của công đoàn ở số không ít các doanh nghiệp còn mờ nhạt,
hiệu quả kém. Mâu thuẫn trong quan hệ lao động, quan hệ lợi ích giữa công
nhân và chủ doanh nghiệp không được giải quyết kịp thời, dẫn đến hiện tượng
đình công của công nhân ngày một gia tăng cả về số vụ, quy mô và tính chất
rất phức tạp. Những dấu hiệu mất ổn định CT - XH từ hiện tượng đình công
của công nhân trở nên hiện hữu.
Trước yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung, xây dựng
Thủ đô Hà Nội nói riêng, các doanh nghiệp có vốn ĐTNN ngày càng phát
triển, những nhân tố ảnh hưởng đến việc giữ vững ổn định CT - XH sẽ còn
tiềm ẩn và phức tạp. Kẻ thù của chủ nghĩa xã hội sẽ lợi dụng những mâu
thuẫn nội bộ, những nhân tố bất ổn từ phong trào công nhân nói chung, hoạt
động của công nhân, công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN để
chống phá, hòng lái nước ta đi chệch hướng XHCN. Do vậy, việc phát huy
vai trò của tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trên địa
bàn Thành phố Hà Nội góp phần giữ vững ổn định CT - XH là vấn đề bức
thiết hiện nay. Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra, tác giả chọn đề tài:
“Phát huy vai trò tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hà Nội góp phần giữ vững ổn định
chính trị - xã hội hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước yêu cầu sự nghiệp đổi mới đất nước, GCCN và tổ chức công
đoàn phải thực sự là giai cấp lãnh đạo, là lực lượng tiên phong trong sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước; là lực lượng quan trọng góp phần giữ vững ổn
định CT - XH trên địa bàn hoạt động và cả nước. Trong thời gian vừa qua đã
có nhiều công trình nghiên cứu về GCCN và tổ chức công đoàn như: “Xây

dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại


3

hoá đất nước” của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Viện Công nhân và
Công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội, năm 1999; “Đảng Cộng sản Việt Nam
với giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam” của Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội, năm 2000; “Nâng cao hiệu quả hoạt
động của công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài” của Viện Công nhân và Công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội, năm
2003; “Nâng cao vai trò của công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp ngoài quốc
doanh trên địa bàn Thành phố Hà Nội” của Liên đoàn Lao động Thành phố
Hà Nội, Nxb Lao động, Hà Nội, năm 2006; Kỷ yếu Hội thảo khoa học về
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Công đoàn Việt Nam thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế, quốc tế” của
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội, năm2007. Một
số luận án, luận văn bàn về công nhân và vai trò của công đoàn như: “Ý thức
chính trị của công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở
nước ta hiện nay” của Dương Thị Thanh Xuân, Luận án tiến sỹ triết học,
chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2007; “Phát huy vai trò của công đoàn
trong nâng cao ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa ở các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay” của Nguyễn Ngọc
Liệu, Luận văn thạc sỹ triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học,
Học viện Chính trị quân sự, năm 2004; “Sự lãnh đạo của Thành uỷ đối với
công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Hà Nội giai
đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Lan Minh, Luận văn thạc sỹ, chuyên ngành
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội, năm 2007. Một số đề tài bàn về
ổn định CT - XH như: “Ổn định chính trị – xã hội trong công cuộc đổi mới ở

Việt Nam” của Tiến sỹ Nguyễn Văn Cư, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm
2004; “Vai trò của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong việc giữ vững ổn


4

định chính trị – xã hội ở khu vực Đồng bằng Sông Hồng nước ta hiện nay”
của Mai Đức Ngọc, Luận án tiến sỹ ngành Chính trị học, Hà Nội, năm2007.
Tất cả các công trình nghiên cứu trên đã tập trung phân tích và khẳng
định những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò sứ mệnh lịch sử
của GCCN; vai trò của Công đoàn trong tập hợp, giáo dục, giác ngộ GCCN
Việt Nam. Một số công trình đã phân tích cơ sở lý luận khoa học, vai trò của
ổn định CT – XH và trách nhiệm của hệ thống chính trị, cán bộ lãnh đạo trong
giữ vững ổn định CT - XH góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới
đất nước. Có công trình đã đề cập đến việc phát huy vai trò của tổ chức công
đoàn trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, song chưa có công trình đề tài
nào đề cập đến việc xây dựng và phát huy vai trò tổ chức công đoàn trong các
doanh nghiệp có vốn ĐTNN góp phần giữ vững ổn định CT - XH trên địa bàn
Thành phố Hà nội hiện nay mà tác giả lựa chọn là một công trình khoa học
độc lập, không trùng lắp với bất cứ công trình khoa học nào đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai
trò tổ chức Công đoàn, luận văn đề xuất một số yêu cầu và giải pháp cơ bản
nhằm phát huy vai trò tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN
trên địa bàn Thành phố Hà Nội góp phần giữ vững ổn định CT - XH hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Làm rõ vị trí của Công đoàn Việt Nam và đặc điểm hoạt động của công
đoàn trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
+ Đưa ra quan niệm ổn định CT - XH và phân tích vai trò tổ chức công đoàn
trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN góp phần giữ vững ổn định CT - XH hiện

nay.
+ Phân tích thực trạng đội ngũ công nhân và vai trò tổ chức công đoàn
trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trên địa bàn thành phố Hà nội hiện nay.


5

+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò tổ chức công
đoàn trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN góp phần giữ vững ổn định CT XH trên địa bàn thành phố Hà nội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng: Vai trò của công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN góp phần giữ vững ổn định CT – XH là đối tượng nghiên cứu của luận
văn
* Phạm vi nghiên cứu: ở nước ta hiện nay có nhiều thành phần kinh tế,
song luận văn chỉ nghiên cứu vai trò tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp có
vốn ĐTNN trên địa bàn Thành phố Hà Nội, được hình thành sau khi có Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
GCCN và tổ chức Công đoàn. Đồng thời luận văn tham khảo các công trình
nghiên cứu đã công bố của tổ chức và cá nhân các nhà khoa học.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là: luận văn được thực hiện trên cơ sở
khảo sát thực trạng về đội ngũ công nhân và vai trò của công đoàn trong
doanh nghiệp có vốn ĐTNN trên địa bàn Thành phố Hà Nội, tập trung chủ
yếu ở các khu công nghiệp tập trung như, Thăng long, Đông Anh; khu công
nghiệp Sài Đồng (A, B); khu công nghiệp Nam Thăng Long.
- Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
lô gíc - lịch sử, phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, điều tra xã hội
học, tranh thủ ý kiến của chuyên gia…để nghiên cứu nhằm thực hiện mục

đích và nhiệm vụ của luận văn.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần cung cấp những luận cứ khoa học giúp cho Thành
uỷ, Chính quyền và công đoàn các cấp Thành phố Hà Nội xác định chủ


6

trương phương hướng lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện nhằm phát huy
vai trò của công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học
tập ở các Học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương 4 tiết, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.


