Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Hoàn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn trên địa bàn huyện sông mã, tỉnh sơn la hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.2 KB, 75 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tất cả các thầy giáo, cô giáo trong khoa
Lý luận chính trị và nhà trường đã tạo điều kiện động viên và giúp đỡ em trong quá
trình nghiên cứu.
Em xin cảm ơn UBND huyện Sông Mã đã nhiệt tình giúp đỡ trong việc sưu tầm
và chọn lọc tài liệu.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Đỗ Huyền Trang, người đã nhiệt tình
hướng dẫn, chỉ đạo và đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho khóa luận của em hoàn
thành đúng tiến độ.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo chủ nhiệm và tập thể lớp k52 Đại học giáo
dục chính trị cùng gia đình đã động viên em để em hồn thành tốt khóa luận.
Trong q trình sưu tầm, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp tài liệu cùng khả năng
nắm bắt tình hình của bản thân cịn nhiều hạn chế, nên thiếu sót trong khóa luận là
điều khơng thể tránh khỏi. Vì vậy, em rất mong nhận được sự ủng hộ, chỉ bảo và đóng
góp ý kiến của các thầy giáo, cô giáo và các bạn sinh viên cho khóa luận của em thêm
đầy đủ và hồn thiện hơn.
Em xin trân thành cảm ơn!


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CT - XH : Chính trị - xã hội
DTTS

: Dân tộc thiểu số

HĐND



: Hội đồng nhân dân

HTCT

: Hệ thống chính trị

UBND

: Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài............................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ........................................................................................... 4
3.1. Mục đích ......................................................................................................... 4
3.2. Nhiệm vụ ........................................................................................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu........................................................ 4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài .............................................................. 4
7. Kết cấu của luận văn ......................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ NƠNG THƠN .............................................................. 6
1.1. Quan niệm chung về hệ thống chính trị ......................................................... 6
1.1.1. Khái niệm “chính trị” .................................................................................. 6
1.1.2. Khái niệm “hệ thống chính trị” ................................................................... 8
1.2. Hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn ........................................................... 14

1.2.1. Khái niệm hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn ....................................... 14
1.2.2. Đặc điểm của hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn ................................. 15
1.3. Vị trí, vai trị của cơ sở nơng thơn và hệ thống chính trị nơng thơn ở nước ta
hiện nay ............................................................................................................... 16
1.3.1. Vị trí, vai trị của cơ sở nơng thơn (xã, phường, thị trấn) ......................... 16
1.3.2. Vai trị của hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn ...................................... 22
CHƯƠNG 2: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ NÔNG THÔN TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA - NHỮNG VẤN ĐỀ BỨC
XÚC HIỆN NAY ............................................................................................... 25
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Sông Mã, tỉnh
Sơn La ................................................................................................................. 25
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ............................................................. 25


2.1.2. Tình hình kinh tế, văn hóa - xã hội ........................................................... 26
2.2. Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở huyện Sơng Mã từ năm
2010 đến nay ....................................................................................................... 30
2.2.1. Về tổ chức và hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng ..................................... 31
2.2.2. Về tổ chức và hoạt động của chính quyền cơ sở nơng thôn ..................... 34
2.2.3. Về tổ chức và hoạt động của khối đoàn thể nhân dân .............................. 35
2.2.4. Về mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở nông
thôn ...................................................................................................................... 38
2.2.5. Về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn ..................................... 39
2.3. Những vấn đề hạn chế đặt ra cần hoàn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở nơng
thơn huyện Sơng Mã hiện nay ............................................................................. 40
2.3.1. Hạn chế về tổ chức và hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng ....................... 40
2.3.2. Về tổ chức và hoạt động của chính quyền cơ sở nông thôn ..................... 43
2.3.3. Về tổ chức và hoạt động của khối đoàn thể nhân dân ở cấp xã ................ 46
2.3.4. Về mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị ....................... 47
2.3.5. Về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn ..................................... 48

