Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ý THỨC PHÁP LUẬT với VIỆC xây DỰNG nền dân CHỦ xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.72 KB, 108 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm
tới việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN), thực hiện dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội Đảng lần thứ VIII
chỉ rõ:
Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm
thực hiện tốt dân chủ XHCN, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của
nhân dân. Bài học lớn là dân chủ nhất thiết phải đi đôi với kỷ luật,
kỷ cương. Khắc phục những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của
nhân dân, đồng thời chống khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá
khích, dứt khoát bác bỏ mọi mưu toan lợi dụng "dân chủ", "nhân
quyền" nhằm gây rối về chính trị, chống phá chế độ, hoặc can thiệp
vào nội bộ nước ta [16, tr. 71-72].
Mục tiêu trên đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Song thực tế những năm qua chúng ta thấy rằng:
Quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và phát
huy đầy đủ trong xã hội. Không ít hiện tượng mất dân chủ, dân chủ
hình thức, có nơi rất nghiêm trọng. Bệnh quan liêu, tư tưởng phong
kiến, gia trưởng còn nặng. Đồng thời cũng xuất hiện khuynh hướng
dân chủ cực đoan, dân chủ không đi liền với thực hiện kỷ luật và
pháp luật. Cơ chế và pháp luật bảo đảm thực hiện dân chủ chưa
được cụ thể hoá đầy đủ [15, tr . 41-42].
Ở nước ta trong suốt thời gian dài, không ít hiện tượng mất dân chủ,
dân chủ hình thức... Tình trạng này có nguyên nhân từ ý thức pháp luật thấp
kém, pháp luật chưa thực sự đi vào cuộc sống, chưa trở thành cái không thể


2



thiếu khi điều chỉnh các quan hệ xã hội. Ý thức pháp luật của người dân còn
nhiều hạn chế và bản thân hệ thống pháp luật chưa theo kịp sự phát triển của
xã hội, mặt bằng dân trí thấp trình độ văn hóa pháp lý còn thấp kém.
Từ thực tế đó, Đảng ta đã nhận định rằng: Điều quan trọng để phát
huy dân chủ là xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp
luật XHCN, nâng cao trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ
pháp luật của nhân dân, thường xuyên giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức
sống và làm việc theo pháp luật trong nhân dân.
Một trong những yếu tố quan trọng để có dân chủ XHCN là phải xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Một nhà nước
như vậy, trách nhiệm không chỉ ở phía Nhà nước, mà cả phía nhân dân, trong
đó ý thức pháp luật có vai trò quan trọng hàng đầu.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, quá trình xây dựng nền dân chủ
XHCN đòi hỏi Nhà nước phải tạo ra một khuôn khổ pháp lý phù hợp. Để đáp
ứng được yêu cầu này trước tiên phải thấy rõ ý thức pháp luật có vai trò to
lớn, là một trong những nhân tố bảo đảm cho công cuộc đổi mới thắng lợi, là
tiền đề không thể thiếu để đẩy mạnh việc xây dựng pháp luật và thực thi pháp
luật, đồng thời tìm cách nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ công chức và
nhân dân lao động. Từ những suy nghĩa trên, đã thúc đẩy người viết chọn vấn
đề " Ý thức pháp luật với việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay" làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những nội dung liên quan đến lĩnh vực ý thức pháp luật, thời gian qua
đã có một số người quan tâm nghiên cứu. Trong những năm gần đây ở những
góc độ khác nhau, các tác giả đã cho ra mắt bạn đọc các công trình nghiên
cứu của mình, dưới các hình thức như đề tài khoa học, luận án tiến sĩ, luận


3


văn thạc sĩ, sách, các bài viết trên các tạp chí, các báo... Chẳng hạn, một số
công trình sau đây:
1. Đề tài cấp bộ, cấp Nhà nước:
- Cơ sở khoa học cho việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật,
chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX-07, đề tài KX-07-17
(1995), Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật thuộc Trung tâm KHXH và
Nhân văn quốc gia
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công
cuộc đổi mới, Đề tài khoa học cấp bộ năm 1995 của Bộ Tư pháp.
2. Luận án tiến sĩ:
- Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ hành chính Nhà nước
ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, tác giả Lê Đình Khiên, năm
1996.
- Những đặc điểm của quá trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt
Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, tác giả Đào Duy Tấn, năm 2000.
- Sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật của nhân dân đồng
bằng sông Cửu Long trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay, Luận án
tiến sĩ luật học, tác giả Hồ Việt Hiệp, năm 2000.
- Lôgíc khách quan của quá trình hình thành và phát triển ý thức pháp luật
ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, tác giả Nguyễn Thị Thúy Vân, năm 2001.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa với việc xây dựng nền dân chủ ở Việt
Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, tác giả Đỗ Trung Hiếu, năm 2002.
3. Sách, báo, tạp chí:
- Xã hội và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
- Văn hoá pháp lý quá trình dân chủ hoá, Tạp chí Nghiên cứu lý luận,
số 4/1991, của tác giả Trần Ngọc Đường.


4


- Chính sách pháp luật và ý thức pháp luật Việt Nam, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 4/1993, của tác giả Nguyễn Như Phát.
- Một số khía cạnh của khái niệm dân chủ, Tạp chí Thông tin khoa
học xã hội, số 3/2002, của tác giả Đỗ Trung Hiếu.
- Vấn đề dân chủ và các đặc trưng của mô hình tổng thể Nhà nước
pháp quyền XHCN ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2003,
của tác giả Hoàng Văn Hảo.
Nhìn chung, mỗi công trình trên thường đi sâu nghiên cứu một mặt hoặc
một vấn đề cụ thể nào đó của dân chủ, của ý thức pháp luật như: khái niệm, cấu
trúc, chức năng v.v... của ý thức pháp luật, hoặc những đặc điểm của quá trình
hình thành ý thức pháp luật Việt Nam, những giải pháp nâng cao ý thức pháp
luật...
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nền dân chủ XHCN, các
văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX luôn nhấn mạnh
phải tăng cường pháp chế XHCN, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân,
thực hiện mục tiêu "sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật". Cho đến nay
một số công trình nghiên cứu đã cung cấp cho khoa học nhiều tư liệu quý về ý
thức pháp luật, song vẫn còn vấn để bỏ ngỏ đó là ý thức pháp luật trong việc
xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ triết học.
3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Ý thức pháp luật có thể phân tích dưới nhiều góc độ khác nhau như:
Luật học, Triết học... Trong luận văn này được xem từ góc nhìn triết học, vì
thế toàn bộ nội dung của luận văn đều nhằm làm rõ ý thức pháp luật, vai trò
của ý thức pháp luật, những vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm nâng cao ý thức
pháp luật ở Việt Nam trong lĩnh vực xây dựng nền dân chủ XHCN hiện nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
a) Mục đích



