Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ xây DỰNG môi TRƯỜNG văn hóa ở THÀNH PHỐ đà NẴNG TRONG THỜI kỳ đẩy MẠNH CÔNG NGHIỆP hóa HIỆN đại hóa HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.56 KB, 126 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người không thể tồn tại nếu tách khỏi môi trường tự nhiên
(MTTN), cũng như con người không thể thực sự trở thành Người nếu tách
khỏi môi trường văn hóa (MTVH). Một MTVH trong sạch, lành mạnh, thích
hợp và phong phú chính là "cái nôi" nuôi dưỡng, là nguồn năng lượng để hình
thành bản lĩnh, năng lực sáng tạo, đạo đức, tâm hồn, tình cảm và nhân cách
con người. Không thể có một tâm hồn lớn, một nhân cách trong sáng lại được
sinh - trưởng trong một MTVH ô nhiễm, độc hại; và cũng không thể có sự
phát triển bền vững của một quốc gia, dân tộc một khi xem nhẹ việc bảo vệ,
bồi đắp, xây dựng và phát triển MTVH của mình.
Trong vài thập kỷ gần đây, MTVH đã trở thành tiêu chí, điều kiện cơ
bản để đánh giá sự phát triển tiến bộ, bền vững của mọi quốc gia, dân tộc trên
thế giới. Thất bại của không ít các quốc gia do tách rời văn hóa với phát triển
kinh tế, xem nhẹ vai trò của MTVH đã dẫn đến những bất ổn nghiêm trọng trong
đời sống chính trị - xã hội, dẫn đến sự khủng hoảng về kinh tế và sự tha hóa
về nhân cách của con người. Không phải ngẫu nhiên mà ông Federico Mayor
(Tổng giám đốc UNESCO) đã phải cảnh báo: "Hễ nước nào tự đặt cho mình
mục tiêu phát triển kinh tế mà tách khỏi MTVH, thì nhất định sẽ xảy ra những
mất cân đối nghiêm trọng, cả về kinh tế lẫn văn hóa và tiềm năng sáng tạo của
nước ấy sẽ bị suy giảm rất nhiều" [48, tr. 8]. Giá trị thời đại của vấn đề ngày
càng gia tăng cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, sự phát triển khoa học,
công nghệ, sự phát triển của tiến bộ xã hội... và thực sự trở thành vấn đề có
tính toàn cầu.
Ở Việt Nam, xây dựng MTVH trở thành yêu cầu bức thiết, là điều
kiện cơ bản đảm bảo sự thành công của công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước. Sự lựa chọn con đường đi lên CNXH của dân tộc càng khẳng định vai



2

trò to lớn của MTVH, với tư cách không chỉ là động lực mà còn ở mục tiêu
hướng tới của nó: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh" [13, tr. 163]. Xây dựng MTVH lành mạnh cho sự phát triển kinh tế, xã
hội được coi là nhân tố cơ bản để giữ vững ổn định chính trị, tạo lập công
bằng xã hội, xây dựng nhân cách con người Việt Nam trong giai đoạn cách
mạng mới. Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định cần phải phát triển nhanh
nhưng bền vững, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội và bảo vệ môi trường; mục tiêu chân - thiện - mỹ là đích vươn tới
của văn hóa Việt Nam.
Cùng với những thành tựu quan trọng mà chúng ta đã đạt được qua 30
năm tiến hành sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo, cũng phải nghiêm túc
nhìn nhận hiện trạng MTVH nước ta đang bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập cần
được nhận thức đầy đủ, giải quyết thỏa đáng. Mặt trái của cơ chế thị trường
đã và đang làm nảy sinh không ít những tệ nạn xã hội (TNXH), thói hư, tật
xấu..., sự tấn công, phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch làm xói mòn
đạo đức, lối sống, phá vỡ thuần phong, mỹ tục, chao đảo kỷ cương phép nước.
MTVH vẫn đang trong thời đoạn chuyển đổi, chưa định hình rõ nét.
Vì vậy, kịp thời ngăn chặn những tiêu cực, độc hại, bảo vệ và xây
dựng MTVH lành mạnh, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH, HĐH) vừa có những mặt phù hợp với xu thế tiến bộ chung của thế
giới, vừa thể hiện những bản chất ưu việt của nền văn hóa XHCN, phù hợp
với tình hình thực tiễn ở nước ta nói chung và mỗi địa phương nói riêng.
Mặc dầu vậy, đây lại là lĩnh vực khá mới mẻ, chưa được quan tâm
nhiều trong hoạt động nghiên cứu khoa học, cũng như trong hoạt động thực tiễn
xây dựng đời sống văn hóa (ĐSVH) ở các địa phương. Rất nhiều vấn đề cơ bản
về MTVH cần được nhận thức và giải quyết thấu đáo. Khái niệm, bản chất, cấu
trúc... của MTVH là gì? Thực trạng MTVH ở nước ta hiện nay ra sao? Các quan

điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của


3

MTVH trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH thế nào v,v... đang là vấn đề khó
khăn, phức tạp, đòi hỏi phải giải đáp đầy đủ cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Đặc
biệt đối với Đà Nẵng một đơn vị mới được chia tách thành thành phố trực thuộc
Trung ương (1-1-1997) càng là vấn đề mới mẻ đòi hỏi phải giải đáp. Xuất phát
từ tình hình đó, tôi đã chọn đề tài: "Xây dựng môi trường văn hóa ở thành phố
Đà Nẵng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay"
làm đề tài luận văn tốt nghiệp hệ cao học của mình. Mong muốn của bản thân
không chỉ góp phần bổ sung về mặt lý luận, mà còn trực tiếp hơn hình thành
những luận cứ khoa học để tiếp tục nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn xây
dựng MTVH ở nước ta nói chung và ở thành phố Đà Nẵng nói riêng trong
tình hình mới.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay ở nước ta đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu, một số
bài viết của các tác giả có đề cập ít nhiều đến vấn đề MTVH và xây dựng
MTVH, như: Đỗ Huy, Cần xây dựng MTVH pháp luật ở nước ta hiện nay,
Người đại biểu nhân dân, 9-10/1993; GS.PTS Trần Văn Bính (chủ biên), Văn
hóa dân tộc trong thời kỳ mở của hiện nay, Nxb CTQG, H. 1996; Nguyễn Hồng
Sơn, Môi trường văn hóa với sự hình thành nhân cách, Tạp chí Tư tưởng văn
hóa, 1/1997; GS.TS Huỳnh Khái Vinh, Lối sống với môi trường sinh thái và môi
trường văn hóa, Thông tin lý luận, 4/1998; GS.PTS Hoàng Vinh, Mấy vấn đề lý
luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta, Viện Văn hóa, Nxb VHTT, 1999;
PGS. Trường Lưu, Văn hóa một số vấn đề lý luận, Nxb CTQG, 1999; GS. Lê
Thi, Khái niệm môi trường nhân văn và vấn đề giáo dục môi trường nhân văn
ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, 6/1999; Trần Lê Bảo, Môi trường tự
nhiên nhân văn, Văn hóa nghệ thuật, 11/1999; Phạm Vũ Dũng, Nhận diện mấy

vấn đề văn hóa, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa - thông tin, 1999; Đỗ Huy,
Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta từ góc nhìn giá trị học, Văn hóa
nghệ thuật, 4/2001...