7

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ TỔ CHỨC CÔNG
ĐOÀN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI GÓP PHẦN GIỮ VỮNG
ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI HIỆN NAY

1.1. Tổ chức công đoàn và đặc điểm hoạt động của nó trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Thành phố
Hà Nội hiện nay
1.1.1. Vị trí, chức năng của Công đoàn.

* Vị trí của Công đoàn:
Sự phát triển của GCCN và phong trào công nhân tất yếu dẫn đến sự
hình thành các tổ chức chính trị để tập hợp lực lượng và tạo nên sức mạnh to
lớn bảo vệ lợi ích của mình. Sức mạnh của GCCN chính là ở tổ chức. Mỗi cá
thể đơn lẻ cũng như toàn bộ giai cấp chỉ có sức mạnh to lớn khi được tập hợp
và tôi luyện trong tổ chức, kề vai sát cánh trong cuộc đấu tranh giai cấp.
Trong cuộc đấu tranh vì những lợi ích trước mắt cũng như có bản lâu dài để
lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, việc xuất hiện các tổ chức công đoàn
trong giai cấp công nhân như một quy luật phổ biến và tất yếu.
Tổ chức công đoàn ra đời do yêu cầu đòi hỏi của cuộc đấu tranh giai
cấp của GCCN nhằm bảo vệ những lợi ích kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội
của họ. Trong suốt tiến trình phát triển của GCCN, công đoàn luôn khẳng
định vị trí, vai trò là tổ chức tập hợp công nhân, bảo vệ lợi ích của họ, đấu
tranh chống áp bức, bóc lột, bất công; đồng thời là “trường học cộng sản chủ
nghĩa” cho công nhân, rèn luyện và nâng cao ý thức giác ngộ giai cấp, bản
chất cách mạng GCCN tiến hành đấu tranh giành lấy chính quyền đưa GCCN
và người lao động lên địa vị làm chủ xã hội. Trong cách mạng XHCN, công
đoàn càng khẳng định vai trò to lớn của mình đối với sự phát triển của


8

GCCN, đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Công đoàn Việt Nam ra đời đáp ứng đòi hỏi của cuộc đấu tranh của
GCCN Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX. Tiền thân của nó là sự ra đời
của tổ chức Công hội đỏ Bắc kỳ vào ngày 28 tháng 7 năm 1929 tại số nhà 15
Hàng Nón - Hà Nội. Công hội đỏ ra đời là kết quả tất yếu của quá trình phát
triển phong trào công nhân với sự truyền bá và vận dụng tài tình, sáng tạo
Chủ nghĩa Mác - Lênin của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Người đặt nền móng

cho sự ra đời và phát triển của Công đoàn Việt Nam. Đó là thành quả tất yếu
của quá trình đấu tranh cách mạng, bảo vệ lợi ích của dân tộc và quyền lợi của
thợ thuyền Việt Nam. Sự kiện này đánh dấu bước trưởng thành quan trọng về
chính trị và tổ chức của GCCN Việt Nam.
Gần 80 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dù ở bất
cứ hoàn cảnh nào, Công đoàn Việt Nam luôn trung thành với lợi ích giai cấp,
lợi ích của người lao động và của dân tộc, không xa rời mục tiêu độc lập dân
tộc và CNXH; phát huy tinh thần đoàn kết, tự lực, tự cường, vận động, tập hợp
công nhân, viên chức lao động đi đầu trong mọi phong trào hành động cách
mạng, viết nên trang sử hào hùng của GCCN và tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Ngay từ khi mới ra đời, bất chấp sự kiểm soát gắt gao của thực dân Pháp, công
đoàn vẫn hoạt động không mệt mỏi, tuyên truyền, vận động, tập hợp công
nhân, lao động ở các đồn điền, nhà máy, hầm mỏ, tổ chức GCCN kiên cường,
liên tục đấu tranh chống áp bức, bóc lột, đòi độc lập dân tộc.
Trong suốt tiến trình lịch sử đấu tranh cách mạng, Công đoàn Việt Nam
luôn khẳng định vị trí, vai trò của mình, xứng đáng là tổ chức chính trị – xã
hội góp phần to lớn vào cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc thống nhất nước
nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước vì mục
tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.


9

Điều 1, Luật Công đoàn Việt Nam đã khẳng định: “Công đoàn là một
tổ chức CT - XH rộng lớn của GCCN và của người lao động Việt Nam tự
nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; là thành viên
trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, là trường học chủ nghĩa xã hội
của người lao động” [1, tr. 9]. Như vậy, Công đoàn là thành viên của hệ thống
chính trị, luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với
cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo, bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của GCCN.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế,
quốc tế, vị trí của Công đoàn Việt Nam ngày càng được nâng cao. Các doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh với nước
ngoài, các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ngày một nhiều. Đó là điều
kiện khách quan cho sự phát triển mạnh mẽ của tổ chức công đoàn, đồng thời
cũng đặt ra những vấn đề mới. Đòi hỏi công đoàn phải đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động cho phù hợp để tập hợp công nhân và tiếp tục phát
huy vai trò tích cực của mình.
Là thành viên của hệ thống chính trị, là cầu nối giữa quần chúng với
Đảng và Nhà nước, công đoàn có trách nhiệm và vai trò to lớn trong tham gia
xây dựng Đảng, chính quyền, tham gia quản lý kinh tế, xã hội, quản lý Nhà
nước, giải quyết tốt mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với Đảng, Nhà
nước. Vì vậy, công đoàn không những tạo nguồn lực thúc đẩy quá trình CNH,
HĐH, hội nhập có hiệu quả cao mà còn khẳng định vị trí của công đoàn trong
đời sống kinh tế, chính trị, xã hội đất nước.
Trong mối quan hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam, công đoàn chịu sự
lãnh đạo của Đảng. Đảng thông qua tổ chức công đoàn liên hệ mật thiết với
GCCN, giúp đỡ công đoàn làm tốt vai trò là tổ chức đại diện và bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của người lao động. Đảng thông qua công đoàn để đưa chủ


