Tải bản đầy đủ (.pdf) (190 trang)

Phát triển con người và một số vấn đề trong phát triển con người ở thái nguyên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 190 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------

TRỊNH THỊ NGHĨA

PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở THÁI NGUYÊN HIỆN NAY

Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 62.22.03.02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS Hồ Sĩ Quý
2. TS.Vũ Thị Tùng Hoa

Hà Nội - 2016

ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của GS.TS. Hồ Sĩ Quý và TS. Vũ Tùng Hoa. Luận án
được hoàn thành tại Học viện Khoa học xã hội năm 2016. Những kết quả
nghiên cứu riêng và những kết luận của luận án, ngoài những bài báo khoa
học của tôi đã đăng trên các tạp chí chuyên ngành, chưa từng được công bố
dưới bất kỳ hình thức nào. Những số liệu được sử dụng trong luận án có
nguồn chính xác, một số số liệu là do tôi tự tính trên cơ sở số liệu của Cục
Thống kê Thái Nguyên, của Tổng cục Thống kê và của UNDP. Tất cả những


trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn rõ ràng.
Hà Nội, Ngày 29/09/2016
Nghiên cứu sinh

Trịnh Thị Nghĩa

iii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i
MỤC LỤC ................................................................................................................. iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................... vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU ..................................................................................... vii
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỂ TÀI LUẬN ÁN ...............................................................................7
1.1. Những công trình nghiên cứu về phát triển con người ....................................7
1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng phát triển con người ở Việt Nam
và Thái Nguyên hiện nay ......................................................................................15
Tiểu kết chương 1......................................................................................................26
Chương 2. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI ....27
2.1. Quan điểm của triết học Mác về phát triển con người...................................27
2.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về phát triển con người ...............36
2.3. Quan điểm của Chương trình phát triển Liên hợp quốc về phát triển con
người .....................................................................................................................51
Tiểu kết chương 2......................................................................................................69
Chương 3. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG PHÁT
TRIỂN CON NGƯỜI Ở THÁI NGUYÊN HIỆN NAY ...........................................71
3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến con người và phát triển con người Thái Nguyên .. 71

3.2. Thực trạng về phát triển con người ở Thái Nguyên hiện nay ........................76
3.3. Một số vấn đề đặt ra đối với sự phát triển con người ở Thái Nguyên giai
đoạn hiện nay ......................................................................................................104
Tiểu kết chương 3....................................................................................................120
Chương 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
Ở THÁI NGUYÊN HIỆN NAY .............................................................................122
4.1. Nâng cao nhận thức của chính quyền, đoàn thể về phát triển con người ....122

iv


4.2. Chú trọng tạo việc làm, thực hiện xóa đói giảm nghèo dựa vào những thế
mạnh của tỉnh; mở rộng cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội, nhằm cải thiện chỉ số
phát triển con người ............................................................................................125
4.3. Phân bổ lại nguồn lực cho y tế, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, hạn
chế bất bình đẳng trong cung ứng dịch vụ và khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của
người dân ............................................................................................................135
4.4. Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chú trọng đào tạo nghề và giáo dục
sau phổ thông .......................................................................................................141
4.5. Phát huy các giá trị truyền thống, tạo môi trường văn hóa lành mạnh ........149
Tiểu kết chương 4...................................................................................................150
KẾT LUẬN .............................................................................................................152
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN
QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .............................................................................155
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................156
PHỤ LỤC

v



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Chữ viết tắt

Diễn giải

1.

BHYT

Bảo hiểm y tế

2.

CSSK

Chăm sóc sức khỏe

3.

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

4.

CNH, HĐH

5.


DTTS

6.

GDP/người

7.

HDRO

8.

HDR

Báo cáo phát triển con người toàn cầu

9.

HDI

Chỉ số phát triển con người

10.

HPI

Chỉ số nghèo khổ tổng hợp

11.


KCB

Khám chữa bệnh

12.

LLSX

Lực lượng sản xuất

13.

MPI

Chỉ số nghèo đa chiều

14.

MDG

Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ

15.

NHDR

Báo cáo phát triển con người quốc gia

16.


PTSX

Phương thức sản xuất

17.

PTCN

Phát triển con người

18.

QHSX

Quan hệ sản xuất

19.

TDMNPB

20.

UBND

Ủy ban nhân dân

21.

UNDP


Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc

22.

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

23.

WB

Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa
Dân tộc thiểu số
Thu nhập bình quân đầu người
Văn phòng báo cáo phát triển con người

Trung du miền núi phía bắc

Ngân hàng thế giới

vi


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu về chăm sóc sức khỏe đạt được ở Thái Nguyên ..............80
Bảng 2.2: Chỉ số HDI và mức độ đóng góp của các chỉ số thành phần vào chỉ số
HDI năm 2008 của Thái Nguyên ............................................................................102
Bảng 2.3: Chỉ số HDI và mức độ đóng góp của các chỉ số thành phần vào chỉ số

HDI năm 2012 của Thái Nguyên ............................................................................103
Bảng 2.4: Tỷ lệ số hộ là DTTS và tỷ lệ hộ nghèo là DTTS (%) .............................106

vii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề con người và phát triển con người được cộng đồng thế giới quan tâm
nhiều hơn vào thập niên 80 của thế kỷ XX, khi tăng trưởng kinh tế nhiều nơi không
thực sự tạo ra tiến bộ xã hội, những mặt trái của tăng trưởng kinh tế biểu hiện ngày
càng nghiêm trọng, xung đột sắc tộc và tôn giáo bùng phát, nhiều vấn đề xã hội nảy
sinh không chỉ đe dọa sự phát triển bình thường của thế hệ hiện tại mà cả tương lai.
Từ đầu những năm 90, khi Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) khuyến
khích chính phủ các nước coi con người là trung tâm của sự phát triển và thực hành
đo đạc chỉ số PTCN (HDI) ở hàng trăm quốc gia, thì việc chú trọng đến PTCN đã
thu hút sự quan tâm và đồng tình của tất cả các nước thuộc Liên Hợp Quốc. Ngày
nay, các nước và các tổ chức xã hội đều xem PTCN là tiêu chí quan trọng để đo
lường trình độ phát triển của các quốc gia.
Hơn 20 năm qua, những thành tựu về PTCN trên thế giới được đánh giá là
hết sức to lớn. Trẻ em được đến trường nhiều hơn, người dân ở nhiều quốc gia được
chăm sóc sức khỏe tốt hơn và tuổi thọ tăng lên. Thu nhập bình quân đầu người khu
vực châu Á liên tục được cải thiện, tỷ lệ nghèo giảm xuống, mức sống dân cư được
nâng cao và các cơ hội cho con người trong tiếp cận các dịch vụ xã hội có chất
lượng được mở rộng. Tuy vậy, cộng đồng thế giới cũng cảnh báo, những tiến bộ về
PTCN còn chưa đồng đều, tình trạng thiếu hụt của con người vẫn phổ biến và nhiều
tiềm năng của con người chưa được giải phóng và tận dụng. Tổng quan HDR 2015
đã nhấn mạnh “một trong những thiếu hụt nghiêm trọng của con người là không
được sử dụng, sử dụng sai cách hoặc sử dụng không triệt để tiềm năng của họ để
phục vụ cho phát triển con người (…). Việc khai mở tiềm năng con người càng trở