4

Tuy nhiên, vấn đề "xây dựng môi trường văn hóa ở thành phố Đà
Nẵng hiện nay" còn chưa có công trình nào đề cập đến.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Từ góc độ lý luận về MTVH và xuất phát từ thực tiễn xây dựng
MTVH ở nước ta hiện nay (nói chung) và thành phố Đà Nẵng (nói riêng),
luận văn có mục đích nghiên cứu sau:
- Làm sáng tỏ bản chất, cấu trúc, đặc điểm, vai trò, chức năng...
của MTVH.
- Qua nghiên cứu, khảo sát thực trạng MTVH ở thành phố, luận văn
đề xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng
MTVH ở thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
3.2. Nhiệm vụ
- Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về MTVH.
- Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng xây dựng MTVH, đề ra
những giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng MTVH ở
địa phương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Đối tượng khảo sát, nghiên cứu của luận văn này là vấn đề xây dựng
MTVH ở nước ta (nói chung) và ở thành phố Đà Nẵng (nói riêng) qua khảo
sát, đánh giá chủ yếu tập trung ở khu vực đô thị.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn chủ yếu tập trung phân tích, đánh giá thực trạng MTVH ở
khu vực đô thị thành phố Đà Nẵng, để trên cơ sở đó đề ra các giải pháp sát
thực, đúng đắn.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn


5

- Hệ thống hóa và làm sâu sắc hơn một số vấn đề lý luận về MTVH và
xây dựng MTVH ở nước ta hiện nay.
- Phân tích, đánh giá để đi đến nhận thức đúng về thực trạng MTVH ở
khu vực đô thị thành phố Đà Nẵng.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần cùng địa phương
nâng cao hiệu quả hoạt động xây dựng MTVH trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và vận
dụng vào thực tiễn xây dựng MTVH ở thành phố Đà Nẵng; làm tài liệu tham
khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy môn Lý luận văn hóa trong hệ
thống các trường Đảng địa phương.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ
nghĩa duy vật biện chứng; chú ý kết hợp các phương pháp phân tích và tổng
hợp, lôgíc và lịch sử; đồng thời tiếp thu và sử dụng linh hoạt các phương pháp
so sánh, thống kê, điều tra xã hội học; tiếp cận và xử lý vấn đề chủ yếu từ góc
độ lý thuyết hoạt động.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.



6

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA

1.1. QUAN NIỆM VỀ MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA

Xuyên suốt tiến trình lịch sử, thành quả lao động sáng tạo bằng tri
thức, trí tuệ, tâm hồn và tình cảm của con người đã sản sinh ra một "hệ sinh
thái đặc biệt" riêng có ở con người - đó là hệ sinh thái văn hóa. Cùng với hệ
sinh thái tự nhiên, hệ sinh thái văn hóa thường xuyên tác động tới con người,
bồi dưỡng tâm hồn, đạo lý, rèn luyện ý chí và tôi luyện nhân cách con người.
"Nếu đại tự nhiên là cái nôi đầu tiên nuôi sống con người, thì văn hóa là cái
nôi thứ hai, ở đó toàn bộ đời sống tinh thần của con người được hình thành, được
nuôi dưỡng và phát triển. Con người không thể tồn tại nếu tách rời đại tự nhiên,
cũng như con người không thể thực sự là con người nếu tách rời môi trường văn
hóa" [9, tr. 65]. Điều đó khẳng định văn hóa thực sự có ý nghĩa bởi nó chứa
đựng toàn bộ những sản phẩm, hành động, phương thức ứng xử, kiểu mẫu hoạt
động... hàm chứa hệ thống giá trị nhân văn, vốn tri thức và kinh nghiệm xã hội
đã được đúc kết trong thực tiễn lịch sử, tạo thành MTVH lành mạnh nuôi
dưỡng con người, phát triển con người ngày càng hoàn thiện về mọi mặt. Đây
chính là cơ sở lý luận quan trọng để tiếp cận, nghiên cứu về MTVH.
1.1.1. Khái niệm môi trường văn hóa
Trong vài thập kỷ trở lại đây, vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường
sống của con người đã trở thành mối quan tâm đặc biệt đối với mọi quốc gia
trên toàn cầu. Nó không còn là vấn đề của khoa học tự nhiên (KHTN) hay
kinh tế thuần túy, mà trước hết là vấn đề văn hóa, xã hội hết sức bức thiết đặt
ra buộc loài người phải giải quyết trong những chặng đường phát triển tiếp
theo. Bên cạnh những thuật ngữ đã được sử dụng khá phổ biến trước đây như
"môi trường sinh thái (tự nhiên)", "môi trường sống", "môi trường xã hội"...



7

một thuật ngữ mới được đưa vào sử dụng khá phổ biến trong các công trình
nghiên cứu khoa học, trong các nghị quyết của Đảng cũng như trên các phương
tiện thông tin đại chúng ở nước ta - đó chính là "môi trường văn hóa". Tuy
nhiên, MTVH là gì? cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào đi
sâu nghiên cứu để đưa ra những luận giải khoa học theo những tiêu chí đặc
trưng của khái niệm để đi đến một quan niệm thống nhất về thuật ngữ. Do đó,
để nhận thức đúng MTVH cần thiết phải xem xét mối quan hệ giữa "môi
trường" và "văn hóa", xem xét nội hàm và ngoại diên của khái niệm MTVH;
mà thực chất của vấn đề là tìm hiểu mối quan hệ giữa con người và thế giới
bao quanh con người để giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực văn hóa dưới
góc độ môi trường.
Khái niệm môi trường rất rộng, phức tạp và đa nghĩa, nên có nhiều
cách quan niệm (theo nghĩa rộng, hẹp) khác nhau:
* Quan niệm theo nghĩa hẹp: coi môi trường chỉ bao gồm những gì
thuộc về tự nhiên, hay thế giới vật chất bao quanh con người. Đây là cách tiếp
cận khái niệm từ góc độ KHTN thuần túy ở các nước phương Tây và được sử
dụng khá phổ biến vào khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Ở nước ta, đến những năm 90 của thế kỷ XX quan niệm này vẫn còn
tồn tại khá phổ biến. Trong mục tìm hiểu khái niệm "Môi trường và bảo vệ
môi trường" tạp chí Cộng sản (số 19/1996) [41, tr. 58] và tạp chí Công tác
khoa giáo (số 1/1997) [42, tr. 32] cũng chỉ nhấn mạnh đến các yếu tố tự
nhiên, sinh thái, các yếu tố vật chất nhân tạo bao quanh con người có ảnh
hưởng tới sự tồn tại và phát triển của con người mà không hề đề cập đến các
yếu tố tư tưởng, tinh thần, các yếu tố xã hội, văn hóa - với tư cách là một bộ
phận quan trọng cấu thành môi trường sống của con người.
Cũng vì lẽ đó, cho đến nay mặc dù cụm từ "môi trường" đã không còn

xa lạ với mọi người dân Việt Nam, tuy vậy dường như khi đề cập tới nó vẫn
còn không ít người chỉ đơn thuần quan niệm đó là các hợp phần của tự nhiên


