Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Phát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.5 KB, 25 trang )

Đề tài: Phát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp công
nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
A.CƠ SỞ LÝ THUYẾT:
I. Những khái niệm cơ bản về CNH, HĐH
Công nghiệp hóa trong một phạm vi hẹp thì là quá trình chuyển từ lao
động thủ công sang lao động thông qua máy móc.
Còn với quy mô một quốc gia thì công nghiệp hóa là quá trình chuyển từ
một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp
Tóm lại Công Nghiệp Hóa là quá trình chuyển đổi cơ bản toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, quản lý kinh tế, xã hội từ dựa vào lao động thủ
công là chính sang dựa vào lao động kết hợp cùng với phương tiện, phương
pháp công nghệ, kỹ thuật, tiên tiến hiện đại để tạo ra năng suất lao động cao
Công nghiệp 42%
Nông nghiệp 20%
Dịch vụ 38%
Hiện đại hóa là quá trình biến cái không hiện đại thành hiện đại hơn
Mục tiêu công nghiệp hóa ,hiện đại hóa thời kì đổi mới
Biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện
đại ,có cơ cấu kinh tế hợp lí ,quan hệ sản suất tiến bộ phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sảng xuất ,mức sống vật chất và tinh thần cao,quốc
phòng an ninh vững chắc ,dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ
văn minh.Đại hội X xác định mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoa hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển ,tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta thành một nước
công nghiệp hóa theo hướng hiện đại
Quan điểm công nghiệp hóa hiện đại hóa
Bước vào thời kì đổi mới trên cơ sở phân tích khoa học các điều kiện trong
nước và quốc tế ,Đảng ta nêu ra những quan điểm mới chỉ đạo quá trình thực
hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước trong điều kiện mới.Những quan
điểm này được hội nghị trung ương khóa VII nêu ra và được phát triển bổ
sung qua đại hội VIII .IX .X :


Một là công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa ,hiện đại
hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức
Trong đại hội X đã khẳng định :” khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến
nhảy vọt.Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát
triển lực lượng sản suất”.Cuộc cáng mạng khoa học công nghệ hiện đại tác
động sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội .Bên cạnh đó xu thế hội
nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng nhu
thách thức đối với đất nước vì thế nước ta cần phải tiến hành công nghiệp
hóa rút ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường phát triển kết hợp công
nghiệp hóa với hiện đại hóa
Nước ta thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa khi trên thế giới kinh tế tri
thưc đã phát triển.chúng ta có thể không cần phải trải qua các bước phát
triển tuần tự từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát
triển kinh tế tri thức.Đó là lợi thế của các nước đi sau.
Vì vậy đại hội X chỉ rõ : đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đai hóa gắn với
kinh tế tri thức coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và
của công nghiệp hóa,hiện đại hóa.Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự
sản sinh ra phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất dối với sự
phát triển kinh tế.Đó là những ngành kinh tế mới dựa trên công nghệ cao
như công nghệ thông tin côn nghệ sinh học và cả những ngành kinh tế
truyền thống như nông nghiệp công nghiệp dịch vụ được ứng dụng khoa họa
công nghệ cao
Hai là công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế
Khác với công nghiệp hóa ở thời kì trước đổi mới ,được tiến hành trong nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung lực lượng làm công nghiệp hóa chỉ có nhà
nước theo kế hoạch của nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh.Thòi kì
đổi mới ,công nghiệp hóa hiện đại hóa không phải chỉ là việc của nhà nước
mà là sự nghiệp chung của toàn dân của mọi thành phần kinh tế ,trong đó
kinh tế nhà nước là chủ đạo.Ở thời kì đổi mới phương thức phân bổ nguồn