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU NHẰM HỒN THIỆN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
NÔNG THÔN CỦA HUYỆN SÔNG MÃ HIỆN NAY .................................. 50
3.1. Phương hướng cơ bản nhằm hoàn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn
huyện Sơng Mã, tỉnh Sơn La hiện nay ................................................................ 50
3.1.1. Hoàn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn phải đảm bảo ổn định
chính trị - xã hội .................................................................................................. 50
3.1.2. Hồn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn phải đáp ứng những yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của huyện ............................................................ 51
3.1.3. Hồn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn phải gắn với việc xác
định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức và mối quan hệ giữa các tổ
chức đó trong một thể thống nhất ....................................................................... 53
3.1.4. Hoàn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn nhằm phát huy có hiệu
quả việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở ...................................... 55


3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở nơng
thơn của huyện Sông Mã hiện nay ...................................................................... 57
3.2.1. Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng....... 57
3.2.2. Củng cố, kiện toàn, đổi mới và nâng cao hiệu lực của chính quyền ........ 59
3.2.3. Củng cố, xây dựng và đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân cấp xã vững mạnh ................................................................. 61
3.2.4. Thực hiện tốt hơn nữa mối quan hệ hữu cơ giữa các tổ chức trong hệ
thống chính trị ..................................................................................................... 61
3.2.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã, đặc biệt chú trọng xây dựng cán bộ
người dân tộc bản địa .......................................................................................... 62
3.2.6. Đẩy mạnh việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở................................... 65
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 69



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, đổi mới hệ thống chính trị là nhiệm
vụ rất quan trọng. Nhiệm vụ hệ trọng đó đã được Đảng ta khẳng định trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991. Toàn bộ hệ
thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Như vậy,
quyền lực của nhân dân lao động có được đảm bảo hay khơng chính là tuỳ thuộc chủ
yếu ở hệ thống chính trị có được đổi mới và hồn thiện hay khơng. Khi cơng cuộc đổi
mới ngày càng đi vào chiều sâu, Đảng ta chủ trương hướng mạnh về cơ sở, quan tâm
củng cố cơ sở xã hội của hệ thống chính trị, đề cao các sáng kiến và tính chủ động từ
cơ sở. Tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (9- 2006) đặc biệt coi
trọng đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở cơ sở nông thôn (xã, thị trấn). Đây
cũng là thể hiện nhận thức mới của Đảng về đổi mới hệ thống chính trị. Những nguyên
tắc, yêu cầu, nội dung, phương thức đổi mới hệ thống chính trị cấp vĩ mơ chi phối q
trình đổi mới hệ thống chính trị cấp cơ sở và sự đổi mới hệ thống chính trị cấp cơ sở
có tác động tích cực trở lại hệ thống chính trị nói chung.
Cơ sở (xã, phường, thị trấn), trong đó xã là chủ yếu, chiếm tới 85% trong tổng
số các đơn vị hành chính cấp cơ sở, do vậy hệ thống chính trị ở cơ sở thuộc khu vực
nông thôn giữ vị trí rất quan trọng trong hệ thống chính trị nước ta. Hệ thống chính trị
cấp cơ sở ở nơng thơn trên địa bàn huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La trong thời gian qua
đang tiếp tục được củng cố, hoàn thiện nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân và
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở một cách thực sự. Tuy nhiên trong những năm gần
đây, vấn đề bức xúc đã và đang đặt ra bởi hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn trên địa
bàn huyện Sơng Mã, tỉnh Sơn La cịn bộc lộ nhiều yếu kém như: hệ thống tổ chức vẫn
chưa ổn định, mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị ở đây cịn
nhiều bất cập, các tổ chức cịn lúng túng trong hình thức tổ chức và phương thức hoạt
động... chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn hiện nay.
Đứng trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, tình

hình đó phải được khắc phục, phải được giải quyết. Việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống
chính trị cấp cơ sở ở nơng thơn trên địa bàn huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La là vấn đề rất