8

bao quanh như không khí, đất, nước, sinh vật... Sự nhầm tưởng, hay nói đúng
hơn là quan niệm một cách phiến diện này vô hình chung đã làm mất đi "một
nửa quan trọng khác" nếu không nói là có ý nghĩa quyết định trong môi
trường sống của con người - đó là môi trường xã hội (MTXH) - nhân văn. Hệ
quả của nó là trong nhận thức, cũng như trong hoạt động thực tiễn đã xem nhẹ
vai trò của MTXH, MTVH, gây ra nhiều hậu quả đáng tiếc.
* Quan niệm theo nghĩa rộng: là những quan niệm coi "môi trường"
bao gồm những gì không chỉ thuộc về tự nhiên như đôi khi người ta lầm
tưởng, nói đến môi trường là nói đến "mọi thứ quanh ta", "có liên quan mật
thiết với ta", bất kể nó thuộc về tự nhiên, xã hội hay văn hóa.
Michel Batisse (nhà nghiên cứu người Pháp) tác giả của những công
trình nghiên cứu nổi tiếng thế giới về môi trường đã xác định: "Môi trường
không chỉ bó hẹp ở những không gian được gọi là tự nhiên và đã bị biến đổi ít
nhiều qua các thời kỳ mà còn bao gồm cả những không gian nhân tạo làm
khung cảnh cho cuộc sống của hầu hết mọi người" [2, tr. 47-48].
Theo định nghĩa của UNEP (chương trình môi trường của Liên hiệp
quốc) thì: "Môi trường là thế giới mà chúng ta đang sống trong đó". Còn theo
các nhà nghiên cứu của Cộng đồng châu Âu: "Môi trường là sự liên hợp của
các yếu tố mà những mối tương tác phức tạp của chúng đã tạo nên hoàn cảnh,
điều kiện chung quanh và điều kiện sống của cá nhân và của xã hội khi họ
sống trong đó hay khi họ cảm thấy" [21, tr. 25].
Ở nước ta, Từ điển tiếng Việt (xuất bản năm 1997), môi trường được
định nghĩa là: "Toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên, xã hội, trong đó
con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong quan hệ với con người,

với sinh vật đó" [46, tr. 618].
Tóm lược nội dung một số quan niệm cơ bản nêu trên cho thấy: môi
trường là một "khái niệm mở", nó không chỉ hàm chứa những cái có sẵn trong
tự nhiên mà còn bao gồm cả những yếu tố nhân tạo bao quanh con người, ảnh


9

hưởng đến sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội. Với cách hiểu theo
nghĩa rộng, môi trường sống của con người như một chỉnh thể bao quát toàn bộ
các yếu tố MTTN, MTXH và MTVH... Chúng đan xen, thâm nhập vào nhau, tác
động ảnh hưởng lẫn nhau và cùng tác động đến việc hình thành nhân cách con
người, tạo ra điều kiện sống, điều kiện phát triển của cá nhân và của xã hội.
Cũng vì lẽ đó, PGS. Trường Lưu rất có lý khi cho rằng: "Về một định nghĩa
chung thì môi trường là những gì gắn chặt và bao quanh con người; từ đó
người ta vận dụng vào các dạng môi trường khác nhau" [20, tr. 241].
Xét theo ý nghĩa đó, MTVH vừa là một bộ phận của môi trường sống
nói chung, vừa là sự "đan bện" rất phức tạp và đa dạng giữa các hệ môi
trường với nhau, đồng thời tích hợp những tố chất của các hệ môi trường
khác, hình thành một môi trường đặc biệt - môi trường nhân văn (MTNV) gắn
với sự sống của con người.
Khái niệm MTVH lần đầu tiên được giáo sư nhân chủng học người
Pháp Georges Olivier đề cập đến trong tác phẩm "Sinh thái nhân văn" (năm
1975). Theo ông MTVH hay MTNV được tạo nên bởi sự "tác động của con
người tới con người" và "tổ chức xã hội của chúng ta, còn sự tác động của con
người với tự nhiên cũng như sản phẩm từ nền công nghiệp đương nhiên đã có
và phải có..." [23, tr. 10].
MTVH cũng được nhiều nhà khoa học xã hội Xô viết trước đây quan
tâm nghiên cứu. Trong cuốn giáo trình "Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin"
do GS.TS triết học A.I. Ac-nôn-đốp chủ biên đã đưa ra quan niệm về MTVH

như sau: "Môi trường văn hóa là một tổng thể ổn định những yếu tố vật thể và
nhân cách, nhờ đó các cá thể tác động lẫn nhau. Chúng ảnh hưởng tới hoạt động
khai thác và sáng tạo giá trị văn hóa, tới nhu cầu tinh thần, hứng thú và định
hướng giá trị của họ. Môi trường văn hóa không chỉ là tổng hợp những yếu tố
văn hóa vật thể, mà còn có những con người hiện diện văn hóa" [1, tr. 75].


10

Trong những năm gần đây, MTVH ở Việt Nam đã trở thành một vấn
đề bức xúc, vừa có tính cấp thiết, vừa có tính lâu dài, đòi hỏi phải giải đáp cả
về mặt lý luận và trong thực tiễn đời sống xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu đã đề
cập và tiếp cận MTVH từ nhiều góc độ và cấp độ khác nhau, xuất phát từ
những mục đích nghiên cứu khác nhau.
Trong cuốn sách "Quản lý hoạt động văn hóa" xuất bản năm 1998, từ
góc độ lãnh đạo, quản lý hoạt động văn hóa, tập thể tác giả nhận định: "Môi
trường văn hóa là một tổng thể các sản phẩm văn hóa, chương trình văn hóa,
hành vi văn hóa, thiết chế, phương tiện và cảnh quan văn hóa... mà cá nhân
tiếp xúc trong suốt đời mình và có ảnh hưởng qua lại với mình" [25, tr. 77].
Công trình nghiên cứu khoa học của Bộ quốc phòng "Nuôi dưỡng giá
trị văn hóa trong nhân cách người chiến sỹ quân đội nhân dân Việt Nam" khi
đề cập đến vấn đề MTVH, các tác giả cũng quan niệm: "Môi trường văn hóa
là tổng hòa những thành tố vật chất và tinh thần tương đối ổn định trong một
thời gian và không gian cụ thể, ở đó các cá nhân tác động đến nhau, con
người là yếu tố quan trọng nhất của môi trường văn hóa" [43, tr, 32]. MTVH
luôn gắn với một phạm vi không gian và thời gian tác động xung quanh con
người, tức là phải gắn với MTXH trong đó có nền văn hóa hiện tồn.
Theo GS. Phạm Minh Hạc: "Môi trường văn hóa chính là môi trường
xã hội và tự nhiên, bao gồm các quan hệ người, nhóm, gia đình, tổ tiên, cộng
đồng dân tộc, xã hội". Như vậy, MTVH là sự vận động của các mối quan hệ

giao tiếp, thể hiện trong ứng xử của từng người và gia phong, lối sống, nếp
sống và trật tự kỷ cương của xã hội [15, tr. 8].
Từ góc nhìn giá trị học, GS. TS Đỗ Huy cho rằng: "Môi trường văn hóa
gắn với toàn bộ hoạt động người. Các lớp và không gian của môi trường gắn
liền với sự đối tượng hóa các năng lực bản chất của con người...","môi trường
văn hóa chính là sự vận động của các quan hệ của con người trong các quá trình
sáng tạo, tái tạo, đánh giá, lưu giữ và hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh
thần của mình" [17, tr. 24; 35-36]. MTVH được nhìn nhận như một hệ thống