5

Trên cơ sở làm rõ vai trò của ý thức pháp luật, thực trạng của nó trong
quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật trong điều kiện nước ta hiện nay:
b) Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung thực hiện những
nhiệm vụ sau:
- Làm rõ vai trò của ý thức pháp luật trong việc xây dựng nền dân chủ
nói chung và xây dựng nền dân chủ XHCN nói riêng.
- Làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến ý thức pháp luật và chỉ ra những
mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao ý thức pháp luật đáp
ứng yêu cầu xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong các phần có liên quan đến đề tài.
- Trên cơ sở phương pháp luận triết học mác-xít, luận văn sử dụng các
phương pháp phân tích - tổng hợp, lôgíc - lịch sử, hệ thống - cấu trúc, điều tra khảo sát, thống kê - so sánh… trong nghiên cứu và trình bày.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm rõ vai trò của ý thức pháp luật trong quá trình xây
dựng nền dân chủ nói chung và nền dân chủ XHCN nói riêng.
- Chỉ ra những mâu thuẫn đã và đang nảy sinh trong quá trình xây
dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ
và nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa thực tiễn và khả năng ứng dụng của đề tài


6


- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm tài liệu tham khảo cho
các người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập về triết học, về pháp
luật ở nước ta hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.


7

Chương 1
VAI TRÒ CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT
TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1.1. Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG SỰ PHÁT
TRIỂN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

1.1.1. Ý thức pháp luật - quan niệm và kết cấu
1.1.1.1. Quan niệm ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội trong xã hội có
giai cấp, nó là một trong những vấn đề cơ bản, đa dạng, phức tạp của đời sống
pháp luật. Đời sống pháp luật đó là nhu cầu cần phải điều chỉnh những hành
vi có tính lặp đi, lặp lại thường xuyên, phổ biến của con người trong đời sống
xã hội nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp nắm quyền lực và duy trì sự ổn định
của cộng đồng. Nhu cầu cần điều chỉnh đó được con người phản ảnh một cách
tích cực và sáng tạo hình thành ý thức pháp luật.
Đời sống pháp luật trước hết là nhu cầu điều chỉnh hành vi xử sự của
con người bằng các quy tắc, nhằm tạo lập một trật tự xã hội nhất định. Nhu

cầu này trong xã hội có giai cấp được các giai cấp thống trị nhận thức và hình
thành ý thức pháp luật của giai cấp mình.
Do đó đời sống pháp luật là một hiện thực khách quan, một bộ phận
của tồn tại xã hội, còn ý thức pháp luật là cái phản ảnh đời sống pháp luật đó.
Ý thức pháp luật hiểu theo nghĩa hẹp, theo nghĩa thông thường là ý
thức chấp hành những quy định pháp luật của con người. Vì thế khi đánh giá
ý thức pháp luật của một tập thể, cá nhân nào đó người ta thường so sánh giữa
hành vi chấp hành của những đối tượng đó với yêu cầu của những quy định


8

trong văn bản pháp luật để đánh giá ý thức pháp luật cao hay thấp, tốt hay
kém của họ. Quan niệm này đồng nhất ý thức pháp luật với một hình thức
biểu hiện cụ thể của nó, như vậy sẽ quá hẹp, thiếu toàn diện, chưa thể hiện rõ
được bản chất, vai trò năng động, sáng tạo của ý thức pháp luật.
Trong lý luận khoa học, ý thức pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng.
Tuy nhiên do mục đích và phương diện nghiên cứu khác nhau mà cho đến nay
cũng xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau về ý thức pháp luật.
Quan niệm thứ nhất cho rằng: "Ý thức pháp luật là một hình thái ý
thức xã hội, biểu thị mối quan hệ của con người đối với pháp luật" [9, tr. 147].
Đây là quan niệm mang tính khái quát cao, nhưng lại quá chung chưa phản
ánh kết cấu nội dung của ý thức pháp luật.
Quan niệm thứ hai: Thường nhấn mạnh mặt này hay mặt khác của ý
thức pháp luật. Có quan niệm tập trung nhấn mạnh cơ cấu của ý thức pháp
luật như "ý thức pháp luật là tổng hợp những tư tưởng, quan điểm pháp luật
và tâm lý pháp luật. Hay nói cụ thể hơn, là tổng hợp những nhận thức, những
hiểu biết quan điểm pháp lý, những tình cảm pháp luật, cùng với sự tôn trọng
và thói quen chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật" [63, tr. 235]. Xét về mặt bản
chất giai cấp, có quan niệm cho rằng: "Ý thức pháp luật XHCN là tổng hòa

những quan điểm quan niệm, tình cảm về mặt pháp luật thể hiện thái độ của
giai cấp công nhân và của nhân dân lao động do giai cấp công nhân lãnh đạo,
đối với pháp luật, đối với những yêu cầu khác của pháp luật, đối với các
quyền và nghĩa vụ của công dân" [79, tr. 196]. Một số ý kiến khác lại thu hẹp
cơ cấu của ý thức pháp luật, chỉ nhấn mạnh mặt tri thức pháp luật như:
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng,
quan điểm và quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan
hệ thông qua sự hiểu biết của con người đối với pháp luật hiện
hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự đánh


9

giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của
con người cũng như trong hoạt động của các cơ quan nhà nước và
tổ chức xã hội [10, tr. 229].
Có quan niệm chỉ tập trung nhấn mạnh ý thức của chủ thể pháp luật:
"ý thức pháp luật là trình độ hiểu biết của các tầng lớp nhân dân về pháp
luật... ý thức pháp luật còn là thái độ đối với pháp luật, ý thức tôn trọng hay
coi thường pháp luật, đó là thái độ đối với hành vi vi phạm pháp luật và phạm
tội" [65, tr. 609].
Quan niệm thứ ba: Đề cập tới ý thức pháp luật một cách đầy đủ, toàn
diện hơn. Nó không những chỉ ra được tính chất, cơ cấu và nội dung của ý
thức pháp luật mà còn đề cập đến cả nguồn gốc, mối liên hệ phổ biến, tất yếu
của ý thức pháp luật đối với đời sống xã hội. Theo quan niệm này:
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, là tổng thể
những quan điểm, khái niệm, học thuyết pháp lý, tình cảm của con
người (cá nhân, giai cấp, tầng lớp) thể hiện thái độ của họ đối với
pháp luật hiện hành, trật tự pháp luật, sự đánh giá về tính công bằng
hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật

hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật trong tương lai, và hành vi
hợp pháp, hành vi không hợp pháp của cá nhân, các cơ quan nhà
nước, tổ chức [46, tr. 290].
Trên cơ sở nghiên cứu các ý kiến nêu trên, cùng với mục đích và
nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn, chúng tôi quan niệm:
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, mang tính giai cấp
sâu sắc phản ánh một cách tích cực, sáng tạo và trực tiếp đời sống pháp luật,
hình thành những khái niệm, quan điểm, tư tưởng, tình cảm của con người
(cá nhân, giai cấp, tầng lớp) đối với pháp luật, thể hiện sự hiểu biết, thái độ
của họ đối với pháp luật hiện hành, pháp luật trong quá khứ và pháp luật