lực để công nghiệp hóa được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung
của nhà nước,còn ở thời kì đổi mới được thực hiện chủ yếu bằng cơ chế thị
trường .Hội nhập kinh tế quốc tế mở rộng quan hệ kinh tế thu hút công nghệ
hiện đại nhằm học hỏi kinh nghiệm quản lí tiến tiến của thế giới … sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,
Ba là lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững trong các yếu tố tham gia vào quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa yếu tố con người luôn được coi là yếu tố cơ bản .Để tăng trưởng
kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu là :vốn, khoa học và công nghệ ,con người, cơ
cấu kinh tế,thể chế chính trị và quản lí nhà nước thì con người là yếu tố quan
trọng nhất.Công nghiệp hóa hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân của mọi
thành phần kinh tế trong đó lực lượng cán bộ công nhân lành nghề giữ vai
trò đặc biệt quan trọng .Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa hiện đại hóa
đòi hỏi phải đủ số lượng cân đối về cơ cấu và trình độ có khả năng nắm bắt
và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiến tiến của thế giới và có
khả năng sang tạo công nghệ mới.
Bốn là khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa
và hiện đại hóa.Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng
suất lao động,giảm chi phí sản xuất ,nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ
phát triển kinh tế nói chung.Nước ta đi lên từ một nước xã hội chủ nghĩa với
nền kinh tế yếu kém muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa
gắn liền với kinh tế tri thức thì phát triển khoa học và công nghệ là yêu cầu
tất yếu và bức xúc.phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ nội sinh để
nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ nhất là công nghệ
thông tin ,công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới.
Năm là phát triển nhanh ,hiệu quả và bề vững ,tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ,bảo vệ môi trường tự nhiên bảo tồn
đa dạng sinh học.xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm
thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn
minh .Để thực hiện mục tiêu đó .trước hết kinh tế phải phát triển nhanh,hiệu

quả và bề vững.Sự phát triển nhanh hiệu quả và bền vững có quan hệ chặt
chẽ vơi việc bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học .Môi
trường sống và hoạt động kinh tế của con người.Bảo vệ môi trường tự nhiên
và bảo tồn đa dạng sinh học,chính là bảo vệ điều kiện sống của con người và
cũng là nội dung của sự phát triển bền vững.
II. Nền kinh tế tri thức:
1.Tri thức là:
- Các thông tin, các tài liệu, các cơ sở lý luận, các kỹ năng khác nhau, đạt
được bởi một tổ chức hay một cá nhân thông qua các trải nghiệm thực tế hay
thông qua sự giáo dục đào tạo; các hiểu biết về lý thuyết hay thực tế về một
đối tượng, một vấn đề, có thể lý giải được về nó;
- Là những gì đã biết, đã được hiểu biết trong một lĩnh vực cụ thể hay toàn
bộ, trong tổng thể;
- Các cơ sở, các thông tin, tài liệu, các hiểu biết hoặc những thứ tương tự có
được bằng kinh nghiệm thực tế hoặc do những tình huống, hoàn cảnh cụ thể.
Tri thức giành được thông qua các quá trình nhận thức phức tạp: quá trình tri
giác, quá trình học tập, tiếp thu, quá trình giao tiếp, quá trình tranh luận, quá
trình lý luận, hay kết hợp các quá trình này.
2. Kinh tế tri thức: là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử
dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra
của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Kinh tế tri thức là một nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở đẩy nhanh sự
phát triển của khoa học, công nghệ ở mọi lĩnh vực của cuộc sống. Theo ông
Andrew Steer, nguyên Giám đốc World Bank tại Việt Nam, kinh tế tri thức
chỉ là một phần của xã hội tri thức, trong đó mọi người đều có thể tiếp cận,
sử dụng tri thức chung của toàn nhân loại để phục vụ cho công việc và cuộc
sống của mình.
Trong nền kinh tế tri thức ,hai ngành công nghiệp và nông nghiệp chiếm tỷ
lệ thấp và chiếm đa số các ngành kinh tế dựa vào tri thức,dựa vào các thành
tựu mới nhất của khoa học và công nghệ.

