Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Vận dụng nguyên tắc ngoại giao hồ chí minh trong bình thường hóa và phát triển quan hệ của việt nam với hoa kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ THỊ YẾN
( MÀU MẬN CHÍN, 3 QUYÊN,)

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH
TRONG BÌNH THƯỜNG HĨA VÀ PHÁT TRIỂN
QUAN HỆ CỦA VIỆT NAM VỚI HOA KỲ

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ THỊ YẾN

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC NGOẠI GIAO
HỒ CHÍ MINH TRONG BÌNH THƯỜNG HĨA VÀ
PHÁT TRIỂN QUAN HỆ CỦA VIỆT NAM VỚI HOA KỲ

Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số

: 60.31.20.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN ANH CƯỜNG



Hà Nội – 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Anh Cường. Các số liệu và trích dẫn trong luận
văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan.

Tác giả luận văn

Lê Thị Yến


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thiện được luận văn của mình, ngồi sự cố gắng, nỗ lực của bản thân, tơi
đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ tận tình của thầy, cơ giáo, gia đình và bạn bè.
Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới thầy hướng dẫn Tiến sĩ
Nguyễn Anh Cường - Người thầy đã hết lòng giúp đỡ, động viên, chỉ dẫn cho tơi
trong suốt q trình nghiên cứu và hồn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Khoa học Chính trị
đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho tơi trong suốt q trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các anh/chị học viên cao học chun
ngành Hồ Chí Minh học, khóa QH-2012 đã nhiệt tình giúp đỡ và ln bên tơi trong
suốt q trình học tập, nghiên cứu.
Cuối cùng, tơi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình đã ln sát cánh bên tôi để
động viên, giúp đỡ tôi trong suốt q trình học tập, nghiên cứu, hồn thành luận văn.



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADB

Ngân hàng phát triển châu Á

AFTA

Khu vực thương mại tự do

APEC

Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

ASEM

Diễn đàn hợp tác Á - Âu

BTA

Hiệp hội thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ

BIT

Hiệp hội đầu tư song phương


EU

Liên minh châu Âu

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GATT

Hiệp định chung về thuế quan và thương mại

GDP

Tổng thu nhập quốc nội

IMF

Tổ chức tiền tệ thế giới

NTR

Quan hệ thương mại bình thường

ODA

Viện trợ phát triển chính thức

OPIC


Cơng ty đầu tư tư nhân hải ngoại

PNTR

Quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn

POW/ MIA

Tù nhân chiến tranh/ Mất tích trong chiến tranh

USAID

Cơ quan viện trợ phát triển quốc tế Mỹ

USTDA

Cơ quan thương mại và phát triển Hoa Kỳ

WTO

Tổ chức thương mại thế giới


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu ........................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 6

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ....................................................... 6
6. Đóng góp của luận văn ...................................................................................... 7
7. Kết cấu của luận văn ......................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: NGUYÊN TẮC NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH........................... 8
1.1. Giữ vững đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là chính,
đồng thời trên cơ sở tự nguyện và tôn trọng lẫn nhau......................................... 8
1.2. Sẵn sàng mở rộng hợp tác với tất cả các nước trên ngun tắc tơn trọng
chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi .................... 14
1.3. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ nghĩa yêu nước chân
chính với tinh thần quốc tế trong sáng ............................................................... 20
1.4. Kiên định về mục tiêu, linh hoạt về sách lược, luôn giữ thế tiến công nhưng biết
nhân nhượng, thỏa hiệp đúng lúc, giữ vững nguyên tắc để giành thắng lợi ............. 25
1.5. Tăng cường trao đổi, hợp tác cùng theo chính sách chung sống hịa bình
với các nước trên thế giới .................................................................................... 32
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................ 39
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH
TRONG BÌNH THƯỜNG HĨA VÀ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ CỦA VIỆT
NAM VỚI HOA KỲ ............................................................................................ 40
2.1. Những nguyên tắc ngoại giao Hồ Chí Minh được vận dụng trong bình
thường hóa quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ (1976-1995) ............................. 40
2.1.1. Giữ vững đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là chính,
đồng thời hợp tác trên cơ sở tự nguyện và tôn trọng lẫn nhau ............................ 41
2.1.2. Sẵn sàng mở rộng hợp tác với tất cả các nước trên nguyên tắc tơn trọng
chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi...................... 45


2.1.3. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ nghĩa yêu nước chân
chính với tinh thần quốc tế trong sáng................................................................. 49
2.1.4. Kiên định về mục tiêu, linh hoạt về sách lược, luôn giữ thế tiến công
nhưng biết nhân nhượng, thỏa hiệp đúng lúc, giữ vững nguyên tắc để giành

thắng lợi................................................................................................................ 53
2.1.5. Tăng cường trao đổi, hợp tác cùng theo chính sách chung sống hịa bình
với các nước trên thế giới ..................................................................................... 57
2.2. Quá trình vận dụng những nguyên tắc ngoại giao Hồ Chí Minh trong phát
triển quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ (1995-2013) ........................................ 61
2.2.1. Quan hệ chính trị, ngoại giao ..................................................................... 62
2.2.2. Quan hệ kinh tế .......................................................................................... 68
2.2.3. Quan hệ An ninh, Quốc phịng................................................................... 74
2.2.4. Quan hệ giáo dục, y tế, văn hóa .................................................................. 78
2.3. Một số nhận xét và kinh nghiệm .................................................................. 84
2.3.1. Nhận xét...................................................................................................... 84
2.3.2. Kinh nghiệm ............................................................................................... 90
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................ 93
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 98


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà yêu nước vĩ đại, nhà hoạt động quốc tế xuất sắc,
chiến sĩ tiên phong của phong trào giải phóng dân tộc, sứ giả của hịa bình và hữu
nghị. Người vừa là nhà chính trị, nhà tư tưởng, nhà chiến lược quân sự, nhà ngoại
giao, đồng thời cũng là người sáng lập ra nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Cuộc
đời và sự nghiệp cách mạng của Người đã để lại kho tàng lý luận, tư tưởng vơ giá
cho dân tộc Việt Nam. Đó là kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam nói chung và
cho việc xây dựng nền ngoại giao nói riêng phát triển, từng bước đánh thắng kẻ thù
xâm lược, khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời còn có giá
trị to lớn đối với cơng cuộc đổi mới, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc
trong giai đoạn hiện nay.