10

trong tương lai, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật, tính hợp pháp
hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của cá nhân, các cơ quan nhà nước,
tổ chức chính trị xã hội.
Quan niệm trên đã chỉ rõ nguồn gốc trực tiếp của ý thức pháp luật là
đời sống pháp luật, đồng thời cũng nêu lên tính chất, cơ cấu và nội dung... của
ý thức pháp luật, qua đó thấy được vai trò to lớn của ý thức pháp luật trong
đời sống xã hội, để có thái độ xử sự đúng đắn như nó đang tồn tại.
Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật tuân thủ quy luật
chung của sự hình thành ý thức xã hội phản ánh đời sống pháp luật, mà trước
hết là nhu cầu pháp lý đặt ra của đời sống xã hội, thông qua chuẩn mực pháp
luật để điều chỉnh hành vi con người, nhằm thiết lập trật tự kỷ cương xã hội
theo ý chí của giai cấp cầm quyền.
Ý thức pháp luật có mối quan hệ tác động qua lại với các hình thái ý
thức xã hội khác, nhất là đối với ý thức chính trị, và ý thức đạo đức.
Ý thức chính trị phản ánh mối quan hệ giữa các tập đoàn người trong
xã hội đối với quyền lực nhà nước. Còn ý thức pháp luật phản ánh mối quan

hệ của còn người đối với các quy tắc được chấp nhận trong xã hội nhất định.
Ý thức pháp luật chịu sự tác động trực tiếp của ý thức chính trị bởi vì bản chất
pháp luật là ý chí của giai cấp cầm quyền được thể hiện thành "luật lệ" mà
mỗi chế độ xã hội có giai cấp, chỉ có một hệ thống pháp luật duy nhất thể hiện
ý chí của giai cấp cầm quyền.
Ý thức đạo đức phản ánh mối quan hệ giữa các cá nhân và những
quan điểm theo đó con người đánh giá chính "cái tôi" của mình, nghĩa vụ
công bằng mang tính nội tâm và tự nguyện. Còn ý thức pháp luật nghĩa vụ và
công bằng dân chủ được Nhà nước quy định, do đó mang tính cưỡng chế.
Nếu ý thức chính trị có tác động chi phối ý thức pháp luật nhất là hệ tư
tưởng chính trị thì ngược lại ý thức pháp luật là sự phản ánh những yêu cầu


11

chính trị dưới góc độ pháp luật. Bên cạnh đó, ý thức pháp luật và ý thức đạo
đức đều cùng hướng vào việc điều chỉnh hành vi con người, nên chúng chịu
ảnh hưởng và hỗ trợ nhau rất lớn. Như vậy ý thức pháp luật, ý thức chính trị
và ý thức đạo đức có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau, mặc dù
khác nhau nhưng chúng cùng phản ánh và chịu sự quy định của tồn tại xã hội,
nhất là sự quy định của chế độ kinh tế.
1.1.1.2. Kết cấu của ý thức pháp luật
Quá trình phân tích, làm rõ được kết cấu của ý thức pháp luật là tiền
đề quan trọng giúp chúng ta tìm ra những phương thức phù hợp tác động để
nâng cao ý thức pháp luật.
Kết cấu của ý thức pháp luật là cách thức tổ chức bên trong của ý thức
pháp luật, trong đó, giữa các nhân tố cấu thành của ý thức pháp luật vừa thống
nhất với nhau vừa tác động ảnh hưởng lẫn nhau và với các hiện tượng khác
trong đời sống xã hội.
Ý thức pháp luật là hiện tượng xã hội phức tạp, theo các lát cắt khác

nhau, có thể chia ý thức pháp luật thành những yếu tố cấu thành khác nhau.
Mỗi cách phân chia đều có ý nghĩa nhất định trong việc tìm hiểu bản chất, đặc
điểm và vai trò của ý thức pháp luật. Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ của
luận văn chúng tôi theo cách tiếp cận kết cấu ý thức pháp luật gồm hai bộ
phận: Hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.
Một là: Hệ tư tưởng pháp luật.
Hệ tư tưởng pháp luật là tổng hợp các quan điểm, ý niệm, tư tưởng, của
con người về đời sống pháp luật hợp thành hệ thống thống nhất, phản ánh một
cách sâu sắc đời sống pháp luật trên lập trường của một giai cấp nhất định.
Hệ tư tưởng pháp luật phản ánh hiện thực một cách không trực tiếp,
trực diện mà phản ánh một cách gián tiếp dưới dạng các khái niệm, phạm trù,
quan điểm, tư tưởng… Hệ tư tưởng pháp luật là sự nhận thức ở trình độ lý


12

luận, có tính hệ thống về các vấn đề có tính bản chất của pháp luật và các hiện
tượng pháp luật.
Nội dung của hệ tư tưởng pháp luật chủ yếu là những tri thức về vai
trò, chức năng, bản chất giai cấp của pháp luật, về mối quan hệ giữa pháp luật
với dân chủ, bình đẳng, công bằng tự do của con người, mối quan hệ giữa
quyền và nghĩa vụ pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
về sáng tạo pháp luật và thực hiện pháp luật.
Hệ tư tưởng pháp luật chính thống của một quốc gia bao giờ cũng là
hệ tư tưởng của giai cấp thống trị (trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp
thống trị là giai cấp tư sản, trong xã hội XHCN giai cấp thống trị là giai cấp
công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Khi
giai cấp thống trị là lực lượng tiến bộ của xã hội, có lợi ích phù hợp với lợi
ích căn bản của đông đảo các lực lượng khác trong xã hội thì tính khoa học,
tính dân chủ và tính xã hội của hệ tư tưởng pháp luật sẽ thể hiện nổi bật, rõ