10

trương, đường lối, mục tiêu của Đảng vào công nhân, viên chức, lao động
động viên họ tích cực tiến hành sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Công đoàn thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò trường học
XHCN của mình, tham gia quản lý kinh tế - xã hội, quản lý Nhà nước, thuyết
phục quần chúng phát huy tính chủ động sáng tạo trong công cuộc xây dựng
xã hội mới, thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng. Sự tồn tại của công đoàn

chỉ có nghĩa khi bản thân tổ chức này biết phát huy vai trò, thực hiện tốt mục
tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của mình. Công đoàn là tổ chức chính trị – xã
hội của GCCN, là “chiếc cầu” và “sợi dây” liên hệ nối liền Đảng, Nhà nước
với quần chúng. V. I. Lênin đã chỉ rõ: “Công đoàn đứng giữa Đảng và chính
quyền Nhà nước” [11, Tr. 250].
Như vậy, công đoàn là tổ chức độc lập nhưng không biệt lập. Đảng ta
là Đảng lãnh đạo được lịch sử và dân tộc lựa chọn và giao trọng trách, cho
nên công đoàn cũng là một tổ chức thống nhất gắn kết chặt chẽ với Đảng.
Đảng thể hiện vai trò lãnh đạo công đoàn, còn công đoàn có trách nhiệm tham
gia xây dựng Đảng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Phong trào
công đoàn chỉ có thể tiếp nhận sự lãnh đạo của Đảng mới trở thành phong trào
tự giác đi theo con đường phát triển lành mạnh.
Trong mối quan hệ công đoàn với Nhà nước, đó là quan hệ hợp tác.
Công đoàn là tổ chức thể hiện cơ sở giai cấp và cơ sở xã hội của Nhà nước.
Nhà nước tạo điều kiện cho công đoàn hoạt động. Công đoàn vận động công
nhân, viên chức, lao động thực hiện chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà
nước. Nhà nước tôn trọng và giải quyết nhiều kiến nghị của công đoàn một
cách hữu hiệu, tạo điều kiện pháp lý cho công đoàn hoạt động. Công đoàn
phát huy vai trò tham gia, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước. V. I.
Lênin khẳng định: “Không có một nền móng như các tổ chức công đoàn thì
không thể thực hiện được các chức năng Nhà nước” [11, tr. 250]. Vì vậy, giải
quyết tốt mối quan hệ giữa công đoàn với Nhà nước, tạo cơ sở xã hội - chính


11

trị thuận lợi cho cả hai tổ chức này hoàn thành tốt hơn vai trò của mình trong
hệ thống chính trị Việt Nam.
Trong mối quan hệ giữa công đoàn với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội, thì công đoàn là thành viên của Mặt trận Tổ quốc. Công

đoàn tham gia vào Mặt trận Tổ quốc với tư cách là một tổ chức độc lập, có
đối tượng vận động cụ thể là công nhân, viên chức, lao động; có chức năng,
nhiệm vụ, phương pháp hoạt động riêng của mình. Công đoàn góp phần to lớn
vào mục tiêu hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, khơi dậy tiềm năng, sức sáng
tạo, tinh thần yêu nước, truyền thống cách mạng kiên cường của công nhân,
viên chức, lao động, tăng thêm sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Như vậy, mối quan hệ giữa công đoàn với Mặt trận Tổ quốc là quan hệ hiệp
thương, dân chủ, thống nhất hành động.
Với các Đoàn thể chính trị - xã hội như Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ,
Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, công đoàn có quan hệ bình đẳng, phối hợp
nhằm hoàn thành mục tiêu chính trị của Đảng.
Hệ thống chính trị XHCN Việt Nam là một thể thống nhất, các thành
viên của nó có mối quan hệ biện chứng với nhau. Vì vậy xây dựng tổ chức
công đoàn gắn liền với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị.
Thực tiễn đã chứng minh, từ khi ra đời đến nay, Công đoàn Việt Nam
đã thể hiện được vị trí xã hội của mình góp phần không nhỏ vào thắng lợi của
cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân; cách mạng XHCN và thực hiện
sự nghiệp đổi mới đất nước.
Khi giai GCCN chưa giành được chính quyền, công đoàn tích cực
tuyên truyền tập hợp công nhân, lao động đấu tranh chống áp bức, bóc lột, đòi
độc lập dân tộc. Những cuộc đấu tranh của GCCN Việt Nam đầu thế kỷ XX
ngày càng phát triển mạnh mẽ với quy mô rộng lớn, đã thể hiện sức mạnh
đoàn kết của toàn dân tộc mà nòng cốt là khối liên minh công - nông trong
cuộc đấu tranh giành chính quyền.


12

Sau khi giành được chính quyền, GCCN trở thành giai cấp lãnh đạo xã
hội thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản, thì công đoàn là

