Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

NGUỒN NHÂN LỰC VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (786.2 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
œ{&{
TIỂU LUẬN
CHUYÊN ĐỀ: NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ - XÃ HỘI
ĐẠI CƯƠNG
Đề tài:
NGUỒN NHÂN LỰC VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA Ở VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn:

Học viên thực hiện:

TS. Nguyễn Tưởng

Nguyễn Thị Ngọc Ánh
Lớp: Cao học Địa K24

Huế, 12/2015


LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự hỗ
trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong suốt
thời gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đường Cao học đến nay, em đã nhận được
rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý Thầy, Cô và các anh chị học viên khác.
Em – tác giả đề tài tiểu luận: “Nguồn nhân lực với sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam” xin gửi lời cảm ơn đến Ban chủ nhiệm khoa Địa lý
trường Đại học Sư phạm Huế và quý Thầy Cô trong khoa đã giảng dạy nhiệt tình,
cung cấp nhiều kiến thức bổ ích trong quá trình học.


Đặc biệt qua đây em xin gửi đến thầy giáo TS. Nguyễn Tưởng, người đã cung
cấp cho em những kiến thức cơ bản nhất của môn Những vấn đề Địa lý kinh tế - xã
hội đại cương để em hoàn thành tốt đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 12 năm 2015
Học viên
Nguyễn Thị Ngọc Ánh


MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................2
2.1. Mục tiêu nghiên cứu.......................................................................................2
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

..........................................................................2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.....................................................................2
3.1. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................................2
3.2. Phạm vi nghiên cứu........................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................2
5. Nội dung và kết cấu bài.....................................................................................2
B. NỘI DUNG.......................................................................................................3
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC VÀ CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA.........................................................................3
1.1. Cơ sở lý luận về nguồn nhân lực...................................................................3
1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực.....................................................................3
1.1.2. Quan niệm về phát triển nguồn nhân lực.....................................................3
1.1.3. Vai trò nguồn nhân lực với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa........4

1.2. Cơ sở lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa.............................................5
1.2.1. Khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa...............................................5
1.2.2. Đặc điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa.....................................................6
1.2.3. Vai trò công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với sự phát triển kinh tế............6
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM TRƯỚC
YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC.....................7
2.1. Những yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nguồn nhân lực .......7
2.2. Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam.........................................................7


2.2.1. Về số lượng.................................................................................................7
2.2.2. Về chất lượng..............................................................................................9
2.2.2.1. Về thể lực.................................................................................................9
2.2.2.2. Về trí lực.................................................................................................10
2.2.3. Phẩm chất tâm lý – xã hội của nguồn nhân lực ........................................14
2.2.4. Nhận xét chung về nguồn lực Việt Nam hiện nay.....................................14
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VIỆT NAM....................16
3.1. Gắn kết chiến lược phát triển nguồn nhân lực và kinh tế.............................16
3.2. Các giải pháp về phát triển phương diện thể lực và trí lực...........................17
3.2.1. Về phương diện thể lực ............................................................................17
3.2.2. Về phương diện trí lực...............................................................................18
3.3. Về chính sách sử dụng nhân lực...................................................................19
C. KẾT LUẬN.....................................................................................................20
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................21
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH.......................................................................................22


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Từ nửa sau thế kỷ XVIII, công nghiệp hóa với tư cách là một phương thức bắt đầu
xuất hiện trên thế giới và ngày càng phổ biến, từ thập kỷ 90 ta có thể thấy công nghiệp
hóa được coi như một nấc thang tất yếu mà bất cứ một nước chậm phát triển nào muốn
phát triển cũng phải đi qua. Việt Nam – một nước nông nghiệp kém phát triển cũng
không nằm ngoài quy luật đó.
Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, khi thông qua đường lối đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đảng đã chỉ rõ: “Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa là xây dựng đất nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kĩ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an
ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Tại Đại hội, Đảng
ta xác định mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp.
Để thực hiện được mục tiêu ấy chúng ta cần huy động rất nhiều nguồn lực khác
nhau như: vốn, khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, song yếu tố quan trọng và
quyết định nhất là con người. Nếu so sánh các nguồn lực khác thì nguồn nhân lực
được xem như yếu tố nội sinh, quyết định sự thành bại trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của mỗi quốc gia. Do vậy, hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn nhân lực,
đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao luôn chiếm vị trí trung tâm và đóng vai trò
quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới hơn lúc nào hết chúng ta cần phải hiểu sâu sắc
những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người. Vậy để tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một nước trình độ thấp không thể không xây dựng
một chính sách phát triển lâu bền, nâng cao dần chất lượng của người lao động, phát
huy được nhân tố con người để phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp nước nhà. Đây cũng là
lý do tôi chọn đề tài tiểu luận: “Nguồn nhân lực với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam”

1



2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Từ việc làm rõ cơ sở lí luận và thực trạng chất lượng nguồn nhân lực trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, bài tiểu luận thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lí luận về nguồn nhân lực và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
- Làm rõ thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay
- Đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nguồn nhân lực của Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu vai trò và thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam và những
vấn đề đặt ra trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp sưu tầm và tổng hợp các bài viết từ sách, báo, giáo trình, văn kiện
Đại hội Đảng, các bài viết trên mạng internet...
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, liệt kê.
5. Nội dung và kết cấu bài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, bài tiểu luận gồm ba chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận về nguồn nhân lực và công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chương 2. Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam trước yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước
Chương 3. Giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước


2


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC VÀ CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Cơ sở lý luận về nguồn nhân lực
1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực. Có thể nêu lên một số
quan niệm như sau:
- Theo Phạm Minh Đức: Nguồn nhân lực chỉ khả năng và phẩm chất của lực
lượng lao động. Đó không chỉ là số lượng, khả năng chuyên môn mà còn trình độ văn
hóa, thái độ đối với công việc, mong muốn tự hoàn thiện của lực lượng lao động.
- Theo Trương Thị Minh Sâm: Nguồn nhân lực là tổng hợp những tiềm năng lao
động của con người có trong một thời điểm xác định. Tiềm năng đó bao gồm thể lực,
trí lực và tâm lực (đạo đức, lối sống nhân cách và truyền thống lịch sử văn hóa dân
tộc) của bộ phận dân số có thể tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội.
- Theo Nguyễn Thanh: Nguồn nhân lực là tổng thể các chỉ số phát triển con người,
mà con người có được nhờ sự trợ giúp của cộng đồng xã hội và sự nỗ lực của bản thân
là tổng thể sức mạnh, thể lực, trí lực, kinh nghiệm sống nhân cách, đạo đức, lí tưởng,
chất lượng văn hóa, năng lực chuyên môn và tính năng động trong công việc mà bản
thân con người, xã hội có thể huy động vào cuộc sống lao động, sáng tạo vì sự phát
triển và tiến bộ xã hội.
- Theo Liên Hợp Quốc thì “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của
mỗi cá nhân và của đất nước”.
- Theo tổ chức lao động quốc tế thì: Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ
những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động.
1.1.2. Quan niệm về phát triển nguồn nhân lực

Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một “tài nguyên đặc biệt”, một
nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con người, phát triển.
Nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các

3


nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự
phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho con người là đầu tư có tinh
chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững.
Cho đến nay, do xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn có nhiều cách hiểu
khác nhau khi bàn về phát triển nguồn nhân lực.
- Theo quan niệm của Liên hiệp quốc, phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục,
đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và
nâng cao chất lượng cuộc sống. nguồn nhân lực.
- Theo Tổ chức lao động quốc tế: Phát triển nguồn nhân lực không chỉ là sự chiếm
lĩnh trình độ lành nghề hoặc trình độ đào tạo nói chung mà còn phát triển năng lực và
sử dụng năng lực hiệu quả để tiến tới có một việc làm hiệu quả thỏa mãn nghề nghiệp
cuộc sống cá nhân.
1.1.3. Vai trò nguồn nhân lực với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Thứ nhất, nguồn nhân lực vừa là động lực, vừa là mục tiêu của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Con người không ngừng tìm tỏi, học hỏi, phát triển khoa học kỹ thuật nhằm tìm ra
những phương thức hiệu quả nhất tác động vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên, tạo ra những
giá trị mới cho xã hội.
Con người là lực lượng tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần của xã hội, nó thể
hiện rõ nét nhất mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng. Mặc dù mức dộ phát triển của
sản xuất quyết định mức độ tiêu dùng song nhu cầu tiêu dùng của con người tác động
mạnh mẽ đến sản xuất thông qua quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị trường.
- Thứ hai, nguồn nhân lực là nguồn lực chính trong sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước.
Bởi lẽ con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí biết tận
dụng, gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạng tổng hợp cùng tác động vào quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Thứ ba, nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến sựu thành công của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Một đất nước có khoa học kỹ thuật hiện đại sẽ là điều kiện lớn để phát triển nền
kinh tế. Tuy nhiên, con người lại là người phát minh, tạo ra khoa học công nghệ. Trí

4


tuệ của con người càng cao thì sẽ tạo ra một nền khao học hiện đại, có khả năng khai
thác một cách tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên và mở rộng ra nhiều ngành, nhiều
lĩnh vực, phục vụ cho sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của đất nước.
- Thứ tư, nguồn nhân lực, đặc biệt là chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn
khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nguồn nhân lực mà có trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thì khẳ
năng tư duy sáng tạo, khả năng tiếp thu kho học công nghệ cũng cao hơn. Nước ta tiến
hành công nghiệp hóa trong xu thế khu vực hóa và kinh tế đang phát triển mạnh mẽ,
trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại trên thế giới phát
triển rất nhanh chóng. Vì vậy, chúng ta cần phải có nguồn nhân lực chất lượng cao,
năng động sáng tạo để chủ động nắm thời cơ, phát huy những lợi thế sẵn có để đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa, tạo ra thế và lực mới để vượt qua những thách thức,
đẩy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế phát triển nhanh chóng và bền vững.
1.2. Cơ sở lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2.1. Khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa là hai khái niệm có tính lịch sử, nó chỉ
xuất hiện khi nền sản xuất đã phát triển. Tuy nhiên hai khái niệm này không hình

thành đồng thời. Khái niệm công nghiệp hóa được xây dựng từ thế kỷ XVII - XVIII,
đó là giai đoạn cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên được tiến hành ở Châu Âu. Quan
niệm chung nhất về công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công
bằng lao động máy móc. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội và sự phát
triển của khoa học - công nghệ, khái niệm công nghiệp hóa có sự bổ sung phù hợp với
từng giai đoạn phát triển sản xuất.
Từ những nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của công nghiệp hóa, Hội nghị ban
chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khóa VII), Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và
các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo đó đã xác định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá
trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện

5


đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ tạo ra năng
suất lao động xã hội cao”.
1.2.2. Đặc điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Do những biến đổi của nền kinh tế thế giới và điều kiện cụ thể của đất nước, công
nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta hiện nay có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Sở dĩ như vậy là vì trên thế giới
đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, một số nước phát triển
đã bắt đầu chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, nên phải tranh thủ ứng
dụng những thành tựu, tiếp cận bền kinh tế tri thức để hiện đại hóa đất nước.
- Công nghiệp hóa nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Công
nghiệp hóa là tất yếu với tất cả các nước chậm phát triển, đối với nước ta công nghiệp
hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, tăng cường sức
mạnh để bảo vệ độc lập dân tộc.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh toàn cầu hóa

nền kinh tế, vì thế mở cửa nền kinh tế, phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế là tất yếu.
1.2.3. Vai trò công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với sự phát triển kinh tế
- Thứ nhất là công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm phát triển lực lượng sản xuất,
năng suất lao động tăng lên tạo điều kiện tăng trưởng và phát triển kinh tế. Khắc phục
tụt hậu về kinh tế của nước ta so với các nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần
ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân.
- Thứ hai là công nghiệp hóa, hiện đại hóa góp phần củng cố và tăng cường vai trò
kinh tế của nhà nước, nâng cao năng lực tích lũy tạo điều kiện công ăn việc làm cho
nhân dân. Khuyến khích sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi cá nhân.
- Thứ ba là công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo điều kiện củng cố quốc phòng an
ninh.
- Thứ tư là công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo điều kiện cho việc xây dựng kinh tế
độc lập, tự chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác
quốc tế.

6


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM TRƯỚC YÊU
CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
2.1. Những yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nguồn nhân lực
- Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa chỉ có thể đạt được kết quả tốt nếu có
được các yếu tố cơ bản đó là:
+ Một là: có thị trường hàng hóa, dịch vụ trong nước và quốc tế rộng lớn đủ sức
phục vụ nhu cấu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
+ Hai là: có nguồn nhân lực có chất lượng cao thích ứng được yêu cấu và đặc điểm
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh ngày nay đó là phải khai
thác và phát triển hợp lí có hiệu quả các nguồn lực con người.
+ Ba là: có một nền khoa học công nghệ phát triển thực sự là nền tảng và động lực
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

- Như vậy, kết quả của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay phụ
thuộc chủ yếu vào chất lượng nguồn lực con người đặc biệt là nguồn nhân lực. Do đó,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi rất cao về những năng lực và phẩm chất cần
thiết, nhất là năng lực trí tuệ của người lao động. Sẽ không thể có công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nếu thiếu một nguồn lao động có năng lực sáng tạo, có trình độ chuyên
môn giỏi, có khả năng thích nghi cao, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất
đạo đức tốt, có sức khỏe, có năng lực hội nhập quốc tế.
2.2. Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam
2.2.1. Về số lượng
Các kết quả suy rộng mẫu chủ yếu của cuộc Điều tra mẫu Tổng điều tra dân số và
nhà ở năm 2009 vừa chính thức được Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở
Trung ương công ố. Theo đó, Việt Nam đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”, thời
kỳ mà nhóm dân số trong dộ tuổi lao động cao gần gấp đôi nhóm dân số trong độ tuổi
phụ thuộc. Đây là “cơ hội vàng” cho Việt Nam phát triển , tận dụng nguồn nhân lực vô
cùng quý giá để phát triển kinh tế, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, theo kịp sự phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, thời kì “cơ cấu dân số vàng” chỉ diễn ra trong một thời kì nhất định nó

7


thường kéo dài trong khoảng thời gian từ 15 đến 40 năm tùy thuộc vào chính sách dân
số của từng quốc gia và sự tận dụng “cơ hội vàng” này để bức phá phát triển.
Kết quả điều tra cho thấy, so với kết quả của cuộc tổng điều tra năm 1999, tỷ trọng
dân số dưới 15 tuổi giảm từ 33% năm 1999 xuống còn 25% trong năm 2009. Trong
khi đó, tỷ trọng dân số của nhóm 15 – 19 tuổi tăng từ 58% năm 1999 lên 66% . Còn
nhóm 60 tuổi trở lên tăng từ 8% lên 9% tương ứng trong hai cuộc tổng điều tra. Theo
kết quả điều tra dân số đến tháng 12/2012 dân số Việt Nam gần 90 triệu người. Điều
này phản ánh nguồn nhân lực Việt Nam đang phát triển dồi dào, nguồn nhân lực Việt
Nam được cấu thành chủ yếu là nông dân, công nhân, tri thức, doanh nhân, dịch vụ và

nhân lực của các ngành, nghề.
Với số lượng người bước vào độ tuổi lao động đạt mức kỉ lục như hiện nay, cùng
với hàng chục vạn lao động dôi dư từ các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước, hai thập
kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 sẽ tạo ra áp lực lớn nhất về việc làm và nguồn vốn đang căng
thẳng với tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao (một số lao động thất nghiệp rơi vào nhóm lao
động trẻ được đào tạo, gây ra nhiều hậu quả cả về kinh tế xã hội). Bên cạnh đó còn
hàng triệu người già tuy tuổi cao nhưng vẫn còn khả năng và mong muôn được làm
việc.
Trên phạm vi cả nước, cấu trúc dân số biến đổi tạo cơ hội thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế, tuy nhiên do hoàn cảnh địa lý và tình hình kinh tế - xã hội khác nhau giữa
các vùng miền, nên ở các tỉnh đồng bằng mức sinh sống thấp trong nhiều năm qua và
“cơ cấu dân số vàng” đã bắt đầu phát huy tác dụng, tạo ra nhiều thách thức lớn về việc
làm cho địa phương vốn đất chật người dông. Tại các tỉnh vùng Tây Nguyên, miền núi
Tây Bắc, do mức sinh ở những vùng này vẫn còn cao nên cấu trúc dân số trẻ. Luồng di
cư tự phát rất lớn đổ từ các vùng nông thôn, miền núi đến các thành phố, Tây Nguyên
và vùng Đông Nam Bộ. Trong một số doanh nghiệp ở các vùng này, số lao động ngoại
tỉnh chiếm đến 80%.
Trong các tiêu chí cạnh tranh về nguồn nhân lực với các quốc gia trong khu vực và
trên thế giới thì nguồn nhân lực dồi dào và giá rẻ là ưu điểm nổi bật của Việt Nam.
Tuy nhiên trong những năm gần đây tiêu chí này không còn là một lợi thế tuyệt đối
của chúng ta nữa. Chúng ta phải cạnh tranh với nguồn nhân lực các nước trong khu