nét. Ngược lại, nó sẽ trở thành hệ tư tưởng pháp luật lạc hậu, thậm chí phản
động. Song, dù có tiến bộ hay lạc hậu thì trong quá trình tồn tại và phát triển,
các hệ tư tưởng này luôn có ý thức chuyển hóa mạnh mẽ thành ý thức pháp
luật của toàn xã hội.
Ở nước ta hiện nay tư tưởng pháp luật của chủ nghĩa Mác - Lênin và
Hồ Chí Minh được cụ thể hóa trong đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước ta. Một trong những đặc điểm cơ bản nhất của sự hình thành ý thức pháp
luật ở Việt Nam là quá trình tự giác dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đây chính là nhân tố quyết định của bản chất giai cấp công nhân và tính nhân
dân của ý thức pháp luật. Muốn nâng cao được ý thức pháp luật chúng ta cần
dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò, bản chất của pháp luật
làm cho các quan điểm đó trở thành hệ tư tưởng pháp luật chi phối đời sống


13

pháp luật toàn xã hội ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó Nhà nước phải kịp
thời thể chế hóa đường lối chính trị của Đảng thành pháp luật để đưa đường
lối của Đảng đến toàn xã hội.
Để đảm bảo phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực,
trước hết pháp luật phải thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đồng thời
là công cụ hữu hiệu đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo cho nhân
dân thực sự tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật, giám sát các cơ quan
nhà nước trong việc thực thi pháp luật. Thực tiễn cách mạng Việt Nam chỉ ra
rằng những tư tưởng trên có vai trò hết sức to lớn trong công tác xây dựng
pháp luật, xây dựng nền pháp quyền XHCN cũng như công tác phổ biến giáo
dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật XHCN.
Hai là: Tâm lý pháp luật.

Tâm lý pháp luật được hình thành một cách tự phát dưới tâm trạng,
cảm xúc, thái độ, tình cảm đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác.
Nó là nấc thang đầu tiên của nhận thức con người về vấn đề liên quan đến pháp
luật, là kết quả của nhận thức trực tiếp, mang nhiều yếu tố chủ quan, cảm tính.
Tâm lý pháp luật là trình độ nhận thức trực giác cảm tính dưới sự tác
động mạnh mẽ của các yếu tố nhu cầu, lợi ích của cá nhân, nhóm người, hay
cộng đồng xã hội nó mang nhiều tính chất chủ quan, tự phát. Trong hoạt động
giao tiếp hàng ngày thường xuất hiện những trạng thái tâm lý pháp luật trong
con người bao gồm: Tình cảm, tâm trạng, truyền thống, thói quen, niềm tin,
thành kiến... Tâm lý pháp luật tồn tại phổ biến trong mọi cá nhân, nó là yếu tố
ảnh hưởng lớn đến sự hình thành ý thức pháp luật nước ta hiện nay.
Trình độ nhận thức cảm tính trong tâm lý pháp luật thể hiện ở thái độ
của nhân dân đối với pháp luật hiện hành và việc chấp hành các quy định của
pháp luật. Thái độ này có thể biểu hiện khi chưa có hiểu biết pháp luật và có
thể khi đã có kiến thức pháp luật thông thường nhưng về thái độ lại xem thường


14

pháp luật. Chính vì thế, quá trình hình thành ý thức pháp luật, trước tiên cần
cho mọi người hiểu biết pháp luật và xây dựng thái độ tôn trọng pháp luật.
Trình độ hiểu biết pháp luật, văn hóa pháp lý luôn là cơ sở cho sự nhận thức
để hình thành ý thức pháp luật và củng cố thái độ, niềm tin đối với pháp luật.
Trong những trạng thái của tâm lý pháp luật thì tình cảm pháp luật,
pháp luật là yếu tố năng động. Nếu chủ thể nhận thức được giá trị của pháp
luật và cơ chế điều chỉnh của pháp luật phù hợp với nguyện vọng, lợi ích nhu
cầu của mình thì nảy sinh tình cảm pháp luật tích cực. Ngược lại, sẽ xuất hiện
tình cảm tiêu cực. Tình cảm pháp luật này ảnh hưởng rất lớn tới thái độ tích
cực hoặc tiêu cực của con người đối với pháp luật.
Truyền thống, thói quen, niềm tin pháp luật là nhân tố tương đối ổn

định trong tâm lý pháp luật. Nó được hình thành trong một thời gian dài và
trải qua thử thách, giúp cho con người hoạt động một cách tự tin và kiên định.
Vì vậy nó là yếu tố quan trọng trong việc hình thành ý thức pháp luật.
Trong mọi lĩnh vực cũng phải cân nhắc cẩn thận việc tiếp thu, kế thừa
truyền thống thói quen, bởi vì truyền thống thói quen có cả mặt tích cực và
mặt tiêu cực. Chẳng hạn, do điều kiện lịch sử, đất nước ta nhìn chung chưa có
thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, do vậy trong quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền chúng ta phải khắc phục hạn chế này.
Là một bộ phận của ý thức xã hội, luôn gắn liền với truyền thống tập
quán, thói quen của con người, tâm lý pháp luật, ít biến đổi, biến đổi chậm
chạp, do đó nó bền vững, bảo thủ hơn so với tư tưởng pháp luật. Cho nên
muốn xóa bỏ ý thức pháp luật lạc hậu, xây dựng ý thức pháp luật XHCN thì
cần phải có quá trình lâu dài, phức tạp.
Tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật có mối quan hệ biện chứng
với nhau. Tâm lý pháp luật ra đời một cách tự phát, nhưng chịu sự chi phối
của hệ tư tưởng pháp luật. Ngược lại, sự phát triển của hệ tư tưởng pháp luật


