Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUÁ TRÌNH xâm NHẬP và ẢNH HƯỞNG của đạo TIN LÀNH ở một số VÙNG ĐỒNG bào HMÔNG TỈNH sơn LA THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (513.57 KB, 107 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Tôn giáo vừa là một hiện tượng xã hội phức tạp, vừa là nhu cầu tinh
thần của bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân; Lịch sử tồn tại và phát
triển của các Tôn giáo cho thấy: Các Tôn giáo luôn bị các giai cấp, các thế lực
chính trị lợi dụng vì những mục đích khác nhau và gây nên không ít các cuộc
chiến thảm khốc.
Ngày nay, trên phạm vi quốc gia và quốc tế vấn đề dân tộc và tôn giáo
thường đan quyện vào nhau và được xem là những mồi lửa châm sẵn, tiềm ẩn
các nguy cơ. Riêng vấn đề tôn giáo những năm qua có nhiều biến đổi khó
lường và được các thế lực tư bản đế quốc đẩy lên thành những vấn đề quan
trọng không thể thiếu trong chiến lược “Diễn biến hoà bình” chống CNXH.
Ở nước ta thời gian qua tôn giáo đang có chiều hướng phát triển mạnh,
gia tăng cả về số lượng cũng như tính chất phức tạp. Các “điểm nóng” tôn giáo
xuất hiện ở một số địa bàn, sự bung ra của các Hội đoàn Công giáo và tình
trạng khiếu kiện đòi lại các cơ sở thờ tự đã cung hiến ở nhiều địa phương trong
cả nước đang gây ra những xáo trộn cả về an ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội.
Tin lành là một trong 6 tôn giáo lớn ở nước ta. Đặc biệt sự phát triển
không bình thường của tôn giáo này trong những năm gần đây đã gây ra
những hậu quả tiêu cực trên nhiều mặt của đời sống xã hội. Tin lành ở nước ta
phát triển rất nhanh trên một diện rộng trong cả nước nhất là ở các tỉnh Tây
Nguyên và các tỉnh biên giới phía Bắc. Tin lành đã thực sự len lỏi sâu vào tận
các bản làng xa xôi hẻo lánh của đồng bào Hmông. Vì vậy mà vấn đề Tin lành
đã và đang là một vấn đề nổi cộm gây ra những lúng túng cả trong nhận thức
và phương pháp giải quyết của các cấp uỷ, chính quyền và đoàn thể ở đây.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI



2

Cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về đạo Tin lành như:
Ở nước ngoài các công trình đáng chú ý là “Về vai trò của đạo Tin lành”
của Max Weber, “Hội thánh Tin lành miền Nam” của Ixơraca-Richared Woff
(Sài Gòn 1959), “Các hệ phái Tin lành ở Mỹ” của Bensons Y Lendis (New
York 1986). Ở trong nước, ngoài các Hội nghị chuyên đề về Tin lành của Viện
nghiên cứu tôn giáo, các ban chuyên trách về công tác tôn giáo của Trung
ương và địa phương, có các công trình nghiên cứu sau: Đề tài cấp Bộ “Thực
trạng tình hình phục hồi, phát triển đạo Tin lành ở các vùng dân tộc thiểu số
miền núi nước ta và những vấn đề đặt ra đối với công tác an ninh” (Chủ nhiệm
TS. Nông Văn Lưu - 1995); Đề tài cấp Bộ: “Sự phát triển của đạo Tin lành
trong vùng đồng bào dân tộc ít người ở một số tỉnh miền núi phía Bắc nước ta
hiện nay” (Chủ nhiệm TS. Nguyễn Đức Lữ - 2000); Chuyên đề: “Đạo Tin lành
ở Việt Nam - Thực trạng và xu hướng phát triển” (của Nguyễn Thanh Xuân Vụ trưởng Vụ Tin lành - Ban Tôn giáo chính phủ); Đề tài cấp Bộ “Về tình
hình phát triển đạo Tin lành ở miền núi phía Bắc - Trường Sơn - Tây Nguyên”
(Chủ nhiệm GS. Đặng Nghiêm Vạn - Viện Nghiên cứu Tôn giáo - 2000); Luận
án thạc sĩ “Thực trạng đạo Tin lành tại thành phố Hồ Chí Minh và những vấn
đề đặt ra cho công tác an ninh” (Nguyễn Thế Hạnh - 2000)...
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nói trên bàn đến vấn đề Tin lành
trên những giác độ chung và rộng, còn ở phạm vi hẹp hơn thì chưa đề cập
được nhiều. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài: “Quá trình xâm nhập và ảnh
hưởng của đạo Tin lành ở một số vùng đồng bào Hmông tỉnh Sơn La - Thực
trạng và giải pháp” nhằm tìm hiểu và lý giải vấn đề Tin lành ở một địa bàn
vùng núi cụ thể (tỉnh Sơn La) với một đối tượng cụ thể (đồng bào Hmông) để
có thể đưa ra được những căn cứ khoa học thực tiễn góp phần giải quyết tốt
vấn đề Tin lành ở đây.
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU


3.1. Mục đích


3

Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng làm rõ nguyên nhân của sự xâm nhập,
ảnh hưởng và xu hướng của đạo Tin lành trong đồng bào Hmông Sơn La; đề
xuất một số giải pháp, kiến nghị góp phần giải quyết tốt vấn đề Tin lành ở Sơn
La hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích và trình bày thực trạng đạo Tin lành trong người Hmông Sơn La, chỉ ra nguyên nhân của sự xâm nhập, dự báo xu hướng của đạo Tin
lành ở đây trong những năm tới.
- Làm rõ ảnh hưởng của Tin lành đến các mặt của đời sống xã hội của
Sơn La.
- Đề xuất một số giải pháp kiến nghị nhằm giải quyết tốt vấn đề Tin lành
ở địa bàn Sơn La.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu sự xâm nhập và ảnh hưởng của đạo Tin lành ở một
số vùng đồng bào Hmông Sơn La. Thời gian từ 1986 đến nay.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận duy vật Mác-xít,
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo để làm rõ
vấn đề cần nghiên cứu. Kế thừa có chọn lọc thành quả nghiên cứu của các tác
giả đã đề cập tới vấn đề này.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng tổng hợp các phương pháp trong quá trình nghiên
cứu như: Kết hợp lôgíc với lịch sử, phân tích và tổng hợp; đồng thời coi trọng

phương pháp điều tra khảo sát, thống kê, phỏng vấn, thực tế tại cơ sở ...
5. ĐÓNG GÓP MỚI VỀ KHOA HỌC CỦA LUẬN VĂN


4

- Góp phần tìm hiểu rõ hơn thực trạng, nguyên nhân của sự xâm nhập và
phát triển đạo Tin lành, có cách nhìn đầy đủ hơn về Tin lành ở vùng đồng bào
Hmông Sơn La.
- Chỉ ra những tác động ảnh hưởng của Tin lành đối với các mặt của đời
sống xã hội vùng đồng bào Hmông Sơn la. Dự báo xu hướng phát triển của Tin
lành trên địa bàn Sơn La những năm tới.
- Góp phần đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm giải quyết vấn đề
xâm nhập của Tin lành ở Sơn La.
6. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN

Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy
về tôn giáo và trong quá trình giải quyết vấn đề tôn giáo của các cấp uỷ Đảng,
chính quyền, đoàn thể ở Sơn La.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn gồm 3 chương 7 tiết.

CHƯƠNG 1
ĐẶC ĐIỂM TỈNH SƠN LA, QUÁ TRÌNH XÂM NHẬP
ĐẠO TIN LÀNH VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CHỦ YẾU
QUÁ

1.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA TỈNH SƠN LA LIÊN QUAN ĐẾN

TRÌNH XÂM NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠO TIN LÀNH.