8


vực như Trung Quốc, bên cạnh đó là xu hướng đề cao chất lượng nguồn nhân lực, đã
làm giảm sức cạnh tranh về nhân lực của nước ta trong những năm gần đây.
Như vậy, xét về yếu tố số lượng nhân lực thì bên cạnh, những thời cơ lớn, nguồn
nhân lực Việt Nam cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Để cạnh tranh trên
thị trường nhân lực thì không chỉ có yếu tố số lượng đông, giá lao động rẻ mà yếu tố

vô cùng quan trọng là chất lượng nguồn nhân lực.
2.2.2. Về chất lượng
Thông thường khi đánh giá chất lượng nguồn nhân lực chúng ta chỉ xem xét thông
qua hệ thống giáo dục quốc dân, thông qua số người được đào tạo, qua bằng cấp mà
người lao động có được. Tuy nhiên, nếu chỉ xem xét như vậy thì chưa đủ. Khi đánh giá
về chất lượng nguồn nhân lực của một quốc gia phải được nhìn nhận ở nhiều khía cạnh
khác nhau như thể lực, trí lực của lực lượng lao động.
2.2.2.1. Về thể lực
Yếu tố quan trọng nhất của thể lực là sức khỏe, một người có thể lực nghĩa là có
sức khỏe tốt. Song sức khỏe không chỉ đơn thuần là chuyện có bệnh hay không có
bệnh mà bao gồm cả yếu tố tinh thần và xã hội. Sức khỏe là sự phát triển hài hòa cả về
thể chất,tinh thần và xã hội của con người. Về thể chất đó là sự cường tráng cơ bắp và
khả năng vận động chân tay; về tinh thần đó là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, khả
năng vận động của trí tuệ, khả năng tư duy; về xã hội đó là sự thoải mái, vui vẻ, giao
tiếp thân thiện, không có những áp lực về môi trường.
Khi có sức khỏe tốt, năng suất lao động sẽ cao hơn nhờ sự bền bỉ, dẻo dai và hả
năng tập trung trong công việc. Do đó, việc nâng cao sức khỏe cho toàn dân nói chung,
lực lượng lao động nói riêng luôn được Đảng quan tâm và được xác định là mục đích
và là điều kiện cho sự phát triển.
Để đánh giá thể lực của mỗi quốc gia có nhiều tiêu chí khác nhau nhưng có hai
tiêu chí cơ bản là: chiều cao trung bình của thanh niên từ 18 đến 35 tuổi (đơn vị cm);
cân năng trung bình của thanh niên từ 18 đến 35 tuổi (đơn vị kg).
Từ thời kì đổi mới đến nay, thể lực của nguồn nhân lực Việt Nam được cải thiện
đáng kể. Sau 25 năm đổi mới chiều cao trung bình của nam thanh niên 18 đến 19 tuổi
tăng 4,5 cm và nữ thanh niên tăng 4 cm. Chiều cao của người Việt Nam sẽ tiếp tục
được cải thiện trong thế kỷ XXI nhờ việc tăng cường chế độ dinh dưỡng và cải thiện

9



mức sống. Cùng với các biện pháp để phát triển thể chất chúng ta cũng quan tâm đến
việc phát triển và làm phong phú thêm đời sống tinh thần cho người lao động như xây
dựng các khu vui chơi giải trí, đẩy mạnh phong trào toàn dân tập thể dục, thể thao,
hướng đến một lối sống lành mạnh, trong sáng, cải thiện một bước đáng kể đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân.
Mặc dù có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng đối chiếu với tiêu chuẩn quốc tế thì
thể lực của nguồn nhân lực Việt Nam còn rất nhiều hạn chế. Nếu xem xét hai yếu tố
này thì nguồn nhân lực Việt Nam thuộc hạng “ thấp bé, nhẹ cân” sức bền bỉ thấp.
Để cải thiện chiều cao, cân nặng sức bền vỉ của nguồn nhân lực là một thách thức
lớn, bởi muốn làm được điều đó phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp như cải thiện
giống nòi, nâng cao chất lượng cuộc sống, cải thiện môi trường...
2.2.2.2. Về trí lực
Nguồn nhân lực nước ta xuất phát từ nhiều lĩnh vực khác nhau:
a. Nguồn nhân lực từ nông dân
Nông dân Việt Nam chiếm khoảng hơn 61 triệu 433 nghìn người (năm 2010),
bằng khoảng 73% dân số của cả nước. Cả nước có khoảng 113.700 trang trại, 7.240
hợp tác xã nông, lâm nghiệp, thủy sản; có 217 làng nghề, 40% sản phẩm từ các ngành,
nghề của nông dân được xuất khẩu đến hơn 100 nước. Như vậy, so với trước đây,
nông thôn nước ta đã có những chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong nông dân ở nước ta vẫn chưa được khai thác,
chưa được tổ chức đầy đủ. Người nông dân chẳng có ai dạy nghề trồng lúa. Họ đều tự
làm. Đến lượt con cháu họ cũng tự làm. Có người nói rằng, nghề trồng lúa là nghề dễ
nhất, không cần phải hướng dẫn cũng có thể làm được. Ở các nước phát triển, họ
không nghĩ như vậy. Mọi người dân trong làng đều được hướng dẫn tỷ mỷ về nghề
trồng lúa trước khi lội xuống ruộng. Hiện có từ 80 đến 90% lao động nông, lâm, ngư
nghiệp và những cán bộ quản lý nông thôn chưa được đào tạo. Điều này phản ánh chất
lượng nguồn nhân lực trong nông dân còn rất yếu kém. Sự yếu kém này đã dẫn đến
tình trạng sản xuất nông nghiệp nước ta vẫn còn đang trong tình trạng sản xuất nhỏ,
manh mún, sản xuất theo kiểu truyền thống, hiệu quả sản xuất thấp.
Tình trạng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, làm cho một bộ phận lao động ở