15

cũng chịu ảnh hưởng của tâm lý pháp luật. Tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng
pháp luật là hai trình độ phản ánh đời sống pháp luật, nhưng có mối quan hệ
tác động lẫn nhau trong sự hình thành ý thức pháp luật.
1.1.2. Vai trò của ý thức pháp luật trong sự phát triển đời sống xã hội
Là một bộ phận của hình thái ý thức xã hội, ra đời và bị quy định bởi
tồn tại xã hội, ý thức pháp luật có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển
của đời sống xã hội nói chung, đời sống pháp luật nói riêng.
Xã hội là một thực thể vật chất và tinh thần. Tổng thể những quan niệm,
tư tưởng, lý luận, tình cảm, phong tục, truyền thống những cái hợp thành ý
thức xã hội tạo thành thực tại tinh thần của xã hội, là bộ phận hợp thành đời

sống xã hội. Muốn đời sống xã hội phát triển bền vững, trước hết phải có trật
tự, kỷ cương xã hội ổn định, trong đó ý thức pháp luật thể hiện qua hệ thống
pháp luật là nhân tố quan trọng trong việc duy trì trật tự xã hội, quản lý xã hội
ổn định để phát triển. Trong quá trình phát triển đời sống xã hội thì kinh tế
luôn giữ vai trò quyết định. Đời sống kinh tế phát triển sẽ kéo theo sự phát
triển của đời sống xã hội nói chung. Quá trình phản ánh đời sống kinh tế, ý
thức pháp luật phản ánh qua hệ thống các văn bản pháp luật, tình trạng pháp
chế, văn hóa pháp lý, hoạt động tổ chức thi hành pháp luật… có thể góp phần
khuyến khích phát triển những yếu tố tích cực và hạn chế đến mức tối đa các
yếu tố tiêu cực trong sự vận hành của cơ chế kinh tế. Nước ta đang thực hiện
kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước, do vậy muốn có sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường thì cần
phải có các đạo luật phù hợp. Chẳng hạn như Luật chống độc quyền, Luật bảo
vệ người tiêu dùng, Luật doanh nghiệp, Luật cạnh tranh, Luật phá sản… Để
có được các đạo luật phù hợp này thì hệ tư tưởng pháp luật đóng một vai trò
quan trọng.


16

Ý thức pháp luật XHCN cũng như toàn bộ hệ tư tưởng của giai cấp
vô sản nói chung là tiền đề tư tưởng trực tiếp để giai cấp công nhân và nhân
dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, thiết lập một trật tự xã hội
mới bằng cách xây dựng một hệ thống pháp luật phù hợp với những điều kiện
của chủ nghĩa xã hội, củng cố nền pháp chế XHCN, phát huy hiệu lực của Nhà
nước và pháp luật trong việc quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội [45, tr.
222]
Trong xã hội XHCN, hệ tư tưởng pháp luật được thể hiện ở quan điểm
chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Quá trình xây dựng
luật, đường lối chính sách của Đảng được thể chế hóa trong các văn bản luật.

Hiện nay pháp luật ở nước ta còn nhiều bất cập, nhiều lĩnh vực còn thiếu luật
hay luật đã ban hành nhưng không còn phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Chẳng
hạn, trong lĩnh vực thương mại, Luật thương mại còn thiếu rất nhiều, luật của
chúng ta chưa đáp ứng kịp với nhu cầu phát triển kinh tế trong điều kiện hội
nhập quốc tế. Mặc dù đã được bổ sung sửa đổi, song luật lại có hiện tượng
chắp vá, không thống nhất, do vậy khắc phục những bất hợp lý trên thì hệ tư
tưởng pháp luật phải đóng một vai trò quyết định trong sự điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Đảng ta rất quan tâm tới việc hoàn thiện hệ thống pháp luật,
Đảng ta chỉ đạo rằng: "Ban hành một số luật mới và sửa đổi, bổ sung một số
luật và pháp lệnh hiện hành để tiếp tục thể chế hóa cương lĩnh, chiến lược và
các chủ trương, chính sách của Đảng, hình thành khuôn khổ pháp lý đồng bộ,
cần thiết cho các hoạt động kinh tế" [16, tr. 100-101].
Như vậy muốn kinh tế phát triển, thúc đẩy đời sống xã hội đi lên thì
pháp luật phải là nhân tố quan trọng trong quá trình ổn định, điều chỉnh mọi
quan hệ xã hội. Điều đó chỉ được thực hiện khi có sự tác động tích cực của hệ
tư tưởng pháp luật, bởi vì nó giữ vai trò định hướng cho kinh tế và đời sống xã
hội.


17

Trên thực tế, có luật phù hợp cũng chưa hẳn là đời sống xã hội luôn
được ổn định phát triển, điều đó còn phụ thuộc vào tâm lý pháp luật. Trong
cùng một chế độ xã hội với cùng một hệ thống pháp luật nhưng vẫn có hiện
tượng coi thường pháp luật, bất chấp pháp luật, nên đã ảnh hưởng tới sự phát
triển chung của đời sống xã hội. Do trình độ nhận thức có hạn và thói quen
sống theo phong tục tập quán đã làm cho một số người ít quan tâm tới pháp
luật, họ có thái độ thờ ơ xem thường pháp luật. Hơn nữa một số đối tượng rất
am hiểu pháp luật nhưng luôn tìm mọi kẽ hở để lách luật, vi phạm pháp luật
nghiêm trọng, hành vi đó đã cản trở không nhỏ tới sự vận hành chung của nền

kinh tế. Chỉ khi cán bộ và nhân dân có thái độ tôn trọng pháp luật, sống và
làm việc theo pháp luật thì đời sống xã hội sẽ phát triển thuận lợi, ngược lại
một số đối tượng có tâm lý không cần pháp luật, coi thường, bất chấp pháp
luật thì hiển nhiên quá trình phát triển đời sống xã hội nói chung, kinh tế nói
riêng sẽ ảnh hưởng rất lớn, bởi vì các hành vi vi phạm pháp luật của họ sẽ góp
phần gây rối trật tự kỷ cương xã hội.
Như vậy, ý thức pháp luật có vai trò rất quan trọng đối với sự phát
triển của xã hội, đời sống xã hội, đặc biệt là đời sống kinh tế. Ý thức pháp luật
phát triển, hệ thống pháp luật hoàn chỉnh sẽ góp phần thúc đẩy các quan hệ
kinh tế ra đời và phát triển. Song, sự ra đời và phát triển của các quan hệ kinh
tế lại tạo ra các nhu cầu khách quan để hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo ra
môi trường pháp luật thuận lợi cho kinh tế và cho xã hội phát triển. Bên cạnh
sự phản ánh đời sống kinh tế, ý thức pháp luật còn có vai trò điều chỉnh các
quan hệ kinh tế đang tồn tại. Nếu ý thức pháp luật đúng thì mọi tác động đến
các quan hệ kinh tế mang tính tích cực thúc đẩy sự phát triển còn ngược lại, sẽ
mang tính tiêu cực, làm hãm sự phát triển. Ý thức pháp luật thực hiện chức
năng điều chỉnh hành vi của mình bằng cách tác động tới hành vi của con
người, thông qua yếu tố tư tưởng, tâm lý, giúp cho con người tự điều chỉnh
hành vi của mình sao cho phù hợp với pháp luật với các nguyên tắc của pháp