5

1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế , xã hội.
1.1.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư.
Sơn La là một tỉnh vùng cao phía Tây Bắc Việt nam, cách Hà Nội
379Km. Diện tích tự nhiên là 14.050Km2. Phía Bắc giáp Lào Cai; Phía Nam
giáp Thanh Hoá; Phía Đông giáp Phú Thọ, Hoà Bình và Yên Bái; Phía Tây
giáp Lào với 250Km đường biên giới [6, tr. 1].
Sơn La có 10 huyện, thị với 201 xã, phường, thị trấn (trong đó có 40 xã
vùng cao và 20 xã vùng cao biên giới), 2816 bản và tiểu khu. Dân số của tỉnh
881.383 người (tính đến 1.4.1999). Sơn La có 12 dân tộc anh em trong đó dân
tộc Thái chiếm 54,7%, Kinh 18,7%, Hmông 11,7%, Mường 8,2%, Dao 2,7%,
Khơ Mú 1,6%, Sinh Mun 1,5%, các dân tộc Lào, La Ha, Kháng, Tày, Nùng chỉ
chiếm 0,7%. Về số lượng người Hmông đứng vào hàng thứ 3 của Sơn La và họ
thường cư trú ở những vùng núi cao trên 1000 m [6, tr. 1].
Do điều kiện địa lý tự nhiên, Sơn La là một tỉnh có địa hình phức tạp,
núi rừng trùng điệp, nhiều sông suối, khe lạch. Diện tích núi đồi ở đây chiếm
tới 60%, diện tích ruộng ít, độ cao trung bình 700m so với mặt biển. Khí hậu
Sơn La khắc nghiệt, mùa hè nắng nóng mưa nhiều, mùa đông sương muối, khô
hạn và thường xuyên diễn ra thiên tai [9, tr. 1].
1.1.1.2. Đặc điểm về kinh tế và đời sống.
Sơn la là một tỉnh miền núi cao điều kiện tự nhiên không thuận lợi,
những yếu tố làm kìm hãm, cản trở sự phát triển nền kinh tế và đời sống còn
rất lớn. Mặc dù vậy sau hơn 10 năm đổi mới với sự nỗ lực của toàn Đảng bộ và
nhân dân các dân tộc nên tình hình kinh tế - xã hội trong những năm qua đã có
những tiến bộ đáng kể, đời sống nhân dân các dân tộc ổn định, nhiều mặt được
cải thiện; kết cấu hạ tầng được xây dựng và tu bổ; cơ cấu kinh tế, sản xuất

hàng hoá, ứng dụng khoa học - kỹ thuật có nhiều chuyển biến tích cực, diện
đói nghèo đang ngày càng thu hẹp .
Tuy nhiên về kinh tế và đời sống của Sơn la nổi lên một số vấn đề sau:


6

- Sơn La là một tỉnh vùng cao biên giới, do kiến tạo địa lý đã hình thành
3 vùng kinh tế - xã hội khá rõ rệt: vùng thấp, vùng giữa và vùng cao (theo tiêu
chí đánh giá của Uỷ ban dân tộc miền núi là Khu vực I, II và III )
Vùng thấp: có 72 xã, dân số 405.889 người chiếm 46,05% là nơi cư trú
chủ yếu của các dân tộc: Kinh, Thái, Mường, Tày. Đây là vùng kinh tế khá
phát triển, kết cấu hạ tầng được xây dựng, đời sống nhân dân ổn định và được
cải thiện [9, tr. 2].
Vùng giữa: có 69 xã, dân số 269.232 người chiếm 30,54% là nơi cư trú
chủ yếu của các dân tộc Thái, Dao, Sinh Mun, Khơ mú, Kháng, La ha. Đây là
vùng kinh tế có phát triển nhưng mức tăng trưởng không cao, đời sống nhân
dân chưa ổn định [9, tr. 2].
Vùng cao, vùng sâu, biên giới: có 60 xã, dân số 206.255 người chiếm
23,4%, là nơi cư trú chủ yếu của đồng bào Hmông, kinh tế chưa phát triển,
việc tổ chức lại sản xuất, chuyển dịch cơ cấu còn gặp nhiều khó khăn, cơ sở hạ
tầng hầu như không có gì, các hộ đói nghèo tập trung ở khu vực này [9, tr. 2].
- Sản xuất của Sơn la chủ yếu là nông lâm nghiệp, trong sản xuất nông
nghiệp trồng trọt vẫn là chính, mang tính độc canh một vụ. Cơ cấu tổng sản
phẩm trong tỉnh phân theo ngành kinh tế như sau: Nông lâm nghiệp chiếm
79,7% (1990), 72,6% (1997) tổng GDP toàn tỉnh, công nghiệp và xây dựng chỉ
chiếm 7,5% (1990), 9,6% (1997), còn lại là các nghành dịch vụ. Tổng thu ngân
sách hàng năm tại địa phương chỉ đạt xấp xỉ từ 10 đến 25% tổng chi ngân sách,
còn lại chủ yếu do Trung ương hỗ trợ [21, tr. 2]. Sản xuất nông nghiệp chưa
vững chắc, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, nền kinh tế chưa thoát khỏi tự

cung tự cấp, sản xuất manh mún, việc ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ
thuật chưa phổ biến dẫn đến năng suất lao động thấp, kinh tế hàng hoá chậm
phát triển, tình trạng phá rừng làm nương rẫy còn khá phổ biến (đặc biệt là ở
vùng cao). Do đặc điểm của điều kiện tự nhiên, tập quán canh tác và sản xuất
cây trồng không ổn định vì vậy vẫn còn một bộ phận nhân dân sống du canh,
du cư, nhất là người Hmông. Năm 2000 còn 6633 hộ với 44.469 người sống du


7

canh du cư, số đã định cư nhưng vẫn du canh là 17.055 hộ với 109,803 người [3,
tr. 15]. Các bản ở rải rác, số lượng bản dưới 30 hộ khá lớn, ở vùng cao không
có các điểm tụ cư đông đúc, vì vậy rất khó khăn cho việc đầu tư xây dựng các
công trình giao thông, phúc lợi xã hội, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng và nâng
cao dân trí cho người dân...
- Kết cấu hạ tầng nông thôn rất thấp kém, lạc hậu giao thông đi lại khó
khăn, đặc biệt là giao thông liên xã, liên bản. Theo số liệu năm 1997 cả tỉnh
còn 38 xã chưa có đường ô tô đến xã, 55 xã chưa có điện thoại, 189 xã chưa có
trạm truyền thanh, 157 xã chưa có chợ, 155 xã chưa có trường phổ thông cấp II
[46, tr. 3]. Đây là những trở ngại lớn cho giao lưu kinh tế, phát triển sản xuất
hàng hoá, nắm bắt và xử lý thông tin.
- Về đời sống đồng bào các dân tộc trong tỉnh nhất là khu vực II và III
còn rất nhiều khó khăn, trình độ kinh tế - xã hội chênh lệch lớn so với các
vùng đồng bằng, đô thị trong cả nước và ngay cả giữa các khu vực trong Tỉnh
và giữa các dân tộc. Theo kết quả điều tra, đời sống dân cư Sơn La năm 1995
thu nhập bình quân chung 1 nhân khẩu 1 tháng là 136,8 ngàn đồng , trong đó
khu vực thành thị: 286,4 ngàn đồng, khu vực nông thôn: 118,7 ngàn đồng;
GDP bình quân đầu người (1999) khoảng gần 200 USD đầu người (cả nước
gần 400 USD/người). Số hộ nghèo toàn Tỉnh năm 1993 là 33,8% trong đó
thành thị: 15,8%, nông thôn: 37,1%. Tỷ lệ hộ dùng điện, nước máy giữa thành

thị và nông thôn, giữa các khu vực có sự chênh lệch đáng kể (theo số liệu điều
tra 1/4/1999) toàn Tỉnh có 48,73% tổng số hộ dùng điện, trong đó khu vực
thành thị là 92,5%, nông thôn là 39,5%, khu vực III: 23,3% (chủ yếu thuỷ điện
nhỏ); Tỷ lệ hộ được dùng nước máy, nước sạch là 9,8% ở thành thị, 1,12% ở
nông thôn. [20, tr. 8]
Tóm lại kinh tế Sơn la vẫn chủ yếu là thuần nông phương thức canh tác
lạc hậu, kinh tế chậm phát triển chưa thoát khỏi tính chất tự cung tự cấp. Đúng
như Báo cáo đại hội Tỉnh Đảng bộ Sơn la khoá XI ( 2001-2005) đã đánh giá
"Sơn la vẫn còn là một tỉnh miền núi đặc biệt khó khăn, cơ sở hạ tầng thiếu và