Với các cương vị trong nước và hoạt động vơ cùng phong phú của mình, Hồ Chí
Minh tiếp cận thực tiễn Việt Nam và thế giới, phát triển và đề xuất nhiều nguyên lý,
quan điểm, luận điểm về thời đại, về đường lối quốc tế, chính sách đối ngoại và
ngoại giao Việt Nam. Trong hệ thống quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại
giao thì ngun tắc ngoại giao Hồ Chí Minh là điểm nổi bật, đặc sắc, thể hiện rất rõ
thiên tài ngoại giao của Hồ Chí Minh.
Trong cơng cuộc đổi mới, tư tưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh đã cho Đảng
Cộng sản Việt Nam những chỉ dẫn đúng đắn trong việc xác định mục tiêu, hoạch
định đường lối, chủ trương chính sách đối ngoại phù hợp với xu thế quốc tế, đáp
ứng nhu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam đem lại những kết quả tốt đẹp mà
trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về các văn kiện Đại
hội X, Tổng Bí thư Nơng Đức Mạnh đã nêu rõ: “Vị thế nước ta trên trường quốc tế
không ngừng được nâng cao, sức mạnh tổng hợp của Quốc gia đã tăng lên rất nhiều,
tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp”. [18, tr. 17]
Thực hiện đường lối ngoại giao hịa bình, hợp tác cùng phát triển, chính sách đối
ngoại mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, tích cực chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế với phương châm Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin
cậy của các nước trên thế giới, tích cực tham gia vào tiến trình hợp tác khu vực và
1


quốc tế. Công tác đối ngoại của nước ta trong những năm qua đã gặt hái được nhiều
thành công.
Hoa Kỳ là một quốc gia có sức mạnh tổng hợp vượt trội so với nhiều nước khác
trên thế giới, là siêu cường quốc về kinh tế, quốc phòng, an ninh... Hoa Kỳ là một
nước bị ảnh hưởng nặng nề trong quá khứ với Việt Nam, do đó cuộc đấu tranh đi
đến bình thường hóa và thúc đẩy quan hệ Việt Nam với Hoa Kỳ gặp rất nhiều khó
khăn. Hơn nữa, sự khác biệt về hệ thống chính trị, về văn hóa vẫn là yếu tố bất lợi
với quan hệ hai nước. Mặc dù vậy, dưới ánh sáng của nguyên tắc ngoại giao Hồ Chí
Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có đường lối ngoại giao đúng đắn, đưa Việt

Nam từng bước phá thế bao vây cấm vận của Hoa Kỳ và tích cực chủ động bình
thường hóa, mở rộng phát triển quan hệ ngoại giao hai nước. Ngày 11/7/1995 Việt
Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao. Gần hai mươi năm qua đã chứng kiến
rất nhiều những tiến triển tích cực trong phát triển quan hệ hai nước theo khuôn
khổ: “Đối tác xây dựng, hữu nghị, hợp tác nhiều mặt trên cơ sở bình đẳng, tơn trọng
lẫn nhau cùng có lợi”, đem lại nhiều lợi ích thiết thực, cho cả đơi bên góp phần gìn
giữ hịa bình, ổn định và phát triển ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Để làm rõ hơn nguyên tắc ngoại giao Hồ Chí Minh được vận dụng vào q trình
đấu tranh bình thường hóa và phát triển quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, tác giả chọn
đề tài “Vận dụng nguyên tắc ngoại giao Hồ Chí Minh trong bình thường hóa và
phát triển quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh nói chung và ngun tắc ngoại giao Hồ Chí
Minh nói riêng cũng như sự vận dụng trong bình thường hóa và phát triển quan hệ
Việt Nam - Hoa Kỳ là mảng đề tài được nhiều nhà khoa học, nhiều học giả quan
tâm, nghiên cứu. Đến nay có nhiều cơng trình với nhiều nhà khoa học, nhiều sách
chuyên đề, bài viết có liên quan đến đề tài này. Mỗi tác giả đều có cách tiếp cận,
nhìn nhận vấn đề riêng, cụ thể như:
Về nguyên tắc ngoại giao Hồ Chí Minh: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ,
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Bộ ngoại giao năm 2002 do Thứ trưởng Thường
trực Nguyễn Đình Bin làm chủ nhiệm. Đề tài gồm một số đề tài nhánh, các tác giả
2


đã phân tích các nội dung: bối cảnh ra đời, quá trình phát triển, nguồn gốc, nội dung
cơ bản về phương pháp, nguyên tắc, phong cách, nghệ thuật của tư tưởng ngoại giao
Hồ Chí Minh.
Cách tiếp cận của các tác giả trong nhóm đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Vận
dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh thời kỳ hội nhập, Ban nghiên cứu

lịch sử ngoại giao, Bộ ngoại giao năm 2008 do PGS.TS.Vũ Dương Huân làm chủ
nhiệm các tác giả đã nghiên cứu những vấn đề cơ bản của phương pháp, nguyên tắc,
nghệ thuật, phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng đó vào
trong thời kỳ hội nhập.
Bên cạnh đó, nguyên Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Dy Niên với cuốn, tư
tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh (2002), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tác giả
cũng đã đi sâu vào việc phân tích một số vấn đề về nguồn gốc hình thành tư tưởng
ngoại giao Hồ Chí Minh, lý giải những luận điểm và quan điểm của Hồ Chí Minh
về các vấn đề thế giới, thời đại, quan hệ quốc tế, chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nước Việt Nam. Tác giả còn đưa ra một số nguyên tắc, phương pháp, phong
cách và nghệ thuật đặc sắc trong hoạt động quốc tế và ngoại giao của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, đồng thời đưa ra ý kiến về vận dụng tư tưởng, khẳng định sự cần thiết
phải xây dựng hệ thống lý luận ngoại giao và trường phái ngoại giao Việt Nam đáp
ứng yêu cầu và nhiệm vụ đối ngoại ngày càng cao của đất nước.
Ngoài ra, cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác ngoại giao (1999) của Vũ
Khoan, Nxb Sự thật, Hà Nội đã phân tích một cách sâu sắc hoạt động ngoại giao
của Hồ Chí Minh từ năm 1941-1969, rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu
trong hoạt động ngoại giao của Người khái quát về phong cách ngoại giao của Bác.
Đến với cuốn, Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc (2005), Nxb Lý luận chính trị,
GS.Song Thành đã bàn tới tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Ở chương XII, tác giả
đã tóm lược nguồn gốc hình thành, nội dung ngoại giao Hồ Chí Minh - nền tảng của
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời tác giả còn đề ra mấy
vấn đề vận dụng và phát triển tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong bối cảnh quốc
tế hiện nay. Ngồi ra, cịn một số cuốn sách, luận án, luận văn, tạp chí khác cũng đã
bàn luận về ngoại giao như: Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam 1945-1995 (1996)
của Lưu Văn Lợi, Nxb Công an nhân dân; Phan Ngọc Liên (chủ biên): Tìm hiểu tư
3


tưởng Hồ Chí Minh với thời đại (2000); Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí

Minh 1954-1969 (2005) của Trần Minh Trưởng, Nxb Công an nhân dân;. Luận văn
Thạc sĩ: Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao và sự vận dụng trong giai đoạn hiện
nay của Nguyễn Sĩ Hùng, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, 2011.
Phạm Hồng Chương- Phùng Đức Thắng: Tìm hiểu tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh, tạp chí Cộng sản, số 12-1999. Nguyễn Trọng Phúc: Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh
về ngoại giao từ sau hiệp định Giơwneviơ, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2 - 1995....
Về quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ: Cuốn sách do Nguyễn Đình Bin chủ biên
Ngoại giao Việt Nam 1945-2000 (2000), Nxb Chính trị Quốc gia đã làm rõ giai
đoạn Đảng lãnh đạo chống chính sách cấm vận, đấu tranh phá bỏ cấm vận và bình
thường hóa trong quan hệ với Hoa Kỳ.
Cuốn sách“Việt Nam - Hoa Kỳ hướng về phía trước” do Nguyễn Mại chủ biên
(2008), Nxb Tri Thức, đã nói về thực trạng mối quan hệ hiện tại và xu hướng phát
triển trong thời gian tới, trên cơ sở kiến nghị hệ thống các giải pháp cần thực hiện
để mở rộng quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.
Hội thảo khoa học quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ trong bối cảnh quốc tế mới, do
Viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu Châu Mỹ tổ chức vào năm 2009,
đã đăng bài của giáo sư Nguyễn Quang Thái với tiêu đề “quan hệ với Hoa Kỳ cần
được là một trụ cột của chính sách đối ngoại” với mục đích ngoại giao thân thiện,
đa phương từ chỗ coi Hoa Kỳ là kẻ thù chuyển sang quan hệ đối tác cùng có lợi.
Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ hợp tác và đấu tranh trong quan hệ đấu tranh
Việt Nam và Hoa Kỳ hiện nay của Viện Quan hệ quốc tế - Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh do An Mạnh Tuấn chủ biên (1998), đã nói lên quan hệ hợp tác
Việt Nam - Hoa Kỳ trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, an ninh, quân sự, kinh tế,
thương mại, văn hóa, khoa học, giáo dục.
Luận án Đảng lãnh đạo q trình bình thường hóa và phát triển quan hệ của
Việt Nam với Hoa Kỳ (1976 - 2006) (luận án tiến sĩ lịch sử) của tác giả Nguyễn Anh
Cường, đã trình bày và phân tích q trình bình thường hóa quan hệ của Việt Nam
với Hoa Kỳ (1976-1995) và quá trình phát triển quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ
(1996 - 2006) phán ánh trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, an ninh, quốc phịng,
kinh tế…Luận án đã giúp luận văn khai thác những thông tin nhằm làm rõ nguyên

4


tắc ngoại giao Hồ Chí Minh được vận dụng trong q trình bình thường hóa của Việt
Nam với Hoa Kỳ và phát triển quan hệ Việt Nam với Hoa Kỳ từ 1995 đến 2013.
Các bài nói, bài viết của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Bộ ngoại giao cũng
có nhiều giá trị trong việc khẳng định phát triển quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa
Kỳ như : Tuyên bố chung của thủ tướng Võ Văn Kiệt về việc Tổng thống Hoa Kỳ
Bin Clinton quyết định bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, thư của Chủ tịch
nước Việt Nam Trần Đức Lương gửi ngài George W.Bush - Tổng thống hợp chủng
quốc Hoa Kỳ( 4/10/2001).
Ngồi ra cịn có các tạp chí như: Q trình bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ:
Kinh nghiệm và bài học của tác giả Lê Linh Lam, tạp chí nghiên cứu quốc tế, số 612009; Quan hệ Việt - Mỹ: 35 năm nhìn lại của Nguyễn Mạnh Hùng, tạp chí Nghiên
cứu quốc tế, số 3-2010; Xác định nội hàm tầm cao mới trong quan hệ Việt - Mỹ của
Nhật Lâm, tạp chí Việt Mỹ, số 42- 2011.
Về đường lối đối ngoại của Đảng: PGS.TS Đinh Xuân Lý với cuốn sách, tư
tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới
(2007), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội đã khái quát bối cảnh ra đời, nguồn gốc,
nội dung cơ bản của tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng của
Người trong thời kỳ đổi mới.
Mặt khác, Bộ ngoại giao, Ban nghiên cứu Lịch sử ngoại giao với cuốn sách Vận
dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập quốc tế (2009), Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, các tác giả đã đề cập đến những vấn đề đặt ra cho ngoại
giao Việt Nam và vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập.
Bên cạnh đó cịn có các bài viết trên những tạp chí như : Cơng tác đối ngoại hiện
nay trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, của tác giả Văn Tạo trong Tạp chí
Lịch sử Đảng, số 3 -1993. Tác giả Vũ Khoan với bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về
đối ngoại vẫn cịn ngun giá trị, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6 -1993.
Mặc dù các cơng trình nghiên cứu với các cách tiếp cận khác nhau đã góp phần
làm rõ hơn tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh cũng như những hoạt động ngoại giao

của Người. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào tập trung vào việc nghiên cứu một
cách trọn vẹn nguyên tắc ngoại giao Hồ Chí Minh cũng như sự vận dụng trong bình
thường hóa và phát triển quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ hiện nay. Chính vì vậy, tác giả
5


chọn đề tài này để làm nổi bật hơn nữa giá trị lý luận cũng như thực tiễn của nguyên
tắc ngoại giao Hồ Chí Minh, đồng thời góp phần làm rõ hơn sự bình thường hóa và
phát triển quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Đề tài tập trung làm rõ nội dung nguyên tắc ngoại giao Hồ Chí Minh.
- Tập trung làm rõ việc Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng những nguyên tắc
ngoại giao của Hồ Chí Minh vào q trình bình thường hóa và phát triển quan hệ
Việt Nam - Hoa Kỳ (1995-2013).
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, hệ thống hóa những quan điểm của Hồ Chí Minh về ngun tắc
ngoại giao.
- Tìm hiểu, phân tích, tổng hợp và đánh giá những nguyên tắc ngoại giao Hồ Chí
Minh vào quá trình bình thường hóa và phát triển quan hệ giữa Việt Nam - Hoa Kỳ
(1976-2013).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh và q trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh trong cách mạng Việt Nam.
- Nghiên cứu lịch sử quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ.
- Nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình đi tới bình
thường hóa và phát triển quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Những nguyên tắc ngoại giao Hồ Chí Minh.