nên quan trọng nếu xem xét đến những thách thức phát triển con người đang nổi
lên” [149, tr.5]. Sự thật là, thế giới ngày càng giàu có hơn nhưng bất bình đẳng về
thu nhập, tài sản và cơ hội cũng ngày càng lớn bên cạnh bất bình đẳng giới vẫn còn
tồn tại dai dẳng; những cú sốc về kinh tế, tài chính, thiên tai và dịch bệnh vẫn đang
đe dọa an ninh con người… Trong khi những thành tựu văn hóa và văn minh đạt tới

1


trình độ cao hơn, thì không phải vì thế mà những vấn đề về PTCN sẽ dần mất đi hay
bớt căng thẳng hơn. Mặc dù được giải quyết ngày càng căn bản, nhưng những vấn
đề mới và cũ về PTCN cũng xuất hiện ngày càng đa dạng và phức tạp.
Trong bối cảnh chung đó, những nghiên cứu lý luận và thực tiễn về PTCN
vẫn đang tiếp tục được chú ý ở trình độ sâu sắc hơn, nhằm từng bước tháo gỡ, giải
quyết những vấn đề về PTCN đang đặt ra trong thực tiễn ở phạm vi quốc gia cũng
như trên toàn thế giới.
Với triết học Mác, con người và PTCN là một trong những nội dung rất căn
bản. Trong suốt thế kỷ XX và hiện nay, quan điểm của chủ nghĩa Mác về con người
và PTCN vẫn thu hút sự quan tâm của nhiều học giả và các nhà hoạt động xã hội,
bởi ý nghĩa phương pháp luận sâu sắc của nó trong giải quyết những vấn đề mới của
PTCN hiện đại. “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người”, tư tưởng nổi tiếng của C.Mác và Ph.Ănghen nêu trong
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ngày nay vẫn là tư tưởng có ý nghĩa lý tưởng đối
với mọi lý thuyết về PTCN.
Ở Việt Nam, những kết quả đạt được trong PTCN gắn liền với những thành
tựu của công cuộc đổi mới. Đảng cộng sản Việt Nam trên cơ sở Chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với những chỉ dẫn tư tưởng về con người và
PTCN, đã cụ thể hóa quan điểm PTCN bằng các chủ trương, đường lối và thực hiện
quan điểm đó thông qua các chính sách kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Sự du
nhập các tư tưởng thời đại vào Việt Nam từ cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, đã

ảnh hưởng tích cực đến tư duy đổi mới của Đảng và Nhà nước. Trên thực tế, sự phát
triển toàn diện con người Việt Nam cả về thể lực, trí lực, phẩm chất chính trị, đạo
đức, văn hóa gắn liền với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, sau hơn 30 năm
đổi mới, đã đạt được những thành tựu rất đáng kể, bước đầu đáp ứng được yêu cầu
của quá trình CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Là
thành viên của Liên hợp quốc, Việt Nam đã tiếp thu những tư tưởng tiến bộ về
PTCN của UNDP và trên cơ sở các Báo cáo PTCN toàn cầu, Việt Nam đã xây dựng
Báo cáo PTCN riêng và đã từng được UNDP trao giải thưởng năm 2001. Đặc biệt,

2


các tổ chức quốc tế thuộc Liên hợp quốc đánh giá rất cao những thành tích của Việt
Nam trong việc thực hiện các mục tiêu về PTCN như xóa đói giảm nghèo, bình
đẳng giới, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, phổ cập giáo dục tiểu học… Tuy
nhiên, bên cạnh nhưng thành tựu to lớn đã đạt được, sự nghiệp PTCN ở Việt Nam
vẫn còn đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, đang phải giải quyết không ít
vấn đề nan giải cả trong phạm vi trước mắt cũng như lâu dài.
Là một tỉnh nằm trong khu vực nghèo nhất cả nước, Thái Nguyên đã đạt được
nhiều tiến bộ về PTCN. So với trước đây, mức sống dân cư, công tác giáo dục – đào
tạo và chăm sóc sức khỏe người dân được ưu tiên chú trọng; đời sống văn hóa tinh
thần và các hoạt động an sinh xã hội được đẩy mạnh. Thái Nguyên nằm trong số các
tỉnh có chỉ số HDI trung bình cao của cả nước. NHDR 2015 của Việt Nam đã đánh
giá cao mức độ tăng trưởng HDI của tỉnh trong những năm qua. Nhiều chỉ số thành
phần của PTCN ở Thái Nguyên cũng ở mức rất tích cực.
Tuy thế, trong bối cảnh chung như NHDR 2015 đã đánh giá, Việt Nam sau khi
đạt được những thành tựu lớn về PTCN từ đổi mới đến nay thì đang yếu dần trong
thập kỷ vừa qua, và Thái Nguyên cũng không nằm ngoài bối cảnh đó. Kể từ cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008, tăng trưởng thu nhập của Thái Nguyên giảm
sút đã trực tiếp dẫn tới sự tiến bộ chậm lại trong các lĩnh vực phi thu nhập. Tăng

trưởng kinh tế của Thái Nguyên chưa đạt tới trình độ “tăng trưởng bao trùm”. Mức
độ chênh lệch vẫn còn sâu sắc giữa các địa phương, giữa các ngành kinh tế trên địa
bàn tỉnh, làm hạn chế sự PTCN. Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo cao, giảm nghèo chưa
bền vững, ảnh hưởng trực tiếp đến việc cải thiện chỉ số HDI. Chất lượng y tế không
đồng đều và có sự chênh lệch đáng kể giữa thành phố với các địa phương khác; bất
bình đẳng trong giáo dục vẫn còn cao, chất lượng giáo dục chưa đáp ứng được ứng
yêu cầu của sự PTCN. Sự xuống cấp của văn hóa, đạo đức cùng các tệ nạn xã hội
đang tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân. Sự đảm bảo về
y tế, giáo dục, an sinh xã hội ở các huyện miền núi, vùng cao còn nhiều bất cập và
hạn chế….