8

nhiều mặt còn thấp kém; chuyển hướng sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất
hàng hoá chưa đồng đều giữa các vùng, hiệu quả thấp" [46]
1.1.1.3. Các đặc điểm về văn hoá xã hội.
- Bản, mường được coi là các đơn vị xã hội cơ sở của các tộc người ở
Sơn la. Bao gồm trong nó các gia đình của nhiều dòng họ, hình thái cư trú phổ
biến là theo từng dân tộc, từ năm 1990 đến nay xuất hiện một số điểm có sự
xen kẽ đa dân tộc như trường hợp người Thái với người Mường, người Thái
với người Khơ mú v.v... Nhưng riêng với người Hmông thì hiện tượng cư trú
xen kẽ ít hơn, họ luôn sống thành từng cụm, từng điểm riêng, ở những nơi biệt
lập, giao thông đi lại khó khăn. Ở mức độ rộng hơn là đơn vị hành chính xã,
huyện thì hình thái cư trú xen lẫn là khá phổ biến, mỗi xã, mỗi huyện có nhiều
bản và nhiều dân tộc sống xen kẽ. Đồng thời cũng có một số xã chỉ thuần một
dân tộc là người Thái hoặc người Hmông
Sự đoàn kết gắn bó dân tộc là một trong những đặc trưng cơ bản của các
dân tộc Sơn la. Các dân tộc ở đây thường có mối quan hệ mật thiết gắn bó
trong sinh hoạt và sản xuất. Trong đời sống cộng đồng các dân tộc thường kết
nghĩa anh em và khi đã kết nghĩa thì họ thường qua lại thăm hỏi, giúp đỡ nhau

về tinh thần và vật chất. Đó chính là cơ sở tạo nên sự đoàn kết giữa các dân
tộc trong lịch sử xây dựng và bảo vệ quê hương .
Vai trò của quan hệ dòng họ còn rất lớn, quan hệ dòng họ chỉ có trong
cùng một dân tộc và trong một dân tộc lại có nhiều dòng họ khác nhau, mỗi
dòng họ có nguồn gốc lịch sử riêng biệt, không chỉ mang tích chất huyết thống
mà còn thể hiện cả sự phân chia giai cấp và đẳng cấp. Có dòng họ lớn, dòng họ
bé, có dòng họ quý tộc. Trong mỗi dòng họ đều có người đứng đầu là các tộc
trưởng, trong mỗi bản, mường đều có già làng, trưởng bản mà vai trò của họ
khá quan trọng. Chẳng hạn trưởng tộc được coi là "gốc họ" là người "nắm tay
dân ở, mở tay dân đi", rất được dòng họ kính trọng, là người đại diện cho dòng
họ trong việc giải quyết mọi quan hệ đối nội và đối ngoại. Thực tế cho thấy vai
trò của già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ là những người có uy tín đối với


9

cộng đồng, dẫu không nằm trong thiết chế chính thống nhưng thông qua họ
nhiều công việc xã hội, nhiều vấn đề phức tạp đã được giải quyết. Quan hệ gia
đình trong các dân tộc ở Sơn la đều theo chế độ phụ hệ, vai trò của người đàn
ông được đề cao, con cái được tính theo họ cha, anh em bên họ nội được coi
trọng hơn bên họ ngoại...
Nền văn hoá các dân tộc Sơn la vốn có lịch sử phát triển từ lâu đời với
nhiều loại hình đa dạng. Ở Sơn La có sự giao thoa, tiếp biến văn hoá giữa các
dân tộc, trong đó ảnh hưởng lớn nhất là nền văn hoá của người Thái, một dân
tộc chiếm hơn 54,7%.
Nhìn chung trong quá trình đổi mới, với đường lối xây dựng nền văn
hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, các dân tộc ở Sơn La đã giữ gìn và phát
huy được bản sắc của mình trong đời sống cộng đồng, đời sống vật chất và
tinh thần đã được cải thiện đáng kể.
Tuy nhiên về mặt Văn hoá- Xã hội có không ít những vấn đề bức xúc

đang đặt ra:
- Trước hết là sự phân hoá giàu nghèo, sự cách biệt mức sống đang diễn
ra gay gắt giữa các vùng trong Tỉnh, giữa dân tộc đa số và thiểu số... Trong quá
trình phát triển số hộ đói nghèo trong Tỉnh có xu hướng ngày càng giảm dần,
nhưng tình trạng phân hoá giàu nghèo ngày càng doãng ra, chênh lệch về mức
sống, về thu nhập đã lên đến con số hàng chục lần giữa những người có thu
nhập cao nhất và những người có thu nhập thấp nhất. Trong khi đó quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế thì hiệu quả đầu tư vào vùng cao đạt thấp, các hiện
tượng tiêu cực quan liêu, tham nhũng xuất hiện ngày càng nhiều đã làm cho
một bộ phận quần chúng vùng cao bị xói mòn niềm tin.
- Đời sống vật chất thấp, đời sống tinh thần nghèo nàn kéo theo nhiều
căn bệnh xã hội như nghiện hút, bướu cổ, lao, suy dinh dưỡng ở trẻ em, dịch
bệnh sốt rét, thương hàn, thường xuyên diễn ra nhất là những bản làng vùng
cao. Y tế còn nhiều yếu kém, các trạm y tế xã với những thiết bị hết sức ít ỏi
và lạc hậu, lực lượng cán bộ vừa thiếu, vừa yếu về chuyên môn nghiệp vụ. Tỷ


10

lệ gia tăng dân số còn khá cao, mức tăng bình quân trong 10 năm 1989 - 1999
là 2,6% (BQ chung cả nước 1,7%). Nhiều phong tục tập quán lạc hậu mê tín dị
đoan, tệ tảo hôn... còn khá phổ biến và ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển
và đời sống cộng đồng [6, tr. 4].
- Trình độ dân trí, văn hoá nói chung và văn hoá pháp luật ở các vùng
dân tộc thiểu số còn rất thấp. Bộ phận đồng bào dân tộc ít người chưa biết chữ
và tiếng phổ thông còn lớn: 28,9% số người từ 6 tuổi trở lên không biết tiếng
phổ thông (tỷ lệ này ở vùng người Hmông là 51,1%), số người từ 13 tuổi trở
lên không có trình độ chuyên môn nghiệp vụ là 93,7%. Hàng năm có khoảng
6000 người trong độ tuổi từ 15- 35 được xoá mù, nhưng cũng có khoảng 10%
tái mù do không có điều kiện đi học, thiếu trường lớp, giáo viên. Toàn Tỉnh

còn 31000 cháu trong độ tuổi chưa đến trường [50, tr. 18] chủ yếu là ở vùng
cao, vùng xa (đặc biệt các dân tộc như Hmông, Sinh mun). Những hạn chế về
dân trí và văn hoá nói trên không chỉ ngăn trở việc tiếp thu các tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào vùng núi, mà nó còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền
đạo, lừa gạt và lôi kéo quần chúng (xem phụ lục 13 - 14).
Các đặc điểm đã trình bày ở trên đều ít nhiều có liên quan đến sự xâm
nhập và phát triển của đạo Tin lành trong người Hmông Sơn la.
1.1.2. Vài nét về dân tộc Hmông.
Dân tộc Hmông có lịch sử lâu đời, hình thành sớm ở miền Nam Trung
Hoa. Từ đời Chu họ đã lập nước Tam miêu là thành viên nước Sở hùng mạnh,
cư trú tập trung ở trung lưu sông Dương tử giữa hai hồ Động đình và Bành lại.
Người Hmông sớm biết làm ruộng và nổi tiếng sử sách với nghề rèn, nhưng bị
các dân tộc khác chèn ép chiếm đánh, dồn dần lên vùng cao làm nương sinh
sống. Trên mảnh đất quê hương của mình, người Hmông đã tiến hành cuộc
chiến chống lại sự bành trướng của người Hán xuống phương Nam gần ngàn
năm. Sau khi bị thất bại một bộ phận ở lại quê hương dần dần bị đồng hoá
cưỡng bức hoặc bị diệt chủng, một bộ phận khác không chịu đồng hoá đã di cư
xuống phương nam ở vùng Quí châu, Hồ nam để bảo tồn dân tộc . Lịch sử


11

Trung quốc đã ghi lại nhiều cuộc nổi dậy của họ liên kết với một số dân tộc
khác chống lại triều đình phong kiến Trung quốc trong đó có cuộc khởi nghĩa
Thái Bình Thiên Quốc mang màu sắc tôn giáo và mang danh Thiên đế (1860 1872). Thái Bình Thiên Quốc là cuộc khởi nghĩa dung hợp giữa Đạo giáo và Ki
tô giáo, cuộc khởi nghĩa này kết thúc bằng cuộc đàn áp đẫm máu của triều
đình nhà Thanh. Trong số đó có một bộ phận người Hmông phải dạt xuống
phía nam và định cư ở một số nước Đông nam Châu Á trong đó có Việt nam.
Người Hmông di cư đến Việt nam cách đây khoảng năm thế kỷ nơi đầu
tiên họ đến là Đồng văn, Mèo vạc (Hà giang) và coi đây là quê hương của họ.