- Việc vận dụng nguyên tắc ngoại giao Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong bình thường hóa và phát triển quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ (1976 2013).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn thực hiện trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, dựa vào những tư tưởng của Hồ Chí Minh về ngoại giao; những quan điểm
6


của Đảng Cộng sản Việt Nam; những quan điểm của các nhà khoa học trong nước
và nước ngoài về ngoại giao.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Sử dụng các phương pháp lịch sử và lơgic, phân tích - tổng hợp, phương pháp
hệ thống, so sánh để làm rõ những nội dung chủ yếu của đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần tổng hợp, hệ thống và luận giải những nội dung và giá trị
đặc sắc trong nguyên tắc ngoại giao Hồ Chí Minh.
- Làm rõ hơn q trình bình thường hóa và phát triển quan hệ hai nước Việt
Nam - Hoa Kỳ.
- Đưa ra một số hướng vận dụng nguyên tắc ngoại giao Hồ Chí Minh trong q
trình bình thường hóa và phát triển quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.
- Luận văn có thể là tài liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy tư tưởng Hồ Chí
Minh trong quan hệ quốc tế và ngoại giao.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương 5 tiết.
Chương 1: Nguyên tắc ngoại giao Hồ Chí Minh.
Chương 2: Vận dụng nguyên tắc ngoại giao Hồ Chí Minh trong bình thường
hóa và phát triển quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ.


7


CHƯƠNG 1
NGUYÊN TẮC NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH

Chủ tịch Hồ Chí Minh trong q trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt
Nam, Người đã rất quan tâm đến vấn đề ngoại giao. Cũng chính vì vậy, Người
khơng chỉ nêu những quan điểm chỉ đạo mà còn trực tiếp thực hiện vấn đề này ngay
từ khi đất nước chưa giành được chính quyền (trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945)
nhằm mục tiêu: phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của
thực dân. Quan điểm chỉ đạo của Người lúc này là: Tăng cường hợp tác, đoàn kết
với giai cấp vô sản và các lực lượng cách mạng trên tồn thế giới khơng phân biệt
màu da, khơng phân biệt dân tộc, cốt tập hợp được mọi lực lượng, nhằm đánh đổ
chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.
Trong q trình bơn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đặt cơ sở, nền
tảng cho nền ngoại giao cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh ln hiểu rõ vai trị và
tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết, hợp tác quốc tế. Tư tưởng hợp tác, đoàn kết các
lực lượng của dân tộc với lực lượng cách mạng thế giới đã từng bước được Người
thực hiện trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Vấn đề hợp tác quốc tế là
một trong những vấn đề quan trọng nhất được Hồ Chí Minh quan tâm và trực tiếp
chỉ đạo với chủ trương, đường lối và xây dựng chính sách cụ thể. Người đã đề ra
một số quan điểm mang tính nguyên tắc chỉ đạo trong hoạt động ngoại giao của
Đảng và Nhà nước ta như sau:
1.1. Giữ vững đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là chính,
đồng thời trên cơ sở tự nguyện và tơn trọng lẫn nhau
Độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là chính là đặc điểm nổi bật trong phong
cách tư duy Hồ Chí Minh. Bằng lối tư duy độc lập, sáng tạo, Người đã tìm ra con
đường cứu nước cho dân tộc, hoạch định đường lối chiến lược cho mọi giai đoạn

cách mạng Việt Nam, trong đó có đường lối ngoại giao của Đảng. Tinh thần độc
lập, tự chủ, sáng tạo của Người trong hoạt động ngoại giao thể hiện ở tính chủ động
và tự quyết trong việc xác định đúng vai trị, vị trí, lợi ích của Việt Nam trong quan
hệ quốc tế, đồng thời đánh giá khách quan môi trường quốc tế thực tại, xác định

8


đúng thời cơ và thách thức để từ đó hoạch định chính sách đối ngoại phù hợp, phục
vụ cho lợi ích chính đáng của dân tộc, đảm bảo sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Trong quan hệ quốc tế, đòi hỏi mỗi nước phải luôn giữ vững đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ. Độc lập, tự chủ tức là dựa vào sức mình là chính, có tham
khảo, chọn lọc kinh nghiệm, bài học của quốc tế nhưng phải tự mình suy nghĩ, tìm
tịi, định ra những chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm giải quyết công việc của
đất nước, khơng chịu một sức ép nào từ bên ngồi, khơng thể biến thành một con
bài trong tay người khác.
Độc lập, tự chủ thể hiện trước hết ở tư duy nhận thức và hành động tự chủ,
sáng tạo, không giáo điều và rập khn. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh
vấn đề mà nhiều lần đồng chí Mác - Lênin nhắc đi nhắc lại rằng, lý luận cách mạng
không phải giáo điều, nó là kim chỉ nam cho hành động cách mạng và lý luận khơng
phải là cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo. Những người cộng sản các nước phải
cụ thể hóa chủ nghĩa Mác - Lênin cho thích hợp với từng điều kiện hồn cảnh, từng
lúc, từng nơi. Trong quan hệ quốc tế, Hồ Chí Minh khẳng định nguyên tắc “độc lập
nghĩa là chúng tôi điều khiển mọi cơng việc của chúng tơi, khơng có sự can thiệp ở
nước ngoài”. [36, tr. 162]
Ngay từ khi thành lập Đảng và trong các văn kiện chỉ đạo hoạt động thời kỳ
chuẩn bị khởi nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở tinh thần độc lập, tự chủ
“đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Người cịn nói: “sự giúp đỡ của các nước bạn
là quan trọng nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một
dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì khơng xứng

