LỜIMỞĐẦU
Trong thời đại ngày nay, thời đại mà khoa học đã thực sự trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, với sự phát triển mạnh mẽ của
nhiều ngành khoa họcvà công nghệ hiện đại, với hàm lượng chất
xám ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong mỗi sản phẩm làm ra, con
người càng tỏ rõ vai trò quyết định của nó trong tiến trình phát
triển của xã hội, của lịch sử nhân loại. Biện chứng của sự phát
triển trong trời đại ngày nay đang đòi hỏi con người phải bộc
lộđầy đủ hơn nữa “ sức mạnh bản chất người ” của mình một
cách hiện thực và sinh động hơn, phong phú vàđa dạng hơn, văn
hoá và trí tuệ hơn với những cá tính độc đáo và những phẩm chất
năng động, sáng tạo của con người hiện đại. Do vậy, trong thời
đại ngày nay, khi nói con người là nguồn lực quan trọng nhất của
sự phát triển xã hội,đặc biệt là sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoáđất nước.Với tư cách ấy, con người đãđược đặt ở vị trí cao
nhất của sự phát triển xã hội, tiến bộ lịch sử, thế giới tinh thần của
con người được coi là tinh hoa của lịch sử văn minh,văn hoá, là
giá trị của mọi giá trị, là cội nguồn của mọi sự phát triển.
1
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới hơn lúc nào hết chúng ta cần
phải hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao vàý nghĩa quyết định của
nhân tố con người. Do vậy để tiến hành công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá thì một nước đang ở trình độ thấp, kém phát
triển như nước ta không thể không xây dựng một chính sách phát
triển lâu bền, nâng cao dần chất lượng của người lao động, phát
huy được nhân tố con người để phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước.
I-Lý luận về con người.
1-Các quan niệm khác nhau về con người.
Chúng ta đều biết, với học thuyết duy vật về lịch sử của mình,
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khẳng định tiến trình phát triển lịch
sử của xã hội loài người là quá trình lịch sử-tự nhiên, là sự thay thế lẫn
nhau của các hình thái kinh tế-xã hội, hình thái kinh tế-xã hội cũđược
thay thế bởi hình thái kinh tế-xã hội mới cao hơn. Bằng hoàt động cải
tạo thế giới, hoạt động thực tiễn của mình, con người không chỉ phát
triển và hoàn thiện chính bản thân mình, mà còn sáng tạo ra lịch sử
của chính mình-lịch sử xã hội loài người.
Từ thời cổđại đến nay, vấn đề con người luôn luôn giữ vị trí
quan trọng trong các học thuyết triết học.Triết học cổđại coi conngười
là tiểu vũ trụ, bản chất con người là bản chất của vũ trụ.
Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là hoa của đất, là chúa tể
của muôn loài, chỉđứng sau có thần linh. Con người được chia ra
thành phần hồn và phần xác.
Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cho rằng phần hồn là do thượng
đế sinh ra và qui định , chi phối phần xác, linh hồn con người là bất tử.
2
Các học thuyết triết học duy tâm tuyệt đối hoá hoạt động của đời sống
tinh thần, coi toàn bộ thế giới tinh thần bao gồm tư tưởng, tình cảm,
khát vọng của con người như một thực thể bị chia cắt khỏi quá trình
tâm sinh học.Các quan niệm duy tâm về bản chất của con người tìm
thấy sự hoàn thiện của mình trong hệ thống triết học duy tâm của Hê-
ghen. Đặc biệt, Hê-ghen đãđưa ra nhiều kiến giải có giá trị về vấn đề
con người mặc dù hệ thống triết học là hiện thân của ý niệm tuyệt đối,
đời sống con người chỉđược xem xét về mặt tinh thần. Song He-ghen
cũng là người đầu tiên thông qua việc xem xét cơ chế hoạt động của
đời sống tinh thần mà phát hiện ra quy luật về sự phát triển của đời
sống cá nhân. Phơ-bách sau khi đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm Hê-
ghen đã phê phán tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan niệm con
người của triết học He-ghen. Phơ-bách quan niệm con người là sản
phẩm tự nhiên, có bản tính tự nhiên, là con người sinh học trực quan,
bị phụ thuộc vào hoàn cảnh. Phơ-bách chứng minh mối liên hệ không
chia cắt được của tư duy với những quá trình vật chất diễn ra trong cơ
thể con người.
Nhìn chung , các quan điểm triết học nói trên đều xem xét con
người một cách trừu tượng do đóđãđi đến những cách lý giải cực
đoan, phiến diện.