Đó có thể là những ngành mới như CNTT, các ngành công nghiệp,dịch vụ
mới dựa vào công nghệ cac,và cũng có thể là những ngành truyền thống
được cải tạo bằng khoa hoc, công nghệ.
Ví dụ: Ngành công nghiệp sản xuất ô tô thông minh không cần người lái
,nông nghiệp sử dung công nghệ sinh học ,tự động điều khiển ,hầu như
không có người lao động,ngành công nghiệp dệt may sử dụng internet để sản
xuất và cung cấp hang may mặc theo yêu cầu của khách hàng trên khắp thế
giới…
Một nước có thể được gọi là nền kinh tế tri thức khi :
- Có hơn 70% GDP đóng góp do ngành kinh tế tri thức
- Cơ cấu giá trị gia tăng có trên 70% giá trị do lao động trí óc mang lại.
- Cơ cấu lao động có hơn 70% là công nhân trí thức
- Cơ cấu tư bản trên 70% là tư bản con người.
Một số đặc điểm của kinh tế tri thức:
-Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ý thức đổi mới và công nghệ mới trở thành
chìa khóa cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống.
nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, dịch chuyển cơ cấu nhanh
-Sản xuất công nghệ trở thành lọa hình sản xuất quan trọng nhất, tiên tiến
nhất. các doanh nghiệp đều có sản xuất công nghệ, trong đó khoa học và sản
xuất được thể chế hóa, không còn phân biệt giữa phòng thí nghiệm và công
xưởng.
-Ứng dụng CNTT được tiến hành rộng rãi trong mọi lĩnh vực, mạng thông
tin đa phương tiện đươc phủ khắp nước, nối hầu hết các tổ chức, gia đình.
-Dân chủ hóa đươc thúc đẩy. mọi người đều dễ dàng truy cập thông tin mà
mình cần.
-Xã hội học tập. Giáo dục phát triển. Đầu tư cho giáo dục và khoa học chiếm
tỷ lệ cao. Phát triển con người trở thành nhiệm vụ trọng tâm
-Tri thức trơ thành vốn quý nhất, nguồn nhân lực hàng đầu tạo tăng trưởng,
không như các nguồn vốn khác bị mất đi khi sử dụng, tri thức và thông tin
có thể được chia sẻ, tăng lên khi sư dụng và hầu như không tốn kém khi

chuyển giao
-Sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lực tăng trưởng hàng đầu. Các
doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển phải luôn đổi mới công nghệ và
sản phẩm
-Các doanh nghiệp vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát triển. Trong cùng một
lĩnh vực, khi một công ty thành công, lớn mạnh thì các công ty khác phải tìm
cach sáp nhập hoặc chuyển hướng ngay
-Toàn cầu hóa thị trường và sản phẩm. Sản phẩm phần lớn được thực hiện từ
nhiều nơi trên thế giới, kết quả của công ty ảo, xí nghiệp ảo, làm việc từ xa
3.Nội dung và định hướng CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri
thức
a.Nội dung:
-Phát triển các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa
nhiều vào tri thức, kết hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt
Nam với tri thức mới của nhân loại
Phát triển nhanh các ngành kinh tế có hàm lượng tri thức cao sẽ tạo ra được
kết cấu hạ tầng kinh tế- kỹ thuật cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, tăng nhanh năng suất và hiệu quả lao động, góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế là điều kiện
để hình thành nền kinh tế tri thức.
Các ngành công nghệ cao (thông tin, sinh học, tự động hóa, vật liệu mới
v.v...) cần được phát triển nhanh chóng
Tập trung điều kiện để phát triển nhanh có chọn lọc các ngành kinh tế dựa
vào tri thức và công nghệ cao, nhằm tạo những bước “nhảy vọt” của nền
kinh tế. Việc phát triển các ngành công nghiệp mới cần đi thẳng vào những
công nghệ tiên tiến nhất, nhằm cho ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao,
chiếm lĩnh được thị trường.
Về nông nghiệp, đưa tri thức sản xuất, kinh doanh, tri thức KHCN đến với
người nông dân; xây dựng những khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao;
sử dụng công nghệ sinh học trong quá trình sản xuất nông nghiệp, làm gia