3


Thực tiễn PTCN ở Thái Nguyên cũng như ở cấp độ quốc gia trên thực tế đang
đặt ra những vấn đề mới, bức xúc, đòi hỏi phải được nghiên cứu sâu hơn cả về lý luận
và thực tiễn, nhằm làm sáng tỏ vấn đề và đưa ra những giải pháp cụ thể, hữu hiệu cho
sự nghiệp PTCN nói chung.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn “Phát triển con người và một số vấn
đề trong phát triển con người ở Thái Nguyên hiện nay” làm đề tài nghiên cứu
cho luận án của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là lý luận về phát triển con người và thực
trạng phát triển con người ở Thái Nguyên hiện nay.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Những tư tưởng cơ bản của triết học Mác về PTCN. Quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam về PTCN trong thời kỳ đổi mới đất nước. Quan niệm về PTCN
của UNDP thông qua qua các Báo cáo PTCN toàn cầu từ 1990 đến nay.
Thực trạng PTCN ở Thái Nguyên từ năm 1999 đến nay. Những vấn đề đặt ra

cho PTCN ở Thái Nguyên giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích quan niệm về PTCN của Mác và Ăngghen, của Đảng
cộng sản Việt Nam và của UNDP, luận án vận dụng nghiên cứu thực trạng PTCN ở
Thái Nguyên nhằm xác định những vấn đề đặt ra đối với PTCN trong giai đoạn hiện
nay. Từ đó, luận án đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự PTCN ở
Thái Nguyên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, xác định những quan niệm cơ bản của triết học Mác, của UNDP
và của Đảng cộng sản Việt Nam về PTCN.
- Nghiên cứu thực trạng PTCN ở Thái Nguyên từ năm 1999 đến nay. Xác
định và làm rõ những vấn đề đặt ra cho PTCN ở Thái Nguyên giai đoạn hiện nay.

4


- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh PTCN ở Thái Nguyên
trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
- Cơ sở lý luận của luận án là Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
- Cơ sở phương pháp luận của luận án là Phép biện chứng duy vật.
- Luận án được thực hiện trên cơ sở các chỉ dẫn lý luận và phương pháp luận
về con người và PTCN của C.Mác - Ph.Ăngghen; tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam; các văn kiện, Nghị quyết của
Đảng cộng sản Việt Nam có liên quan trực tiếp đến PTCN.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phù hợp với phương pháp luận biện chứng duy vật, luận án sử dụng các

phương pháp như logic - lịch sử; phân tích hệ thống; quy nạp - diễn dịch; tổng hợp phân tích; so sánh - đối chiếu, thống kê,…
Luận án sử dụng các Báo cáo phát triển con người toàn cầu của UNDP từ
1990 đến nay; các Báo cáo phát triển con người của Việt Nam (Báo cáo quốc gia về
phát triển con người từ 2001 đến nay); các báo cáo kinh tế - xã hội của tỉnh Thái
Nguyên có liên quan đến PTCN… như là các chỉ dẫn lý thuyết, cũng đồng thời là
nguồn số liệu thực tiễn tin cậy để phân tích lý luận.
- Luận án chú trọng kế thừa những kết quả của các nghiên cứu lý luận và
thực tiễn có liên quan đến đề tài của các tác giả đi trước.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án đã phân tích, hệ thống hóa và làm rõ logic của những quan niệm lý
luận cơ bản về PTCN đi từ quan điểm của triết học Mác, của Đảng Cộng sản Việt
Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh đến quan điểm của UNDP.
- Trên cơ sở thừa nhận định nghĩa của UNDP, luận án đã đề xuất định nghĩa
về Phát triển con người để làm nổi rõ khía cạnh triết học của sự PTCN.

5


- Luận án đã ứng dụng được lý luận và tính toán được số liệu để làm rõ thực
trạng PTCN ở Thái Nguyên trong các mặt thể lực, trí lực, văn hóa và trong thực
hiện công tác xóa đói giản nghèo.
- Luận án đã xác định được 5 vấn đề đang đặt ra cấp thiết cho sự PTCN ở
Thái Nguyên hiện nay.
- Luận án đã đề xuất được 5 giải pháp nhằm thúc đẩy PTCN Thái Nguyên
giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần làm sáng tỏ các quan điểm lý luận về PTCN và vận dụng
các quan điểm lý luận đó vào nghiên cứu thực trạng PTCN ở một tỉnh trung du
miền núi là Thái Nguyên.
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,

giảng dạy những vấn đề triết học về con người, những vấn đề lý luận và thực tiễn về
PTCN.
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chính
sách và giải quyết các vấn đề về PTCN của tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn hiện
tại và tương lai.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án
gồm có 4 chương, 13 tiết.
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến đề
tài luận án
Chương 2. Một số quan điểm cơ bản về phát triển con người
Chương 3. Thực trạng và một số vấn đề đặt ra trong phát triển con người ở
Thái Nguyên hiện nay
Chương 4. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển con người ở Thái
Nguyên hiện nay

6


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỂ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những công trình nghiên cứu về phát triển con người
1.1.1 Những công trình nghiên cứu quan điểm của triết học Mác về phát triển
con người
Nghiên cứu những tư tưởng về con người trong triết học Mác đã thu hút sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Trong giới hạn hiểu biết của mình,
chúng tôi đã tiếp cận được một số công trình nghiên cứu sau:
Tác giả Lê Công Sự trong bài Đánh giá của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề
con người trong triết học L.Phoiơbắc qua "Hệ tư tưởng Đức" [114] đã phân tích sự

phê phán của C.Mác - Ph.Ăngghen về triết học của Phoiơbắc về con người, từ đó
đưa ra những quan điểm duy vật lịch sử về con người, bản chất con người và những
điều kiện cho sự tồn tại của con người, PTCN trong triết học Mác. Trong bài viết
Vấn đề con người trong học thuyết Mác và phương hướng, giải pháp phát triển con
người cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay [20] tác
giả Hoàng Đình Cúc đã luận giải nhằm làm rõ quan niệm của C.Mác - Ph.Ăngghen
về cơ sở hiện thực cho sự tồn tại của con người với tư cách là thực thể sinh học xã
hội; về lao động với tư cách là điều kiện quyết định cho sự hình thành con người; về
sự thống nhất biện chứng giữa cá nhân và xã hội; về sự giải phóng con người, giải
phóng xã hội. Trên cơ sở này, khi luận giải vấn đề xây dựng con người Việt Nam
theo học thuyết Mác, tác giả đã phân tích và làm rõ phương hướng chung về PTCN
mà Đảng ta đã xác định trong công cuộc đổi mới đất nước và đề xuất một số giải
pháp để thực hiện phương hướng đó.
Trong bài viết Học thuyết Mác về con người và giải phóng con người [122,
tr.457 - 479], tác giả Đặng Hữu Toàn đã phân tích quan niệm duy vật lịch sử của
triết học Mác về con người, bản chất con người, mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên và xã hội, vị trí và vai trò của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử

7


nhân loại và sự nghiệp giải phóng con người. Từ đó tác giả đi đến khẳng định các
quan niệm này “có giá trị to lớn cả về lý luận lẫn thực tiễn, trở thành cơ sở lý luận
cho nhiều ngành khoa học nghiên cứu về con người, đồng thời nó cũng là cơ sở
vững chắc cho lý luận giải phóng con người khỏi lao động bị tha hóa, khỏi ách áp
bức bóc lột, bất công, trả lại giá trị đích thực của con người, tạo điều kiện để con
người phát triển toàn diện” [122, tr.478].
Tiến trình con người hoạt động sản suất, sinh tồn và làm ra lịch sử của mình
cũng gắn liền với quá trình con người tác động, khai thác giới tự nhiên. Con người
từng bước nhận biết, khám phá, nắm bắt những quy luật của tự nhiên cũng đồng

thời cải biến, phát triển chính bản thân mình. Tác giả Hoàng Chí Bảo khẳng định:
“C.Mác - Ph.Ăngghen đã hình dung sự phát triển, hoàn thiện của con người đi qua
mọi dích dắc lịch sử, từ văn minh trong dã man và dã man trong văn minh, với tha
hóa và giải tha hóa rồi sẽ tiến đến con người tự do, phát triển và hoàn thiện nhân
cách, trong thể liên hiệp cộng đồng những con người tự do của chủ nghĩa cộng sản
văn minh” [9, tr.218]. Tác giả Đặng Hữu Toàn [122, tr.457-479] cho rằng, khi xem
xét vị thế của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác đã đi đến quan niệm: khuynh hướng chung của tiến
trình lịch sử được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất, tự nó đã nói lên
trình độ phát triển của xã hội. Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản
xuất, còn là chủ thể của lịch sử. Con người vừa là diễn viên, vừa là tác giả của vở
kịch do mình dàn dựng và hoàn cảnh chỉ có thể tạo ra con người trong chừng mực
con người tạo ra chính hoàn cảnh ấy. Do vậy, theo các ông con người phải nhân đạo
hóa hoàn cảnh, tạo ra hoàn cảnh hợp tính người để phát triển bản chất và hoàn thiện
nhân cách của chính mình. Cùng quan điểm này, tác giả Cao Thu Hằng trong bài
viết Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về con người, giải phóng con người
trong Hệ tư tưởng Đức và sự vận dụng của Đảng ta [45, tr.17-21] đã trình bày
những quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen về con người trên cơ sở phê phán triết
học Hêghen và Phoiơbắc trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức. Từ đó, tác giả luận giải
tư tưởng của các ông về giải phóng con người, về con đường, phương tiện và những

8


tiền đề vật chất cần thiết cho sự giải phóng con người, qua đó cho thấy sự vận dụng
quan điểm này của Đảng ta trong công cuộc đổi mới đất nước. Theo tác giả, “quá
trình giải phóng con người là quá trình tương tác biện chứng giữa con người và
hoàn cảnh. Nếu hoàn cảnh càng tiến bộ, nhân văn bao nhiêu thì con người càng
được giải phóng bấy nhiêu và ngược lại, con người muốn được giải phóng, được tự
do phát triển năng lực của mình thì càng phải tạo ra một hoàn cảnh mang tính người

sâu sắc và triệt để” [45, tr.19]. Tác giả Lưu Minh Văn trong bài viết Chủ nghĩa Mác
không bỏ quên con người [108, tr.328-341] đã nhấn mạnh chú ý hai nghĩa sau của
sự tác động của những yếu tố kinh tế đối với sự phát triển con người là: một là, con
người với tư cách là lực lượng sản xuất cho nên mối quan hệ con người với quá
trình sản xuất là quan hệ biện chứng. Con người vừa là thành tố của quá trình sản
xuất, vừa là kết quả của quá trình ấy; hai là, nhân tố con người nhìn từ phương diện
quan hệ sản xuất - theo tác giả - nội hàm của khái niệm quan hệ giữa người với
người trong quá trình sản xuất cần được hiểu rộng hơn “như một yếu tố thể chế của
một nền sản xuất nhất định. Có như thế mới thấy hết tính năng động của nó và mối
quan hệ hữu cơ của nó với lực lượng sản xuất” [108, tr.340].
Tác giả Hồ Sĩ Quý và Nguyễn Anh Tuấn trong bài viết Sự phát triển tự do của
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người [108, tr.480-499]
cho rằng, những tiện nghi của đời sống vật chất và những hiệu quả về kinh tế đang
mang lại những biến đổi to lớn của cuộc sống con người, song nó vẫn chỉ được coi là
những phương tiện và cơ sở để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội, chứ chưa phải
là mục đích của sự phát triển. “Việc tạo lập những điều kiện sống công bằng, cơ hội
làm việc tốt nhất, khả năng phát triển hài hòa về mặt tinh thần… đối với tất cả mọi
người, là chiều hướng căn bản của sự phát triển xã hội nhằm thỏa mãn những nhu cầu
và khát vọng chân chính của con người” [108, tr.495].
Tóm lại, Các nhà nghiên cứu trên đã phân tích được giá trị khoa học, nhân
văn trong quan niệm của triết học Mác về con người, giải phóng là điều kiện để
PTCN toàn diện. Sự phát triển của lịch sử xã hội gắn liền với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, song mức độ tiến bộ xã hội phải được đo bằng trình độ PTCN.

9


Chúng tôi sẽ kế thừa và phát triển những quan điểm này trong luận án của mình.
Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa không còn gì nghiên cứu về vấn đề con người
trong triết học Mác. Sự vận động biến đổi và nảy sinh những vấn đề mới của đời sống