11

các giá trị nhân văn có mối quan hệ mật thiết đối với quá trình hình thành,
phát triển nhân cách con người, phát triển xã hội.
MTVH còn được quan niệm đồng nghĩa với khái niệm MTNV: "Là
những điều kiện tự nhiên, văn hóa xã hội xung quanh con người có tác động
trực tiếp tới sự hình thành phát triển nhân cách của cá thể, lối sống của các
nhóm xã hội cũng như của toàn thể xã hội..." [26, tr. 3]. Đây là những quan
niệm thể hiện sự đồng thuận về MTVH.
Bên cạnh đó vẫn có một số quan niệm "không đồng chiều" như: coi
MTVH là một khái niệm không có nội hàm và ngoại diên, chỉ là một cách nói
văn hoa, là sự "phiên ngang" thuần túy từ MTTN sang lĩnh vực văn hóa xã
hội; hoặc bó hẹp MTVH trong một phạm vi không gian cố định và nhỏ hẹp,
coi MTVH chỉ là một khái niệm ngang hàng với khái niệm "làng văn hóa",
"gia đình văn hóa", hay đồng nhất MTVH với MTXH... Tuy nhiên, đây không
phải là những quan niệm chính thống và phổ biến trong giới nghiên cứu khoa
học cũng như trong đời sống xã hội.
MTVH do vậy, được thừa nhận là một khái niệm "mở", vừa mang tính
thống nhất, lại vừa rất đa dạng. Nhìn chung quan niệm về MTVH của các tác
giả không có sự đối lập, đều thừa nhận MTVH là một bộ phận quan trọng

không thể thiếu được trong môi trường sống của con người. MTVH là toàn bộ
yếu tố tự nhiên nhân văn và tổng hợp những yếu tố văn hóa - xã hội và nhân
cách văn hóa bao bọc xung quanh con người. Nó tác động biện chứng tới con
người thông qua hệ thống các giá trị, các truyền thống... được kết tinh lại
trong các phong tục, tập quán, khuôn mẫu ứng xử của cộng đồng nhằm phối
hợp điều hòa, kiểm soát cuộc sống, thế ứng xử của các thành viên trong gia
đình, gia tộc và của cả cộng đồng.
Để nhận thức đầy đủ về bản chất MTVH cần thiết phải xác định cho
được nội hàm của nó, để từ đó có những hướng đi đúng đắn trong việc nghiên
cứu và thực thi nhiệm vụ xây dựng MTVH.
Thứ nhất, cần phân biệt rõ khái niệm "văn hóa" và "MTVH".


12

Đây là hai khái niệm có mối quan hệ mật thiết, thẩm thấu lẫn nhau,
bởi giữa chúng có nhiều nét tương đồng. Văn hóa hình thành và phát triển trước
hết trong mối quan hệ giữa con người với MTTN và MTXH. Một khi đã hình
thành, văn hóa lại tạo ra môi trường sống, MTVH của con người, góp phần quan
trọng trong việc hình thành con người như một thực thể văn hóa. "Người không
đẻ ra người, đứa trẻ chỉ trở nên người trong quá trình giáo dục" [51, tr. 129].
Một MTVH lành mạnh cũng được hiểu như một không gian văn hóa được tạo
dựng, bồi đắp bởi những giá trị chân-thiện-mỹ. Khi nói văn hóa là "thiên
nhiên thứ hai" của con người chính là muốn nhấn mạnh đến sự tương đồng đó
giữa "văn hóa" và "MTVH". Hơn nữa xét về bản chất, văn hóa chính là: "Sự
phát huy các năng lực bản chất của con người, là sự thể hiện đầy đủ nhất chất
người, nên văn hóa trở thành năng lực tinh thần đặc biệt, giúp cho con người
hoàn thiện nhân cách, tâm hồn, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của
con người" [9, tr. 65]. Đây cũng có thể được quan niệm là tác động cơ bản,
cốt lõi của MTVH...

Tuy nhiên, không thể đồng nhất "văn hóa" với "MTVH". Giữa chúng
vẫn có ranh giới và hàm chứa sự khác biệt (tương đối). MTVH chính là bộ
phận của môi trường sống đã được "nhân hóa", "văn hóa hóa", "thẩm mỹ
hóa", đồng thời là sự biểu hiện văn hóa của con người ra bên ngoài. Trong
quan hệ với con người, MTVH với tư cách là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
- trở thành khách thể, là cái "bao quanh" con người, tác động trở lại con người
một cách khách quan (khách quan ở đây chỉ mang tính tương đối khi đặt trong
mối tương quan đối sánh với văn hóa mà thôi). Văn hóa lại hàm chứa một ý
nghĩa bao quát, rộng lớn hơn nhiều. Văn hóa có thể được nhìn nhận là trình
độ, năng lực bản chất người, là hoạt động sáng tạo và sản phẩm (giá trị) sáng
tạo, văn hóa vừa được tích lũy trong con người (năng lực sáng tạo, tri thức, tư
duy, khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa...) vừa được thể hiện ra thế giới
xung quanh con người (hoàn cảnh, MTVH) kết tinh thành hệ giá trị chuẩn
mực, khuôn mẫu ứng xử... quy định mọi lĩnh vực hoạt động, ứng xử, phương


13

thức hoạt động của con người. "Không thể có môi trường văn hóa nếu không
có hoạt động thực tiễn của chủ thể văn hóa" [17, tr. 41]. Trong mối quan hệ
đó văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng định hướng, chi phối bản
chất, trình độ phát triển của MTVH. Bởi lẽ "văn hóa không dừng lại ở các
hoạt động. Các hoạt động sẽ tạo ra các giá trị. Giá trị là hạt nhân tạo nên văn
hóa, là hòn đá thử vàng để phân biệt các hoạt động văn hóa với các hoạt động
phản văn hóa. Các giá trị này, đến lượt nó, lại hình thành nên khái niệm mà ta
gọi là môi trường văn hóa" [9, tr. 67]. Giá trị là hạt nhân tạo nên văn hóa và
MTVH. Nhưng MTVH không trực tiếp sáng tạo ra các giá trị mà nó chỉ tạo ra
các điều kiện, tiền đề cần thiết và thuận lợi để các giá trị luôn được sản sinh ra
trong đời sống xã hội, thúc đẩy văn hóa phát triển. Thông qua sự vận động và
phát triển của nền văn hóa hiện tồn, MTVH luôn được bồi đắp các giá trị mới,

các giá trị nhân văn, nhân bản hiện đại, đảm bảo sự phát triển tiếp nối các giá
trị truyền thống, tạo ra tính đa dạng, linh hoạt và rộng mở của MTVH.
Là sản phẩm của hoạt động tinh thần của xã hội, MTVH không thể
không phản ánh và chịu sự quy định của phương thức sản xuất vật chất. Điều
kiện sinh hoạt vật chất của các giai cấp khác nhau sẽ làm nảy sinh những tư
tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống, những phương thức sống, cung cách làm
ăn không giống nhau. Trong tiến trình lịch sử nhân loại, mỗi hình thái kinh tế xã hội khác nhau có mỗi kiểu MTVH tương ứng với nó. Mỗi kiểu MTVH
nhất định lại hình thành một kiểu mẫu nhân cách phù hợp. Khi xã hội phân
chia thành giai cấp, kiểu mẫu nhân cách đó bao giờ cũng được xây dựng theo
hình ảnh của giai cấp thống trị, phù hợp với lợi ích giai cấp thống trị trong xã
hội đó. Hệ tư tưởng, ý thức hệ luôn là hạt nhân cốt lõi của văn hóa và MTVH;
là cái cốt lõi để các giai cấp phát triển văn hóa, tạo lập MTVH theo lợi ích và
lý tưởng của mình. Tuy nhiên, yếu tố chi phối của giai cấp thống trị không
phải là yếu tố quyết định tất cả đến MTVH. Trong không ít trường hợp một số
yếu tố khác nổi lên hàng đầu lại là yếu tố dân tộc, tôn giáo, nhân dân lao
động... Chính bản sắc văn hóa dân tộc và truyền thống văn hóa dân tộc làm