nông thôn dôi ra, không có việc làm. Từ năm 2000 đến năm 2007, mỗi năm nhà nước

10


thu hồi khoảng 72 nghìn ha đất nông nghiệp để phát triển công nghiệp, xây dựng đô
thị.
Chính vì nguồn nhân lực trong nông thôn chưa được khai thác, đào tạo, cho nên
một bộ phận nhân dân ở nông thôn không có việc làm ở các khu công nghiệp, công
trường. Tình trạng hiện nay là các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm trọng thợ có tay
nghề cao, trong khi đó, lực lượng lao động ở nông thôn lại dư thừa rất nhiều; chất
lượng lao động rất thấp.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do khâu tổ chức lao động và quy hoạch lao
động trong nông thôn chưa tốt. Chính sách đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn
chưa đồng bộ, chưa mang tính khuyến khích và tính cạnh tranh.
b. Nguồn nhân lực từ công nhân
Về số lượng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay có khoảng 10 triệu người. Số
công nhân có trình độ cao đẳng, đại học ở Việt Nam có khoảng 150 nghìn người. Nhìn
chung, công nhân có tay nghề cao chiếm tỷ lệ thấp so với đội ngũ công nhân nói
chung.
Cả nước, tính đến năm 2007, có 262 trường dạy nghề, 599 trung tâm dạy nghề.
Trường trung cấp công nghiệp đến năm 2008 là 275. Theo số liệu mới thống kê được,
tính đến cuối năm 2010, cả nước có 123 trường cao đẳng dạy nghề, 303 trường trung
cấp nghề; 810 trung tâm dạy nghề; hơn 1000 cơ sở khác có tham gia dạy nghề. Dạy
nghề trình độ trung cấp từ 75,6 nghìn tăng lên 360 nghìn người; có khoảng 600 nghề
có nhu cầu đào tạo. Đến cuối năm 2010, cả nước có 123 trường cao đẳng dạy nghề;
303 trường trung cấp nghề; 810 trung tâm dạy nghề, hơn 1000 cơ sở khác có tham gia
dạy nghề. Dạy nghề trình độ trung cấp từ 75,6 nghìn tăng lên 360 nghìn người.
Trong các ngành nghề của công nhân, tỷ lệ công nhân cơ khí và công nhân làm
việc trong các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp nặng còn rất thấp, khoảng 20% trong

tổng số công nhân của cả nước, trong khi đó, công nhân trong các ngành công nghiệp
nhẹ, chế biến thực phẩm lại chiếm tỷ lệ cao, khoảng 40%.
Nhìn chung, qua hơn 25 năm đổi mới, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến tích cực, tăng
nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên từng bước. Trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, việc làm và đời sống của giai cấp công nhân

11


ngày càng được cải thiện. Bên cạnh đó, sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp
ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng, kỹ năng nghề nghiệp; thiếu nhiều các
chuyên gia kỹ thuật, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động
còn nhiều hạn chế; phần lớn công nhân xuất thân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ
bản và có hệ thống. Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do quá trình phát triển kinh tế - xã hội
trong quá trình đổi mới đã mở ra một giai đoạn lịch sử mới trong sự phát triển của giai
cấp công nhân Việt Nam. Bên cạnh đó, những hạn chế, yếu kém trong phát triển kinh
tế - xã hội ảnh hưởng không nhỏ đến việc làm, đời sống, tâm tư, tình cảm của công
nhân; những chính sách về giai cấp công nhân tuy đã ban hành, nhưng chưa sát hợp
với tình hình thực tế của giai cấp công nhân. Trong các doanh nghiệp và người sử
dụng lao động, không ít trường hợp còn vi phạm chính sách đối với công nhân và
người lao động.
c. Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức
Nếu tính sinh viên đại học và cao đẳng trở lên được xem là trí thức, thì đội ngũ trí
thức Việt Nam trong những năm gần đây tăng nhanh. Riêng sinh viên đại học và cao
đẳng phát triển nhanh: năm 2000, cả nước có 899,5 nghìn người; năm 2002: 1020,7
nghìn người; năm 2003: 1131 nghìn người; năm 2004: 1319,8 nghìn người. Năm
2005: 1387,1 nghìn người; năm 2006: 1666, 2 nghìn người,… Cả nước có khoảng 14
nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1131 giáo sư; 5253 phó giáo sư; 16 nghìn người có

trình độ thạc sĩ; 30 nghìn cán bộ hoạt động khoa học và công nghệ; 52129 giảng viên
đại học, cao đẳng, trong đó có 49% của số 47700 có trình độ thạc sĩ trở lên, gần 14
nghìn giáo viên trung cấp chuyên nghiệp, 11200 giáo viên dạy nghề và 925 nghìn giáo
viên hệ phổ thông; gần 9000 tiến sĩ được điều tra, thì có khoảng 70% giữ chức vụ quản
lý và 30% thực sự làm chuyên môn. Đội ngũ trí thức Việt Nam ở nước ngoài, hiện có
khoảng 300 nghìn người trong tổng số gần 3 triệu Việt kiều, trong đó có khoảng 200
giáo sư, tiến sĩ đang giảng dạy tại một số trường đại học trên thế giới.
Số trường đại học tăng nhanh. Tính đến đầu năm 2007, Việt Nam có 143 trường
đại học, học viện; 178 trường cao đẳng; 285 trường trung cấp chuyên nghiệp và 1691
cơ sở đào tạo nghề. Cả nước hiện có 74 trường và khối trung học phổ thông chuyên
với tổng số 47,5 nghìn học sinh tại 63/64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 7