Sau đó có ba đợt di cư vào Việt nam, trong đó đợt thứ ba cách đây khoảng 100
năm là lớn nhất với hàng vạn người vào Hà giang, Lào cai, Lai châu, Sơn la...
Đến nay người Hmông ở Việt nam có khoảng trên 70 vạn phân bố rải
rác ở các tỉnh miền núi phía bắc từ Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào
Cai, Lai châu, Sơn la, Hoà bình, Thanh hoá và Nghệ an [58, tr. 15] .
Người Hmông cư trú thường không ổn định, sống du canh du cư, có tâm
lý thích tự do săn bắt và đốt phá rừng làm nương rẫy. Nhận thức của họ khá
đơn giản, đánh giá mọi việc bằng trực giác, chỉ tin vào những điều tai nghe
mắt thấy. Vì thế dân tộc Hmông cũng là những con người dễ đặt niềm tin và
ngược lại cũng dễ mất lòng tin.
Người Hmông thường ở theo từng bản, mỗi bản có một hoặc nhiều dòng
họ, người trưởng bản, trưởng dòng họ tham gia quản lý, giải quyết những công
việc chung của dân tộc và dòng họ. Ý thức về dòng họ chi phối khá đậm nét
trong đời sống xã hội. Người cùng dòng họ tức là ''cùng ma" thì coi nhau như
anh em máu mủ sống chết có nhau và dù ở xa hay gần họ đều chịu sự chi phối
của dòng họ. Trong quan hệ dòng họ của người Hmông thì vai trò quan trọng
nhất là trưởng họ (nôthaux), sau đó là người ''cầm quyền ma, quyền khách''
(chođax khuô) là những người trực tiếp phụ trách phần việc liên quan đến tín
ngưỡng tôn giáo của dòng họ và tiếp đến là vai trò của bà cô (phâux), ông cậu.
Chính các quan hệ dòng họ nói trên đã tạo nên ý thức cộng đồng, một thành tố


12

quan trọng và thiêng liêng mà bất kỳ người Hmông nào cũng đều ghi nhớ.
Quan hệ dòng họ của người Hmông dựa vào những luật tục nghiêm khắc, nó
qui định rõ trách nhiệm và quyền lợi của các thành viên, nó ràng buộc và bảo
vệ sự cố kết giữa những người trong cộng đồng huyết thống.
Người Hmông có đặc điểm là thường sống trên vùng núi cao, nguồn
sống chủ yếu dựa vào nương rẫy điều kiện canh tác không thuận tiện. Đất đai

canh tác thường có độ dốc lớn (200 - 400) do đó mùa khô thì thiếu nước, mùa
mưa thì sói lở, hầu hết nương rẫy không được bón phân, chủ yếu trông nhờ
vào sự ưu đãi của thiên nhiên. Sinh sống trong các điều kiện như vậy, sau hai
ba vụ các gia đình người Hmông lại tính đến việc di chuyển tìm đất khác để
khai phá. Nền kinh tế của người Hmông còn mang tính tự cung, tự cấp công cụ
sản xuất thô sơ, phương thức canh tác lạc hậu, năng suất thấp. Cuộc sống của
họ bấp bênh, nạn thiếu đói thường diễn ra. Sống vật lộn với thiên nhiên khắc
nghiệt, dân tộc Hmông là một dân tộc cần cù, chịu khó, có bản tính chất phác,
thật thà, nói ít làm nhiều và dễ chấp nhận những gì có lợi cho bản thân. Tín
ngưỡng tôn giáo truyền thống của người Hmông là thờ đa thần, dưới mỗi nóc
nhà của họ, nơi thờ cúng tổ tiên và thần nhà được coi là chỗ thiêng liêng nhất.
Thờ cúng tổ tiên không chỉ là một hình thức tín ngưỡng tôn giáo mà đó còn là
yếu tố cỗt lõi tạo dựng nên bản sắc văn hoá của dân tộc này. Trong quan niệm
của người Hmông mọi sự rủi may trong cuộc sống đều là do ma làm, nên họ
thường tổ chức cúng lễ rất tốn kém. Cho đến nay, các nghi lễ tôn giáo ấy vẫn
đang là gánh nặng lên đời sống của họ.
Hiện tượng "xưng vua" trong dân tộc Hmông là sự hiện diện khá rõ nét
của Đạo giáo phù thuỷ (người Hmông gọi là "sớr vang"). Vào thời điểm có
hiện tượng "xưng vua" người ta lan truyền rằng: Vua mèo sẽ ra, Vua Hmông
sẽ về, đó là một con người tài giỏi, có nhiều phép màu, có quyền lực huyền bí,
đem lại cuộc sống sung sướng cho những ai tin theo. Thực tiễn cho thấy hiện
tượng này thường xuất hiện khi mà cuộc sống của người dân Hmông có nhiều
khó khăn, bế tắc và hẫng hụt trong tâm thức. Trong thời gian "đợi Vua về " do


13

mê tín họ tin rằng khi đó phải ngừng hết công việc sản xuất để tổ chức hiến tế,
cầu mong vua ra, bằng các hình thức ma thuật, phá bỏ các thành quả sản xuất,
giết mổ gia súc. "Xưng vua" vừa là một hành động mang tính thế tục, vừa

mang tính tôn giáo. Nguyên nhân của vấn đề không chỉ xuất phát từ yếu tố
tâm linh mà còn bắt nguồn từ chiều sâu lịch sử, tâm lý của người Hmông.
Trong tiềm thức, người Hmông luôn tự hào về một quá khứ huy hoàng, về một
vương quốc hùng mạnh trước kia với một vị thủ lĩnh mang đậm dấu ấn tôn
giáo. Lịch sử hàng trăm năm qua xác nhận, người Hmông dường như có một
niềm tin vào một ngày nào đó, họ sẽ có thủ lĩnh cứu tinh xuất thế.
Tuy nhiên điều đáng lưu ý là không ít các thế lực thù địch, các thế lực
chính trị khác nhau từ xưa đến nay đã lợi dụng hiện tượng xưng vua nói trên
nhằm phục vụ cho các ý đồ chính trị và làm phức tạp thêm vấn đề dân tộc và
tôn giáo.
1.1.2.1. Tình hình chung về dân tộc Hmông ở Sơn la.
Người Hmông ở Sơn la có nguồn gốc từ Trung quốc di cư đến đây trong
giai đoạn từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX. Đến Sơn la, đồng bào Hmông
đã hoà nhập cùng với cộng đồng các dân tộc khác và coi Sơn la là quê hương
của mình.
Hiện nay, người Hmông là dân tộc có số dân đứng thứ 3 ở Sơn la, sau
dân tộc Thái và Kinh theo số liệu tổng điều tra dân số 1/4/1999, dân tộc
Hmông có 103.121 người. Căn cứ và trang phục của phụ nữ và ngôn ngữ nói ở
Sơn La có 4 ngành Mông: Mông đơ (Mông trắng, Mông du (Mông đen), Mông
si (Mông đỏ) và Mông lềnh (Mông hoa). Người Hmông cư trú trong 10 huyện
thị, chủ yếu tập trung ở các huyện như: Bắc yên, Sông mã, Thuận châu, Mai
sơn, Mộc châu. Có 16 xã thuần dân tộc Hmông, còn lại là sống xen ghép với
các dân tộc khác. Đa số người Hmông Sơn la sinh cư lập nghiệp ở trên các
vùng núi cao hẻo lánh, vùng giáp ranh với các tỉnh bạn như Lai châu, Yên bái,
Hoà bình, Thanh Hoá và vùng biên giới Việt Lào. Người Hmông Sơn la có câu
châm ngôn: "Mùa trí pùa, Pùa trí tùa" (giàu có di cư thì nghèo, nghèo khó di sư