1


quan trọng và cấp thiết để đảm bảo sự ổn định, phát triển lâu bền của nông thôn huyện
Sông Mã đi lên CNXH hồ nhập chung với tiến trình phát triển của đất nước.
Là một sinh viên chuyên ngành Lí luận chính trị nhận thức rõ vấn đề “Hồn
thiện hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn trên địa bàn huyện Sông Mã, tỉnh Sơn
La hiện nay” là vấn đề có tính lý luận và thực tiễn quan trọng vừa cơ bản lâu dài, vừa
cấp bách hiện nay. Nên tơi chọn đề tài này để nghiên cứu khóa luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam vấn đề hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị các cấp
từ trung ương đến cơ sở nói riêng đã được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu trong
những năm qua, theo thời gian có những cơng trình nghiên cứu sau:
TS. Lưu Minh Trị, “Đổi mới và kiện tồn hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thôn
ngoại thành Hà Nội (cấp xã) trong giai đoạn hiện nay”, năm 1993.
Đặng Thị Hiền, “Đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở nơng thơn
(thơng qua khảo sát thực tế của tỉnh Tuyên Quang)”, Luận văn thạc sĩ khoa học
chuyên ngành Triết học, 1993.
GS.TS. Phạm Ngọc Quang, “Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị nhằm phát huy
hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân lao động”, Tạp chí Triết học, số 3 năm 1996.
GS. Nguyễn Đức Bình, GS. PTS. Trần Ngọc Hiên, GS. Đồn Trọng Truyến,
Nguyễn Văn Thảo, PGS. PTS Trần Xuân Sầm (đồng chủ nhiệm), “Đổi mới và tăng
cường hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới” Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1999.
PGS. Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên), “Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ
hoá đời sống xã hội nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía
Bắc nước ta”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.

TS. Vũ Hồng Cơng, “Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng và giải
pháp”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
TS. Đặng Đình Tân, “Chính quyền cấp xã - những vấn đề đặt ra hiện nay”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Đặc san số 3 năm 2002.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp
hành Trung ương khoá IX về “ Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở
cơ sở xã, phường, thị trấn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2


GS.TS. Hồng Chí Bảo (chủ biên), “Hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn nước
ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
TS. Chu Văn Thành (chủ biên), “Hệ thống chính trị cơ sở - Thực trạng và một
số giải pháp đổi mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
PGS.TS. Nguyễn Văn Vĩnh (chủ biên), “Góp phần đẩy lùi nguy cơ, bảo đảm ổn
định và phát triển đất nước”, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2005.
Và các cơng trình khoa học khác nghiên cứu chủ đề có liên quan đến hệ thống
chính trị.
Phần lớn các cơng trình khoa học trên đây đều nghiên cứu hệ thống chính trị
hoặc các chủ đề có liên quan đến hệ thống chính trị nói chung. Các cơng trình khoa học
trên tiếp cận hệ thống chính trị từ nhiều cách, nhiều góc độ khác nhau, nhưng tựu chung
lại, các nhà khoa học với tư cách là những chủ thể sáng tạo, nghiên cứu, khảo sát, phân
tích, khái quát nêu trên đều cố gắng giải quyết những vấn đề căn cốt của hệ thống chính trị
với những mức độ khác nhau. Xun qua những cơng trình đó, có thể tổng quan lại những
vấn đề sau đây:
Thứ nhất, các nhà khoa học đã từ nhiều cách tiếp cận khác nhau đã đưa ra
những định nghĩa có thể theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp về hệ thống chính trị.
Thứ hai, các nhà khoa học đã tập trung phân tích cấu trúc, đặc điểm, các nhân tố
chế định và vị trí, vai trị của hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị Việt Nam

nói riêng với những nét đặc thù của nó.
Thứ ba, từ việc xác định các khái niệm cơng cụ - hệ thống chính trị, các nhà
khoa học khảo sát, phân tích thực trạng hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, vạch ra
những tích cực và những hạn chế, những bất cập này cùng những nguyên nhân của nó.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu hệ thống chính trị ở cơ sở không những chỉ ở cơ sở
nông thôn (xã, thị trấn) và hẹp hơn nữa là chỉ ở cơ sở nông thôn trên địa bàn huyện
Sông Mã, tỉnh Sơn La với những nét đặc thù riêng thì chưa có cơng trình khoa học nào
dành riêng cho nó.
Tất cả những cơng trình nghiên cứu trước đây thực sự là những tư tưởng quý
giá đối với tôi để tiếp cận và kế thừa có chọn lọc các cơng trình nghiên cứu khoa
học, về vấn đề này cùng với việc khảo sát thực tiễn ở huyện Sơng Mã, tỉnh Sơn La
nói riêng và ở Việt Nam nói chung, sẽ là cơ sở để tơi hồn thành nhiệm vụ nghiên
cứu của mình.
3