đáng được độc lập”. [38, tr. 445] Do hoàn cảnh cuộc đấu tranh cách mạng của nước
ta, sau khi nhân dân ta giành được chính quyền tháng 9/1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh về chính trị, quân sự, kinh tế, nội chính và ngoại giao của ta là tự
lực cánh sinh. Từ năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở có sự chi viện của
Liên Xơ và Trung Quốc về vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn nhưng
giành được thắng lợi phải do nỗ lực của chính bản thân ta quyết định. Khi nước ta
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu
tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, tự
lực cánh sinh là “cái gốc, điểm mấu chốt” của mọi thắng lợi trong sự nghiệp cách
9


mạng. Người xác định tự lực cánh sinh là một truyền thống và Người đã nói lên mối
liên hệ giữa tranh thủ viện trợ quốc tế và tự lực cánh sinh.
Hiệp định Gơnevơ 1954 đã để lại bài học về độc lập, tự chủ và hợp tác sâu
sắc. Các nước lớn đã tác động đến tiến trình giải quyết cuộc chiến tranh Đông
Dương lần thứ nhất. Thế và lực của cách mạng Đơng Dương lúc bấy giờ cịn hạn
chế nhưng đã phản ánh được tương quan lực lượng ở Đông Dương nói chung, Việt
Nam nói riêng. Từ kinh nghiệm của Hội nghị này, ngoại giao Việt Nam đã có bước
trưởng thành, trong thời kỳ tiếp theo, ta đàm phán trực tiếp với Mỹ. Đường lối độc
lập tự chủ, đoàn kết quốc tế được phát huy, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Để tăng cường thế và lực cho cách mạng nước ta trong thời kỳ cả nước thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược. Ngay năm 1955, Việt Nam đã đồng thời triển khai
hoạt động đối ngoại trên nhiều hướng: Đấu tranh thi hành hiệp định Gơnevơ; tăng
cường củng cố quan hệ và tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc
và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa; đóng góp tích cực vào việc củng cố đồn
kết giữa các đảng anh em, tăng cường sự thống nhất trong phong trào cộng sản,
công nhân quốc tế; xây dựng quan hệ hữu nghị với chính phủ Khơme và Lào theo
năm nguyên tắc chung sống hịa bình; tăng cường đồn kết với phong trào giải

phóng dân tộc ở Châu Á, Châu Phi và Mỹ La tinh; tham gia vào phong trào hịa
bình và dân chủ thế giới, chống đế quốc, thực dân, hiếu chiến.
Chủ trương và những kết quả đạt được trong hoạt động đối ngoại của Đảng
ta giai đoạn này thực sự là những yếu tố khởi đầu của chính sách đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ quốc tế mà nước ta có thể thực hiện được trong điều kiện thực
tiễn quan hệ chính trị thế giới lúc bấy giờ. Sau khi nước nhà giành được độc lập
năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln mong muốn thực hiện một chính sách đa
phương, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Bởi vậy, trong nhiều bài phát biểu, trả lời
phỏng vấn báo chí, Người khẳng định, Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước
dân chủ trên thế giới, hợp tác với mọi nước vui lòng hợp tác thật thà và bình đẳng
với Việt Nam. Việc ta triển khai quan hệ trên nhiều hướng đã góp phần mở rộng tập
hợp lực lượng quốc tế, hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam

10


trong cuộc kháng chiến cứu nước và tạo thuận lợi để ta tiếp tục tranh thủ được sự
ủng hộ và viện trợ quan trọng của cả Liên Xô và Trung Quốc.
Trong hoạt động ngoại giao, độc lập tự chủ nhằm đảm bảo lợi ích dân tộc
chính đáng, thực hiện các quyền dân tộc cơ bản trong lợi ích của các dân tộc đan
xen, chồng chéo. Độc lập tự chủ và tự lực, tự cường khác hẳn với chủ nghĩa biệt
phái. Để chiến thắng những kẻ thù mạnh hơn mình gấp nhiều lần trong bối cảnh
thời đại mới, Hồ Chí Minh ln chủ trương tăng cường đồn kết và tranh thủ sự hợp
tác quốc tế, coi đây là một vấn đề có tầm chiến lược hàng đầu trong đường lối cách
mạng Việt Nam. Mục tiêu của đoàn kết và hợp tác quốc tế là tập hợp lực lượng bên
ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ quốc tế, làm tăng thêm khả năng tự
lực, tự cường, tạo điều kiện làm chuyển biến so sánh lực lượng có lợi cho cách
mạng. Vì vậy, độc lập tự chủ, tự cường phải gắn với đoàn kết và hợp tác quốc tế,
đồng thời kết hợp với đấu tranh kiên quyết và khôn khéo để thực hiện mục tiêu cách
mạng và bảo vệ quyền lợi quốc gia. Đó là một nguyên lý cơ bản của tư tưởng Hồ

Chí Minh, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt hoạt động quốc tế và ngoại giao Việt Nam, được
Đảng ta nâng lên thành đường lối độc lập tự chủ và đồn kết quốc tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ nhận định, cuộc đấu tranh anh dũng của
nhân dân Việt Nam vì độc lập và thống nhất Tổ quốc là sự nghiệp cao cả và chính
nghĩa, đã trở thành lương tâm và vinh dự của thời đại, được cả loài người tiến bộ và
nhân dân Mỹ đồng tình ủng hộ. Bằng thiên tài trí tuệ, tình cảm quốc tế chân thành
và trong sáng, bằng nghệ thuật ứng xử ngoại giao tinh tế, có lý, có tình, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng ta vẫn kiên trì đường lối độc lập, tự chủ, kiên trì vận động thuyết
phục làm cho bạn hiểu ta, tiếp tục ủng hộ, giúp đỡ ta cho đến khi sự nghiệp thống
nhất đất nước ta hoàn toàn thắng lợi. Như vậy, giữ vững độc lập, tự chủ trong
đường lối cách mạng nói chung và đường lối đối ngoại nói riêng là một tư tưởng
lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh cho rằng, vấn đề hợp tác nói chung và nhất là vấn đề hợp tác
quốc tế nói riêng chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở tự nguyện và tôn trọng lẫn
nhau, nêu cao nhân nghĩa và đạo lý trong quan hệ quốc tế, trân trọng thành quả của
sự hợp tác. Quan điểm và sự tự nguyện trong hợp tác quốc tế được Hồ Chí Minh
nêu: “Lênin đã dạy rằng: Khơng có sự cố gắng tự nguyện của giai cấp vô sản và sau
11