14


thì chết). Tuy biết điều đó, song để thay đổi tập quán ấy là điều không dễ làm
được với người Hmông. Trước đây việc trồng và buôn bán thuốc phiện khá
phổ biến. Vụ đông xuân 1992-1993 diện tích trồng cây thuốc phiện khá lớn
3812,84 ha. Song từ khi Nhà nước có chủ trương cấm trồng, buôn bán thuốc
phiện, xoá bỏ tệ nạn hút chích ma tuý, thứ tệ nạn xã hội đang là vấn đề bức
xúc hiện nay ở nước ta. Vấn đề nói trên vẫn còn là vấn đề bỏ ngỏ với nhân dân
vùng cao và việc lén lút, tái trồng cây thuốc phiện vẫn diễn ra: Năm 93-94 tái
trồng 187,4 ha ở 53 xã; 94-95 tái trồng 431 ha ở 79 xã; 95-96 tái trồng 618 ha
ở 77 xã; 76-97 tái trồng 561,02 ha ở 82 xã; Năm 1999-2000 vẫn còn 256,66 ha
ở 48 xã [52, tr. 3].
Một bộ phận nhỏ người Hmông ở Thuận châu, Mai sơn, Mộc châu sống
ven các trục lộ và trên các thung lũng bằng phẳng của cao nguyên, nhờ điều
kiện thuận lợi, chuyển hướng sản xuất có hiệu quả đã định canh, định cư, phát
triển mô hình trang trại ... Nhờ vậy cuộc sống vật chất và tinh thần được nâng
lên rõ rệt bà con phấn khởi tin tưởng vào Đảng và Nhà nước, ở những nơi này
đạo Tin lành ít có điều kiện để xâm nhập.
Tỷ lệ tăng dân số ở dân tộc Hmông Sơn la năm 1999 là 3,27% (Trong đó
tỷ lệ tăng dân số chung của Tỉnh là 2,6, cả nước là 1,7). Tỷ lệ mù chữ ở người
Hmông khá cao trên 76% (nữ trên 90%); số người trong độ tuổi đi học từ 6 14 có 6.522 người, thì số đi học là 2.105 người, không đi học 4.418 ; số người
trong độ tuổi 15 - 35 có 13.119 thì mù chữ phổ thông là 10.835 người, có biết
chữ dân tộc là 458 người. Thu nhập bình quân đầu người 62.000đ/tháng [8, tr. 3].
Nhìn chung đời sống của đa số đồng bào người Hmông ở Sơn la còn hết
sức thấp kém, văn hoá và dân trí thấp, hầu hết bản của người Hmông thường
có qui mô nhỏ dưới 30 hộ, ở rải rác biệt lập rất khó khăn cho việc đầu tư kết
cấu hạ tầng cơ sở (điện, đường, trường, trạm) tốc độ tăng dân số cao, nguy cơ
tụt hậu so với các vùng trong Tỉnh và cả nước là nghiêm trọng. Đây là điều
kiện cho các tôn giáo mới xâm nhập, lôi kéo và các thế lực thù địch lợi dụng
thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình (DBHB) chống phá cách mạng nước ta.



15

1.1.2.2. Đặc điểm tâm lý và quan hệ dân tộc.
Xuất phát từ điều kiện sống trên vùng núi cao, cuộc sống người Hmông
Sơn la luôn gần gũi với thiên nhiên, nhưng lại gần như biệt lập với xã hội bên
ngoài. Từ đó hình thành ở người Hmông một phong thái phóng khoáng tự tin,
tự trọng cùng với ý thức tự hào về một nền văn hoá cổ truyền hết sức độc đáo
đã tạo cho họ có ý chí vươn lên trong cuộc sống, trong đấu tranh với thiên
nhiên và xã hội, có bản lĩnh kiên cường bất khuất ... Nét nổi bật trong đối xử
với thiên nhiên và xã hội thể hiện sự bình đẳng ngang hàng, công bằng hợp lý
một cách rõ ràng thậm chí ngay cả với các thần tượng mà họ thờ cúng. Trong
quan hệ giữa người với người, người Hmông sống thật thà, chân thành, cởi
mở, thuỷ chung tôn trọng đạo lý, lẽ phải, yêu cái tốt, ghét cái xấu... Tuy nhiên
bên cạnh đó, người Hmông lại có đặc điểm cố chấp, những chuyện lặt vặt "con
cà con kê" cũng đòi hỏi phải đúng lý, nếu không thì dễ bỏ mặc nhau. Đây cũng
là đặc điểm mà các đài phát tiếng Hmông ở nước ngoài đã lợi dụng được khi
tuyên truyền về chúa Giê su, về "Vàng Chứ".
Người Hmông nói chung thuộc tố chất tâm lý mạnh - không bền vững,
biểu hiện ra ngoài là rất dễ bị tác động tâm lý, thậm chí những tin đồn nhảm
không thực tế nhưng có liên quan đến tính mạng bản thân và gia đình thì phản
ứng mãnh liệt, tâm trạng hoang mang lo sợ. Trong cuộc sống hàng ngày
thường hay vui cười, lại cũng hay khóc sầu khổ đau cho thân phận, người
Hmông yêu ghét cũng rất mãnh liệt.
Ý thức về dòng họ là thể hiện đặc trưng tính cách cộng đồng của người
Hmông. Ý thức cộng đồng ấy cùng với vai trò của già làng, trưởng tộc là điều
kiện thuận lợi để phát huy sức mạnh cộng đồng trong thực hiện các chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước vì mục đích ổn định nâng cao đời sống vật
chất - tinh thần cho nhân dân, song đó cũng là vấn đề mà các thế lực thù địch
tìm cách lợi dụng để lôi kéo quần chúng .
1.1.2.3. Đặc điểm tín ngưỡng tôn giáo dân tộc Hmông Sơn la.



16

Theo quan niệm truyền thống, người Hmông cho rằng: có sự tồn tại của
hai thế giới khác nhau: thế giới nhìn thấy được là thế giới của những sự vật tồn
tại như đất, đá, nước, động thực vật ... và cả con người - thuộc bên dương (Zar
chênhz); Thế giới không nhìn thấy được là thế giới của linh hồn, thánh thần,
ma quỷ - thuộc bên âm (Zênh chênhz). Mọi sự vật và con người đều tồn tại ở
hai thế giới này, nhưng hai thế giới (âm và dương) luôn tương đồng và tương
phản nhau, nếu tương đồng, hoà hợp thì sự vật tồn tại và sự sống bền vững,
ngược lại nếu tương phản nhau thì sự vật sẽ mất đi, con người sẽ ốm đau bệnh
tật, cái chết sẽ xẩy ra. Ở đây ta chủ yếu chỉ xem xét thế giới bên âm (Thế giới
tinh thần). Đồng bào Hmông thường chia tất cả ma quỷ, thánh thần... thành hai
loại: Thần lành (ma nhà) và ma dữ. Thần lành chuyên ban phước lành bảo vệ
cuộc sống yên lành cho con người, gia súc, mùa màng. Thần lành gồm nhiều vị
thần khác nhau, trong đó quan trọng nhất là hai vị thần Xử ca (Xur Car) và
thần nông (Đaz trôngz). Thực chất thờ cúng Xử ca là thờ cúng thổ địa nơi
mình sinh sống. Cách thức thờ cúng không lập bàn thờ mà chỉ đóng giấy bản
vào vách nhà gian giữa, họ bắt một con gà trống cắt tiết lấy lông gà chấm vào
tiết gà, cùng với vài ba chiếc thuyền gấp bằng giấy dán lên tấm giấy bản đó,
sau đó đóng một đoạn tre to bằng cổ tay dài khoảng một mét từ dưới đất lên
ngang mép dưới tấm giấy để cắm đốt hương, nội dung lời khấn là đặt lời giao
ước với trời, đất, núi, sông chính tại nơi mình đang sinh sống để cho gia đình
được an khang khoẻ mạnh, ăn nên làm ra trọn một năm. Lễ cúng được tổ chức
vào dịp năm hết tết đến, ngoài ra còn trong trường hợp dựng nhà mới, tách hộ
gia đình... Còn thờ cúng thần nông mang ý nghĩa sinh sản biểu hiện của lễ
thức nông nghiệp. Về hình thức thực hiện là làm lễ tế thần (Paux đaz trongr).
Đối với hình thức tế thần, mỗi dòng họ đều có sự khác biệt trong việc bày
mâm tế lễ. Hình thức cúng tế người ta dùng một con vật nái trinh tơ (Phổ biến

là lợn, cá biệt có một số dòng họ dùng chó) làm vật cúng, thông thường thì
theo định kỳ thời gian nông nghiệp, nhưng cũng có thể làm khi trong nhà có
người ốm đau, gia súc chết, mùa màng thất bát... Người ta nhờ thầy cúng