14

cho MTVH có sức sống lâu bền và có vai trò to lớn trong việc xây dựng con
người, ổn định xã hội, tạo động lực vững chắc cho sự phát triển kinh tế - xã
hội trong mọi thời đại. Thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh định hướng
chính trị cho MTVH không chỉ đơn thuần dựa trên cơ sở đảm bảo hệ tư
tưởng, lợi ích của giai cấp thống trị mà còn phải dựa vào bản sắc dân tộc và
truyền thống văn hóa dân tộc mới có thể được phát huy vững chắc. Do đó,
xây dựng MTVH ở nước ta hiện nay phải gắn liền với nhiệm vụ tuyên truyền,
giáo dục sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nó trở
thành hạt nhân cốt lõi trong đời sống chính trị xã hội, đồng thời phải hết sức
chú trọng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

MTVH là một bộ phận quan trọng, một phương diện cốt lõi của văn hóa,
phản ánh chân xác bản chất, trình độ phát triển của nền văn hóa trong xã hội
đó, "MTVH là thành quả kết tinh văn hóa của một thời đại cụ thể" [17, tr. 67].
Tuy nhiên, nó không đơn thuần chỉ là sản phẩm của nền văn hóa trong xã hội
hiện tồn mà thể hiện sự phát triển tiếp nối của truyền thống dân tộc, của hệ
thống các giá trị, các chuẩn mực đạo đức, pháp quyền, các phương thức hoạt
động, khuôn mẫu ứng xử... đã được các thế hệ liên tục tạo dựng nên, được
định hình tương đối ổn định trong suốt tiến trình vận động phát triển của nền
văn hóa dân tộc. Sự thâm nhập của hệ thống các giá trị, các chuẩn mực đó vào
các thiết chế gia đình, nhà trường, xã hội; vào các lĩnh vực trọng yếu của đời
sống xã hội như: khoa học, giáo dục - đào tạo, đạo đức, thẩm mỹ... sẽ tạo ra
một MTNV tương ứng, góp phần nuôi dưỡng, hình thành một kiểu mẫu nhân
cách sáng tạo đáp ứng yêu cầu đặt ra của đời sống xã hội. MTVH được hình
thành ổn định sẽ bảo lưu và thúc đẩy điều kiện sống có văn hóa của con
người, góp phần hình thành thế ứng xử, những giá trị, biểu tượng văn hóa tương
đối ổn định, tạo điểm tựa cho sự phát triển của các thực thể văn hóa và văn hóa
nói chung. Có thể quan niệm MTVH dưới góc độ giá trị học là một tổng thể các
giá trị tinh thần "bao quanh" con người, khơi dậy năng lực sáng tạo và khát vọng
hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ của con người trong cuộc sống. MTVH


15

luôn hàm chứa trong mình tính sáng tạo và bản chất nhân văn, nhân ái, nghĩa
hiệp trong mọi hoạt động, hành vi ứng xử của con người. MTVH là một trong
những chỉ số nhân bản đánh giá sự phát triển người, phát triển xã hội trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định. Xây dựng MTVH thực chất chính là "nhân văn
hóa" các mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên và
con người với xã hội; tạo lập một môi trường sống lành mạnh, thuận lợi nhằm
phát triển toàn diện con người, qua đó tác động tới sự phát triển của xã hội, sự

phát triển của nền văn hóa.
Thứ hai, MTVH là một bộ phận quan trọng chứ không phải là toàn bộ
môi trường sống của con người. Con người không chỉ sống trong MTVH mà
còn sống trong MTTN và MTXH. Môi trường sống của con người là tổng hòa
3 môi trường cơ bản: MTTN, TMXH và MTVH. Trong đó: "Nếu môi trường
xã hội hình thành theo dòng lịch sử và những biến đổi của thời cuộc; môi
trường tự nhiên hình thành từ một không gian địa lý ảnh hưởng đến phương
thức sản xuất, tâm lý và tập tục một cộng đồng dân cư; thì môi trường văn hóa
hình thành theo bản chất một chế độ chính trị và định hướng của một nền văn
hóa, từ đó tạo thành mối quan hệ giữa các hình thức môi trường" [20, tr. 241].
Do đó, không thể quan niệm MTVH nằm ngoài tự nhiên, cũng như không thể
tách rời MTVH với MTXH. MTTN và MTXH chính là điều kiện cho sự hình
thành và phát triển của MTVH quy định đặc trưng, tính chất của MTVH cụ
thể. Một MTTN được chăm sóc, bảo vệ tốt thật sự trong sạch, lành mạnh đảm
bảo cho cuộc sống lâu dài của con người; một MTXH thực sự lành mạnh, dân
chủ, tiến bộ, văn minh, không có sự tồn tại phổ biến của các TNXH, trong đó
sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất
cả mọi người đều được coi là những thành tố cơ bản, cốt lõi cấu thành
MTVH. Sự khu biệt giữa MTVH với môi trường sống tự nhiên cũng như
MTXH được thể hiện tập trung ở sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội, tạo ra
những nhân tố chủ quan, khách quan có ảnh hưởng và tác động đến sự phát
triển những năng lực bản chất của con người. Sự ô nhiễm MTTN cũng như


16

MTXH xét cho cùng đều xuất phát từ những cách hành xử thiếu văn hóa, vị
kỷ của con người trong các mối quan hệ xã hội. Sự suy đồi về đạo đức, nhân
cách, lối sống, nòi giống của con người đều có căn nguyên sâu xa từ sự xuống
cấp và suy thoái của MTVH. Một hành vi xâm hại hay phóng uế nơi các di

tích lịch sử, tượng đài, danh lam thắng cảnh, các tệ nạn xã hội, sự suy đồi về
lối sống... không chỉ làm ô nhiễm, hủy hoại đơn thuần về mặt tự nhiên, sinh
học, mà còn biểu hiện sự vô minh, tha hóa, băng hoại về mặt tâm hồn. Tiêu
chí đánh giá MTVH không chỉ dừng ở các quá trình lý hóa, các biện pháp
quan trắc đo đếm, kiểm định bằng số lượng, mà nó phải là các chỉ số nhân
văn, trình độ phát triển người, chất lượng các mối quan hệ xã hội, chất lượng
cuộc sống của con người... Đến lượt mình, các chỉ số nhân bản này lại là tiêu
chí cơ bản để đánh giá trình độ phát triển của xã hội. Điều đó cho thấy không
phải bất cứ giá trị vật chất, tinh thần nào cũng tham gia vào MTVH. Chúng
chỉ thực sự thuộc về MTVH khi nằm trong mối quan hệ tương tác với con
người và cộng đồng người nhằm phát triển toàn diện con người, tạo động lực
vững chắc cho sự phát triển kinh tế, xã hội. MTVH ở đây được biểu hiện như
một sự đan xen phức hợp giữa MTTN và MTXH, chứ không đơn thuần là bộ
phận của MTXH. MTVH hàm chứa một bộ phận MTTN đã được "người
hóa", được "nhân văn hóa" tạo thành một "sinh thái nhân văn", một "cảnh
quan văn hóa" có tác động duy trì và phát triển bền vững cuộc sống con
người. Tương tự trong thực tế không thể đồng nhất hay lẫn lộn MTVH với
MTXH mặc dù chúng gắn bó khắn khít với nhau, tác động mạnh mẽ lẫn nhau
và có phần nào đó hòa tan vào nhau. "Môi trường xã hội nói chung, trong đó
bao gồm nhiều yếu tố văn hóa, hay môi trường văn hóa cũng đồng thời là môi
trường xã hội nếu hiểu văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội. Với cách hiểu
chung hiện nay thì xây dựng môi trường văn hóa là để tác động đến đời sống
xã hội, trong đó có ý thức bảo vệ môi trường sinh thái vì lợi ích con người...
Nghĩa là môi trường xã hội và môi trường văn hóa vừa thống nhất hữu cơ,
vừa khu biệt theo cơ chế tổ chức, chứ không phải môi trường văn hóa là bộ