3. Mục đích, nhiệm vụ
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu những thành tựu, hạn chế trong hệ thống chính trị ở cơ
sở nông thôn huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, đề tài đưa ra phương hướng cơ bản và một
số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn trên địa bàn
huyện Sơng Mã, tỉnh Sơn La hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Trình bày khái quát một số vấn đề lý luận chung về hệ thống chính trị ở cơ sở
nơng thơn. Đồng thời, làm rõ vai trị của cơ sở nơng thơn và hệ thống chính trị ở cơ sở
nơng thơn.
Phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở nông
thôn trên địa bàn huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La hiện nay, trên cơ sở đó vạch ra những
vấn đề bức xúc cần giải quyết về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở
nông thôn huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La hiện nay.

Xác định rõ phương hướng cơ bản và một số giải pháp chủ yếu nhằm hồn
thiện hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn trên địa bàn huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu về hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn (xã, thị
trấn) trên địa bàn huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La 5 năm trở lại đây.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về hệ thống chính trị.
Đề tài nghiên cứu từ góc nhìn chính trị học, sử dụng phương pháp biện chứng
duy vật Macxit làm nền tảng. Trên cơ sở đó, luận văn sử dụng kết hợp phương pháp
lịch sử và lơgíc, phân tích với tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học và các phương
pháp đặc thù của chính trị học như: phân tích giai cấp, dân tộc, nhân loại trong chính
trị và phương pháp tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội khi nghiên cứu chính trị.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về lý luận: Góp phần làm rõ thêm một số nhận thức chung về hệ thống chính trị
ở cơ sở nông thôn.

4


Về thực tiễn: Trên cơ sở các luận cứ khoa học và khảo sát thực tiễn để xác định
rõ những vấn đề bức xúc đang đặt ra đối với hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn
huyện Sơng Mã, tỉnh Sơn La hiện nay. Đồng thời, luận văn góp tiếng nói vào việc
hồn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn trên Địa bàn huyện Sông Mã, tỉnh Sơn
La hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.


5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Ở CƠ SỞ NƠNG THƠN
1.1. Quan niệm chung về hệ thống chính trị
1.1.1. Khái niệm “chính trị”
Chính trị là một hiện tượng lịch sử, xuất hiện và tồn tại khi xã hội phân chia
giai cấp và hình thành nhà nước. Chính trị là lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội có
giai cấp, nó bao hàm những quan hệ, hiện tượng, những hình thức, khía cạnh rất đa
dạng và phức tạp. Ở mỗi khía cạnh, mỗi hình thức biểu hiện của nó thường dẫn tới một
cách cảm nhận, cách hiểu tương ứng về chính trị. Khó thống kê được hết những cách
hiểu, định nghĩa như thế về chính trị. Song điều đáng chú ý nhất đó là: bản chất của
chính trị là gì? Vấn đề trung tâm then chốt của nó là gì? Và kết cấu của nó như thế
nào? Hơn nữa, để làm rõ khái niệm “hệ thống chính trị”, trước hết cần làm rõ khái
niệm “chính trị”. Khái niệm chỉ một lĩnh vực phức tạp của đời sống xã hội có giai cấp
mà chính trị học và nhiều khoa học chính trị khác nghiên cứu.
Mỗi một xã hội có giai cấp đều được cấu thành từ bốn lĩnh vực cơ bản: kinh tế,
chính trị, văn hố và xã hội. Chính trị là một trong bốn lĩnh vực cơ bản đó. Khẳng định
điều này để chống các quan điểm tư tưởng phi chính trị hoặc tuyệt đối hố chính trị.
Điều này đã được Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: “Trong cơng cuộc kiến thiết nước
nhà có bốn vấn đề quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hố” [5;11]
Hồ Chí Minh cịn quan niệm: “văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động
khác khơng thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị” [5;368]
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chính trị về thực chất bắt nguồn từ
quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các quốc gia dân tộc. Trong đó,
trước hết và cơ bản nhất là lợi ích kinh tế.
Rõ ràng chính trị có lơgíc vận động nội tại của nó và chịu sự quy định của kinh
tế, đồng thời nó tác động to lớn đối với kinh tế và các lĩnh vực khác của đời sống xã