12


trường đại học chuyên. Tỷ lệ học sinh trung học phổ thông chuyên so với tổng dân số
của cả nước đạt 0,05%, còn chiếm rất thấp so với thế giới.
Các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng phát triển. Vào năm học 2007 2008, cả nước có gần 6 nghìn cơ sở giáo dục mầm non, 95 trường tiểu học, 33 trường
trung học cơ sở, 651 trường trung học phổ thông, 308 cơ sở dạy nghề, 72 trường trung
cấp chuyên nghiệp và 64 trường cao đẳng, đại học là các cơ sở giáo dục ngoài công
lập.
Số học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng tăng.
Năm học 2007 - 2008, tỷ lệ học sinh, sinh viên ngoài công lập là 15,6% (năm 2000 là
11,8%), trong đó, tỷ lệ học sinh phổ thông là 9%, học sinh trung cấp chuyên nghiệp là
18,2%, học nghề là 31,2%, sinh viên cao đẳng, đại học là 11,8%.
Cả nước có 1568/3645 học sinh đọat giải trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia trung
học phổ thông năm học 2007 - 2008.
Đầu năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã trình lên Thủ tướng Chính
phủ Việt Nam dự án đào tạo 20 nghìn tiến sĩ trong giai đoạn 2007 - 2020 ở cả trong
nước và ngoài nước.

Nhà nước đã dành một khoản ngân sách chi cho giáo dục và đào tạo là 76200 tỷ
đồng, chiếm 20% tổng chi ngân sách nhà nước, tăng 14,1% so với thực hiện năm
2007.
Bên cạnh nguồn nhân lực là trí thức trên đây, nguồn nhân lực là công chức, viên
chức (cũng xuất thân từ trí thức) công tác tại các ngành của đất nước cũng tăng nhanh.
Bên cạnh sự tăng nhanh từ nguồn nhân lực trí thức, công chức, viên chức đã dẫn ra
trên đây, thấy rằng, ở Việt Nam hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực từ trí thức, công
chức, viên chức còn yếu kém và bất cập. Đa số công chức, viên chức làm việc trong
các cơ quan công quyền chưa hội đủ những tiêu chuẩn của một công chức, viên chức
như trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, ảnh hưởng nhiều đến chất
lượng công việc. Có 63% tổng số sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa có việc làm;
không ít đơn vị nhận người vào làm, phải mất 1 - 2 năm đào tạo lại. Trong số 37% sinh
viên có việc làm, thì cũng không đáp ứng được công việc. Bằng cấp đào tạo ở Việt
Nam chưa được thị trường lao động quốc tế thừa nhận. Năm 2007, số sinh viên tốt
nghiệp đại học là 161411 người. Theo ước tính, mỗi tấm bằng đại học, người dân bỏ ra

13


40 triệu đồng, còn nhà nước đầu tư khoảng 30 triệu đồng. Như vậy, với tỷ lệ 63% số
sinh viên ra trường chưa có việc làm, cho thấy kinh phí đầu tư của sinh viên thất
nghiệp (161411 sinh viên x 63% x 70 triệu), ít nhất thất thoát 7117 tỷ đồng (trong đó,
4067 tỷ đồng của dân và 3050 tỷ đồng của nhà nước).
2.2.3. Phẩm chất tâm lý – xã hội của nguồn nhân lực
Quá trình thực hiện công việc không chỉ cần sức khỏe, trí tuệ, sự khéo léo mà còn
cần đến tính kỉ luật, sự tự giác, tinh thần hợp tác, tác phong chuyên nghiệp... Nguồn
nhân lực Việt Nam được thừa hưởng từ cha ông tinh thần làm việc hăng say, sự chịu
thương, chịu khó, cần cù, chăm chỉ, yêu lao động, mềm dẻo, linh hoạt trong ứng
xử ...Tuy nhiên, có những đặc điểm tâm lí nếu ở điều kiện hoàn cảnh này thì phù hợp
nhưng điều kiện khác thì không phù hợp. Nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay mang

nhiều đặc điểm đó.
Do ảnh hưởng của tâm lí tiểu nông của một xã hội nông nghiệp cộng với hoàn
cảnh lịch sử trong một giai đoạn dài của chế độ tập trung bao cấp đã tạo cho lực lượng
lao động Việt Nam những phẩm chất tâm lí – xã hội với nhiều hạn chế như: sự tùy
tiện, tâ, lí ỷ lại, không hợp tác chặt chẽ với nhau trong công việc, thiếu sự đồng nhất và
cộng cảm... những hạn chế đó đã gây ra rất nhiều trở ngại trong quá trình thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.2.4. Nhận xét chung về nguồn lực Việt Nam hiện nay
Từ việc phân tích thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay, tôi có những
nhận xét như sau:
- Nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm đúng
mức, chưa được quy hoạch, chưa được khai thác, chưa được nâng cấp, còn đào tạo thì
chưa đến nơi đến chốn, nhiều người chưa được đào tạo.
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa lượng
và chất.
- Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí
thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng nhau thực hiện sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Số lượng người lao động nhiều trong khi nhu cầu công việc của xã hội không đủ
dẫn đến tình trạng thất nghiệp, đào tạo tràn lan.