17

(Thầy mo) phán cho, khi nào thầy cúng bảo thần nông đòi ăn, thì khi đó chủ
nhà tự định thời gian và tiến hành tế lễ. Lễ tế thần nông chỉ tiến hành vào ban
đêm, cửa trong nhà đều được đóng lại, kết thúc lễ mọi thứ liên quan đến vật tế
thần, cả nước rửa tay được chôn vào một hố cạnh cửa giữa trong nhà. Ngoài
hai vị thần trên theo quan niệm của người Hmông còn một số vị thần khác và
mức độ ứng xử với từng vị thần biểu hiện sự khác nhau của từng dòng họ như
thần cột chính trong nhà (Đêx đaz), thần buồng ngủ (daz trongr pair), thần bếp
lò (daz kror trok), thần cửa giữa (daz trongx tar)... Đó là các vị thần lành, tuy
nhiên nếu ứng xử không tử tế thì các vị thần này cũng sẽ trừng phạt .
"Ma dữ " là ma chỉ chuyên làm hại người, gia súc, mùa màng khi gặp
phải. Trong đó đáng sợ nhất là "Ma ngũ hải (Trênhr nênhr), Ma dữ có ở trong
rừng, hòn đá, gốc cây to, sông suối, dưới đất ... và đều là loại ma đáng sợ đối
với người Hmông.
Ngoài ra trong nhà người Hmông còn có thể lập bàn thờ một số vị thần
tổ nghề mà phổ biến nhất thường thấy là thờ tổ nghề bốc thuốc chữa bệnh.
Quan niệm về con người, họ cho rằng con người đều có phần xác và
phần hồn, người chết thì mọi hoạt động của phần xác đều ngừng lại, còn phần
hồn vẫn tiếp tục sống ở thế giới bên kia. Linh hồn có ba loại với ba chức năng
khác nhau.
- Loại thứ nhất - linh hồn gốc, trú ngụ ở đầu khi con người chết sẽ bay
lên trời về gặp ông bà tổ tiên. Theo người Hmông Sơn la đây chính là con ma
người chết hay quay về quấy nhiễu những người còn sống trong gia đình, vì
thế tục cúng bái cũng là mục đích làm thoả mãn các đòi hỏi của linh hồn này.

- Loại thứ hai: linh hồn vận số trú ngụ ở rốn cai quản thân thể có nhiệm
vụ khi con người chết sẽ báo với trời, về lý do chết và ở lại trên đó luôn.
- Loại thứ ba: linh hồn hoá kiếp trú ngụ ở ngực, khi con người chết sẽ đi
đầu thai vào kiếp người hay kiếp vật.
Hồn luôn luôn liên quan đến sức khoẻ và sinh mệnh con người, nếu một
trong ba hồn rời khỏi cơ thể sẽ gây ốm đau, bệnh tật, trường hợp cả ba hồn ra


18

đi con người sẽ chết. Các quan niệm về linh hồn như vậy đã ảnh hưởng mạnh
mẽ đến việc thờ cúng tổ tiên, đến sa man giáo vì thế ở vùng đồng bào Hmông
các thầy sa man (thầy cúng) có ở khắp các bản làng- được xem là những người
có khả năng giao thiệp được với các thần, gọi được hồn về trừ đuổi ma dữ...
nhờ những công cụ đặc biệt của họ. Sa man giáo tác động mạnh mẽ đến đời
sống tinh thần và chính trị của người Hmông. Các thầy cúng không chỉ là
người cầu cúng chữa bệnh, mà họ còn là những người am hiểu lý lẽ, phong tục
tập quán Hmông. Trong cuộc sống của người Hmông từ việc tế lễ khi chuyển
nhà, gọi hồn, cầu cúng khi gặp vận hạn, ốm đau, chữa bệnh đến làm ma cho
người chết... đều có ý kiến tham gia của thầy cúng. Mỗi năm mỗi gia đình vài
ba lần phải mời thầy cúng, chi phí cho nghi lễ cúng bái khá tốn kém, mất thời
gian. Chăn nuôi ở dân tộc Hmông khá phát triển (nhờ vào điều kiện tự nhiên)
nhưng chủ yếu dùng để cúng ma, làm các nghi lễ trong gia đình. Tín ngưỡng
tôn giáo người Hmông Sơn la mang nặng tính cộng đồng dòng họ, cùng dòng
họ tức là "cùng ma" (thungx- đangx) là điểm quan trọng để phân biệt dòng họ
này với dòng họ khác. "Cùng ma" là cùng cách thờ cúng ma khi tiến hành các
nghi lễ liên quan đến cúng ma, cúng tổ tiên. Người Hmông có câu nói cửa
miệng truyền từ đời này qua đời khác là: " Làm ăn làm uống ta có thể học
người khác, nhưng làm "ma" thì không thể theo người ta được". Cùng ma phải
giống nhau ở bốn nghi lễ cúng ma sau:

Cúng "ma tươi" (cách thức chôn người chết); cúng "ma bò"(nhux
đangx); cúng "ma lợn"(guô đangx); cúng tế thần nông (đaz trongs). Sự khác
nhau ở mỗi dòng họ biểu hiện sự khác nhau trong bốn nghi lễ này như trong
cúng "ma tươi", cho người chết đi ngựa hay đi kiệu, dòng họ cho người chết đi
ngựa thì để người chết nằm trong cáng để trong nhà làm ma, khi đem chôn
cũng cứ để như vậy khiêng ra huyệt cho quan tài xuống huyệt rồi mới cho
người chết vào. Dòng họ cho người chết đi kiệu thì cho người chết vào quan
tài ngay sau khi khâm liệm xong, mộ chôn ngang hay chôn dọc theo sườn
đồi?... Cách bày thịt cúng trong cúng "ma bò", "ma lợn" bày bao nhiêu bát thịt,


19

mỗi bát bao nhiêu thịt, mỗi phần bao nhiêu loại thịt, gồm những loại thịt gì ...
chính là đặc điểm của mỗi dòng họ.
Tín ngưỡng dòng họ cũng là biểu hiện của yếu tố bản sắc văn hoá hướng
về cội nguồn tổ tiên. Người Hmông luôn coi tổ tiên là người chứng giám tối
cao, là nguồn tiếp sức cho sự trường tồn và phát triển của con cháu về sau. Họ
coi đó như là một biểu hiện quan trọng để bảo tồn gìn giữ văn hoá cội nguồn.
Luật tục của người Hmông qui định rõ, nếu thành viên nào "quên mất" tổ tiên
sẽ không được coi là người Hmông nữa. Song có điều người Hmông lại không
thờ tổ tiên trong nhà, bởi họ cho rằng tổ tiên vốn ở một nơi xa xôi khác, nghĩa
vụ con cháu với ông bà tổ tiên phải luôn nhớ làm "ma bò" cho bố mẹ chồng
(khi bố mẹ đã chết), làm "ma lợn" cho ông bà và tổ chức cúng tế vào các ngày
lễ, tết. Cách thức thờ cúng, không lập bàn thờ và bát nhang cố định, khi cúng
họ thường đặt mâm cơm ngay ngắn trước cửa giữa dưới chân nơi thờ (xưr car)
lấy gạo làm ba bát nhang, cúng tế xong nhang cháy hết, gạo mang đi nấu ăn
còn chân nhang thì bỏ vào bếp, nội dung mời gọi những người đã khuất trong
dòng tộc đến cùng ăn, cùng uống để phù hộ cho con cháu.
Ngày nay ý nghĩa của việc thờ cúng dòng họ,"dòng ma" nhìn từ khía

cạnh văn hoá, đạo lý đó là sự biểu hiện của bản sắc văn hoá dân tộc Hmông,
nhằm củng cố ý thức cộng đồng, ý thức hướng về cội nguồn dân tộc, ghi nhớ
công ơn cha mẹ, những người có công đóng góp cho dòng tộc, tạo nên sức
mạnh tinh thần giúp họ vượt qua mọi gian truân trong lịch sử đấu tranh để bảo
tồn dân tộc, cũng như trong cuộc sống mưu sinh hiện tại.
Tuy nhiên nhìn vào các nghi lễ thờ cúng của người Hmông ta cũng thấy
vấn đề nổi cộm là các thủ tục nghi lễ quá rườm rà, tốn kém. Nhiều nghi lễ
mang nặng tính hủ tục, mê tín không còn phù hợp với nếp sống mới và sự tiến
bộ của khoa học. Bên cạnh đó việc tuyên truyền, xây dựng đời sống văn hoá
mới ở vùng đồng bào Hmông Sơn la trong mấy chục năm qua kết quả còn rất
hạn chế. Người Hmông Sơn la không chỉ có nghèo đói về vật chất mà còn rất


20

đói cả về văn hoá. Trong điều kiện đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn, mặt
bằng dân trí thấp thì đây chính là chỗ mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng.
1.2. SỰ XÂM NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠO TIN LÀNH Ở SƠN LA.