17

phận của môi trường xã hội" [20, tr. 241-242]. MTVH định hướng cho quá

trình vận động và phát triển của MTXH theo những giá trị, chuẩn mực của
đời sống hiện đại phù hợp với bản chất của nền văn hóa và định hướng chính
trị của giai cấp cầm quyền. Một nền văn hóa tiến bộ, được định hướng bằng
một hệ tư tưởng tiên tiến sẽ tạo ra sự phát triển đồng thuận giữa các hình thái
môi trường. Sự khoan hòa giữa ba hình thái môi trường này tạo ra một trạng
thái lý tưởng cho sự phát triển của con người như một tổng hòa các quan hệ xã
hội. Sự phân định này rất có ý nghĩa không chỉ trong phương diện lý luận mà nó
còn góp phần quan trọng chỉ đạo hoạt động thực tiễn xây dựng MTVH ở nước
ta trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa và đồng bộ với nhiệm vụ xây dựng
MTTN và MTXH thực sự trong sạch, lành mạnh, giải quyết một cách thỏa
đáng mối quan hệ giữa con người - xã hội và tự nhiên. "Môi trường văn hóa
của chúng ta là môi trường mà ở đó con người giao tiếp với tự nhiên, phát
triển hài hòa với tự nhiên. Môi trường văn hóa của chúng ta là môi trường mà
ở đó con người với con người được sống bình đẳng trong tự do và hạnh phúc
và bộ giá trị chân - thiện - mỹ là hướng vận động cơ bản" [17, tr. 25]. Đồng
thời nó cũng chỉ rõ MTVH là một khái niệm có tính độc lập tương đối, có quy
luật vận động và phát triển của riêng mình, nó không phải chỉ là một "từ
ghép", một phép cộng đơn thuần và giản đơn giữa "môi trường" và "văn hóa".
Thứ ba, cần làm rõ mối quan hệ giữa "MTVH" và "Đời sống văn hóa"
(ĐSVH). Đây là hai khái niệm cơ bản có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ, trong
thực tiễn cuộc sống nhiều khi người ta thường đồng nhất chúng với nhau. Tuy
vậy trong nghiên cứu, người ta cũng thấy chúng có sự khác biệt tương đối.
Khi nói tới ĐSVH người ta thường nhấn mạnh đến một lĩnh vực đặc
thù của đời sống xã hội và quá trình sản xuất và tái sản xuất ra các giá trị văn
hóa, cũng như sự tổng hòa các hoạt động tinh thần của xã hội, như hoạt động
tư tưởng, khoa học, giáo dục, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng... Như vậy,
ĐSVH không chỉ bó hẹp trong những hoạt động thường nhật mang tính chủ
quan của con người mà bao trùm toàn bộ phương thức sinh hoạt văn hóa của



18

đời sống tinh thần xã hội. ĐSVH chỉ được thể hiện bằng sự hoạt động có định
hướng của con người gắn với một không gian và thời gian cụ thể. Vì vậy ĐSVH
được coi là sự phô diễn bộ mặt hoạt động của MTVH...
Còn khi đề cập đến MTVH, người ta lại thường nhấn mạnh đến yếu tố
tổng hòa các điều kiện vật chất, tinh thần, hoàn cảnh; tổng hòa các mối quan
hệ xã hội có ảnh hưởng và tác động đến sự phát triển và hoàn thiện nhân cách,
năng lực sáng tạo của con người. Trong quan hệ với ĐSVH, MTVH như một
"lát cắt ngang" biểu thị chất lượng của ĐSVH. Nói đến MTVH là nói đến
những mối quan hệ tốt đẹp làm nên văn hóa trong những không gian văn hóa
nhất định. Thực chất của nhiệm vụ xây dựng ĐSVH ở cơ sở chính là phải:
"Xây dựng lên được một môi trường văn hóa phong phú, sôi nổi, văn minh,
đầy tính nhân văn và thẩm mỹ, vừa tiên tiến vừa đậm đà bản sắc dân tộc, trên
mỗi cộng đồng cơ sở hay khu dân cư cố định lâu dài, ở nông thôn cũng như
thành thị, ở khu vực công nghiệp cũng như trong các lực lượng vũ trang, quân
đội" [25, tr. 100]. Xây dựng ĐSVH cho một cộng đồng nào đó chính là xây
dựng một MTVH để nó tác động, phát huy ảnh hưởng tới đời sống con người
và xã hội. Đến lượt mình, MTVH lại xác lập cho con người và cộng đồng
những biểu trưng giá trị, xác định nội dung tư tưởng, điều chỉnh những nhu
cầu và nguyện vọng, định hướng cho mọi hoạt động sáng tạo trong xã hội đó,
thúc đẩy ĐSVH phát triển.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII khi đề ra nhiệm vụ xây dựng
MTVH đã chỉ rõ: phải "tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, xã,
phường, khu tập thể...), các cùng dân cư (đô thị, nông thôn, miền núi...) đời
sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu văn hóa đa dạng và không
ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân" [3, tr. 447].
Qua một số luận giải ở trên, ta có thể quan niệm: "Môi trường văn hóa
không chỉ là tổng hòa các yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể bao quanh con
người, có quan hệ tương tác với con người, môi trường văn hóa còn là khái



19

niệm chỉ sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội trong hoàn cảnh xã hội nhất định
tạo ra một môi trường sống lành mạnh có ảnh hưởng và tác động đến sự phát
triển những năng lực bản chất của con người để hình thành nhân cách theo lý
tưởng xã hội tiên tiến phù hợp với sự vận động và phát triển của đời sống xã
hội, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa". Con người
luôn đóng vai trò chủ thể trong suốt quá trình phát sinh, hình thành và phát
triển của MTVH, vừa là yếu tố quan trọng, vừa là sản phẩm chủ yếu nhất của
MTVH. Do vậy, để tạo ra sự phát triển chân chính và đúng nghĩa của con
người luôn cần phải xây dựng và bảo vệ tốt MTVH.
1.1.2. Cấu trúc của môi trường văn hóa
MTVH có cấu trúc hết sức phức tạp, có thể tiếp cận ở nhiều góc độ,
nhiều phương diện khác nhau như: Phân chia thành những yếu tố vật thể và
phi vật thể; phân chia thành những yếu tố tự nhiên và những yếu tố xã hội;
phân chia thành những yếu tố đã có, đã hoàn thiện, được kế thừa, chọn lọc
mang tính bền vững và những yếu tố đang ở dạng tiềm năng, đang trong quá
trình phát sinh, hình thành, phát triển. Từ góc độ giá trị học MTVH được
quan niệm như một hệ thống giá trị, khuôn mẫu ứng xử, chuẩn mực đạo đức,
pháp lý, phong tục, tập quán... Từ phương diện quản lý, MTVH bao gồm tổng
thể các sản phẩm văn hóa, chương trình văn hóa, hành vi văn hóa, thiết chế,
phương tiện và cảnh quan văn hóa... Để phù hợp với định hướng nghiên cứu
của đề tài, cấu trúc của MTVH được xem xét từ hai khía cạnh chính: Phạm vi
không gian và các thành tố cơ bản cấu thành.
* Theo phạm vi không gian MTVH được phân chia thành các cấp độ
sau:
- Cấp độ vi mô (cơ sở): bao gồm MTVH gia đình, dòng tộc, nhóm xã
hội. Đây là môi trường mà ở đó diễn ra quá trình nhập thân văn hóa đầu tiên

của con người, nơi diễn ra sự chuyển tiếp quan trọng biến con người từ một
sinh vật trở thành một con người xã hội, một thực thể văn hóa. Con người khi