Chủ nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế,
đồng thời phát triển những quan niệm về con người đã có trong các
học thuyết triết học trước đây đểđi tới quan niệm về con người hiện
thực, con người hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội. Với tư
cách là con người hiện thực, con người vừa là sản phẩm của tự nhiên
và xã hội, đồng thời vừa là chủ thể cảo tạo tự nhiên và xã hội. Hay nói
3
cách khác, chủ nghĩa Mác xem xét con người như một thực thể sinh
học-xã hội.
2-Con người là một thực thể sinh học-xã hội.
Con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của sự tiến hoá
lâu dàI của giới hữu sinh. Con người tự nhiên là con người sinh học
mang bản tính sinh vật. Cái sinh học trong con người quy định sự hình
thành những hiện tượng và quá trình tâm lý trong con người làđiều
kiện quyết định sự tồn tại của con người. Song con người không phải
làđộng vật thuần tuý như các động vật khác mà là một động vật cótính
chất xã hội với tất cả nội dung văn hoá lịch sử của nó. Con người là
sản phẩm của xã hội, là con người xã hội, mang bản tính xã hội. Con
người chỉ có thể tồn tại được mộtkhi con người tiến hành lao động sản
xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu sinh học của mình. Lao động
sản xuất là yếu tố quyết định hình thành con người vàý thức.
Chính lao động đã quy định bản chất xã hội của con người, quy
định cáI xã hội của con người và xã hội lại quy định sự hình thành cá
nhân và nhân cách. Vì con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội
cùng các quy luật biến đổi của chúng.
Với tư cách là con người xã hội, con người sản xuất ra của cải
vật chất, tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên, con người là chủ
thể cải tạo tự nhiên. Con người là sản phẩm của tự nhiên, con người
chỉ có thể thống trị tự nhiên nếu biết tuân theo và nắm bắt các quy luật
của bản thân giới tự nhiên.
Con người không những là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ
thể cải tạo xã hội. Bằng hoạt động lao động sản xuất, con người sáng
tạo toàn bộ nền văn hoá vật chất và tinh thần. Mặc dù tự nhiên và xã
hội đều vận động theo những quy luật khách quan, nhưng trong quá
4
trình hành động, con người luôn luôn xuất phát từ nhu cầu, động cơ và
hứng thú, theo đuổi những mục đích nhất định và do đóđã tìm cách
hạn chế hay mở rộng phạm vi tác dụng của quy luật cho phù hợp với
nhu cầu và mục đích của mình.
Như vậy, con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội, vừa
là chủ thể cải tạo tự nhiên và xã hội.
3-Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan
hệ xã hội.
Xuất phát từ con người hiện thực, thực tiễn, Mác đã nhận thấy
lao động đóng vai trò quyết định trong việc phân định ranh giới giữa
con người vàđộng vật.
Vì lao động là hoạt động xã hội nên mọi sự khác biệt giữa con
người vàđộng vật đều là kết quả cuả cuộc sống con người trong xã hội.
Cá nhân là thực thể xã hội và bản chất con người có tính lịch sử cụ
thể. Điều đó quy định sự khác nhau của con người trong các thời đại
khác nhau, sự khác nhau này tuỳ thuộc vào sự phát triển của xã hội, sự
thay đổi các quan hệ xã hội và giao tiếp. Vì vậy, bản chất con người là
tổng hoà các quan hệ xã hội trong hiện tại mà cả trong quá khứ.
Vậy, từđó rút ra ba kết luận :
-Bản chất chung nhất, sâu sắc nhất của con người là tổng
hoà các mối quan hệ giữa người và người trong xã hội diễn ra trong
hiện tại và cả trong quá khứ.
-Bản chất của con người không phải là cốđịnh, bất biến mà
có tính lịch sử cụ thể.
-Không thể hiểu bản chất con người bên ngoài mối quan hệ
giữa cá nhân và xã hội.
5
Nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại
hoáđất nước.
II-Nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoáđất nước.
1-Vai trò của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự vận động và phát triển
của đời sống xã hội.
Từ xưa và cho đến tận bây giờ, Việt Nam vẫn là một nước nông
nghiệp lạc hậu và chậm phát triển. Để mau chóng thoát khỏi tình trạng
đó chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường công
nghiệp hoá hiện đại hoá. Công nghiệp hoá hiện đại hoá xã hội theo
định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh ”, mà còn là “ một cuộc cách mạng toàn diện
và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vựcvủa đời sống xã hội ”. Phát triển
con người Việt Nam hiện đại đó chính làđộng lực là mục tiêu nhân
văn là cơ sở lâu bền tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá, mà chúng ta đang thực hiện. Cái yếu
tốđó mọi người dễ dàng nhận biết song để bảo đảm thực hiện cho có
hiệu quả và không mắc phải sai lầm thì lại không dễ dàng bởi vì từ
chỗ thấy được tính tất yéu không cẩn thận dễ xảy ra duy ý chí nhưđã
từng xảy ra trước đây hoặc trái lại nếu chỉ thấy khó khăn bất lợi thiếu
điều kiện mà không quyết tâm thực hiện sẽ tụt hậu xa so với thế hiới
hoặc bằng mọi cách mọi biện pháp giải quyết khó khăn đó bấ kể lợi
hay hại sẽ dẫn đến hậu quả khó lường trước được. Chính vì vậy cần
nắm vững những quan điểm cơ bản về công nghiệp hoá và hiện đại
hoá.