tăng giá trị các mặt hàng nông - lâm - thủy sản.
-Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước
phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh tế
- xã hội
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chủ yếu vẫn là về số lượng, theo chiều
rộng, chất lượng tăng trưởng vẫn thấp.Kinh nghiệm lịch sử của nhiều nước
trên thế giới đã cho thấy, để đạt được mục tiêu trong dài hạn, cần có sự tăng
trưởng bền vững, mà muốn tăng trưởng bền vững thì tăng trưởng phải có
chất lượng.
Tăng trưởng của Việt Nam không chỉ chủ yếu theo chiều rộng mà cơ cấu
kinh tế còn lạc hậu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, năng lực cạnh tranh
quốc gia chưa cao.
-Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành,lĩnh vực và lãnh
thổ
Xây dựng chương trình, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp để
phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương.
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành cùng với vị trí, tỷ trọng và
quan hệ tương tác phù hợp giữa các bộ phận trong hẹ thống kinh tế quốc
dân. Cơ cấu kinh tế được xem xét dưới góc độ: cơ cấu ngành (công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ) cơ cấu vùng (các vùng kinh tế theo lãnh thổ) và cơ
cấu thành phần kinh tế
Xây dựng cơ cấu kinh tế đươc gọi là tối ưu khi nó đáp ứng được yêu cầu
sau:
-Phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, nhất là các quy luật kinh
tế và xu hướng vận động phát triển kinh tế -xã hội của đất nước
-Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng, công nghiệp và dịch vụ phải tăng
dần về tỷ trọng
-Phù hợp với xu hướng tiến bộ của khoa học và công nghệ đã và đang diên
ra như vũ bão trên thế giới
-Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đát nước, của các ngành, các

địa phương, các thành phần kinh tế
-Thực hiện tốt sư phân công và và hợp tác quốc tế theo xu hương toàn cầu
hóa kinh tế, do vậy, cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là cơ cấu mở
Các vùng địa phương cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa vào thế mạnh của từng
địa phương. Dựa vào tiềm năng, thế mạnh cần được khai thác triệt để nhằm
đạt hiệu quả kinh tế cao, cùng với nông nghiệp còn đẩy mạnh phát triển công
nghiệp nông thôn, coi trọng phát triển các dịch vụ, làng nghề, các khu công
nghiệp ở nơi có điều kiện.. Ở các huyện miền núi, cơ cấu cây trồng chuyển
dịch theo hướng phát triển mạnh cây công nghiệp, cây ăn quả và xây dựng
các cơ sở chế biến sản phẩm hàng hóa để xuất khẩu.
- Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các
ngành, lĩnh vực, nhất là các ngành lĩnh vực có sức cạnh tranh cao
Để nâng cao năng suất lao động, cần giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ
lệ không có việc làm ở khu vực nông thôn, chuyển dịch mạnh hơn nữa cơ
cấu lao động. Giảm mạnh số lao động thuộc nhóm ngành nông, lâm nghiệp -
thuỷ sản.Tăng mạnh số lao động sang nhóm ngành công nghiệp - xây dựng,
vì sử dụng công cụ hiện đại hơn, chuyên môn hoá cao hơn, tính hàng hoá
nhiều hơn, tiếp cận với thị trường tốt hơn.Tăng mạnh số lao động vào khu
vực dịch vụ, nhất là những ngành có tính động lực như khoa học - công
nghệ, tài chính tín dụng, du lịch, dịch vụ; đồng thời cần tăng cường tính
chuyên nghiệp, chuyên trách, hạn chế tính kiêm nhiệm như hiện nay. Tất
nhiên, để chuyển dịch cơ cấu lao động, cần phải chuyển dịch cơ cấu đầu tư,
cơ cấu nhóm ngành kinh tế.
b.Đinh hướng :
-Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, giải quyết đồng bộ các
vấn đề nông nghiệp, nông thôn.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những
chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm phát triển đất nước trong thời
kỳ đổi mới.Bởi vì, nước ta đang trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã

hội, "Mà đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa. Do đó, chúng ta phải công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn, mới tạo tiền đề vững chắc để thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi nông nghiệp,
nông thôn là khu vực đông dân cư nhất, lại có trình độ phát triển nhìn chung
là thấp nhất so với các khu vực khác của nền kinh tế. Nông dân chiếm hơn
70% dân số và hơn 76% lực lượng lao động cả nước, đóng góp từ 25% -
27% GDP của cả nước...
Hơn thế nữa, Đảng ta coi đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, còn vì
nông dân, nông thôn Việt Nam có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp cách
mạng của đất nước trước đây và trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Khu vực
nông nghiệp, nông thôn hiện có tài nguyên lớn về đất đai và các tiềm năng
thiên nhiên khác: hơn 7 triệu ha đất canh tác, 10 triệu ha đất canh tác chưa
sử dụng; các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm nông -
lâm - hải sản (như cà-phê, gạo, hạt tiêu...). Nông nghiệp, nông thôn còn giữ
vai trò chủ đạo trong cung cấp các nguồn nguyên, vật liệu cho phát triển
công nghiệp - dịch vụ.
Tiếp tục khuyến khích phát triển mạnh thêm du lịch sẽ giúp cho nông thôn
giải quyết hàng loạt vấn đề: tạo công ăn việc làm, nâng cao dân trí, phát triển
kết cấu hạ tầng nông thôn, từ đó, làm thay đổi cơ cấu kinh tế và lao động
trong nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ, phát triển nông thôn văn
minh, hiện đại, phù hợp với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Chuyển dịch kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với
công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, hiện đại hóa, thủy
lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học đưa vào sản xuất nhằm nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa
trên thị trường.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm

và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm
và lao động nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy
hoạch và phát triển nông thôn, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản
xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, văn minh, không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và văn hóa của nông dân nông thôn, đầu tư mạnh cho
các chương trình xóa đói giảm nghèo
Tóm lại, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
chính là từng bước để phát triển nông thôn Việt Nam theo hướng hiện đại,
xóa dần khoảng cách giữa thành thị với nông thôn.
-Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
Đối với công nghiệp và xây dựng : Khuyến khích phát triển công nghiệp
công nghệ cao, công nghiệp chế tác,cồng nghiệp phần mềm và công nghiệp
bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, phải biết tận dụng lao động, cơ sở vật chất hiện
có, sử dụng tri thức mới, công nghệ mới để phát triển sản xuất, tạo việc làm,
tăng thu nhập; mặt khác phải biết đi thẳng vào hiện đại ở những khâu, những
lĩnh vực, những ngành có lợi thế. xây dựng những khu sản xuất nông nghiệp
công nghệ cao Tập trung điều kiện để phát triển nhanh có chọn lọc các
ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao, nhằm tạo những bước
“nhảy vọt” của nền kinh tế. Việc phát triển các ngành công nghiệp mới cần
đi thẳng vào những công nghệ tiên tiến nhất, nhằm cho ra sản phẩm có tính
cạnh tranh cao, chiếm lĩnh được thị trường.
Vận động các nhà đầu tư có tiềm năng lớn về tài chính và công nghệ nguồn
từ các nước phát triển. Khuyến khích các công ty có quy mô vừa và nhỏ,
nhưng công nghệ hiện đại đầu tư vào Việt Nam, tạo thuận lợi cho người Việt
Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước
Xây dưng kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế - xã hội nhất là các sân bay quốc
tế, cảng biển, đường cao tốc, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở đô thị
lớn…Phát triển công nghiệp năng lượng gắn với công nghệ tiết kiệm năng
lượng
Đối với dịch vụ : Cần hiện đại hóa nhanh các ngành dịch vụ như thương