20

sinh ra nếu bị tách khỏi môi trường cơ bản này sẽ không bao giờ có thể trở
thành người, hoặc phát triển phiến diện, què quặt về mặt nhân cách và không
thể trở thành một nhân cách văn hóa. MTVH gia đình, dòng tộc không chỉ
đảm nhiệm chức năng duy trì nòi giống, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho các
công dân tương lai, chức năng kinh tế mà còn là môi trường cơ bản của xã hội
đảm nhận chức năng bảo tồn và trao truyền các giá trị văn hóa, là nơi hình
thành các giá trị nhân văn của xã hội, lưu truyền và phát triển các giá trị nhân
bản của con người. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH đã xác định: "gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi
dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình
thành nhân cách. Các chính sách của Nhà nước phải chú ý tới xây dựng cho
gia đình no ấm, hòa thuận, tiến bộ" [12, tr. 15]. Đại hội IX của Đảng tiếp tục
khẳng định: "Nêu cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi
dưỡng các thành viên của mình có lối sống văn hóa, làm cho gia đình thực sự
là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội" [13, tr. 116].
- Cấp độ trung mô: bao gồm MTVH làng xã, khối phố, trường học;
MTVH công sở, cơ quan, đơn vị công tác, sản xuất... Đây là môi trường hết
sức gần gũi, gắn bó với quá trình sinh hoạt, học tập, công tác, phấn đấu
trưởng thành của mỗi cá nhân và cộng đồng, để tiếp tục phát triển, hoàn thiện
những năng lực sáng tạo, kỹ năng nghề nghiệp, khả năng cống hiến, tính tích
cực chính trị của mỗi công dân, tạo nền tảng vững chắc cho sự ổn định và
phát triển xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ đã xác định:
"Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường xây dựng
phong cách lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao, nơi

thể hiện tình đồng chí, tình đồng đội, hình thành nhân cách con người mới và
nền văn hóa mới" [12, tr. 19]. Đây được coi là khâu trung gian giữa MTVH
gia đình và MTVH của toàn xã hội.


21

- Cấp độ vĩ mô: bao gồm MTVH vùng miền, MTVH quốc gia, MTVH
nhân loại - nơi những giá trị văn hóa, hoạt động văn hóa và giao tiếp văn hóa
của mỗi cá nhân và cộng đồng được mở rộng với những mối quan hệ rộng lớn
hơn. MTVH vĩ mô thể hiện sự thống nhất trong đa dạng các cấp độ MTVH
khác.
* Theo các thành tố cấu thành: văn hóa xét theo nội dung bao gồm các
nhân tố cơ bản cấu thành như khoa học, giáo dục- đào tạo, đạo đức, thẩm mỹ;
còn xét ở góc độ di tồn văn hóa - xã hội cái cốt lõi của nó là truyền thống. Do
đó xét từ các thành tố cấu thành, cấu trúc của MTVH bao gồm: Môi trường
khoa học; môi trường giáo dục - đào tạo; môi trường đạo đức; môi trường
thẩm mỹ; môi trường truyền thống (lễ hội, phong tục, tập quán, tín ngưỡng,
các sinh hoạt văn hóa khác).
- Môi trường khoa học; môi trường giáo dục - đào tạo: là tổng hòa các
mối quan hệ, các điều kiện dạy - học, nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu
khoa học, công nghệ... góp phần nâng cao trình độ học vấn, sự hiểu biết,
khám phá và sáng tạo của con người trong thực tiễn đời sống, nâng cao trình
độ làm chủ của con người đối với tự nhiên, xã hội và bản thân. Trình độ phát
triển của mỗi cá nhân, cộng đồng, dân tộc, quốc gia, nhân loại bao giờ cũng
phụ thuộc rất lớn vào MTVH đặc thù này. Tiếp tục tinh thần Nghị quyết
Trung ương 2 (khóa VII), Đại hội IX của Đảng khẳng định: "Phát triển khoa
học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu,
là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước"
[13, tr. 112].

- Môi trường đạo đức: là sự tổng hòa các mối quan hệ nhân tính, nhân
văn, các chuẩn mực xã hội... có chức năng điều chỉnh mọi hành vi hoạt động,
ứng xử, quan hệ lợi ích của con người theo chuẩn mực của cái thiện, tạo lập
các mối quan hệ xã hội ngày càng nhân văn, tạo ra một đời sống tinh thần
mang nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ. Môi trường đạo đức có ảnh hưởng,


22

tác động đến sự hình thành phẩm hạnh, lương tâm, tính thiện của con người.
Nền tảng nhân cách, phẩm hạnh của con người, cũng như nền tảng tinh thần
của xã hội có phát triển lành mạnh, ổn định vững chắc hay không phụ thuộc
rất lớn vào hình thái môi trường này.
- Môi trường truyền thống: là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội cổ
truyền trong xã hội đương thời, tạo thành những điều kiện khách quan và chủ
quan cho sự phát triển của hiện tại và tương lai. Đây là môi trường bảo lưu và
truyền thụ các giá trị văn hóa tinh hoa của dân tộc đến mọi thành viên trong
xã hội, góp phần giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, chống mọi hiện
tượng sùng ngoại, lai căng mất gốc, đảm bảo sự phát triển tiếp nối giữa quá
khứ, hiện tại và tương lai.
- Môi trường thẩm mỹ: là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, các hoạt
động sáng tạo văn học nghệ thuật, các hình thức truyền thụ văn hóa nhằm
phát triển những năng lực thẩm mỹ (thụ cảm cái đẹp, nhận thức, khám phá và
sáng tạo theo quy luật của cái đẹp...). Môi trường thẩm mỹ có vai trò quan
trọng trong việc giáo dục hình thành nhân cách theo định hướng giá trị xã hội
thông qua các hình tượng nghệ thuật, các thủ pháp nghệ thuật, các hình thức
nêu gương; bồi dưỡng, đào luyện các tài năng sáng tạo nghệ thuật nâng cao vị
thế nền văn hóa dân tộc.
Các thành tố cấu thành MTVH có mối quan hệ biện chứng, thống nhất
với nhau, rất khó tách bạch, tuy nhiên trong tính tương đối của nó từng yếu tố

vẫn có những chức năng riêng. Việc tiếp cận cấu trúc MTVH nêu trên giúp
chúng ta nhận thức đầy đủ tính đa dạng mà thống nhất của MTVH. Đồng thời
có thể xác lập được những chủ trương, đường lối, chương trình hoạt động xây
dựng MTVH sát thực với từng cấp độ môi trường, gắn với địa bàn sống, sinh
hoạt, sản xuất và công tác của mọi cá nhân; có thể phát huy đồng bộ các giải
pháp để xây dựng một tổng thể MTVH lành mạnh, tiến bộ, hiện đại và văn
minh đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay.