hội. Chính trị có q trình hình thành, tồn tại, phát triển và tiêu vong như một hiện
tượng lịch sử ra đời khi xã hội phân chia thành các giai cấp và mâu thuẫn đó trở nên
khơng thể điều hồ được.
Vấn đề quan hệ giai cấp và vấn đề quyền lực nhà nước là hai vấn đề cơ bản
nhất của chính trị. Nói đến chính trị là phải nói đến giai cấp và nhà nước. Tuy nhiên,
6


khơng chỉ có giai cấp và nhà nước mà chính trị cịn liên quan đến nhiều vấn đề khác.
Nói đến chính trị mà chỉ nói đến giai cấp và nhà nước thì chưa đủ, nhất là trong thời
đại ngày nay, khi mà hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, bình đẳng đã trở thành
mệnh lệnh của đời sống nhân loại.
Chính trị là một hiện tượng xã hội đặc biệt, nó xuất hiện khi xã hội phân chia
thành các giai cấp, khi xuất hiện nhà nước, cho nên tiếp cận với chính trị từ những lập
trường giai cấp khác nhau sẽ có những quan điểm khơng giống nhau.
Quan điểm duy vật lịch sử về chính trị địi hỏi phải xem xét chính trị trong quan
hệ với kinh tế, với giai cấp, với dân tộc, với nhân loại, với lợi ích giai cấp, với nhà nước
cùng thiết chế chính trị đảm bảo hiện thực hố những nhu cầu chính trị và kinh tế.
Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, là sự biểu hiện tập trung của kinh tế,
chính trị tức là kinh tế được cơ đọng lại. Đây là thuộc tính bản chất của chính trị.
Trong quan điểm đó, chính trị do kinh tế quy định, sự vận động và phát triển của kinh
tế quy định sự biến đổi của chính trị.
Chính trị là mối quan hệ qua lại giữa các giai cấp, mối quan hệ đó quy định
nội dung và cấu thành nền tảng của chính trị. Các giai cấp và mối quan hệ qua lại giữa
các gia cấp cấu thành cơ sở trực tiếp của chính trị, mặc dù các giai cấp và mối quan hệ
giữa chúng do kinh tế quy định. Khi xác định bản chất của giai cấp, chủ nghĩa MácLênin trước hết nhấn mạnh phương diện kinh tế. Đó là một đặc trưng cơ bản, quan
trọng nhất, nhưng không phải là duy nhất. Giai cấp còn được xác định bởi những dấu
hiệu chính trị, bởi lợi ích chính trị, bởi quan hệ của nó với nhà nước, bởi cuộc đấu
tranh để giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị. Cho nên mối quan hệ giữa các giai
cấp không chỉ biểu hiện trong lĩnh vực kinh tế mà còn cả trên lĩnh vực kiến trúc

thượng tầng. Trong mối quan hệ đó, quan hệ kinh tế mang tính quyết định. Trong xã
hội có giai cấp, các lợi ích kinh tế cơ bản biểu hiện tập trung và khái quát thành lợi ích
chính trị. Khát vọng lợi ích cơ bản của giai cấp làm nảy sinh cuộc đấu tranh giai cấp
mà hình thức cơ bản của nó là đấu tranh chính trị. Điều đó giải thích vì sao Lênin cho
rằng, lợi ích kinh tế cơ bản của giai cấp công nhân chỉ được thoả mãn nhờ cách mạng
chính trị, thay thế chuyên chính tư sản bằng chun chính vơ sản.
Từ sự phân tích trên có thể định nghĩa: “Chính trị là một lĩnh vực hoạt động
đặc biệt của con người, là lĩnh vực hoạt động quan hệ giữa các giai cấp cũng như các
dân tộc, các quốc gia, với vấn đề giành - giữ, tổ chức và thực hiện quyền lực nhà
7