đó là của tồn thể quần chúng lao động tất cả các nước và các dân tộc trên thế giới,
hướng tới sự liên minh và thống nhất với nhau thì việc chiến thắng chủ nghĩa tư bản
khơng thể nào hồn thành có kết quả được”. [42, tr. 175]
Ngay sau khi đất nước giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã cơng bố những
quan điểm lớn của chính phủ ta về ngoại giao. Nguyên tắc chung được nêu lên là
kiên trì ngoại giao với các tất cả các nước trên cơ sở của sự bình đẳng, tương trợ, tự
nguyện và tơn trọng lẫn nhau. Mục đích của ngoại giao là làm sao đất nước ít kẻ thù
hơn, nhiều bạn đồng minh hơn. Người đã nhiều lần nói rõ với nhân dân và Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và
không gây thù oán với một ai”, “một khi đã độc lập, Việt Nam sẽ đứng với tất cả

các nước bầu bạn”. [37, tr. 44] Từ nguyên tắc ngoại giao trên đây, chủ trương mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế, nhất là quan hệ kinh tế của các nước đã được khẳng
định rõ: “Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn giao
dịch với Việt Nam một cách thật thà”. [37, tr. 46]
Từ nguyên tắc ngoại giao tự nguyện và tôn trọng lẫn nhau đã giúp Hồ Chí
Minh xác định đối tượng trong hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, do những tác động của
lịch sử và những điều kiện khách quan, Người đã có những chỉ đạo và xử lý mối
quan hệ quốc tế đối với từng đối tượng cụ thể, tùy theo mối quan hệ về chính trị,
lịch sử, địa lý. Người đặc biệt coi trọng, mở rộng hợp tác toàn diện với các nước xã
hội chủ nghĩa anh em. Quan điểm của Người trong các chuyến thăm hữu nghị,
chính thức, các văn kiện của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã thể hiện rõ điều này.
Khối lượng vật chất to lớn, các phương tiện, máy móc, việc đào tạo các chuyên gia,
thợ kỹ thuật mà các nước xã hội chủ nghĩa đã giành cho Việt Nam trong những năm
dân tộc ta đang tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và
kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã thể hiện hiệu quả, tính đúng đắn của đường lối
đối ngoại tồn diện, tự nguyện và tơn trọng lẫn nhau trong việc mở rộng quan hệ
ngoại giao với các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Hồ Chí Minh hết sức coi trọng quan hệ với các nước láng giềng và khu vực.
Trước hết là với nước Lào và Campuchia cùng chiến đấu chống kẻ thù chung, Hồ
Chí Minh khẳng định tình đồn kết, gắn bó thắm thiết. Mối quan hệ gắn bó trong
sáng, thân thiện với dân tộc anh em Lào, Hồ Chí Minh đã ca ngợi:
12


Thương nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua
Việt - Lào hai nước chúng ta
Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long.
Nhân dịp tết cổ truyền của Campuchia năm 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
gửi điện chúc mừng tới Quốc trưởng Nôrôđôm Xihanúc, khẳng định lòng mong

muốn của Việt Nam “xây dựng sự hợp tác bền vững và lâu dài giữa Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa và Vương quốc Campuchia”.
Với nước láng giềng Trung Quốc vốn có quan hệ lịch sử lâu đời với Việt
Nam, bằng hoạt động liên tục, không mệt mỏi suốt nửa thế kỉ, Người đã xây đắp
nên mối quan hệ “vừa là đồng chí, vừa là anh em”. Hồ Chí Minh cũng hết sức coi
trọng thiết lập mối quan hệ láng giềng tốt với các nước trong khu vực có chế độ
chính trị khác nhau. Miền Bắc được giải phóng, sau chuyến đi thăm cám ơn các
nước xã hội chủ nghĩa anh em, Người đã dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước
ta đi thăm Ấn Độ, Miến Điện, Inđônêxia, hình thành trục hữu nghị Hà Nội- ĐêliGiacácta và từ cuối những năm 50 đầu 60, thế giới bắt đầu nói đến quan hệ “tam
hùng” ở khu vực là Hồ Chí Minh - Nêru - Xucacnơ. Thực tế lịch sử cho thấy tại các
diễn đàn quốc tế có liên quan, Hồ Chí Minh ln khẳng định tình đồn kết, hữu
nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước láng giềng trên bán đảo Đông Dương, với
các nước Đông Nam Á và Nam Á. Những mối quan hệ ngoại giao mà Nhà nước ta
thực hiện trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và sau này
là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã thể hiện rõ chủ trương này. Trong mối
quan hệ đó, Hồ Chí Minh nhiều lần nói đến năm ngun tắc chung sống hịa bình.
Người đặc biệt nhấn mạnh những ngun tắc khơng xâm phạm đến nhau, bình đẳng
và cùng có lợi.
Đối với những nước lớn có tiềm lực kinh tế và khoa học, kỹ thuật, có vị trí
và vai trị quan trọng trong các mối quan hệ quốc tế. Ngay từ cuối những năm 20
của thế kỷ XX, sau đó là những năm trước Cách mạng Tháng Tám và đặc biệt là
những ngày tháng đất nước ta mới giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã giao thiệp
khá rộng rãi với chính giới các nước lớn như Mỹ, Anh, ..Ngay trong những ngày
tháng quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Người đã nêu quan
13