18

luật. Ý thức pháp luật không chỉ điều chỉnh những quan hệ kinh tế đang tồn
tại, mà nó còn có thể đón bắt và điều chỉnh những quan hệ kinh tế sẽ xuất
hiện trong hệ thống kinh tế. Đây là tính vượt trước của ý thức pháp luật.
Trong thực tế cuộc sống, nhà nước nào cũng thực hiện điều chỉnh các hành vi
của cá nhân, của tổ chức thông qua ý thức pháp luật của mình, vì vậy mỗi cá
nhân, dưới áp lực bằng các biện pháp của nhà nước họ phải nâng cao ý thức
pháp luật của cá nhân để qua đó tự điều chỉnh hành vi của mình, trước khi bị

nhà nước điều chỉnh bằng sự cưỡng chế qua các chế tài của pháp luật. Do đó,
nếu có sự hiểu biết pháp luật càng đầy đủ, ý thức pháp luật XHCN càng cao
thì con người càng tự do trong hành động. Tuy nhiên, ý thức pháp luật cũng
có thể kìm hãm sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế hoặc một trong các yếu
tố hợp thành của hệ thống kinh tế, nếu sự điều chỉnh thông qua pháp luật mâu
thuẫn với nội dung, tính chất, quy luật của các quan hệ kinh tế.
Xét về mối quan hệ giữa kinh tế và pháp luật thì có thể nói rằng cơ
cấu kinh tế, hệ thống kinh tế quyết định cơ cấu và hệ thống pháp luật ở mỗi
quốc gia. Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, pháp luật ra đời và
tồn tại không bắt nguồn trực tiếp từ nhu cầu và đòi hỏi của các quan hệ kinh
tế mà đóng vai trò chủ yếu là các phương tiện thực hiện chức năng kinh tế
mang tính áp đặt mệnh lệnh hành chính. Còn trong nền kinh tế thị trường,
pháp luật có tác động mạnh mẽ đến các quan hệ kinh tế, các quan hệ kinh tế
đòi hỏi đặt pháp luật đúng vị trí đích thực của nó để thúc đẩy quá trình sản
xuất kinh doanh, mệnh lệnh hành chính và sự áp đặt dần dần phải nhường chỗ
cho pháp luật. Trong cơ chế thị trường hiện nay ý thức pháp luật thông qua
pháp luật thực hiện chức năng điều chỉnh của mình, pháp luật điều chỉnh các
quan hệ nảy sinh trong quá trình sản xuất kinh tế, tạo hành lang pháp lý cho
các quá trình sản xuất kinh doanh và các quá trình sản xuất kinh tế sự ổn định
và an toàn. Sự điều chỉnh này không chỉ quy định hướng dẫn các hành vi ứng
xử của các chủ thể kinh doanh mà còn đảm bảo cho các hành vi ấy diễn ra


19

một cách trật tự hài hòa với quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên. Bên cạnh
đó nó còn tạo ra môi trường cho các chủ thể kinh tế hoạt động kinh doanh và
cạnh tranh lành mạnh, công khai , các chủ thể tham gia quan hệ sản xuất kinh
doanh yên tâm rằng hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật
đương nhiên được pháp luật bảo vệ.

Như vậy ý thức pháp luật thông qua hệ thống pháp luật đã tạo điều
kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển, nó vừa là công cụ sắc bén đảm bảo
trật tự kỷ cương xã hội, vừa là chỗ dựa đáng tin cậy cho các chủ thể hoạt động
kinh doanh lành mạnh. Do đó kinh tế phát triển thì hiển nhiên đời sống xã hội
cũng phát triển theo, điều này không thể không có vai trò của ý thức pháp
luật.
Nói tóm lại, ý thức pháp luật có vai trò to lớn trong việc tạo ra một xã
hội có trật tự, kỷ cương, thúc đẩy kinh tế - xã hội đi lên, xã hội trật tự lại tạo
ra một xã hội mới về pháp luật để ý thức pháp luật nâng cao và phát triển. Cứ
như vậy chúng tác động biện chứng với nhau tạo điều kiện để cho nhau cùng
phát triển. Đây cũng là nhân tố quan trọng, cần phải có trong việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay "Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân".
1.2. VAI TRÒ CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN
CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1.2.1. Nội dung cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.2.1.1. Khái niệm nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ là một phạm trù chính trị - xã hội xuất hiện khá sớm trong
nền văn minh nhân loại, gắn liền với tiến bộ xã hội và sự phát triển lịch sử
qua các thời đại, các chế độ xã hội khác nhau, nó là một vấn đề rất quan trọng
cả về lý luận và thực tiễn. Khoảng thế kỷ thứ VII - VI trước công nguyên
thuật ngữ "dân chủ" ra đời.


20

Aristotle (khoảng năm 384-322 tr.CN) đã chỉ ra rằng Solon (khoảng
năm 638-559 tr.CN) là người đầu tiên đặt nền móng cho nguyên lý dân chủ.
Solon muốn xây dựng một nhà nước trên cơ sở một nền dân chủ - thông qua

tuyển cử và hòa nhập sức mạnh với pháp luật.
Những nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại cho rằng, để có một xã hội tốt đẹp
thì dân phải có quyền lực mạnh nhất, cao nhất, từ đó xuất hiện khái niệm "dân
chủ" (Demokratia). Xét về mặt ngữ nghĩa (Demokratia) trong tiếng Hy Lạp cổ
đại là từ ghép, được cấu từ hai từ gốc: Demos nghĩa là nhân dân và Kratos
nghĩa là quyền lực. Như vậy dân chủ (Demokratia) có nghĩa là quyền lực
thuộc về nhân dân.
Với định nghĩa trên chúng ta thấy đã tồn tại ba vế trong hiện thực, đó
là: Nhân dân, quyền lực công cộng và mối quan hệ giữa hai yếu tố đó. Ở mỗi
thời đại lịch sử khác nhau thì cách hiểu về khái niệm nhân dân và tính chất
trực tiếp của mối quan hệ sở hữu quyền lực công cộng sẽ khác nhau (chúng ta
sẽ phân tích sự khác biệt đó ở phần sau).
Điểm khác nhau căn bản giữa cách hiểu về dân chủ thời cổ đại với
thời hiện đại là ở tính chất trực tiếp của mối quan hệ sở hữu quyền lực công
cộng và cách hiểu còn hạn hẹp về khái niệm nhân dân. Ngày nay, dân chủ
hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, như dân chủ với tư cách là hình thức nhà
nước, dân chủ với tư cách là hình thức phi nhà nước, dân chủ là giá trị xã
hội… Nhưng dân chủ với tư cách là nhà nước vẫn là cốt lõi.
Nhà nước Aten ra đời, thuật ngữ "chế độ dân chủ" mới xuất hiện. Khi
xã hội có giai cấp và Nhà nước thì dân chủ mang hình thức chính trị, trở thành
một chế độ chính trị - chế độ dân chủ. "Chế độ dân chủ là chế độ chính trị
trong đó quyền lực của nhân dân được thừa nhận và được thực hiện thông qua
các tổ chức dân cử, các quyền tự do và bình đẳng của công dân được pháp
luật ghi nhận" [70, tr. 149].