Đối với nước ta đang trong trời kỳ quáđộ lên chủ nghĩa xã hội thì việc
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại là một
6
nhiệm vụ to lớn và một yêu cầu khách quan bởi vì cơ sỏ vật chất kỹ
thuật của nền sản xuất hiện đại đòi hỏi phải dựa trên trình độ kỹ thuật
công nghệ ngày càng cao hơn, hiện đại hơn, điều đó không chỉ dừng
lại ở chỗ những yếu tố của cơ sở sản xuất được cơ khí hoá mà trình độ
công nghệ phải tiên tiến và thường xuyên được đổi mới. Công nghiệp
hoá và hiện đại hoá chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ
sở vật chất kỹ thuật trong nền sản xuất hiện đại.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm thay đổi căn bản kỹ thuật
công nghệ sản xuất tăng năng suất lao động. Công nghiệp hoá chính là
thực hiện xã hội hoá về mặt kinh tế-kỹ thuật tăng trưởng và phát triển
kinh tế với tốc độ cao, góp phần ổn định ngày càng nâng cao đời sống
vật chất và văn hoá của mọi thành vuên trong cộng đồng xã hội.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển mối quan hệ kinh tế
giữa các ngành vùng trong phạm vi một nước và giữa các nước với
nhau, nó nâng cao trình độ quản lý kinh tế của Nhà nước, nâng cao
khả năng tích luỹ mở rộng sản xuất làm xuất hiện thêm ngành nghề
mới để từng bước giải quyết những nhu cầu việc làm cho người lao
động.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không ngừng nâng cao vai trò của
nhân tố con người trong nền sản xuất đặc biệt trong nền sản xuất lớn
hiện đại kỹ thuật cao. Chỉ trên cơ sở thực hiện tốt công nghiệp hoá,
hiện đại hoá mới có khả năng thực hiện và quan tâm đầy đủđến sự
phát triển tự do và toàn diện nhân tố con người làm cho con người trở
nên hiện đại nắm bắt được những tiến bộ mới.
Như vậy thực chất của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
tạo ra một nền sản xuất lớn hiện đại với mục tiêu cuối cùng là phát
triển con người toàn diện và con người ởđây không chỉđược hiểu với
7
tư cách là người lao động sản xuất mà còn với tư cách là công dân
trong xã hội, một cá nhân trong tập thể một cộng đồng. Đó không chỉ
làđội ngũ những người lao động có trình độ…mà còn là những công
dân yêu nước ý thức được nguy cơ tụt hậu để cùng nhau cố gắng vì sự
nghiệp chung.
Như vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá xuất phát từ yếu tố con
người và cũng do con người tạo nên. Thật vậy, trong cơ chế quản lý,
cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp của xã hội thời kỳ
trước đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất đồng thời tạo ra
những mối quan hệ sản xuất không phù hợp dẫn đến tình trạng trì trệ,
kém phát triển, kinh tếđời sống của người lao động không đảm bảo
trong khi nhu cầu của con người ngày càng phát triển do đóđòi hỏi
phải có một cơ chế quản lý mơí, một môi trường xã hội mới đểđáp
ứng nhu cầu, lợi ích và các mối quan hệ xã hội ngày càng phát triển
của con người và công nghiệp hoá, hiện đại hoá là bước đi tất nhiên và
mang tính khách quan để tạo ra một nền sản xuất hiện đại vì một cộng
đồng ngày mai.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ xuất phát từ yếu tố con
người mà do con người tạo nên và chỉ khi nào có nguồn nhân lực mới
thành công bởi nhưđã phấn tích ở trên con người là chủ thể của mọi
hoạt động sản xuất vật chất hiện đại, trang bị kỹ thuật và công nghệ
tiên tiến cho ngành kinh tế quốc dân chỉ có thể thực hiện được trên cơ
sởđội ngũ người lao động, các cán bộđầu ngành, chính sách phát triển
của Đảng và Nhà nước.
Tóm lại, việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là bước đi
tất yếu trong đó phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự
8