23

1.1.3. Đặc điểm của môi trường văn hóa
Trong mỗi thời kỳ lịch sử nhất định, MTVH luôn chịu sự chi phối bởi
hệ tư tưởng của giai cấp thống trị và định hướng của nền một nền văn hóa
tương ứng. Đối với mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi vùng miền, đơn vị cơ sở... phù
hợp với những đặc thù của mình (về điều kiện tự nhiên, phương thức sống,
điều kiện văn hóa, xã hội..), MTVH của nó đều mang những sắc thái riêng
biệt. Tuy nhiên sự khác biệt này chỉ là tương đối, MTVH dù ở thời đại nào, ở
cấp độ nào cũng mang những đặc điểm chung cơ bản như sau:
- Xu hướng phát triển chung của MTVH phản ánh mối quan hệ tiếp
nối biện chứng giữa truyền thống và hiện đại. MTVH luôn gắn bó với một
cộng đồng, một dân tộc nhất định, cộng đồng dân tộc trở thành bền vững khi
đã tạo dựng được một bề dày truyền thống trong lịch sử. Truyền thống đó là
các giá trị tinh hoa do lịch sử để lại, đã được chắt lọc qua thử thách của thời
gian, được kết tinh trong các phong tục, tập quán, lễ thức tốt đẹp của cộng
đồng. Nhưng truyền thống không phải là "nhất thành bất biến", nó không
ngừng vận động và được nâng cao theo yêu cầu phát triển của xã hội, được bổ
sung thêm những nhân tố mới trong quá trình giao lưu văn hóa để phù hợp
với sự phát triển của thời đại. Theo đó, MTVH không ngừng được bồi đắp các
giá trị, chuẩn mực mới nhân bản hiện đại nảy sinh cùng với những điều kiện

kinh tế, chính trị, xã hội mới, đồng thời bảo lưu các giá trị cốt lõi và chuyển
đổi các giá trị truyền thống không còn phù hợp. Đổi mới và chuyển đổi giá trị
là một yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển của MTVH. Song, dù chuyển đổi
giá trị đến đâu những giá trị văn hóa truyền thống vẫn có sức sống lâu bền với
thời gian, là nhân tố cốt lõi đảm bảo các giá trị, chuẩn mực mới được hình
thành mà vẫn không xa rời cội nguồn đã sản sinh ra truyền thống đó; đồng
thời nó cũng vượt qua khuôn khổ dân tộc, cộng đồng để trở thành khuynh
hướng chung, phổ biến của nhân loại. Với ý nghĩa đó, định hướng MTVH ở


24

nước ta hiện nay nhất thiết phải là sự kế thừa và phát triển tiếp nối những giá
trị tinh hoa truyền thống (truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết cộng
đồng, lòng tự hào dân tộc...) với những giá trị nhân bản hiện đại, tinh hoa văn
hóa nhân loại để phát triển đất nước. Kinh nghiệm Nhật Bản cho thấy, do tạo
lập được MTVH trong đó các giá trị truyền thống chẳng những không mâu
thuẫn với nhịp điệu của đời sống công nghiệp mà còn tạo nên sự hài hòa của
một xã hội văn minh; lấy tinh thần nhân bản để nuôi dưỡng ý thức tự hào dân
tộc và ý chí vươn lên, lấy sự tiến bộ của khoa học, công nghệ trong thời đại
mới để củng cố truyền thống dân tộc mà đã tạo ra một sự phát triển thần kỳ.
Như vậy, MTVH muốn phát triển bền vững phải tạo ra sự gắn bó chặt
chẽ giữa truyền thống với những cái mới nảy sinh trong hiện thực cuộc sống và
hiện đại hóa truyền thống. Tức là phải đảm bảo tính kế thừa trong sự vận động
và phát triển của MTVH. Đúng như đồng chí Đỗ Mười (nguyên Tổng bí thư
Đảng Cộng sản Việt Nam) đã nhấn mạnh: "Việc tạo ra môi trường văn hóa của
chủ nghĩa xã hội, trong đó là sự kết hợp hài hòa giữa các giá trị truyền thống và
giá trị hiện đại, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn là trách nhiệm to lớn
của toàn Đảng và toàn dân ta..." [22, tr. 21].
- MTVH luôn có sự đan xen giữa cái cũ và cái mới, cái bảo thủ, lạc

hậu và cái tiên tiến, văn minh, giữa giá trị và phản giá trị. MTVH là kết tinh
thành quả lao động sáng tạo của nhiều thế hệ, được phát triển tiếp nối qua
nhiều thời đại. Do đó, có những giá trị, chuẩn mực ngày hôm qua là tiến bộ, là
phù hợp, là văn minh thì đến ngày hôm nay trong những điều kiện mới nó
không còn phù hợp, trở thành lỗi thời, lạc hậu, thậm chí thành lực cản đối với
sự phát triển xã hội. Tuy là những phản giá trị nhưng do đã ăn sâu vào phong
tục, tập quán, hành vi lối sống, tâm lý con người nên nó vẫn có một sức sống
dai dẳng ngay trong lòng MTVH của thời đại mới. Không phải chốc lát mà
một thế hệ có thể thoát khỏi nó, có thể chối bỏ và tiêu diệt được cái mà vốn dĩ
đã trở thành máu thịt của mình. Hơn nữa, trong quá trình phát triển do thói


25

tham lam, ích kỷ, nhu cầu không lành mạnh, sự ngu tối và những hành động lệch
chuẩn... con người lại tạo ra không ít những phản giá trị mới. Hệ quả của quá
trình giao lưu văn hóa rộng mở là bên cạnh rất nhiều cái được, MTVH lại
tiêm nhiễm không ít những giá trị ngoại lai, độc hại xa rời với truyền thống,
đạo lý dân tộc từ ngoài tràn vào... MTVH mà chúng ta đã dày công xây dựng
trong suốt thời gian qua bên cạnh những giá trị tinh hoa truyền thống, những
giá trị nhân bản hiện đại, cũng còn tồn tại không ít tàn dư của quá khứ (thói
gia trưởng, cục bộ địa phương, coi thường phụ nữ, sống thu mình, ngại sáng
tạo...) và không ít phản giá trị sản phẩm của cuộc sống hiện đại (thói sùng
ngoại, lai căng, mất gốc, sống bất chấp luân thường, đạo lý, kỷ cương phép
nước...) cần phải xóa bỏ. Đây là đặc điểm chung của mọi nền văn hóa. Bởi lẽ
trên thực tế không hề có một nền văn hóa nào là tuyệt đối hoàn hảo, là thượng
đẳng đứng cao hơn hoặc thống trị các nền văn hóa khác. Do đó, trong bất kỳ
MTVH của dân tộc nào bên cạnh những đặc điểm, những giá trị độc đáo đóng
góp cho nền văn hóa chung của nhân loại cũng hàm chứa không ít những mặt
trái của nó.

- MTVH được tạo nên bởi sự kết hợp hai yếu tố: bên trong (nội sinh)
và bên ngoài (ngoại sinh). GS. Vũ Khiêu cho rằng: "Chỉ dựa vào nhân tố nội
sinh và đóng cửa không tiếp nhận gì từ bên ngoài, thì một con người dù lành
mạnh, một dân tộc dù có truyền thống lâu đời cũng sẽ dần dần suy yếu đi và
không còn sinh khí nữa. Ngược lại chỉ chú ý đến nhân tố ngoại sinh, không
chuẩn bị đầy đủ những điều kiện nội sinh thì nhân tố ngoại sinh dù hay đến
đâu cũng sẽ bị bật ra ngoài. Đó là điểm rất quan trọng trong quan hệ bên trong
và bên ngoài" [19, tr. 175-176]. Quan hệ biện chứng giữa các yếu tố nội sinh
và ngoại sinh trong phát triển là quy luật vận động của mọi nền văn hóa. Từ
xưa đến nay chưa hề tồn tại một nền văn hóa tuyệt đối cổ xưa và thuần khiết,
không có sự giao lưu với các nền văn hóa khác. Giao lưu văn hóa là sự tác
động lẫn nhau giữa cái nội sinh và cái ngoại sinh. Sự hình thành và phát triển
của MTVH cũng không nằm ngoài nguyên tắc này. Một MTVH trong sạch,


×