mại, du lịch, tài chính, ngân hàng... để trở thành những lĩnh vực kinh tế có
hàm lượng tri thức lớn. Với tính chất là ngành kinh tế tổng hợp mang tính
liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, du lịch phát triển sẽ tạo nhiều công
ăn việc làm cho lao động nông thôn mà không cần phải đào tạo công phu, từ
đó góp phần từng bước nâng cao tích lũy và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn. Khuyến khích phát triển mạnh thêm du lịch sẽ giúp cho nông thôn giải
quyết hàng loạt vấn đề: tạo công ăn việc làm, nâng cao dân trí, phát triển kết
cấu hạ tầng nông thôn, từ đó, làm thay đổi cơ cấu kinh tế và lao động trong
nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ, phát triển nông thôn văn minh,
hiện đại phù hợp với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cần
tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho lĩnh vực du lịch ở các vùng nông thôn
có nhiều tiềm năng du lịch theo hướng khai thác các nguồn vốn trong nước,
ngoài nước, đặc biệt là vốn trong dân. Từ đó tạo ra những sản phẩm du lịch
đặc thù mang đậm bản sắc nông thôn Việt Nam (như du lịch đồng quê, du
lịch làng nghề, du lịch sinh thái, văn hóa và sông nước).Phục hồi và phát
triển các nghề truyền thống của làng quê Việt Nam, tạo ra những sản phẩm
phục vụ khách du lịch. Tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân ý thức bảo vệ
và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa dân tộc, từ đó quảng bá, giới thiệu
nhằm thu hút khách du lịch trên thế giới.Nâng cao ý thức của nhân dân ở các
vùng nông thôn trong việc bảo vệ môi trường sinh thái, làm đẹp quê hương,
bản làng, giữ gìn nếp văn hóa làng quê Việt Nam để tạo ra những sản phẩm
du lịch văn hóa làng quê, văn hóa lễ hội nông thôn Việt Nam. Đây chính là
nét đặc sắc rất hấp dẫn khách du lịch quốc tế. Gắn quy hoạch vùng du lịch
với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung nhằm bảo đảm phát triển
du lịch và kinh tế bền vững.Cần có các đề án thiết thực về đào tạo nguồn
nhân lực cho ngành du lịch, sao cho để mỗi vùng quê, mỗi bản làng có đủ
năng lực phát triển du lịch, làm cho du lịch thật sự trở thành một ngành kinh
tế có hiệu quả của địa phương.
-Phát triển kinh tế vùng
Chúng ta phải có cơ chế giữa các vùng. Phát triển các vùng trong cả nước và

tạo sư liên kết giữa các vùng và nội vùng: thúc đẩy phát triển các vùng kinh
tế trọng điểm, tạo động lực, tác động lan tỏa đến các vùng khác; đồng thời
tạo điều kiện phát triển nhanh hơn cho các vùng kinh tế đang còn nhiều khó
khăn
Xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam
thành nhưng trung tâm công nghiệp lớn có công nghệ cao nhằm tạo ra sự
phát triển chung cho cả nươc.Khai thác tiềm năng kinh tế của mỗi vùng
Phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ phải có tầm nhìn xa, toàn diện
nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế về vị trí địa lý, hệ thống kết cấu hạ tầng để
đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ
một cách có hiệu quả và bền vững; đi đầu trong công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, luôn giữ vai trò đầu tàu đối với cả vùng Bắc bộ và cả
nước trong quá trình thúc đẩy, hỗ trợ các vùng khác, nhất là các vùng khó
khăn, cùng phát triển. Đi đầu về hợp tác quốc tế, về thu hút đầu tư nước
ngoài, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường, củng
cố quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường.
Đối với miền Trung cũng vậy. Miền Trung hơi khác hơn vì đây là nơi khó
khăn vì cơ sở hạ tầng đang còn yếu kém, điều kiện thiên nhiên, thiên tai,
điều kiện nguồn nhân lực không được dồi dào, không được chú ý như vùng
khác, cho nên có những hạn chế trong việc thu hút đầu tư. Cần có những
chính sách ưu đãi đầu tư hợp lý để đảm bảo sự phát triển. Miền Trung vừa
phải là kết hợp đồng bộ các quy hoạch, chiến lược phát triển ngành nghề
lĩnh vực để đưa ra nguồn lực tập trung hơn; đồng thời phải có chính sách ưu
đãi đầu tư để hỗ trợ vùng này.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là nơi tập trung số lượng các khu công
nghiệp lớn của cả nước.Hoạt động xuất nhập khẩu của vùng nhộn nhịp nhất

×