điểm, người Mỹ đến Việt Nam để bắn giết, để bị giết chết là điều sỉ nhục nhưng
người Mỹ đến giúp đỡ Việt Nam với tư cách là nhà kinh doanh, chuyên gia kỹ thuật
thì họ sẽ được nhân dân Việt Nam nhiệt liệt hoan nghênh. Người bày tỏ tấm lịng

sung sướng được đón tiếp Tổng thống Mỹ đến Việt Nam với ý nguyện ấy.
Đối với những nước đã có mối quan hệ trong lịch sử, những nước có nhiều
thuận lợi trong việc hiểu biết tâm lý con người Việt Nam, hiểu những điều kiện tự
nhiên và xã hội của đất nước và con người Việt Nam. Với nước Pháp trong nhiều
lần tiếp xúc với chính giới và giới cơng thương Pháp trong chuyến thăm nước Pháp
(1946), Người đã nói rõ, nếu cần chun gia kỹ thuật nước ngồi thì Chính Phủ Việt
Nam sẽ mời người Pháp đầu tiên.
Lịch sử đã qua nhưng lịch sử cũng cho chúng ta một độ lùi cần thiết đủ để
khẳng định những quan điểm của Hồ Chí Minh về xác định nguyên tắc, tự nguyện
và tôn trọng lẫn nhau trong quan hệ quốc tế là những quan điểm đi trước thời đại và
có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong công cuộc xây dựng nền ngoại giao Việt Nam hiện
nay. Quan điểm tự nguyện và tôn trọng lẫn nhau trong quan hệ hợp tác quốc tế
trong điều kiện hiện nay cũng chính là việc giữ vững mục tiêu và nguyên tắc đã lựa
chọn, thỏa thuận. Khơng vì sức ép bên ngồi hay lợi ích trước mắt mà nhượng bộ,
phá vỡ nguyên tắc, đi chệch hướng mục tiêu đã định trước. Trong khi thực hiện lộ
trình hội nhập theo xu hướng khu vực hóa, tồn cầu hóa, phải biết tiếp thu có chọn
lọc, chỉ mở cửa du nhập những gì phù hợp với điều kiện, hồn cảnh nước ta. Đặc
biệt là đi tắt, đón đầu, nhanh chóng ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật,
khoa học - công nghệ tiên tiến trên thế giới để rút ngắn thời gian, đẩy mạnh quá
trình hội nhập. Đồng thời phải tỉnh táo nhận ra và ngăn chặn kịp thời những mặt trái
của cơ chế thị trường. Đó là những vấn đề ln ln song hành với quá trình hội
nhập.
1.2. Sẵn sàng mở rộng hợp tác với tất cả các nước trên nguyên tắc tôn trọng
chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi
Hồ Chí Minh là lãnh tụ cách mạng đã bơn ba nhiều nước trên khắp thế giới
để tìm con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, trong tư
tưởng của Người vấn đề mở rộng hợp tác với các nước trên thế giới đã sớm được
hình thành. Điều đó bắt nguồn trước hết từ tình đồng loại, từ sự xúc cảm thực sự về
14



số phận của những người lao động cùng khổ khắp năm châu. Người nói: “Dù màu
da có khác nhau, trên thế giới này chỉ có hai giống người, giống người bóc lột và
giống người bị bóc lột mà chỉ có một tình hữu ái mà thơi - tình hữu ái vô sản”. [32,
tr. 287] Nhận thức này của Người đã trở thành tiền đề của một tư tưởng lớn, đó là
sự cần thiết tất yếu phải liên minh đoàn kết chiến đấu giữa những người vô sản bị
áp bức ở tất cả các nước. Do đó, phải gắn liền phong trào cách mạng trong nước với
cách mạng thế giới, phối hợp ủng hộ lẫn nhau để đưa cách mạng thắng lợi ở các
nước khác nhau.
Ngay từ năm 1919, khi thực dân Pháp cấu kết với tư bản Nhật để cùng khai
thác Đơng Dương, Hồ Chí Minh đã nhận định, xét về nguyên tắc, sự tiến bộ chung
phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế và văn minh chỉ tới khi các quan hệ
quốc tế được mở rộng và tăng cường. Trên quan điểm đó, một mặt Người tố cáo,
phê phán bọn thực dân Pháp nhân nhượng cho bọn tư bản Nhật vào Đông Dương,
làm người “dân bản xứ sẽ sống càng khốn đốn hơn”. [32, tr. 14] Mặt khác, Người
khẳng định: “...là phi lý nếu nghĩ rằng hai dân tộc láng giềng như dân tộc An Nam
và dân tộc Nhật Bản lại có thể cứ tồn tại biệt lập với nhau”. [32, tr. 14] Như vậy, từ
rất sớm, Hồ Chí Minh đã có tư tưởng về việc các dân tộc phải mở rộng giao lưu, quan
hệ bình đẳng cùng có lợi và kịch liệt phê phán tư tưởng biệt lập giữa các dân tộc.
Nguyên tắc ngoại giao Hồ Chí Minh biểu hiện ở rất nhiều mặt, trong đó có
tinh thần “bốn biển đều là anh em”. Người cho rằng: “Nhân dân ta từ lâu đã sống
với nhau có tình, có nghĩa như thế. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình
nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm
châu bốn biển một nhà”. [46, tr. 668] Tư tưởng đó là cơ sở quan trọng để Hồ Chí
Minh xây dựng nguyên tắc mở rộng hợp tác với tất cả các nước.
Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” năm 1927, Người đã khẳng định: “Ai
làm cách mạng trong thế giới đều là đồng chí của nhân dân An Nam cả”. [33, tr.
277] Khi Đảng ra đời, trong cương lĩnh đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã
nói về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: Cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên lạc với

các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Điều
đó thể hiện tư tưởng về đồn kết, mở rộng quan hệ quốc tế và tư tưởng đó được
15


Đảng thể hiện bằng nguyên tắc ngoại giao “làm cho nước mình ít kẻ thù hơn hết và
nhiều bạn đồng minh hơn hết”, đúng với quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Mọi người yêu nước và tiến bộ đều là bạn của ta”. [44, tr. 453]
Trong hoạt động ngoại giao của Việt Nam, ngay từ khi nước nhà giành được
độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương thực hiện đường lối ngoại
giao rộng mở, đa phương, đa dạng. Trong nhiều bài phát biểu trả lời phỏng vấn
trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định là Việt
Nam muốn làm bạn với các nước dân chủ, sẽ hợp tác với mọi nước vui lịng hợp tác
thật thà và bình đẳng với Việt Nam. Những tuyên bố này là sự khởi đầu của chính
sách ngoại giao mở rộng hợp tác với các nước trên thế giới mà nước ta có thể thực
hiện được trong điều kiện thực tiễn quan hệ chính trị thế giới lúc bấy giờ. Việc nước
ta triển khai quan hệ đối ngoại trên nhiều hướng đã góp phần mở rộng tập hợp lực
lượng quốc tế, hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam.
Trong bản thông cáo về “Chính sách ngoại giao của Chính phủ lâm thời”,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ vấn đề hợp tác với từng đối tượng. Đối với các nước
đồng minh chống phát xít “Việt Nam hết sức thân thiện và thành thực hợp tác trên
lập trường bình đẳng, tương ái”. Đối với kiều dân Pháp thực sự tôn trọng độc lập
của Việt Nam thì tính mệnh và tài sản của họ được bảo vệ theo luật pháp quốc tế.
Còn “riêng với Chính phủ Pháp Đờ Gơn chủ trương thống trị Việt Nam thì cương
quyết chống lại. Đối với các nước láng giềng như Trung Hoa, vốn có quan hệ lâu
đời thì: “thắt chặt tình thân ái, khiến hai dân tộc Việt - Hoa tương trợ mà cùng tiến
hóa”; với các nước nhược tiểu dân tộc trên tồn cầu, Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa “sẵn sàng thân thiện, hợp tác chặt chẽ” trên nguyên tắc bình đẳng để ủng
hộ lẫn nhau trong xây dựng và giữ vững nền độc lập.
Có thể coi Thơng cáo chính sách ngoại giao (3/10/1945) như là một giác thư