14


Có thể đánh giá tổng quát về nhân lực Việt Nam hiện nay là số lượng đông, chất
lượng không đông, thể hiện là tay nghề thấp, chưa có tác phong công nghiệp, chưa có
những tổng công trình sư, kỹ sư, nhà khoa học thật sự giỏi; chưa có những chuyên gia
giỏi; chưa có những nhà tư vấn, nhà tham mưu giỏi; chưa có những nhà thuyết trình
giỏi; chưa có những nhà lãnh đạo, nhà quản lý giỏi. Báo chí nước ngoài bình luận
người Việt Nam khá thông minh, rất nhanh nhạy trong việc nắm bắt và tiếp thu cái

mới. Tiếc rằng, lại chưa được khai thác đầy đủ, đào tạo chưa bài bản, điều đó ảnh
hưởng đến chất lượng nhân lực và ảnh hưởng đến sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa muốn đi đến thắng lợi đòi hỏi nguồn nhân
lực phải đủ về số lượng và đạt về chất lượng và được phân bố một cách phù hợp giữa
các ngành nghề và giữa các vùng, các thành phần kinh tế. Thực tế cho thấy, để đạt
được yêu cầu trên vẫn là một thách thức không nhỏ đối với Đảng và Nhà nước ta trong
việc phát triển và phân bố nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.

15


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU
CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VIỆT NAM
3.1. Gắn kết chiến lược phát triển nguồn nhân lực và kinh tế
Hiện nay, mục tiêu phát triển của đất nước đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam
xác định là phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Nhà nước xây dựng chiến lược nguồn lực gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; xác định thật rõ
xây dựng nguồn lực là trách nhiệm của các nhà hoạch định và tổ chức thực hiện chính
sách, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Trong vài năm gần đây, xu hướng đào tạo theo nhu cầu xã hội nổi lên với việc bắt
đầu có sự hợp tác giữa doanh nghiệp và nhà trường trong công tác đào tạo nhân lực.
Điều này đã cho thấy xu hướng chuyển biến tích cực trog tư duy giáo dục, tuy nhiên
nhìn ở tầm vĩ mô thì sự hợp tác này còn manh mún, các thông tin về nhu cầu nguồn
nhân lực quốc gia chưa được thu thập đầu đủ.
Mấu chốt của vấn đề là chúng ta phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa các
chiến lược phát triển nhân lực với các chiến lược phát triển kinh tế. Mối quan hệ này

thể hiện ở chỗ, các chiến lược phát triển kinh tế phải chỉ rất rõ về nhu cầu nguồn nhân
lực (số lượng, kỹ năng cụ thể) và đối với các cơ quan lập chiến lược phát triển nhân
lực phải coi đây là những thông tin đầu vào cơ bản để xây dựng các chiến lược phát
triển nguồn nhân lực.
Nguyên tắc như vậy, tuy nhien làm thế nào để đáp ứng vào thực tế trong khi sự
liên kết giữa Bộ giáo dục và Đào tạo với các bộ ngành khác trong công tác phát triển
nguồn nhân lực chưa thực sự hiệu quả. Để giải quyết vấn đề này cần sự phối hợp đa
ngành đóng một vai trò quan trọng, do đó cần thiết phải thành lập một cơ quan lập kế
hoạch phát triển nguồn nhân lực quốc gia trực thuộc Chính phủ, để tạo sự liên kết
ngang hàng giữa các Bộ, ngành, địa phương với Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Để mô hình này hoạt động có hiệu quả, thì cơ quan này phải là cơ quan có quyền
lực đủ lớn, do đó người đứng đầu nhất thiết là phải Thủ tướng Chính phủ, các thành

16


viên thường trực bao gồm các đại diện các Bộ, ngành, địa phương và các cơ sở đào tạo
lớn trên toàn quốc.
Các quốc gia trên thế giới như Singapore, Ấn Độ từ rất sớm đã xác định và thiết
lập được mối quan hệ giữa phát triển các chiến lược kinh tế và chiến lược nhân lực.
Đây được coi là một trong những nền tảng của sự thành công về mặt kinh tế và chiến
lược nhân lực. Đây được coi là một trong những nền tảng của sự thành công về mặt
kinh tế, khoa học kỹ thuật của các quốc gia này. Đã đến lúc Việt Nam đặt vấn đề lấy
sự phát triển của nguồn nhân lực làm động lực cho sự tăng trưởng kinh tế thông qua sự
kết hợp chặt chẽ các chiến lược phát triển kinh tế và chiến lược phát triển nguồn nhân
lực.
3.2. Các giải pháp về phát triển phương diện thể lực và trí lực
3.2.1. Về phương diện thể lực
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với việc áp dụng phổ biến các phương
pháp sản xuất công nghiệp, các thiết bị và công nghệ hiện đại, do đó cần đòi hỏi sức

khỏe và thể lực cường tráng của người lao động trên các kía cạnh: Sức chịu đựng dẻo
dai, đáp ứng những quá trình sản xuất liên tục, kéo dài. Vì vậy, cần có các giải pháp để
tăng cường thể lực người lao dộng, đáp ứng những yêu cầu tổ chức lao động khoa học
và cường độ làm việc của xã hội công nghiệp như:
- Nâng cao số lượng và chất lượng bữa ăn của cư dân (đặc biệt là nguồn nhân lực
trẻ) bằng việc tạo ra nhiều việc làm để tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho người
lao động. Cần có chế độ tiền lương hợp lý phù hợp với công sức người lao động.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về sức khỏe dinh dưỡng cho cộng
đồng, chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em. Cần trau dồi thêm kiến thức đối với
phụ nữ mang thai và cho con bú, nhằm đề phòng bênh còi xương, suy dinh dưỡng...
- Phát triển mạnh mẽ dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho người dân, tạo điều
kiện để mọi người dân đều được khám chữa bệnh đầy đủ, nâng cao chất lượng khám
chữa bệnh ở mọi vùng miền, địa phương.
- Phát triển các hoạt động thể dục thể thao, rèn luyện sức khỏe cộng đồng.
- Ban hành các chính sách bài trừ tệ bạn xã hội và phòng ngừa dịch bệnh.