21

Trong hình thức chính trị, các giá trị của dân chủ được thực hiện chủ
yếu qua các thiết chế chính trị, mà cơ bản là thông qua nhà nước. Tự do, bình

đẳng, công bằng trở thành quyền của công dân trên cơ sở sự thừa nhận của
Nhà nước. Như vậy, nói đến hình thức chính trị của dân chủ phải gắn với Nhà
nước và nó cũng là một trong những hình thức của Nhà nước.
Dân chủ cùng một lúc hiện diện ở nhiều bình diện khác nhau như:
Dân chủ là một hiện thực toàn vẹn (nền dân chủ).
Dân chủ là một hiện thực kinh tế (thị trường tự do)
Dân chủ là một hiện thực xã hội (xã hội công dân
các tổ chức xã hội, các tổ chức phi chính phủ...)
v.v…
Trong luận văn này, tác giả đề cập tới dân chủ là một hiện thực toàn
vẹn (hay nền dân chủ). Dân chủ được thể chế hoá thành chế độ dân chủ và
chế độ dân chủ được thực hành trong đời sống xã hội thành nền nếp, thành lối
sống, thành văn hóa... thì đó là nền dân chủ. Nghĩa là nói đến nền dân chủ là
nói đến một cơ cấu xã hội với tư cách là một hệ thống, một chỉnh thể được
vận hành theo quy trình, cơ chế và nguyên tắc khách quan nhất định. Từ việc
xây dựng những quyền dân chủ đến thiết chế dân chủ, rồi đến nền dân chủ:
Từ dân chủ trong chính trị đến dân chủ trong kinh tế, trong đời sống văn hóa
xã hội: từ ý thức, khái niệm dân chủ đến năng lực làm chủ... là một quá trình
lâu dài.
Do đó, tác giả đồng ý với quan điểm: Nền dân chủ là lĩnh vực thâu tóm
mọi khía cạnh vật chất và tinh thần của dân chủ từ kinh tế, chính trị, xã hội
cho đến văn hóa, tư tưởng. Nhà nước chỉ là một bộ phận trong đó, mặc dù nó
rất quan trọng.


22

Nền dân chủ XHCN là quyền lực thuộc về nhân dân lao động, nó
được thực hiện trong đời sống hiện thực trên các mặt chính trị, kinh tế và văn
hóa, xã hội.

Dân chủ, xét từ bản chất ngữ nghĩa của nó, là quyền lực thuộc về nhân
dân Song khi lý giải vấn đề này chúng ta phải thấy rằng: Nếu dân chủ có
trong thời đại chiếm hữu nô lệ, trong xã hội tư bản chủ nghĩa và trong xã hội
XHCN thì tất yếu phải có cái gì chung đặc trưng cho cái riêng đó, mà đã là
cái chung thì nó không còn là của một thời đại nào, giai cấp nào. Nó là một
giá trị mang tính nhân loại. Hơn nữa, với tính cách là một giá trị xã hội phản
ánh khát vọng của con người, dân chủ là một giá trị mang tính nhân văn, là
nấc thang mà nhân dân đã, đang và sẽ đi tới một xã hội thực sự văn minh tiến
bộ. Điều cốt yếu ở đây cần hiểu đúng thực chất cái chung trong cái riêng đó
chính là giá trị đích thực của dân chủ. Đã là một nền dân chủ thì nó phải
chứng tỏ quyền lực thuộc về nhân dân. Nhưng nhân dân mang nội dung thế
nào lại tùy thuộc vào các thời đại khác nhau mà được xác định. Nói cách
khác, dân chủ chỉ là một nhưng nó bị chế ước bởi những điều kiện kinh tế,
văn hóa, xã hội khác nhau.
Chế độ dân chủ nào Nhà nước cũng là của nhân dân, nhưng sự khác
nhau giữa chế độ dân chủ này với chế độ dân chủ khác là ở chỗ nhân dân là ai
và ai trong nhân dân có thực quyền. Điều này nói lên nội dung bản chất giai
cấp của dân chủ. Không có dân chủ trừu tượng, bao giờ dân chủ cũng có nội
dung cụ thể, xác định. Trong xã hội ai là nhân dân mới có dân chủ, và trong
nhân dân quyền lực thực sự, cuối cùng không phải trong thời đại nào cũng
thuộc về tất cả nhân dân. Quyền lực thực sự trước hết và chủ yếu bao giờ
cũng thuộc về giai cấp thống trị, thuộc và những kẻ có thế lực.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, cộng đồng thị tộc được hình
thành trên cơ sở huyết thống, công hữu tài sản, chung ngôn ngữ và những tập


23

quán... Trong thị tộc này toàn thể các thành viên của thị tộc đều là những
người tự do, có nhiệm vụ bảo vệ tự do của nhau cả tù trưởng lẫn thủ lĩnh quân