xã hội đòi hỏi phải giải quyết, thì việc tiếp tục nghiên cứu những tư tưởng của triết
học Mác về con người và PTCN thiết nghĩ luôn là vấn đề thiết thực cả về mặt lý luận
và thực tiễn. Những công trình trên sẽ là cơ sở lý luận quan trọng để chúng tôi tiếp
thu và bổ sung, phát triển trong nghiên cứu của mình.
1.1.2 Những công trình nghiên cứu về quan điểm của Chương trình phát triển
liên hợp quốc về phát triển con người
Tác giả Hồ Sĩ Quý trong bài viết Phát triển con người: Những điều cần làm
rõ [106] và trong cuốn Con người và phát triển con người [110] đã phân tích nội
hàm khái niệm phát triển con người trên cơ sở quan điểm của UNDP. PTCN không
phải là phương tiện mà là mục tiêu của sự phát triển. Con người trong quan niệm
này được coi là chiếm vị trí trung tâm của sự phát triển, nghĩa là nó đóng vai trò
quyết đinh cả đầu vào và đầu ra của sự PTCN. “Khi con người được đặt vào vị trí
trung tâm của sự phát triển, được coi là chủ thể và là mục tiêu của sự phát triển, thì
sự tăng trưởng kinh tế, sự phát triển nguồn lao động, cũng như sự phát triển các lĩnh
vực khác của xã hội…dẫu có ý nghĩa đến mấy cũng mới chỉ là phương tiện của sự
phát triển” [110, tr.37]. Từ năm 1990, UNDP đưa ra chỉ số PTCN (HDI) bao gồm
các yếu tố cơ bản: tuổi thọ bình quân, thành tựu giáo dục, mức thu nhập. Đó là
những tiêu chí phản ánh những khía cạnh cơ bản của năng lực con người. Trong bài
viết Phát triển con người Việt Nam qua các báo cáo thường niên về phát triển con
người của UNDP [109] tác giả đã nhấn mạnh, “bộ công cụ HDI khá lý tưởng vì nó
nhìn nhận vấn đề rất nhân văn và thúc đẩy mọi quốc gia phải có giải pháp cải thiện
đời sống con người” [109, tr.24]. Tuy nhiên chỉ số HDI “có thể che giấu những
những hạn chế trong phát triển kinh tế, những yếu kém trong chất lượng giáo dục,
những tiêu cực trong thực trạng an toàn xã hội, những hiện tượng tham nhũng trong
bộ máy công quyền” [109, tr.26].

10


Tác giả Hyungkee Kim trong bài viết Một chính sách tri thức đoàn kết cho

sự phát triển con người bền vững [65], [66] đã phân tích quan niệm phát PTCN bền
vững của C.Mác và Amartya Sen và khẳng định, cả hai ông đều nhấn mạnh tầm
quan trọng của tri thức đối với sự PTCN và chính sách tri thức đoàn kết mà tác giả
đưa ra dựa trên cơ sở này. Bài viết đã phân tích và khẳng định tầm quan trọng của
chính sách tri thức đoàn kết trong chiến lược PTCN bền vững trong thế kỷ XXI. Nó
không chỉ hướng đến mục tiêu giảm bớt khoảng cách về kiến thức giữa các cá nhân
mà còn nâng cao trình độ nhận thức của các cá nhân, chuyển những người lao động
phổ thông thành những người lao động có trình độ. “Tri thức của người lao động
mang lại cho họ cơ hội có được các công việc xứng đáng và giúp họ làm việc một
cách nhân văn và dân chủ”. Sự kết nối tư tưởng của C.Mác và Amartya Sen trong
bài viết này có ý nghĩa quan trọng. Nó cho thấy những tư tưởng kinh điển của
C.Mác về PTCN không hề lỗi thời, cùng với tư tưởng hiện đại của Amartya Sen “cha đẻ” của quan điểm PTCN sẽ là cơ sở để giải quyết những mâu thuẫn đang đặt
ra trong quá trình thực hiện chiến lược PTCN ở mỗi quốc gia. Chúng tôi sẽ tiếp thu
trong quá trình viết chương thứ 2 và thứ 4 của luận án.
Tác giả Nguyễn Đình Tuấn [127] và Nguyễn Thị Lê [68] đã khái quát lại
quan điểm PTCN của UNDP và việc xây dựng báo cáo PTCN toàn cầu từ 1990 đến
nay, những thay đổi trong việc xem xét, bổ sung các tiêu chí, chỉ số về PTCN; đồng
thời các quốc gia, khu vực cũng đã tiến hành xây dựng báo cáo PTCN cho riêng
mình. Đặc biệt, tác giả Nguyễn Thị Lê chỉ ra sự thay đổi khái niệm này qua hai giai
đoạn: Từ 1990 -2009: Khái niệm PTCN mà UNDP đưa ra là việc mở rộng sự lựa
chọn cho con người để con người có cuộc sống thịnh vượng hơn. Từ 2010 đến nay:
UNDP đưa ra quan niệm PTCN là sự mở rộng tự do của con người để cuộc sống
trường thọ, khỏe mạnh và sáng tạo… gồm các yếu tố: sự thịnh vượng, trao quyền,
tính chủ thể và công bằng. “Quan điểm này nhấn mạnh tới việc lấy con người làm
trung tâm và sự tự do của con người” [68, tr.30]. Tác giả cũng bàn về chỉ số PTCN
và những thay đổi trong cách tính, những ưu điểm và hạn chế của nó.

11



Tác giả Đào Thị Minh Hương [54] từ góc độ nhân học, đã phân tích hai nhân
tố của quá trình thực hiện các dự án PTCN là Người đi phát triển và Người được
phát triển. Đối với tham dự của người phát triển, tác giả chỉ ra những hạn chế
thường mắc phải như thiên về hình thức tổ chức hơn là “quan tâm đến tâm tư,
nguyện vọng của những người này” [54, tr.52] - người được phát triển. Các chuyên
gia phát triển thường chưa vượt qua được những định kiến về văn hóa, do đó dễ
mang tính áp đặt cho cộng đồng - nơi mà họ đến, không tính đến nét đặc thù của
môi trường và đối tượng hưởng thụ,… Từ đó tác giả đưa ra cách tiếp cận tham dự từ
phía những người đi phát triển để khắc phục những hạn chế này, “người phát triển
chủ động, tích cực tham gia vào đời sống thường ngày của các đối tượng phát triển,
xem xét quá trình phát triển “từ bên trong” nhằm nắm bắt tình hình, kịp thời đề xuất
các điều chỉnh thích hợp, khắc phục những yếu tố bất cập” [54, tr.54]. Đối với tham
dự của người được phát triển, theo tác giả phải “huy động được sự tham gia tích cực
của chính những người được phát triển” [54, tr.56]. Chỉ trên hai cơ sở này mới có
thể giải quyết “mắt xích yếu nhất trong thực hiện xúc tiến các dự án phát triển con
người” [54, tr.57]. Những phân tích này phản ánh thực trạng đang diễn ra trong
nhiều dự án PTCN và có giá trị thực tiễn. Chúng tôi sẽ kế thừa khi xây dựng hệ
thống giải pháp nhằm PTCN ở Thái Nguyên hiện nay.
Quan điểm về phát triển của Amartya Sen và Mahbul Ul Hag đã được đề
cập qua các bài viết như: Trịnh Thị Kim Ngọc, Phát triển con người qua phân tích
quan điểm “phát triển là quyền tự do” của Amartya Sen [94], Nguyễn Thị Lê
[68], Hyungkee Kim [64], [65], Vũ Thị Thanh (2010) [116]. Tác giả Trịnh Thị
Kim Ngọc đã phân tích quan điểm phát triển là quyền tự do của Amartya Sen
trong cuốn sách Phát triển là quyền tự do của ông xuất bản năm 1998. Trong bài
viết của mình, tác giả đã đi từ khái niệm phát triển đến phát triển con người, phát
triển bền vững. Theo đó thì “mức độ tự do của con người là thước đo để đánh giá
mức độ phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội: Con người tự do sẽ là cơ sở để con
người phát triển, con người phát triển là khi họ cảm thấy hạnh phúc, khi mọi nhu
cầu được đáp ứng” [94, tr.57]. Tự do được coi là “phương tiện của phát triển” [94,