trường học quản lý, trường học kinh tế và trường học giáo dục cộng sản chủ
nghĩa của GCCN. Vị trí của công đoàn lúc này được thể hiện cụ thể là: công
đoàn đã giúp cho công nhân nâng cao trình độ hiểu biết về kinh tế và năng lực
tham gia vào quá trình quản lý sản xuất, quản lý xí nghiệp và quản lý xã hội.
Công đoàn đã vận động công nhân tích cực tham gia vào việc hoàn thiện các
chính sách kinh tế, đẩy mạnh phong trào thi đua XHCN, nâng cao năng suất
lao động, chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong giai đoạn
hiện nay, công đoàn vận động công nhân, viên chức, lao động tích cực tham
gia vào việc quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng XHCN góp
phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp vào năm 2020. Công đoàn đã giáo dục công nhân và người lao động
có thái độ lao động mới tích cực, tự giác, có tổ chức, tính kỷ luật cao chân
trọng thành quả lao động; quyền lợi đi đôi với nghĩa vụ, hưởng thụ tương
xứng với cống hiến. Công đoàn còn tham gia giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống, văn hoá, pháp luật nhằm xây dựng GCCN trở thành những con
người mới XHCN.
* Chức năng của Công đoàn
Là một thành viên trong hệ thống chính trị XHCN, Công đoàn Việt
Nam có các chức năng cơ bản sau:
Một là, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân, viên
chức, lao động. Đây là chức năng cơ bản quan trọng nhất của tổ chức Công
đoàn Việt Nam. Trong xã hội cũ, khi GCCN còn là giai cấp bị áp bức, bóc lột
thì công đoàn là người tổ chức, tập hợp, đoàn kết công nhân đấu tranh đòi
quyền lợi chính đáng và giành lấy chính quyền. Ngay từ khi mới ra đời, công
đoàn đã thể hiện vai trò, chức năng của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: “Tổ chức công hội trước là để cho công nhân đi lại với nhau cho có cảm


13


tình; hai là để nghiên cứu với nhau; ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công
nhân cho khá hơn bây giờ; bốn là để giữ gìn lợi quyền cho công nhân; năm là
để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới” [4, Tr. 302]. Trong thời kỳ quá độ
đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập kinh tế, quốc tế, thì chức năng này của công
đoàn ngày càng quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng
của công nhân, viên chức, lao động.
Để thực tốt chức năng này, công đoàn phải phát huy tính độc lập của
mình nhưng không biệt lập, phối hợp với các cấp chính quyền, người sử dụng
lao động giải quyết việc làm cho công nhân, thực hiện đầy đủ các chế độ,
chính sách theo pháp luật. Đối với các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp
có vốn ĐTNN nói riêng, chức năng này đã được cụ thể hoá bằng các nghị
định của chính phủ kể cả các doanh nghiệp mới thành lập chỉ có tổ chức công
đoàn lâm thời. Ban chấp hành Công đoàn lâm thời có quyền: “Đại diện, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật” [23,Tr. 420].
Hai là, chức năng tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Trong
chế độ xã hội cũ, GCCN chưa có chính quyền, họ là những người làm thuê,
Nhà nước lúc này là nhà nước của giai cấp thống trị áp bức, bóc lột quần
chúng nhân dân lao động. Do đó GCCN họ không có được chức năng này.
Khi GCCN trở thành người lãnh đạo xã hội, họ cùng với những người lao
động trở thành chủ thể tham gia quản lý xã hội, thì tổ chức công đoàn từ vị trí
đối lập với nhà nước của giai cấp thống trị, bóc lột đã trở thành chỗ dựa,
người cộng tác đắc lực của Nhà nước. Chức năng tham gia quản lý của công
đoàn chính là sự phối hợp hoạt động giữa các cấp công đoàn với các cấp quản
lý của Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội theo mục tiêu
thống nhất, đảm bảo và bảo vệ lợi ích của GCCN. V. I. Lênin đã từng chỉ ra:
sự tham gia công đoàn vào công tác quản lý kinh tế và việc công đoàn lôi
cuốn quần chúng rộng rãi tham gia vào công tác đó, đồng thời cũng là biện



14

pháp chủ yếu để đấu tranh chống sự quan liêu hoá bộ máy kinh tế của chính
quyền Xô Viết và tạo khả năng thực sự kiểm tra thực tế của nhân dân đối với
kết quả sản xuất kinh doanh. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế với đa hình thức sở hữu
khác nhau. Vì vậy nội dung tham gia quản lý của công đoàn rất đa dạng,
phong phú tuỳ theo tính chất của mỗi đơn vị và doanh nghiệp.
Ba là, chức năng giáo dục công nhân, viên chức, lao động. Đây là chức
năng cơ bản của công đoàn. Trong chế độ bóc lột, công đoàn giáo dục cho
công nhân rõ bản chất bóc lột của giai cấp thống trị, giáo dục những hình
thức, biện pháp đấu tranh để giải phóng mình. Hiện nay, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có nhiều ưu điểm tích cực,
nhưng nó còn là “mảnh đất” làm nảy sinh những tiêu cực xã hội. Vai trò của
công đoàn hiện nay là giáo dục công nhân, viên chức, lao động nâng cao lập
trường giai cấp, lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, phát huy những giá trị
cao đẹp, truyền thống văn hoá dân tộc và tiếp thu những thành tựu tiên tiến
của văn minh nhân loại. Trong điều kiện hội nhập kinh tế, quốc tế, công đoàn
cần tuyên truyền để công nhân, viên chức, lao động nâng cao ý thức chính trị,
tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, cảnh giác trước những âm mưu “Diễn
biến hoà bình” của các thế lực thù địch; tích cực học tập nâng cao trình độ học
vấn, tay nghề, kiến thức pháp luật để tự bảo vệ mình, tồn tại và phát triển
trong nền kinh tế thị trường. Công đoàn thực hiện tốt chức năng giáo dục của
mình chính là góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh về
mọi mặt, đáp ứng yêu cầu thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.1.2. Tổ chức Công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN và
đặc điểm hoạt động của nó trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay
* Một số nét chính về địa bàn Thành phố Hà Nội