sự đều không đòi hỏi những quyền ưu tiên nào cả, họ kết thành một tập thể
thân ái gắn bó với nhau bởi những quan hệ dòng máu. Tự do bình đẳng, bác
ái, tuy chưa bao giờ được nêu thành công thức nhưng vẫn là nguyên tắc cơ
bản của thị tộc.
Xét từ phương diện những biểu hiện bề ngoài thì hình thức quản lý
của thị tộc có nhiều nét giống với cơ chế dân chủ như chúng ta quan niệm
ngày nay. Nhưng xét về bản chất, đó là hai hình thức khác nhau.
Trong xã hội thị tộc, sự đồng thuận giữa các thành viên không phải do
thương lượng hay thỏa thuận mà có, tức là không phải do cơ chế dân chủ tạo
ra, mà do huyết thống quy định. Tính đồng thuận trong cộng đồng là kết quả
của sự phục tùng tự nguyện của các thành viên trong một gia đình lớn. Ở thị
tộc quyền lực chung không tồn tại dưới dạng một thiết chế sức mạnh, quay trở
lại nô dịch các thành viên, mà tồn tại thông qua một, hay một nhóm các thành
viên được tôn kính của dòng tộc. Như vậy, dĩ nhiên là không thể có dân chủ
với tư cách là một thiết chế quyền lực.
Khi chế độ tư hữu xuất hiện gắn liền với nó là sự ra đời giai cấp và
Nhà nước, thì dân chủ được thể hiện dưới hình thức chính trị. Các nhà nước
dân chủ Hy Lạp cổ đại có quan niệm về dân chủ rất thô sơ, theo họ khái niệm
nhân dân (các công dân) là dùng chỉ một nhóm người hay thiểu số người
trong xã hội (những chủ nhân và đồng thời là người có quyền năng áp đặt ý
chí lên Nhà nước). Trong Nhà nước Athens, công dân là những người bản địa
tự do, còn phụ nữ, kiều dân và nô lệ không phải là công dân. Một nghịch lý lớn
nhất của chế độ chiếm hữu nô lệ, nô lệ là lực lượng sản xuất tạo ra của cải cho xã
hội - giai cấp nô lệ bị coi là những "công cụ biết nói" và không có một quyền lợi
chính trị nào. Như vậy, thực chất của dân chủ thời kỳ này là nền dân chủ cho số
ít nó không phải là nền dân chủ thực sự. Bởi vì chỉ có giai cấp chủ nô mới


24


được coi là nhân dân, quyền lực thuộc về giai cấp chủ nô - đây là chế độ dân chủ
chủ nô.
Khi chế độ phong kiến ra đời, chế độ dân chủ chủ nô bị thay thế bằng
chế độ quân chủ chuyên chế. Nhà nước của Vua, quyền lực từ chỗ ở trong tay
một số người, nay tập trung vào tay một người đó là Vua, người dân được
thừa nhận là người nhưng chỉ là thần dân. So với chế độ dân chủ chủ nô, chế
độ quân chủ là một bước tiến, ở chỗ nó thừa nhận mọi người trong xã hội là
con người, nhờ đó mà con người không bị đối xử như một con vật, không thể
bị giết như con vật, tuy nhiên hạn chế của nó là coi thường, khinh miệt con
người, làm cho con người mất nhân tính.
Trong thời đại phong kiến, nô lệ đã được trở thành "người tự do"
nhưng quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước nằm trong tay chúa đất và nhà
thờ. Ph. Ăngghen đã mô tả chế độ phong kiến Châu Âu như "đêm trường
trung cổ" kéo dài từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ XIV. Những tư tưởng tự do,
bình đẳng đã bị các giáo lý kinh thánh bóp nghẹt, pháp luật là pháp luật của
nhà thờ, xét xử là do tòa án của giáo hội...
Đây là thời kỳ ngừng trệ của tư tưởng dân chủ, thậm chí như phản dân
chủ, do vậy lịch sử loài người đã xem thời đại phong kiến có rất ít dân chủ, nó
được gọi là "chế độ chuyên chế phong kiến".
Trong thời đại tư sản, nền dân chủ đã đưa quan hệ giữa Nhà nước và
nhân dân trở về mảnh đất hiện thực, tức là dựa trên cơ sở kinh tế và thế tục
(khác với chế độ phong kiến, quyền lực nhà nước được coi là mệnh trời và có
quyền thế tập). Nền dân chủ tư sản đã ra đời trên cơ sở biến Nhà nước chuyên
chế tập quyền phong kiến thành Nhà nước pháp quyền, biến xã hội thần dân
thành xã hội công dân. Về mặt lý thuyết, nền dân chủ ấy đã chỉ ra rằng quyền
lực công cộng hiện đang tồn tại dưới hình thái Nhà nước và pháp luật bắt
nguồn từ mỗi cá thể cấu nên cộng đồng đó. Lần đầu tiên trong lịch sử nền dân


25


chủ tư sản đã xây dựng các thể chế, các quy tắc để thực thi quyền lực nhà
nước bằng các cách thức phù hợp. Nhưng trên thực tế nền dân chủ đó, các
quan hệ kinh tế và chính trị, đã mở đường cho sự thống trị của những người
có của (giai cấp hữu sản), sự thống trị của những người giàu có đối với những
người không có của hoặc có của ít mà đây là bộ phận chủ yếu (đa số) của
nhân dân. Trong xã hội tư bản, nền dân chủ chỉ được thừa nhận về mặt chính
trị mà không được thừa nhận về mặt kinh tế. Như vậy giai đoạn này chưa phải
là nền dân chủ trong chỉnh thể.
Chúng ta luôn trân trọng những yếu tố tiến bộ mà cuộc cách mạng tư
sản đã ghi dấu ấn trong lịch sử. Những cơ sở vật chất kỹ thuật đồ sộ, những di
sản văn hóa, khoa học - kỹ thuật cực kỳ quý báu, những kinh nghiệm tổ chức
bộ máy Nhà nước và quản lý kinh tế, tinh thần dân chủ của chế độ tam quyền
phân lập... là những thành tựu đáng quý. Song, lại cũng không vì thế mà thừa
nhận rằng nền dân chủ tư sản có tính toàn vẹn. Đó là nền dân chủ còn mang
nhiều bất bình đẳng và bất công bằng xã hội, mang nặng những mâu thuẫn
giai cấp đối kháng. Khẩu hiệu "tự do, bình đẳng, bác ái" của cuộc cách mạng
Pháp 1789 xét đến cũng vẫn mang tính giai cấp, bởi lẽ "tự do, bình đẳng, bác
ái" trước hết là cho giai cấp tư sản.
Bên cạnh những thành tựu mà nền dân chủ tư sản đã đạt được V.I. Lênin
còn chỉ ra bản chất hạn hẹp của nó:
Xã hội tư bản chủ nghĩa, xét trong những điều kiện phát
triển thuận lợi nhất của nó, đem lại cho ta một chế độ dân chủ ít
nhiều đầy đủ trong chế độ cộng hòa dân chủ. Nhưng chế độ dân chủ
ấy bao giờ cũng bị bó buộc trong khuôn khổ chật hẹp của sự bóc lột
tư bản chủ nghĩa và do đó, thực ra, nó luôn luôn là một chế độ dân
chủ đối với một thiểu số, vẫn chỉ là một chế độ dân chủ đối với riêng
những giai cấp có của, đối với riêng bọn giàu có mà thôi [12, tr. 19].



×