nước, là sự tham gia của công dân vào các cơng việc của nhà nước xã hội, là hoạt
động chính trị thực tiễn của các giai cấp, đảng phái chính trị, các nhà nước nhằm thực
hiện những mục tiêu đặt ra và thỏa mãn lợi ích” [19;54].
Về mặt quan hệ, chính trị là một lĩnh vực rất rộng, gồm nhiều mối quan hệ
khác nhau trong không gian và thời gian xác định như: quan hệ giữa các giai cấp, giữa
các đảng chính trị với các giai cấp, giữa đảng cầm quyền với các đảng phái khác nhau,
giữa đảng với nhà nước, giữa nhà nước với công dân, giữa công dân với cơng dân,
giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Về mặt kết cấu, chính trị bao gồm các nhân tố sau:
(1) Chính sách - các quyết định của các chủ thể chính trị.
(2) Các thiết chế và thể chế chính trị.
(3) Quan hệ con người chính trị - giới lãnh đạo chính trị với cơng dân.
Dưới góc độ tổng quát nhất, chính trị được tiếp cận từ phương diện là một bộ
phận của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp. Cho nên, chính trị là tổng hợp
những mối quan hệ chính trị, ý thức chính trị, hệ tư tưởng chính trị, các thiết chế chính
trị, tổ chức chính trị và con người chính trị…
Chính trị là hiện tượng xã hội có cấu trúc phức tạp. Nó là phương thức tổ chức,
điều chỉnh các quan hệ giai cấp, là phương thức quan hệ giữa các giai cấp và nhà nước

nhằm giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị của một giai cấp.
Vạch rõ dấu hiệu căn bản nhất cũng như quy luật chung nhất của chính trị,
trong đó đặc biệt là quy luật về giành, giữ, thực thi quyền lực chính trị, sẽ là cơ sở
khoa học, là tiền đề cần thiết để khảo sát các dấu hiệu đặc trưng bản chất của thiết chế
chính trị tương ứng - Hệ thống chính trị.
1.1.2. Khái niệm “hệ thống chính trị”
Chính trị là một hiện tượng lịch sử, nó có q trình ra đời, tồn tại và mất đi.
chính trị chỉ tồn tại khi xã hội có giai cấp và nhà nước. Các nhà kinh điển Mác,
Ăngghen, Lênin vẫn chưa dùng khái niệm hệ thống chính trị. Tuy nhiên nội dung sự
hiểu biết về hệ thống chính trị đã được Mác, Ăngghen, Lênin diễn đạt bằng những
phạm trù liên quan như: hình thức chính trị, thiết chế chính trị, thể chế chính trị, cơ cấu
chính trị, kết cấu chính trị của xã hội hay tư tưởng chính trị và các thiết chế tương
ứng… Sau Mác, là ở các nước phương Tây tư bản chủ nghĩa (đầu những năm 50 của
thế kỷ XX) và ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ (Liên Xô muộn hơn vào đầu những năm
8


80 của thế kỷ XX) mới xuất hiện khái niệm hệ thống chính trị. Ở Việt Nam, bắt đầu từ
Hội nghị Trung ương 6 khoá VI (tháng 3-1989) Đảng ta mới dùng khái niệm hệ thống
chính trị. Trong những văn kiện, sách báo, tạp chí, cơng trình nghiên cứu chính trị ở
nước ta gần đây ngày càng sử dụng rộng rãi phạm trù hệ thống chính trị, hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa. Khái niệm hệ thống chính trị ra đời ở thời kỳ hiện đại, nó là
sự phản ánh chính trị hiện đại. Mặc dù đến thời hiện đại, khái niệm hệ thống chính trị
mới ra đời, nhưng sự hiểu biết về nó khơng kém phần đa dạng, phong phú đến mức mà
khó có thể thống kê hết được những sự hiểu biết đó. Chẳng hạn, ở các nước xây dựng
chủ nghĩa xã hội trước đây, quan niệm phổ biến xem hệ thống chính trị chỉ bao gồm
những tổ chức chính trị - xã hội mang bản chất của giai cấp cầm quyền nhằm phục vụ
cho quyền lực chính trị của giai cấp đó. Quan điểm này đã đồng nhất phạm trù “hệ
thống chính trị” với phạm trù “hệ thống chuyên chính của giai cấp cầm quyền”. Từ đó,
cho rằng hệ thống chính trị trong chủ nghĩa tư bản chính là hệ thống chun chính tư