15

Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học của cả nước.
Từ ngày 1/8/2008, Thủ đô Hà Nội được mở rộng địa giới hành chính với diện
tích là: 334.470.02 ha; dân số là hơn 6 nghìn người. Sau hơn 20 năm đổi mới,
vượt qua nhiều thách thức, khó khăn, Đảng bộ và nhân dân Thành phố Hà Nội
đã đạt được những thành tựu quan trọng, tạo những biến đổi sâu sắc trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội Thủ đô. Trong bối cảnh quốc tế, khu vực
có những diễn biến phức tạp tác động và ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của
đời sống xã hội, Hà Nội vẫn luôn giữ vững ổn định CT – XH, niềm tin của
nhân dân với Đảng, chính quyền và sự nghiệp đổi mới đất nước được củng cố
vững chắc. Với điều kiện kinh tế - xã hội, Hà Nội không chỉ có vai trò quyết
định đối với việc phát triển tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng
Ninh và các tỉnh phía các tỉnh lân cận, mà còn tác động rất lớn tới tiến độ
CNH, HĐH đất nước nói chung.
Hà Nội được Đảng, Nhà nước quan tâm đặc biệt, tập trung đầu tư trong
quá trình xây dựng và phát triển. Có lợi thế trong việc tiếp cận các thành tựu
khoa học công nghệ và tinh hoa văn hoá thế giới, Hà Nội giải quyết kịp thời
những vấn đề kinh tế - xã hội phát sinh trong quá trình toàn cầu hoá, hội nhập
quốc tế và khu vực. Phần lớn các chuyên gia đầu ngành đang công tác, nghiên
cứu khoa học và giảng dạy ở Thủ đô. Hà Nội có nhiều tổ chức doanh nghiệp
hoạt động trong các ngành công nghệ hiện đại tiên tiến, nơi thu hút nguồn lực
chất xám của các nhà khoa học, các cán bộ ngành Trung ương; thu hút nguồn
lực lao động dồi dào từ các tỉnh miền Bắc.
Hoạt động đối ngoại của Thủ đô ngày càng được mở rộng. Hiện nay,
Hà Nội có quan hệ với Thủ đô, tổ chức kinh tế - xã hội của hơn 60 nước.
Thông qua hoạt động này vị thế của Thủ đô ngày càng nâng cao, góp phần
khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bên cạnh những thuận lợi, Hà Nội đang gặp phải những thách thức và

khó khăn đặt ra trong thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội, nhất là sau


16

khi mở rộng địa giới hành chính. Là trung tâm chính trị của đất nước, do vậy,
những chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước được ban
hành sớm nhất; đòi hỏi phải có sự mẫu mực triển khai tổ chức thực hiện nhằm
tạo ảnh hưởng và sức bật mới cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở các
tỉnh, thành phố khác. Dân số Hà Nội ngày càng tăng nhanh ảnh hưởng đến
công tác quản lý an ninh trật tự đô thị; sự gia tăng các loại tội phạm và tệ nạn
xã hội từ tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường; sự biến động về giá cả
sinh hoạt làm ảnh hưởng đến đời sống của người lao động hưởng lương trong
đó có công nhân.
Thành phố Hà Nội là địa bàn trọng yếu để các thế lực thù địch tập trung
chống phá. Với việc mở rộng địa giới hành chính gồm tỉnh Hà Tây, huyện Mê
Linh - Vĩnh Phúc trước đây- vốn đã có nhiều “điểm nóng” từ vấn đề đất đai
của nông dân, đình công của công nhân. Mặt khác, tình hình tư tưởng của
nhân dân, vấn đề tổ chức, cán bộ lãnh đạo quản lý chính quyền sẽ có những
biến động nhất định ở bộ phận này, bộ phận khác. Các thế lực thù địch, phần
tử bất mãn sẽ lợi dụng để chống phá. Cùng với việc tập trung phát triển kinh
tế, Thành phố Hà Nội phải coi trọng việc giữ vững ổn định CT – XH, nêu cao
cảnh giác đấu tranh làm thất bại âm mưu đen tối của kẻ thù.
Với những thành tựu to lớn đã đạt được, Hà Nội được bạn bè quốc tế
mệnh danh là “Thủ đô của lòng tin và phẩm giá con người”, được UNESCO
tặng danh hiệu “Thành phố vì hòa bình”, được Đảng, Nhà nước tặng danh
hiệu “Thủ đô anh hùng”. Hà Nội đạt được những thành tựu và danh hiệu cao
quý ấy do có sự sáng tạo, quyết tâm đổi mới của Đảng Bộ, chính quyền và
mọi tầng lớp nhân dân, trong đó có đội ngũ công nhân sống và làm việc tại
Thủ đô trở thành lực lượng đi đầu góp phần xây dựng Thủ đô văn minh, hiện

đại.
* Khái quát về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài


17

Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng từ năm 1986,
ngày 29/12/1987 Quốc Hội nước ta đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam. Sau khi Luật đầu tư có hiệu lực, thì các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN xuất hiện. Thời kỳ đầu các doanh nghiệp này chưa xếp vào thành phần
kinh tế riêng mà xếp vào thành phần kinh tế tư bản nhà nước, tư bản tư nhân
tuỳ theo hình thức sở hữu. Đến Đại hội IX, doanh nghiệp có vốn ĐTNN được
xác định là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, góp phần không nhỏ vào
quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam được hiểu là các đơn vị kinh
tế cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ một cách hợp pháp theo nhu
cầu thị trường, có sự tham gia góp vốn và quản lý của bên nước ngoài với tỷ
lệ góp vốn không thấp hơn 30% (trường hợp đặc biệt không thấp hơn 20%)
vốn pháp định của doanh nghiệp, được thành lập và hoạt động theo Luật đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam và các văn bản pháp luật liên quan, nhằm thu lợi
nhuận hoặc mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội[53, tr.20]. Từ quan niệm trên ở
nước ta hiện nay, doanh nghiệp có vốn ĐTNN có hai loại như sau:
Thứ nhất, Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài: là doanh nghiệp
do hai bên hoặc một bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng
liên doanh hoặc hiệp định ký kết giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam với chính phủ nước ngoài hoặc xây dựng tổ chức doanh
nghiệp mới tại Việt Nam do phía Việt Nam liên doanh với tổ chức, cá nhân
nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp này được thành lập
dưới hình thức: công ty trách nhiệm hữu hạn và là pháp nhân Việt Nam, có tư
cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Các doanh nghiệp hoạt động tuân

thủ các quy định của pháp luật Việt Nam, trừ những trường hợp các hiệp định
liên chính phủ mà Việt Nam tham gia ký kết có quy định khác.
Thứ hai, Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đây là doanh nghiệp do
tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư 100% vốn được phép thành lập tại Việt