1.2.1. Đạo Tin lành và quá trình du nhập vào Việt nam.
1.2.1.1 Vài nét khái quát về đạo Tin lành.
Tin lành là một tôn giáo ly khai từ công giáo, nó ra đời gắn liền với cuộc
đại cải cách lần thứ hai của Ki tô. Những nghiên cứu khái quát về Tin lành cho
thấy Tin lành ra đời là kết quả của cuộc khủng hoảng trầm trọng trong Giáo
hội Công giáo; sự lúng túng bế tắc của nền thần học kinh viện Trung cổ; sự tác
động mạnh mẽ của các xu hướng chủ nghĩa dân tộc tư sản, chủ nghĩa nhân văn
và chủ nghĩa tự do châu Âu thế kỷ XV-XVI.
Tin lành có nhiều danh xưng khác nhau: Tin lành (Evargelism), thệ phản
(Protestarlism), cải cách (Reformism). "Tin lành"trong tiếng Việt được hiểu là
Tôn giáo cải cách, cách tân chống lại Giáo hội Công giáo La mã. Nguyên nhân

sâu xa của sự xuất hiện phong trào cải cách Tôn giáo, xuất hiện Tin lành bắt
nguồn từ sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển công
nghệ và thương mại đã làm nảy sinh một giai cấp mới- giai cấp tư sản trong xã
hội phong kiến Tây âu từ thế kỷ XIV - XV. Sự chi phối nặng nề của chủ nghĩa
kinh viện tới mọi mặt đời sống xã hội đã tạo nên những mâu thuẫn, xung khắc
với tính cách năng động, tự do của giai cấp tư sản, thị dân - Giai cấp đang đại
diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến lúc bấy giờ. Sự xuất hiện của phong trào
phục hưng văn hoá, các trào lưu tư tưởng chống Giáo hội và thần quyền... đã
nói lên điều đó.
Nguyên nhân trực tiếp xuất hiện phong trào cải cách Tôn giáo là do sự
trì trệ khủng hoảng của Giáo hội Công giáo với những cảnh tượng xa đoạ, thối
nát của những giới chức cầm quyền, những lễ nghi cổ hủ, quy chế rườm rà,
nặng nề cản trở xu thế tiến bộ của xã hội thị dân.
Một trong những người đầu tiên khởi xướng phong trào cải cách là
MartinLuther (1483 - 1546) một linh mục dòng người Đức, ông cảm thấy chán


21

nản khi chứng kiến cảnh sống xa đoạ trần tục của các giáo sĩ ở Rôma, nhất là
việc bán "bùa xá tội" lợi dụng danh thánh để bóc lột dân chúng, năm 1517 M.
Luther công bố " chín mươi lăm luận đề" chống Giáo hội Rôma, lên án Giáo
hoàng và giáo quyền, tuyên bố chỉ công nhận có chúa và kinh thánh, bác bỏ
quyền lực của toà thánh và cộng đồng; Đây là sự mở đầu cho cải cách Tôn
giáo ở Đức. Nhưng sự cải cách nửa vời của M.Luther đã không đáp ứng được
đòi hỏi triệt để hơn của các tầng lớp dưới trong xã hội, và người đại diện cho
cho xu hướng này là Thomas Munter (1490 -1525) với đỉnh cao là chiến tranh
nông dân nổ ra. Lo sợ trước phong trào lên cao bản thân M.Luther cuối cùng
đã quay lại hợp lực với giai cấp quý tộc, tầng lớp ôn hoà để chống lại những
người bình dân, phong trào nông dân bị đàn áp hết sức tàn nhẫn.

Nửa đầu thế kỷ XVI, phong trào cải cách đã lan rộng ra ngoài biên giới
nước Đức, những trung tâm mới của phong trào cái cách đã xuất hiện ở Thụy
sĩ, Hà lan, Anh, đặc biệt ở Thụy sĩ với sự xuất hiện của J.calvin (1509 - 1564)
phong trào cải cách được tiến hành triệt để, sâu sắc hơn trong đường hướng
thực hiện hoá cải cách tôn giáo mang mầu sắc Tư sản. từ đó phong trào lan
rông ra nhiều nơi khác trên thế giới đến cuối thế kỷ XVI đã hình thành một
tôn giáo mới tách hẳn khỏi đạo Công giáo, đó là đạo Tin lành.
Với tính cách mềm dẻo, linh hoạt và đa dạng cho tới nay đạo Tin lành
đã có tới hàng trăm tổ chức rất khác nhau cả về nghi lễ, cơ cấu tổ chức và giáo
thuyết nhưng về cơ bản vẫn theo những ý kiến của M. Luther và J.Calvin ở
những nội dung và nguyên tắc chính sau:
Về kinh thánh, công giáo lấy toàn bộ 46 cuốn cựu ước làm nền tảng giáo
lý, Tin lành bác bỏ 10 cuốn (các sách thuộc dòng Macabê), Tin lành công nhận
kinh thánh là lời phán truyền của Chúa trời, coi đó là chuẩn mực căn bản duy
nhất của đức tin và sự hành đạo. Dù đề cao kinh thánh, nhưng Tin lành không
coi kinh thánh chỉ là một đặc ân giành cho các bậc chân tu chức sắc, mà đó là
tài sản cho tất thảy mọi tín đồ để họ thông công với Chúa.


22

Cả Công giáo và Tin lành đều thừa nhận thiên chúa ba ngôi nhưng khác
biệt về sự tôn thờ Thiên chuá. Tin lành chỉ tin thờ Thiên chúa không tin thờ
các thánh tông đồ, không thừa nhận đức mẹ Maria đồng trinh, không thờ lạy
tranh tượng, vì vậy cách bài trí trong nhà thờ Tin lành hết sức đơn giản. Tin
lành vẫn thừa nhận có thiên đường và địa ngục nhưng không có luyện ngục và
cũng không lấy những cái đó để dử mồi hay doạ nạt tín đồ.
Về nghi lễ, Tin lành phản đối các nghi lễ rềnh ràng, bày vẽ. Trong bảy
phép tích (rửa tội, thêm sức, thánh thể, hôn phối, xức dầu, truyền chức, giải
tội) Tin lành chỉ thừa nhận có hai : Bí tích rửa tội và bí tích thánh thể. Ngay

trong bí tích rửa tội (Báp têm) Tin lành qui định người chịu lễ này phải đợi đến
thời đủ khôn khoảng 13 - 15 tuổi (Công giáo rảy nước đã làm phép vào đầu
đứa trẻ và thực hiện ngay từ khi đứa trẻ mới sinh ra). Khi đạo Tin lành xâm
nhập vào vùng dân tộc miền núi nước ta thay vì làm lễ rửa tội ở nhà thờ, ta
thường thấy họ đưa những người mới vào đạo ra suối để làm lễ bằng cách dìm
xuống suối. Phép thánh thể cũng được cử hành, nhưng họ cho đó chỉ là sự gợi
lại kỷ niệm về cái chết của Giê Su, nên nghi lễ đơn giản, mọi tín đồ và giáo sĩ
đều được uống rượu và ăn bánh thánh - ân sủng của Chúa ban cho mọi tín đồ
(Công giáo: rượu thánh là đặc ân riêng của các chức sắc, tín đồ không được
dùng). Các buổi lễ của Tin lành đơn giản, thường hát thánh ca, các mục sư chỉ
giảng kinh thánh hoặc hướng dẫn tín đồ đọc kinh, xưng tội không cần phải qua
mục sư.
Về tổ chức và cơ cấu giáo hội, đây là điểm khác biệt căn bản giữa Công
giáo và Tin lành. Trong khi Công giáo tổ chức theo các mô hình quân chủ
(phong kiến) trung tâm đầu não (Giáo hội La mã), quản lý toàn bộ hệ thống từ
quốc tế xuống cơ sở và có tính chất"thánh thiêng ". Thì Tin lành lại không có
giáo hội tập trung thống nhất, không có tính " thánh thiêng " và có rất nhiều
giáo phái khác nhau cả về cơ cấu tổ chức, đến nghi lễ thờ cúng. Quyền tự chủ
được giao cho các tổ chức cơ sở (các chi hội) cách thức quản lý cũng dân chủ
hơn, tín đồ được tham dự trong việc quản trị giáo hội. Hàng giáo phẩm của


23

Công giáo gồm các chức phó tế, linh mục, giám mục và có tính chất "thánh
thiêng ". Họ là những người được thay mặt Thiên chúa ở trần gian để chăn dắt
con chiên, vì thế họ phải "trinh khiết", không được xây dựng gia đình. Ngược
lại hàng giáo phẩm Tin lành chỉ có hai chức vụ chính đó là mục sư và truyền
đạo (giảng sư), không có tính chất ""thánh thiêng", mục sư và truyền đạo được
lấy vợ, lấy chồng, không kiêng khem .