12


tr.58]. “Nhiệm vụ quan trong mà ông đặt ra là làm sao để khẳng định các quyền tự
do nêu trên của con người và nên mở rộng cơ hội ra sao để các quyền tự do đều
được phát huy tích cực vì mục tiêu phát triển con người” [94, tr.58]. Tác giả
Nguyễn Thị Lê đã khái quát lại khái niệm PTCN theo cách tiếp cận năng lực của
Amartya Sen và bốn chiều cạnh PTCN là công bằng, bền vững, hiệu quả và trao
quyền trong quan niệm của Mahbul Ul Hag.
Liên quan đến PTCN bền vững và an ninh con người, các tác giả
Biktimirovaz.z [164], Phạm Thành Nghị [90], Đào Thị Minh Hương [55] đã tiếp
cận ở những góc độ khác nhau. Tác giả Biktimirovaz.z đưa ra bảy khía cạnh cơ bản
của an ninh con người và khẳng định, “an ninh con người - đó là khía cạnh quan
trọng nhất của chất lượng sống. Đồng thời những xu hướng phát triển hiện nay làm
tăng đáng kể những nguy cơ và hiểm họa đe dọa an ninh con người và mở rộng quy
mô những hậu quả có thể của chúng (…). Một cách tương ứng, nhiệm vụ bảo đảm
an ninh cho con người trở nên phức tạp hơn, vấn đề phát hiện và ngăn chặn các
nguy cơ và hiểm họa càng trở nên cấp thiết hơn” [164, tr.13]. Tác giả Phạm Thành
Nghị đã phân tích khái niệm PTCN bền vững theo quan niệm của UNDP và bốn
yếu tố của PTCN bền vững mà UNDP đưa ra. Tác giả nhấn mạnh, “Tư tưởng mới
nhất của UNDP về sự phát triển con người bền vững là để tất cả các nội dung về sự
phát triển của con người, cho con người và bởi con người có thể đến các thế hệ
tương lai. Bình đẳng tiếp cận và bình đẳng về cơ hội là các yếu tố cơ bản nhất của
tầm nhìn về các điều kiện cho phát triển con người bền vững” [90, tr.96]. Trên cơ sở
đó, tác giả nêu ra những thách thức đối với PTCN bền vững và hướng giải quyết.
Tác giả khẳng định “Sự phát triển con người bền vững phụ thuộc vào mức độ chính
phủ triển khai ý tưởng phát triển bền vững trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã
hội và các giải pháp khả thi cho sự giám sát của người dân” [90, tr.99]. Cũng liên
quan đến vấn đề này, tác giả Edouard A.wattez trong bài viết Một số vấn đề về phát
triển con người ở Việt Nam [138] cũng đề cập đến PTCN bền vững - điểm đáng chú

ý ở đây là, cái tác giả muốn nhấn mạnh - đó là sự phát triển của thế hệ tương lai là

13


rất quan trọng nhưng xóa bỏ tình trạng đói nghèo cho một bộ phận còn lại trong
hiện tại cũng quan trọng không kém: “trong khi cố gắng ngăn ngừa sự khốn khó
trong tương lai, không thể bỏ qua những người hiện nay đang bị khốn khó” [138,
tr.18]. Việc kết hợp hai mục tiêu này là yếu tố cơ bản trong cách tiếp cận PTCN đối
với phát triển kinh tế - xã hội.
Tác giả Nguyễn Vũ Quỳnh Anh trong bài Nghiên cứu phát triển con người
từ hướng tiếp cận vốn xã hội [6] cho rằng để PTCN thì nguồn vốn kinh tế không
còn đóng vai trò duy nhất trong phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập cho người lao
động, mà còn có các yếu tố khác, trong đó có vốn xã hội. Đối với sự PTCN, vốn xã
hội giúp xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, vốn xã hội giúp nâng cao vốn con
người, phát triển nguồn nhân lực. Từ đó, tác giả khẳng định: “Vốn xã hội cho phép
nhà nghiên cứu đánh giá mối tương tác giữa con người với phát triển từ giác độ tính
cố kết và các phẩm chất của cộng đồng người (…). Phát triển nguồn nhân lực phải
dựa vào phát triển vốn con người, chính là các hoạt động để tạo ra nguồn nhân lực
với số lượng và chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, đồng thời đảm bảo sự phát triển của mỗi cá nhân” [6, tr.41-42].
Tóm lại, những công trình nghiên cứu trên đã phân tích quan điểm của
UNDP về PTCN, tập trung ở mấy điểm sau:
Một là, quan niệm của UNDP về PTCN, triết lý con người là trung tâm của
sự phát triển đã nhận được sự tán đồng của hầu hết các nước thuộc Liên hợp quốc.
Hai là, Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng chỉ số HDI là bộ công cụ khá lý
tưởng để lượng hóa mức độ phát triển của người dân ở các quốc gia. Các chỉ số đo
lường được bổ sung qua HDR hàng năm giúp cho việc nghiên cứu định lượng về
PTCN ngày càng đầy đủ và chính xác hơn.
Ba là, những thành tựu về PTCN trên toàn cầu nói chung và của các quốc gia

nói riêng trong hơn hai thập kỷ vừa qua là hết sức to lớn; song thực tế vẫn còn rất
nhiều khó khăn, phức tạp ảnh hưởng trực tiếp đến sự PTCN như, an ninh con người,
nghèo đói, bình đẳng trên thực tế, tự do trong tiếp cận cơ hội,…