của Nhà nước Việt Nam gửi đến cộng đồng quốc tế, khẳng định những quan điểm
dân chủ, tiến bộ, nhân đạo, hịa bình và sẵn sàng hợp tác của nhân dân ta với cộng
đồng quốc tế. Các quan điểm đó hồn tồn phù hợp với xu hướng phát triển của
quan hệ quốc tế sau chiến tranh, đồng thời cũng phù hợp với nguyện vọng của nhân
dân các nước trên thế giới. Cũng trong thời gian này, trên cương vị Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao, Hồ Chí Minh đã gửi hàng chục bức thông điệp, điện văn tới Chủ tịch
16


Hội đồng Liên hợp quốc, các vị đứng đầu nhà nước và ngoại trưởng các cường
quốc, chính phủ một số nước Á, Phi cho các tổ chức Liên đoàn Ả Rập, Hội nghị
Liên Phi...yêu cầu các nước công nhận nền độc lập của Việt Nam, đồng thời ngỏ ý
sẵn sàng hợp tác trên nhiều lĩnh vực.
Trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc (tháng 12/1946), Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đối với
các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác
trong mọi lĩnh vực:
a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà
kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông
cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.
c) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế, quốc tế dưới
sự lãnh đạo của Liên hợp quốc.
d) Nước Việt Nam sẵn sàng kí kết với các lực lượng hải quân, lục quân trong
khuôn khổ của Liên hợp quốc, những hiệp định an ninh đặc biệt và những hiệp ước
liên quan đến sử dụng một vài căn cứ hải quân, khơng qn”. [35, tr. 523]
Hồ Chí Minh chủ trương ngoại giao rộng mở, tìm ra những điểm tương đồng,
khai thác mọi khả năng có thể, nhằm tập hợp lực lượng, hình thành mặt trận đồn
kết ủng hộ Việt Nam theo nhiều tầng, nhiều nấc. Để thực hiện chủ trương này, theo
Hồ Chí Minh điều quan trọng là phải xác định được mối quan hệ giữa cách mạng
Việt Nam với các đối tác cụ thể, sắp xếp thứ bậc ưu tiên của các đối tác để tiến hành

công tác ngoại giao đạt kết quả cao.
Trong thư gửi đồng bào toàn quốc nhân kỉ niệm Cách mạng tháng Tám ngày 19/
8/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm điểm tương đồng của cách mạng Việt Nam
với một số các cuộc cách mạng trên thế giới để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của
quốc tế. Người viết:
“Noi gương Cách mạng 1776 của Mỹ, Cách mạng tháng Tám tranh tự chủ chống
ngoại xâm.
Cũng như Cách mạng 1789 của Pháp, Cách mạng tháng Tám thực hành lý
tưởng: Bình đẳng, Tự do, Bác ái.

17


Theo gót Cách mạng 1911 của Tàu, Cách mạng tháng Tám thực hiện chủ
trương chủ nghĩa: Dân tộc, dân quyền, dân sinh”. [36, tr. 218]
Để thức tỉnh lương tri loài người tiến bộ, tăng cường sức mạnh của đoàn kết,
của chính nghĩa, Hồ Chí Minh ln lấy hịa bình, hữu nghị và đạo lý làm tiêu chí để
phân biệt bạn - thù. Người không bao giờ đánh đồng cả một dân tộc, một nước với
những kẻ cầm quyền gây chiến tranh xâm lược của nước đó, đồng thời ra sức tranh
thủ nhân dân đó đứng về phía nhân dân Việt Nam. Người xem họ là bạn, là chiến sĩ
trong mặt trận đấu tranh chống các thế lực hiếu chiến.
Vào những năm 50 - 60 của thế kỷ XX, ưu tiên hàng đầu cho chính sách
ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế
giới; phong trào giải phóng dân tộc; phong trào cách mạng vơ sản; phong trào hịa
bình dân chủ và cách mạng trên thế giới... Trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng
việc xây dựng mối quan hệ gắn bó với các nước xã hội chủ nghĩa, với các “Đảng
cộng sản anh em” theo tinh thần của “chủ nghĩa quốc tế cộng sản” và “chủ nghĩa
quốc tế xã hội chủ nghĩa”. Với mối quan hệ này, Người đặc biệt quan tâm đến việc
góp phần xây dựng khối đồn kết trong nội bộ và phong trào “trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản”.

Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của việc tăng cường
tình đồn kết, hợp tác giữa các nước láng giềng. Người rất quan tâm phát triển quan
hệ ngoại giao với Trung Quốc, sau khi cách mạng Trung Quốc thành công, hai nước
cùng xây dựng chế độ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những cống hiến to lớn xây
dựng mối quan hệ mới, hữu nghị, hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và
nhân dân Việt Nam - Trung Quốc. Theo Người:
Mối tình thắm thiết Việt - Hoa
Vừa là đồng chí, vừa là anh em
Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc đã vận dụng kinh nghiệm ngoại giao
của ông cha, ứng xử phù hợp với truyền thống của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc,
am hiểu sâu sắc văn hóa Trung Hoa, kết nối mối thân tình với nhân dân và có quan
hệ hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau giữa các nhà lãnh đạo Trung Quốc, đồng thời khéo
xử lý quan hệ Việt - Trung phù hợp với các mối quan hệ toàn cầu mới, trong sự
tương tác với các nước lớn khác, đồng minh hay đối phương của Việt Nam. Trong
18


×