Nói tóm lại, những cải cách của Tin lành về giáo lý, luật lệ, lễ nghi, cũng
như tổ chức, quản lý, mang đậm dấu ấn của tư tưởng dân chủ tư sản và khuynh
hướng tự do cá nhân, nó trở thành một tôn giáo mới mẻ, có sức hấp dẫn nhiều
tầng lớp xã hội khác nhau. Đặc biệt với sự năng động, nhấn mạnh yếu tố cá
nhân và chiều sâu lý tính của niềm tin, Tin lành đã có được khả năng duy trì,
củng cố và phát triển trong mọi hoàn cảnh . Sự khẳng định vị thế của giai cấp
tư sản trên chính trường châu Âu đã tạo điều kiện hỗ trợ cho sự phát triển của
Tin lành.
Thế kỷ XVII và XVIII Tin lành đã khẳng định vị thế của mình tại châu
Âu. Đồng thời các giáo hội cũng nhận thức về sự truyền giáo như là cuộc đấu
tranh để tồn tại, để khuyếch trương thế lực. Các trung tâm đào tạo mục sư
truyền đạo, cùng với hàng loạt hội truyền giáo ra đời: Trường đầu tiên đào tạo
các nhà truyền giáo được thành lập ở Leyde (Hà lan - 1622), Hội truyền giáo
Bắp tít Luân đôn (1792), Hội truyền giáo Hà lan (1795), Hiệp hội truyền giáo
Mỹ (1810).v.v...Từ cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX , do được khích lệ bởi
cuộc cách mạng công nghệ đang nảy sinh Tin lành ồ ạt truyền giáo ra toàn cầu
và đặc biệt phát triển mạnh ở Mỹ. Thế kỷ thứ XX nước Mỹ trở thành nơi cung
cấp phần lớn nguồn nhân lực cho công cuộc truyền giáo của Tin lành. Đến
nay, chỉ sau gần 500 năm từ khi ra đời, Tin lành đã phát triển với tốc độ nhanh
chóng trở thành tôn giáo có tính quốc tế lớn thứ tư sau Công giáo, Hồi giáo và
Ấn độ giáo với khoảng 500 triệu tín đồ, hơn 300 tổ chức hệ phái khác nhau, có
thể kể tên một số hệ phái lớn như: Trưởng lão (préby terianím) có khoảng 30
triệu tín đồ trong gần 100 giáo hội, Bắp tít (Baptison) có khoảng 70 triệu tín


24

đồ, phát triển rất nhanh ở Mỹ hiện là giáo phái mạnh nhất của Tin lành;
Methođít (methodism) có khoảng trên 60 giáo hội với tổng số hơn 60 triệu tín
đồ; Cơ đốc phục lâm (adventison); Moóc-Mân (Mormonison); Qua ker, Liên

hiệp phúc âm và truyền giáo ki tô C.M.A...[17, tr. 117; 135]
Cùng với bước chân của chủ nghĩa đế quốc, thực dân trong quá trình
bành trướng, xâm lược, những đoàn truyền giáo Tin lành được biết đến như
những đạo quân " chinh phục, khai phá "về tư tưởng và tinh thần cho các dân
tộc thuộc địa, ở góc độ nào đó là sự liên kết, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình
khuyếch trương thế lực, nhà học giả Pháp Jcan Bau berot đã nhận định: "Mối
liên hệ giữa truyền giáo với thực dân hoá là không thể chối cãi được" [29, tr.
6].

Ngày nay khi địa bàn truyền đạo ngày càng ít và đi vào thế ổn định, Tin

lành lại hướng các hoạt động truyền giáo đến các dân tộc ít người - nơi văn
hoá còn sơ khai, trình độ dân sinh, dân trí thấp, nơi chưa có một tôn giáo chính
thống hoặc tôn giáo cũ đang khủng hoảng. Với đường hướng hoạt động khá
năng động, luôn đổi mới và thích nghi, đặc biệt là chủ trương "nhập thế", lấy
các hoạt động xã hội làm phương tiện điều kiện để thu hút tín đồ, Tin lành tiếp
tục phát triển và lan rộng.
Thế kỷ XX, loài người đã chứng kiến biết bao biến động khôn lường, sự
phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ, đã nâng cao mức
sống, mở mang trí tuệ con người lên vượt bậc, nhưng cũng có không ít vấn đề
liên quan đến sự sống còn của con người trước những thảm hoạ về môi trường,
dân số, dịch bệnh, chiến tranh... và những căn bệnh xã hội trầm kha khác. Tôn
giáo lại có cơ hội trỗi dậy, sự xuất hiện các " Tôn giáo lạ ", những giáo phái
mới tách ra, nhập vào nhiều như nấm mọc sau mưa là một trong những xu
hướng của tôn giáo cuối thế kỷ XX. Bản thân Tin lành là một tôn giáo đa giáo
phái cũng không thoát khỏi xu hướng này, trong sự cạnh tranh khốc liệt để
dành giật tín đồ, tranh giành ảnh hưởng, nhiều giáo phái không ngần ngại đáp
ứng những nhu cầu tầm thường, phi văn hoá, phản nhân bản, trượt xa dần



25

những yếu tố đạo đức tiến bộ trong thời kỳ mới ra đời của tôn giáo này tại
châu Âu .
1.2.1.2. Đạo Tin lành ở Việt nam .
Đã có khá nhiếu công trình nghiên cứu và tài liệu trình bày tương đối
đầy đủ về quá trình du nhập và đặc điểm của đạo Tin lành ở Việt nam. Trong
luận văn này chúng tôi chỉ xin khái quát một số vấn đề cơ bản và chia quá
trình du nhập, phát triển của Tin lành ở Việt nam thành 3 giai đoạn sau :
a) Khởi đầu quá trình truyền giáo của hội truyền giáo phúc âm liên hiệp
(C. M . A ) cho đến năm 1950.
Mặc dù không phải các giáo sĩ của C.M.A là những người đầu tiên đến
Việt nam, nhưng quá trình truyền Tin lành vào Việt nam chỉ thực sự bắt đầu
khi những giáo sĩ thuộc C.M.A đặt chân đến Việt nam.
Lịch sử C.M.A gắn liền với tên tuổi người sáng lập nó, đó là mục sư,
tiến sĩ thần học Albert Ben Jamin Simpson sinh năm 1843 (Island) năm 1865
trở thành mục sư của Hội thánh trưởng lão chi hội Hanilton (Mỹ), năm 1887
mục sư SimpSon đứng ra thành lập Hội truyền giáo (The Missionary Alliance)
- năm 1890 một số mục sư thuộc nhiều hệ phái Tin lành khác nhau đã lập nên
tổ chức Hội liên hiệp cơ đốc (The christian Alliance) .
Qua sự vận động của A.B Simpon ngày 2/4/1897 hai tổ chức này đã
thống nhất lại dưới tên Hội truyền giáo phúc âm liên hiệp ( The christianand
Missionary Alliance C.M.A). Mục đích của Hội là nhằm truyền giáo đến các
địa bàn còn bị lãng quên trên khắp thế gian và nuôi dưỡng một Hội thánh bản
xứ trong mọi địa bàn truyền giáo. Họ đã nhìn nhận từ sớm "Bán đảo Đông
Nam Á, trong đó có vương quốc An nam rộng lớn nơi đang bị lãng quên phải
được coi là công trường truyền giáo tương lai của Hội" .
Năm 1911, C.M.A thiết lập được trụ sở đầu tiên tại Turan (Đà nẵng) bắt
đầu tiến hành truyền giáo tại Đông Dương. Năm 1918 C.M.A đã thành lập
được 5 chi hội ở Bắc kỳ, 6 chi hội ở Trung kỳ, 5 chi hội ở Nam kỳ, tập hợp

trong một tổ chức lấy tên là "Hội thánh Tin lành đông Pháp" (Mission


×