14


1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng phát triển con người ở Việt
Nam và Thái Nguyên hiện nay
1.2.1. Những công trình nghiên cứu về phát triển con người ở Việt Nam
Vấn đề con người và PTCN ở Việt Nam luôn được Đảng, Nhà nước quan
tâm và đặt lên hàng đầu. Từ đổi mới cho đến nay, nhất là những năm 90 khi UNDP
đưa ra HDR đầu tiên với quan điểm con người là trung tâm và hạt nhân là PTCN,
thì tư tưởng này nhanh chóng được đưa vào trong các chính sách xã hội và các đề
án thực hiện chiến lược PTCN ở nước ta. Nghiên cứu về vấn đề này đã có nhiều nhà
khoa học, nhiều học giả quan tâm và tiếp cận dưới những góc độ khác nhau. Trong
quan niệm về PTCN, Báo cáo phát triển con người Việt Nam 2001 - Đổi mới và sự
nghiệp phát triển con người [139] đã khẳng định: “Phát triển là sự mở rộng phạm vi
lựa chọn của con người để đạt đến một cuộc sống trường thọ, khỏe mạnh, có ý
nghĩa và xứng đáng với con người. Quan điểm này bao hàm hai khía cạnh là mở
rộng các cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực lựa chọn của con người nhằm hưởng
thụ một cuộc sống hạnh phúc, bền vững” [139, tr.13]. Quan niệm này “là tương
thích với quan niệm mới về phát triển con người mà UNDP đang theo đuổi” [139,
tr.23]. Báo cáo đã nêu bật những thành tựu về PTCN mà Việt Nam đã đạt được nhất là từ đổi mới cho đến nay. Đồng thời báo cáo cũng chỉ ra những thách thức mà
Việt Nam phải đối mặt trong quá trình đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa dưới tác động của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Về mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển con người, tác giả Nguyễn Duy
Quý [104] cho rằng, ở nước ta hiện nay thì tăng trưởng kinh tế - xã hội vẫn được coi
là nhiệm vụ hàng đầu, tuy nhiên phải luôn lấy con người, trình độ PTCN làm nền
tảng. Phát triển văn hóa thông qua nhiều quan hệ, nhưng lôgic cơ bản nằm trong

quan hệ lao động. Để phát triển văn hóa lên một trình độ mới, phải gia tăng trình độ
trí tuệ trong quan hệ lao động. Sự hình thành một kiểu nhân cách mới là mục tiêu
quan trọng nhất của giải phóng văn hóa của sự phát triển. Tác giả Đặng Hữu Toàn
trong bài viết Phát triển con người - thước đo nhân văn của tiến bộ xã hội trong
thời đại ngày nay và trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam [123] đã phân tích những

15


thay đổi của tình hình thế giới trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI và những
quan niệm khác nhau về tiêu chí của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Tác giả đã luận
chứng và đi đến khẳng định :“Chỉ có con người với tư cách là giá trị tối cao và tự
mục đích của phát triển xã hội mới được coi là tiêu chí chung của phát triển và tiến
bộ xã hội” [123, tr.11]. Tác giả khẳng định “Sự phát triển và tiến bộ xã hội theo
hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh phải lấy sự phát triển toàn diện con
người làm thước đo và coi đó là thước đo nhân văn của nó” [123, tr.13]. Cũng liên
quan đến vấn đề này, tác giả Nguyễn Thế Kiệt [63] đã đi sâu phân tích và chỉ ra
rằng xây dựng và PTCN, nâng cao chất lượng nguồn lực con người đã trở thành
nhân tố quyết định sức mạnh của công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Tác giả
Nguyễn Đình Tuấn với bài viết Phát triển con người Việt Nam thời kỳ đổi mới từ
quan điểm đến hành động [126] đã phân tích một số vấn đề PTCN ở Việt Nam từ
sau thời kỳ đổi mới đến nay (2009). Tác giả đi vào ba nội dung chính: tăng trưởng
kinh tế và xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục, phát triển y tế vì mục tiêu phát
triển con người. Tác giả khẳng định “từ những thay đổi trong nhận thức, Đảng và
Nhà nước đã đưa ra các chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội luôn thể
hiện tính công bằng trong cơ hội tiếp cận các nguồn lực phát triển, qua đó giúp cho
mọi người có điều kiện nâng cao đời sống kinh tế, tri thức và sức khỏe” [126, tr.22].
Tác giả Edouard A.wattez trong bài viết Một số vấn đề về phát triển con người ở
Việt Nam [138] đã đề cập đến nhiều nội dung liên quan đến PTCN nói chung và

PTCN Việt Nam nói riêng. Theo tác giả, ở Việt Nam từ 1986 đến nay dưới tác động
của các chính sách đổi mới, Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực trong việc
thực hiện các mục tiêu PTCN “thành công đầy ấn tượng của công cuộc đổi mới chủ
yếu dựa trên quá trình mở rộng “cơ hội lựa chọn” cho người dân Việt Nam” [138,
tr.11]. Tuy nhiên theo tác giả thì tình trạng nghèo đói đang là “thách thức cấp bách
nhất về phát triển con người ở Việt Nam” [138, tr.11]. Cũng về nội dung này, tác
giả Lê Thi trong bài Nâng cao chỉ số phát triển con người Việt Nam và công cuộc
xóa đói giảm nghèo [117] đã đã phân tích thực trạng đói nghèo ở Việt Nam hiện

16


nay (2006), để từ đó đi đến luận điểm “để nâng cao chỉ số phát triển con người Việt
Nam, phải nâng cao chất lượng sống và tích cực xóa đói giảm nghèo” [117, tr.35].
Tác giả Trần Đức Hiệp trong bài viết Phân phối thu nhập ở Việt Nam: một số thách
thức nhìn từ mục tiêu phát triển con người [61] đã chỉ ra một số thành tựu về kinh tế
mà Việt Nam đã đạt được trong những năm 2001-2007 và những kết quả này đã
góp phần giảm thiểu tình trạng nghèo đói ở Việt Nam. “Nhìn tổng thể, trình độ phát
triển con người của Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt dưới ảnh hưởng của quá trình
tăng trưởng việc làm” [61, tr.50]. Theo bà Valerie Kozel, chuyên gia Kinh tế cao
cấp của Ngân hàng Thế giới khẳng định: “(Việt Nam) tăng trưởng đang suy giảm
trong những năm gần đây do các bất ổn vĩ mô và các cú sốc từ bên ngoài, bất bình
đẳng gia tăng, nghèo trong nhóm dân tộc thiểu số vẫn cao và khó xóa bỏ. Những
người nghèo còn lại càng khó để tiếp cận, họ phải đối mặt với những thách thức như
sự cô lập, hạn chế về tài sản, trình độ học vấn thấp, sức khỏe kém” [163]. Bên cạnh
đó, những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường cũng đang đặt ra hàng loạt
các vấn đề liên quan đến quyền lợi của người lao động.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu thực nghiệm, tác giả Phạm Minh Hạc
(chủ biên) trong cuốn Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa [40] đã phân tích cơ sở khoa học của chiến lược phát triển toàn diện

con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, đồng thời nêu lên một số định hướng
chiến lược và một số giải pháp lớn nhằm xây dựng phát triển toàn diện con người
Việt Nam. Về khái niệm PTCN, theo tác giả cần hiểu “đó là sự phát triển loài
người, cá thể người, cá nhân, nhân cách, nhân lực.. đó là sự phát triển một chỉnh thể
toàn vẹn nhưng nhiều hình thái, nhiều giá trị và nhiều chức năng” [40, tr.110]. Bản
chất của sự PTCN “tựu trung là làm gia tăng giá trị của con người” [40, tr.110].
Theo tác giả, trên bình diện triết học, nội dung PTCN thường được tiếp cận trên ba
lĩnh vực cơ bản: phát triển thể chất, phát triển tâm trí, phát triển tâm hồn, tình cảm.
Trên cơ sở lý luận của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam, tác giả đưa ra nội hàm của sự PTCN toàn diện gồm
bảy nội dung, khái lược lại có thể hiểu “phát triển toàn diện con người là khắc phục