18

Nam. Các doanh nghiệp cũng được tổ chức dưới hình thức công ty trách
nhiệm hữu hạn có quyền tự quản lý doanh nghiệp, được hưởng các quyền lợi
và phải thực hiện nghĩa vụ ghi trong giấy phép đầu tư, chịu sự kiểm soát của
các cơ quan Nhà nước và quản lý đầu tư nước ngoài, hoạt động trên cơ sở
tuân thủ pháp luật Việt Nam.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hà
nội
Với ưu thế về vị trí địa lý, đặc điểm kinh tế - xã hội của Thành phố Hà
Nội, từ năm 1991 đến nay trải qua các thời kỳ phát triển của doanh nghiệp
này, Hà Nội đã thu hút số lượng dự án FDI lớn với nhiều quốc gia và vùng
lãnh thổ tham gia. Doanh nghiệp có vốn ĐTNN trên địa bàn Thành phố Hà
Nội có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô,
những tác động tích cực được thể hiện đó là:
Doanh nghiệp có vốn ĐTNN góp phần tăng trưởng kinh tế của Thủ đô,
thu hút vốn quan trọng đầu tư phát triển, tăng nguồn thu ngân sách, góp phần
tạo ra những nguồn lực mới để phát triển kinh tế; góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế Thủ Đô theo hướng phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH;
nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra nhiều ngành nghề sản phẩm mới, tăng sức
cạnh tranh cho nhiều sản phẩm và doanh nghiệp trên địa bàn; nâng cao năng
lực quản lý, trình độ công nghệ, tay nghề lao động, tạo thêm nhiều việc làm
thu nhập tương đối ổn định cho công nhân. Tính đến hết năm 2007, Hà Nội
thu hút được 70.325 lao động tạo khu vực có vốn ĐTNN.

Tính đến cuối năm 2007, trên địa bàn Thành phố Hà Nội có 601 dự án
FDI (42 quốc gia và vùng lãnh thổ) với số vốn đầu tư đăng ký đạt 7,84 tỷ
USD, vốn đầu tư thực hiện đạt 4,5 tỷ USD, doanh thu một năm đạt 1,8 tỷ
USD, kim ngạch xuất khẩu đạt 600 triệu USD chiếm 21% kim ngạch xuất
khẩu Thành phố, tỷ trọng FDI trong GDP của Thành phố chiếm 15% nộp
ngân sách năm 200 triệu USD, thu hút trên 70.325 lao động, thu nhập bình


19

quân hàng tháng của công nhân làm việc trong doanh nghiệp này khoảng 1,6
triệu đồng/ tháng/người. [22, tr. 33].
* Đặc điểm hoạt động công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay
Tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trên địa bàn
Thành phố Hà Nội là một bộ phận công đoàn cơ sở của Công đoàn Thành phố
Hà Nội. Hiện nay, liên đoàn Thành phố Hà Nội đang quản lý trực tiếp 09 Liên
đoàn Lao động quận, 05 Liên đoàn Lao động huyện, 07 Công đoàn ngành, 10
công đoàn cấp trên cơ sở, 22 công đoàn cơ sở trực thuộc gồm 3.086 công
đoàn cơ sở với 267.525 đoàn viên. Trong đó, khu vực có vốn ĐTNN có 127
công đoàn cơ sở với 27.667 đoàn viên. Như vậy, doanh nghiệp có vốn ĐTNN
có công đoàn chuyên trách hoạt động còn thấp (127 trên tổng số 559 doanh
nghiệp chiếm 22,7%)[21, tr. 27]. Nhìn chung, công đoàn trong các doanh
nghiệp có vốn ĐTNN ngày càng trưởng thành, khẳng định vị trí, vai trò của
mình, là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân ,
là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH Thủ đô. Tổ chức công đoàn
trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN nói chung và trên địa bàn Thành phố
Hà Nội nói riêng có một số đặc điểm sau:
- Trong doanh nghiệp có vốn ĐTNN, quan hệ giữa công nhân với giới
chủ là quan hệ giữa đại diện của những người lao động làm thuê với những

người chủ sở hữu thuê lao động. Trong các doanh nghiệp nhà nước, người lao
động và người sử dụng lao động là quan hệ giữa người đại diện chủ sở hữu về
tư liệu sản xuất của Nhà nước với người lao động. Quan hệ giữa công đoàn và
người sử dụng lao động là quan hệ bình đẳng, hợp tác, tôn trọng lẫn nhau vì
mục tiêu chung là thực hiện mục tiêu lý tưởng của GCCN. Trong doanh
nghiệp có vốn ĐTNN, người lao động ở đây chủ yếu là người làm thuê, bán
sức lao động, còn giới chủ là người chủ sở hữu tư liệu sản xuất. Quan hệ giữa
công đoàn với giới chủ là quan hệ giữa đại diện của những công nhân làm


20

thuê (mặc dù xét ở phạm vi lớn họ là người làm chủ đất nước) với những
người chủ sở hữu, nên hoạt động công đoàn ở các doanh nghiệp này có nhiều
khó khăn hơn, nội dung hoạt động không hoàn toàn giống như hoạt động công
đoàn trong các doanh nghiệp nhà nước.
Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt
Nam là người làm thuê, giá cả sức lao động của họ trả theo giá thị trường,
theo quan hệ cung cầu về lao động. Quan hệ giữa công nhân và giới chủ là
quan hệ chủ - thợ. Công nhân đi làm trong các doanh nghiệp này với mục
đích chủ yếu là kiếm sống, còn các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là vì
mục đích lợi nhuận, sự gặp gỡ giữa công nhân và giới chủ trên cơ sở có chung
mục đích là vì lợi ích kinh tế. Mặc dù giữa giới chủ và công nhân có sự khác
nhau, thậm trí có cả mâu thuẫn trong việc theo đuổi mục đích kinh tế, song
giữa họ có điểm chung thống nhất là khi doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
có hiệu quả thì cả giới chủ và công nhân mới có thu nhập cao, ổn định đảm
bảo cuộc sống. Đây chính là cơ sở quan trọng để công đoàn đại diện cho công
nhân thương lượng, tìm sự “gặp gỡ” với giới chủ để tìm tiếng nói chung,
nhằm hỗ trợ cho nhau thực hiện nghĩa vụ mỗi bên thức đẩy sản xuất đem lại
lợi ích cho doanh nghiệp và công nhân. Tuy nhiên do yêu cầu nâng cao hiệu

quả sản xuất kinh doanh mà thời gian, cường độ lao động của công nhân ở các
doanh nghiệp có vốn ĐTNN thường cao hơn so với các doanh nghiệp khác.
Đây cũng là khó khăn, thách thức cho hoạt động của công đoàn.
- Quan hệ giao tiếp giữa công đoàn, công nhân với giới chủ gặp nhiều
khó khăn về ngôn ngữ, sự khác biệt về văn hoá. Các nhà đầu tư nước ngoài
đến Việt Nam từ nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ với những nền văn hoá, đặc
điểm truyền thống, trình độ phát triển, ý thức chính trị khác nhau, đồng thời
có rất nhiều nét khác biệt so với truyền thống văn hoá của Việt Nam. Mặc dù
khi đến đầu tư nước ta, các nhà đầu tư đó nghiên cứu, tìm hiểu về Việt Nam,
song những hiểu biết của họ về con người Việt Nam nói chung, Công đoàn