sản, cịn hệ thống chính trị chủ nghĩa xã hội là hệ thống chun chính vơ sản. ở Việt
Nam trước và một số năm đầu đổi mới, chúng ta chưa dùng khái niệm hệ thống chính
trị mà vẫn dùng một cách phổ biến khái niệm chun chính vơ sản để chỉ hệ thống và
cơ cấu các cơ quan quyền lực lãnh đạo và quản lý xã hội.
“Hệ thống chính trị là một bộ phận của cấu trúc thượng tầng xã hội, bao gồm
các tổ chức, các thiết chế hợp pháp, có quan hệ về mục đích, chức năng thực hiện
hoặc tham gia thực hiện quyền lực chính trị” [9;9].
Xem xét việc nghiên cứu HTCT mà thực chất là nghiên cứu hệ thống các tổ
chức, các thiết chế có quyền lực chính trị, hoặc tham gia vào quyền lực chính trị, thì có
hai khái niệm đáng chú ý dưới đây:
“Hệ thống tổ chức quyền lực là hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội, các
đảng chính trị hợp pháp và nhà nước cùng các quan hệ tác động qua lại giữa các yếu
tố đó nhằm tham gia vào q trình hình thành các chính sách nhà nước, thực thi các
quyền lực chính trị đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội và bảo đảm quyền
thống trị của giai cấp thống trị hoặc quyền làm chủ của nhân dân lao động (trong các
nước xã hội chủ nghĩa)” [9;9].
Tập thể tác giả của Viện Khoa học Chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh đưa ra định nghĩa: “Hệ thống chính trị là một bộ phận kiến trúc thượng tầng xã hội,
bao gồm các tổ chức, các thiết chế có quan hệ với nhau về mặt mục đích, chức năng trong
9


việc thực hiện hoặc tham gia thực hiện quyền lực chính trị, trong việc đưa ra các quyết
định chính trị” [20;124].
Hệ thống chính trị là các tổ chức, các thiết chế chính tri - xã hội và các mối
quan hệ giữa chúng với nhau trong những cấp độ tổ chức và hoạt động tác động lẫn
nhau từ trên xuống và từ dưới lên” [25;289].
Kế thừa nhiều giá trị ở các quan niệm trên, dưới góc nhìn của chính trị học theo
quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, có thể hiểu Hệ thống chính trị là một phạm trù thuộc
kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ một chỉnh thể hệ thống các tổ chức, các thiết chế

chính trị - xã hội và các mối quan hệ giữa chúng với nhau trong và giữa các cấp độ tổ
chức và hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ hợp thành cơ chế chính trị của một chế
độ xã hội nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp thống trị.
Từ khái niệm vừa đưa ra trên, ta có thể xem xét đến sự tồn tại, vận động, biến
đổi của HTCT diễn ra trên thực tế rất đa dạng. Và tính đa dạng của HTCT tuỳ thuộc
vào các nhân tố khách quan và chủ quan tác động đến:
Nhóm nhân tố khách quan: các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống chính trị quốc
gia là địa lý và điều kiện kinh tế - xã hội và lịch sử. Trình độ phát triển kinh tế, tương
quan giữa các lực lượng chính trị đang hiện diện, yếu tố lịch sử truyền thống văn hoá...
HTCT là một hiện tượng lịch sử chỉ tồn tại trong những điều kiện kinh tế - xã
hội nhất định trong xã hội có giai cấp và hình thành nhà nước. Kết cấu HTCT không
phải theo ý muốn chủ quan của một giai cấp nào, mà do điều kiện kinh tế - chính trị xã hội quy định.
Sự hiện diện của các lực lượng chính trị và mối tương quan lực lượng giữa
chúng. Đây là yếu tố quyết định trực tiếp việc thiết lập HTCT theo mơ hình đa đảng
hay một đảng trên thực tế.
Cùng với sự trưởng thành của ý thức công dân thì truyền thống, thói quen, lịch
sử văn hố chính trị của dân tộc quốc gia là yếu tố khách quan tạo nên diện mạo bản
sắc về HTCT của mỗi quốc gia.
Nhóm nhân tố chủ quan:
Sự trưởng thành, năng lực và đạo đức, bản chất và bản lĩnh chính trị của đảng
chính trị cùng với đội ngũ đảng viên của nó. Đây là yếu tố rất quan trọng liên quan đến
sinh mệnh đảng chính trị, nó được xem là thước đo tổng hợp đánh giá mức độ uy tín
đích thực của đảng chính trị trước dân chúng như thế nào. Điều này hoàn toàn từ xuất
10