17


tình trạng tha hóa, phát triển toàn diện, hài hòa, cân đối trí lực và thể lực, đức và tài,
phát triển cá tính và sự phong phú của con người, phát triển một cách tự do, đầy đủ
và làm chủ, thích ứng với sự di động chức năng xã hội của con người” [40, tr.33].
Trong Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2014 của Ngân hàng thế giới với
chủ đề Phát triển kỹ năng: Xây dựng lực lượng lao động cho một nền kinh tế thị
trường hiện đại ở Việt Nam cho rằng, Việt Nam đã rất nỗ lực để mở rộng khả năng
tiếp cận giáo dục cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, báo cáo cũng chỉ ra đối với
người sử dụng lao động họ rất cần người lao động có kỹ năng tư duy phản biện và
kỹ năng giao tiếp - nhưng điều đó còn rất thiếu và yếu. “Thách thức đối với Việt
Nam chính là: làm thế nào có thể biến sinh viên tốt nghiệp từ những người học giỏi
theo sách vở trở thành những người có tư duy phản biện và biết giải quyết vấn đề”
[tr.26]. Từ đó Báo cáo khẳng định, việc xây dựng một lực lượng lao động có kỹ
năng cao là trách nhiệm chung của chính phủ, các cơ sở giáo dục - đào tạo, người sử
dụng lao động, sinh viên và phụ huynh. Tác giả Hồ Sĩ Quý trong bài viết Phát triển
con người Việt Nam qua các báo cáo thường niên về phát triển con người của

UNDP [109] đã phân tích và làm rõ triết lý con người chiếm vị trí trung tâm của sự
phát triển trong quan niệm của UNDP. Trên cơ sở các chỉ số, chỉ báo, các tiêu chí
về sự phát triển con người do UNDP đưa ra trong các HDR hàng năm, tác giả đã
phân tích, so sánh và nhận xét về những thành tựu trong PTCN của Việt Nam từ
1990 đến 2005, khẳng định sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với sự PTCN. Tác
giả Nguyễn Văn Sơn trong Luận án của mình Quan điểm của C.Mác về phát triển
con người và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay [112] đã trình bày quan điểm của
C.Mác về PTCN, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng quan điểm này
đối với sự tiến bộ mọi mặt đời sống xã hội ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, tác giả
chưa đề cập vấn đề con người trong triết học Mác dưới hai góc độ là con người cá
nhân và cộng đồng, do đó khi đánh giá thực trạng PTCN Việt Nam chưa làm rõ
được con người với cả hai tư cách là con người cá thể và con người xã hội.
Trong bài viết Tăng trưởng kinh tế và phát triển con người: một số vấn đề
thực tiễn ở Việt Nam hiện nay [56], [57] tác giả đã xem xét mối tương quan giữa

18


tăng trưởng kinh tế với PTCN Việt Nam. Tác giả đã chỉ ra trong những thập kỷ vừa
qua, Việt Nam đã có mức tăng trưởng cao, trở thành quốc gia có thu nhập trung
bình (2010), tạo điều kiện gia tăng đầu tư vào mục tiêu xã hội, tiếp tục nâng cao chỉ
số PTCN; nhưng đi liền với điều đó là sự gia tăng khoảng cách về bất bình đẳng thu
nhập trong nội vùng cũng như của các nhóm kinh tế - xã hội ở nông thôn. “Sự bất
bình đẳng ra tăng cảnh báo công nghiệp hóa – hiện đại hóa và tăng trưởng kinh tế
thành công không tự động cho phép giải quyết vấn đề phân phối thu nhập không
công bằng và bất bình đẳng cơ hội phát triển với hậu quả là sự chuyển dịch của cải
giữa các giai tầng có thể đe dọa ổn định xã hội” [56, tr11]. Tác giả Đào Thị Minh
Hương [57] cũng cho thấy những hạn chế của tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện
nay. Đó là tăng trưởng kinh tế cao nhưng chưa bền vững, đầu tư chưa hiệu quả, vẫn
là tập trung đầu tư vốn tài chính chứ không phải là con người, chất lượng tăng

trưởng còn thấp thể hiện qua năng suất lao động thấp và kéo theo là thu nhập thấp;
thu nhập gia tăng nhưng sinh kế của người dân vẫn thiếu bền vững, vẫn còn khoảng
cách xa trong việc giảm nghèo đói giữa các dân tộc; tốc độ giảm nghèo chậm, khả
năng tái nghèo cao do cú sốc về kinh tế và sức khỏe. Trong một bài viết khác Phát
triển con người từ góc độ chăm sóc sức khỏe: Một số vấn đề thực tiễn ở Việt Nam
hiện nay [58], tác giả chỉ ra chỉ số y tế của Việt Nam hiện nay tốt hơn nhiều nước có
cùng trình độ phát triển do trong thập kỷ qua nhà nước đã tăng chi tiêu công cho y
tế và tăng tỉ trọng của bảo hiểm y tế, là kết quả của nhiều chính sách và chương
trình liên quan đến chăm sóc sức khỏe toàn dân đã được ban hành và thực hiện.
Mặc dù độ bao phủ bảo hiểm y tế tăng dần theo các năm nhưng không đồng đều
giữa các nhóm đối tượng, giữa các vùng miền. Có tiến bộ trong việc làm giảm bớt
khoảng cách về y tế giữa các vùng miền, nhóm kinh tế - xã hội, giữa các dân tộc,
nhưng bất bình đẳng cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế vẫn tiếp tục. PTCN Việt Nam dưới
góc độ giáo dục cũng được trình bày khá sâu sắc trong bài Phát triển con người Việt
Nam nhìn từ góc độ giáo dục giai đoạn năm 2001 – 2010 [59]. Tác giả đã chỉ ra
những bước tiến lớn của giáo dục Việt Nam từ đổi mới đến nay chủ yếu là nhờ vào
tăng chi tiêu công cho giáo dục và cam kết của chính phủ về giáo dục toàn dân. Mặc

19


×