21

Việt Nam nói riêng còn chưa đầy đủ. Mặt khác sự hiểu biết của công nhân,
của cán bộ công đoàn Việt Nam trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN về văn
hoá, pháp luật, cơ chế quản lý và về ngoại ngữ của nước đầu tư cũng còn hạn
chế, nên gặp không ít khó khăn trong quan hệ giao tiếp giữa công đoàn, công
nhân với giới chủ. Ngoài ra do định kiến về công nhân từ thực tiễn trong nước
của các nhà đầu tư nên giới chủ chưa mặn mà với công đoàn, chưa muốn có
công đoàn, nên khi phía Việt Nam yêu cầu thành lập tổ chức công đoàn ở các
doanh nghiệp này thì họ không ủng hộ hoặc chưa tạo điều kiện để công đoàn
hoạt động.
- Cán bộ công đoàn ở khu vực này hầu hết là kiêm nhiệm, chưa được
đào tạo một cách hệ thống về nghiệp vụ công tác công đoàn, sự am hiểu pháp
luật chưa thực sự tốt, chính sách còn nhiều bất cập. Để khuyến khích, thu hút
ĐTNN ngày càng nhiều vào Việt Nam, Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã quy định không thu 2% kinh phí công đoàn trong các
doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Vì vậy nguồn kinh phí cho hoạt động công đoàn
khu vực này chủ yếu chỉ dựa vào đoàn phí công đoàn, nên kinh phí công đoàn

ở các doanh nghiệp này là rất hạn chế, mặc dù hàng năm Chính phủ đã hỗ trợ
một khoản tiền nhất định để trả lương cho cán bộ công đoàn chuyên trách.
Song với tình trạng kinh phí như hiện nay thì không đảm bảo tài chính cho
công đoàn khu vực này hoạt động một cách tốt nhất.
Ở Việt Nam cũng như các nước khác, các đối tác ĐTNN làm việc với
công đoàn trên cơ sở quy định của pháp luật, trong khi hệ thống pháp luật của
nước ta chưa đồng bộ, việc thực hiện pháp luật chưa nghiêm. Cán bộ công đoàn
ở khu vực này hầu hết là kiêm nhiệm, chưa được đào tạo một cách hệ thống về
nghiệp vụ công tác công đoàn, sự am hiểu pháp luật chưa thực sự tốt. Đó là
những rào cản trong hoạt động công đoàn tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN.
Những đặc điểm trên chi phối, ảnh hưởng rất lớn đến vai trò của công
đoàn. Công đoàn trong các doanh nghiệp này có phát huy được vai trò hay


22

không, cần phải quán triệt sâu sắc những đặc điểm đó, tận dụng những ưu thế
của mình và môi trường CT – XH thuận lợi, đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động, xác định những giải pháp phù hợp, góp phần giữ vững ổn định
CT–XH trên địa bàn Thủ đô.
1.2. Quan niệm về ổn định chính trị – xã hội và vai trò của công đoàn
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài góp phần giữ vững ổn định
chính trị - xã hội hiện nay.
1.2.1. Quan niệm về ổn định chính trị - xã hội và dấu hiệu mất ổn định
chính trị - xã hội từ hiện tượng đình công của công nhân trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
* Ổn định chính trị - xã hội
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, ổn định được xem là một
trạng thái trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Vận động là thuộc tính
cố hữu của thế giới vật chất, sự đứng im của nó chỉ là trạng thái tương đối,

không có sự đứng im tương đối thì không có sự vật nào tồn tại được. Ổn định
được xem là mặt “nhất thời” của trạng thái vận động. Đó là sự ổn định biện
chứng, ổn định trong sự biến đổi, phát triển chứ không phải là sự ổn định trì trệ
không có sự vận động để sự vật phát triển. Ổn định là tiền đề cần thiết cho phát
triển, nhưng “không phát triển thì cũng khó duy trì được ổn định lâu dài”[01,Tr.
353]. Ổn định và phát triển vừa là điều kiện, vừa là tiền đề cho nhau, là nhân quả
của nhau.
Nói đến ổn định là nói đến trạng thái đối lập với mất ổn định, khủng
hoảng, xung đột, rối loạn. Song, biện chứng của sự phát triển cho thấy ngay
những trạng thái ổn định tích cực, lành mạnh để hướng tới phát triển, tiến bộ
cũng luôn bao hàm trong nó sự ổn định tiềm tàng do phát triển tự bản thân nó
đòi hỏi, biến đổi, thay đổi, không đứng im, tĩnh tại. Nó luôn phải vượt qua
giới hạn cũ, phá vỡ thế ổn định cũ để xác lập thế ổn định mới cao hơn, tốt
hơn, đòi hỏi chủ thể phải kịp thời đáp ứng nhu cầu phát triển. Đồng thời phải