17


- Cải thiện môi trường sống: Các sự án đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội phải
tuân thủ bảo vệ môi trường; các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường trầm trọng cần
mạnh dạn đóng cửa hoặc phải thay đổi quy trình công nghệ.
3.2.2. Về phương diện trí lực
Ta thấy nguồn lao động nước ta hiện nay thiếu về số lượng lẫn chất lượng đối với
lao động có trình độ cao, có chuyên môn nghiệp vụ. Đi vào công nghiệp hóa, hiện đại
hóa thì không có lĩnh vực nào lại không đòi hỏi người lao động phải có trình độ văn
hóa, chuyên môn kỹ thuật cao, nhất là lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ tin học, tự
động hóa và công nghệ sinh học hiện đại. Vì vậy, đòi hỏi mặt bằng dân trí của nguồn
nhân lực phải cao và phải được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật.
Đổi mới giáo dục và đào tạo, đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp chủ yếu để phát

triển nhân lực Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến 2020 và những thời kỳ tiếp theo.
Cần quán triệt và triển khai quyết liệt Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04-11-2013 của
Hội nghị Trung ương 8 khoá XI và Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09-6-2014 của
Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số
29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế. Trước mắt, cần tập trung vào một số nội dung sau đây:
- Hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân
luồng, khuyến khích học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Tổ chức lại mạng
lưới giáo dục đào tạo, sắp xếp lại hệ thống giáo dục quốc dân cả ở quy mô đào tạo, cơ
cấu ngành nghề, cơ sở đào tạo, quy hoạch lại mạng lưới giáo dục nghề nghiệp, giáo
dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, vùng, miền và
địa phương. Thực hiện phân tầng giáo dục đại học.
- Đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông, khung chương trình đào tạo ở
bậc đại học và giáo dục nghề nghiệp theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự
học, tự nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung vào những nội dung, kỹ năng
người học, doanh nghiệp và xã hội cần, đảm bảo liên thông giữa các bậc học, cấp học,
giữa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Đa dạng hoá các phương thức đào tạo.
Có cơ chế để tổ chức, cá nhân người sử dụng lao động tham gia xây dựng, điều chỉnh,
thực hiện chương trình đào tạo và đánh giá năng lực người học.

18


- Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học. Cải cách mục
tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo, đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin. Từng bước áp dụng kiểm định, đánh giá theo kết
quả đầu ra của giáo dục và đào tạo.
- Đổi mới chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; nâng cao chất
lượng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào giáo dục và đào tạo. Đặc

biệt chú trọng việc tổ chức sắp xếp lại và hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các
trường sư phạm trên phạm vi cả nước.
3.3. Về chính sách sử dụng nhân lực
Những năm qua, chúng ta mới chú trọng đến giáo dục đào tạo mà chưa quan tâm
đúng mức đến sử dụng đãi ngộ. Vì vậy, theo tôi, định hướng chính sách cần theo
hướng kích thích sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, cụ thể:
- Cải cách chế độ tiền lương, thưởng bằng cách trả lương theo hiệu quả công việc.
- Chú trọng chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của người lao động.
- Trẻ hóa đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ, xóa bỏ quan niệm phải có thâm niên
trong công tác mới được đề bạt các chức danh quan trọng. Đây đang là tư duy cản trở
sự phát triển nhân lực khoa học công nghệ.
- Thực hiện các cơ chế đấu thầu rộng rãi các chương trình, để tài nghiên cứu. Giao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cán bộ chủ trì thực hiện các đề tài, công
trình nghiên cứu khoa học công nghệ.

19


C. KẾT LUẬN
Trên cơ sở mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra khi thực hiện tìm hiểu đề tài tiểu luận:
“Nguồn nhân lực với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”, đề tài đã
giải quyết được một số vấn đề sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lí luận làm cơ sở nền tảng cho việc nghiên cứu nội
dung của đề tài: Cơ sở lí luận về nguồn nhân lực và công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Tìm hiểu thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam đối với sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nguồn nhân lực ở Việt Nam đông đảo về số lượng, có tinh thần học hỏi, năng
động sáng tạo trong công việc. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, chưa
đáp ứng đủ yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Cần phát huy
những thế mạnh và nâng cao hơn nữa trình độ để đáp ứng yêu cầu xã hội, xây dựng

Việt Nam sánh ngang với các cường quốc năm châu.
- Đề xuất được một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam trong
thời gian tới.
Trên đây là nội dung cơ bản tôi đã tìm hiểu được. Tôi hi vọng rằng đề tài nghiên
cứu đóng góp một phần nhỏ vào việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam. Vì điều
kiện thời gian và năng lực còn hạn chế nên đề tài không tránh khỏi những sai sót. Tôi
rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, xây dựng của quý Thầy, Cô và các anh
chị học viên để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

20


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Tưởng (Chủ biên). Giáo trình địa lí kinh tế - xã hội đại cương 1. NXB Giáo
Dục 1978.
2. Nguyễn Tưởng, Địa lí kinh tế - xã hội đại cương I, Hà Nội, 2013
3. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII, NXBChính trị
quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Hội nghị TW7 - khóa VII, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
7. Một số trang web.
- Quyết định số 1216-QĐ/TTg, ngày 22-7-2011 của Thủ tướng Chính phủ: "Phê duyệt
Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020", www.chinhphu.vn.
/> /> />phap-nham-phat-huy-vai-tro-cua-con-nguoi-trong-thoi-ki-cong-nghiep-45955/


21


×