23

biết chủ động, phát hiện, nhận diện những nhân tố có thể gây mất ổn định làm
ảnh hưởng xấu đến sự phát triển để tìm cách phòng ngừa, hạn chế và ngăn
chặn những tác động tiêu cực của nó.
Dựa vào cách tiếp cận trên để tìm hiểu khái niệm ổn định CT - XH. Ổn
định CT - XH là một khái niệm ghép phản ánh một thực tế khách quan của xã
hội có giai cấp, trong đó mọi quan hệ của con người, những cộng đồng người
đều bị chi phối bởi một giai cấp cầm quyền thông qua hệ tư tưởng chính trị và
những thiết chế quyền lực của nó ở một chế độ xã hội cụ thể.
Trên thực tế đã có nhiều tác giả nghiên cứu và đưa ra khái niệm ổn định
CT - XH với những góc nhìn khác nhau. Theo tác giả Nguyễn Văn Cư: “ổn định
chính trị - xã hội là một trạng thái xã hội mà ở đó có sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất, giữa kiến trúc thượng với

cơ sở hạ tầng của xã hội và sự phù hợp cơ bản đó biểu hiện trên thực tế là sự
thống nhất giữa những lợi ích của giai cấp cầm quyền với những lợi ích của đại
đa số thành viên trong xã hội trong những điều kiện lịch sử cụ thể” [5, tr. 39].
Với khái niệm trên, có thể nhận thấy ổn định CT - XH là một trạng thái xã hội, ở
đó có sự vận động phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất; giữa
tính chất của nền kinh tế với cơ sở hạ tầng; sự thống nhất những quan hệ lợi ích
của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội gắn với những điều kiện cụ thể.
Còn theo tác giả Mai Đức Ngọc: “ổn định CT – XH là một trạng thái
bền vững của hệ thống xã hội, bảo đảm sự hoạt động và phát triển tối ưu của
nó theo xu hướng tiến bộ phù hợp với quy luật khách quan, ở đó quyền lực
chính trị được sử dụng trên cơ sở đồng thuận của đa số các nhóm xã hội và
các thành viên trong xã hội” [6, tr. 17]. Theo quan niệm trên thì ổn định CT –
XH được thể hiện: sự ổn định về tư tưởng chính trị và đường lối chính trị; hệ
thống chính trị thực thi có hiệu quả quyền lực chính trị của nhân dân và thực
hiện được các mục tiêu phát triển trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; sự


24

đồng thuận về lợi ích giữa chủ thể cầm quyền và các giai tầng khác trong xã
hội.
Nghiên cứu các quan niệm về ổn định CT - XH của các tác giả trên cho
thấy: ổn định CT - XH của một đất nước, một quốc gia là trạng thái xã hội ở
đó bảo đảm tính trật tự của đời sống CT – XH đất nước, tính liên tục, bền
vững của đường lối chính trị và chế độ CT – XH, vừa có thể duy trì sự ổn
định trật tự chế độ đã có, vừa thích ứng với những thay đổi chính trị, những
quan hệ xã hội. Có thể thấy rõ những định hướng chính trị, tác động chính trị
của giai cấp cầm quyền lên những quan hệ, hoạt động của con người trong các
lĩnh vực cơ bản của xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Các chế độ
xã hội khác nhau thì những lĩnh vực đó có đặc điểm, nội dung, hình thức

không như nhau, do đó trạng thái trật tự xã hội khác nhau. Từ những phân
tích trên có thể rút ra khái quát: ổn định chính trị - xã hội là một trạng thái xã
hội của quá trình vận động, phát triển các mối quan hệ giữa các giai cấp, các
tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo, các đảng phái chính trị, trong đó giai
cấp cầm quyền giữ vững được quyền lãnh đạo và quản lý đối với toàn xã hội
và các giai tầng có sự đồng thuận cơ bản về chính trị nhằm đạt được những
mục tiêu và lợi ích chính trị của quốc gia dân tộc.
Ổn định CT - XH ở nước ta hiện nay là trạng thái đời sống chính trị - xã

hội đất nước được ổn định, phát triển trong đó sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam, quyền lực Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân về chính trị, các
lợi ích của nhân dân và cả cộng đồng dân tộc được bảo đảm trong quá trình
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
* Mất ổn định chính trị – xã hội
Mất ổn định CT – XH là trạng thái khủng hoảng, xung đột, rối loạn của
đời sống xã hội, có nguồn gốc về sự không đồng thuận về lợi ích giữa giai
cấp, lực lượng cầm quyền với các giai cấp, lực lượng đối lập làm ảnh hưởng


25

tới việc nắm giữ, chi phối quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền và sự
tồn vong của chế độ xã hội.
Mất ổn định CT - XH phản ánh sự không phù hợp giữa đường lối chính
trị và việc thực thi đường lối ấy của giai cấp cầm quyền thông qua hệ thống
chính trị với một bộ phận nhất định. Vấn đề mấu chốt của nó là sự không
đồng thuận, sự khác biệt và mâu thuẫn về lợi ích giữa các giai cấp, các lực
lượng trong xã hội làm ảnh hưởng tới việc duy trì trật tự xã hội, phát triển đất
nước. Tình trạng mất ổn định CT - XH có thể do nhiều nguyên nhân, nhiều
nhân tố cả trong nước và từ bên ngoài gây nên. Nhân tố ấy có thể trên lĩnh

vực kinh tế, có thể trên lĩnh vực chính trị và tương tự sẽ có nhân tố trên lĩnh
vực văn hoá xã hội. Tính chất mức độ của các trạng thái ổn định có thể khác
nhau, song chủ thể lãnh đạo, quản lý xã hội đều phải phòng tránh, đặc biệt là
tránh mất ổn định thường xuyên.
Một xã hội phát triển là do sự thúc đẩy và tác động của các nhân tố, có
nhân tố thúc đẩy sự phát triển xã hội, nhưng có nhân tố lại cản trở sự phát
triển, thậm trí còn làm triệt tiêu nhân tố phát triển trong một không gian, thời
gian nhất định. Mặt khác những nhân tố gây cản trở, xung đột với nhân tố
phát triển còn làm cho đời sống xã hội ở trạng thái không bình thường, trở
nên rối loạn, mất ổn định.
Đối với nước ta từ khi chế độ CT - XH được xác lập cho đến nay, đời
sống CT – XH cơ bản được ổn định, giữ vững, tạo nên nền tảng vững chắc đất
nước phát triển bền vững. Song, ở từng giai đoạn, trên từng địa bàn cụ thể,
hay trong từng lĩnh vực, vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định CT –
XH. Nhất là từ khi nước ta thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, khi nước ta tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng, thì những nhân tố có thể dẫn đến mất ổn định CT
- XH gia tăng và rất phức tạp. Đó là sự chống phá quyết liệt của các thế lực
thù địch bên trong và bên ngoài với những thủ đoạn thâm độc lợi dụng vấn đề


×