phát điểm, cũng như là hệ quả của sự nỗ lực, trưởng thành nhân tố chủ quan của đảng
chính trị mà có.
Sự tương đồng về tư tưởng của các đảng chính trị: nếu việc tìm kiếm và tạo
dựng sự tương đồng về tư tưởng, quan điểm của các đảng chính trị càng lớn thì dễ

dàng chấp nhận nhau, cùng chia sẽ quyền lực chính trị. Ngược lại, nếu các đảng chính
trị đối chọi nhau về hệ tư tưởng chính trị, về lập trường giai cấp thì dễ dẫn đến xung
đột về chính trị, khủng hoảng chính trị có thể diễn ra.
Có thể nói, các nhân tố khách quan và chủ quan thường xuyên tác động đến quá
trình hình thành và biến đổi của HTCT trong mỗi thời kỳ, cũng như quyết định hình
thái tồn tại HTCT.
Như vậy, theo lơgíc của tư duy có thể thấy hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
là một chỉnh thể bao gồm Nhà nước chun chính vơ sản, Đảng Cộng sản cùng các tổ
chức chính trị xã hội hợp pháp ở các cấp độ và mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố đó
theo chức năng nhiệm vụ nhằm đảm bảo quyền lực của nhân dân lao động.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa chính là hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội
mà nhờ đó, nhân dân lao động thực thi quyền lực của mình trong xã hội.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay bao gồm các tổ chức
Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các tổ chức đồn thể chính trị - xã hội của quần chúng
tham gia vào Mặt trận với tư cách là những thành viên như Cơng đồn, Đồn Thanh
niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh… Về mặt tổ chức được xác định
như vậy cho thấy nhiều tổ chức quần chúng, tổ chức xã hội có vai trị chính trị đáng kể
và thậm chí thường xun có đại biểu trong Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp,
nhưng không phải là thành viên độc lập của hệ thống chính trị, mà chỉ tham gia hệ
thống chính trị với tư cách thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (một liên minh
chính trị rộng rãi, thống nhất của dân tộc tập hợp lực lượng thực hiện đại đồn kết dân
tộc, hiệp thương chính trị, hợp tác và hỗ trợ phát triển xã hội).
Hệ thống chính trị nước ta có nhiều đặc điểm khác với mơ hình hệ thống chính
trị của nhiều nước trên thế giới. Về hệ thống chính trị ở nước ta, có thể có những quan
niệm khác nhau, từ đó nêu ra những đặc trưng khác nhau, song để phục vụ cho việc
khảo sát hệ thống chính trị ở cơ sở cần chú trọng các đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, một đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị ở nước ta là tính nhất
nguyên chính trị và một đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo, đó là Đảng Cộng sản
Việt Nam.
11



Tính nhất nguyên thể hiện ở chỗ nền tảng tư tưởng của cả hệ thống chính trị là
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chung,
không chấp nhận các khuynh hướng chính trị trái với chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ
nghĩa xã hội. Chỉ có một hệ thống chính trị duy nhất và thống nhất trong cả nước mà
Đảng Cộng sản là hạt nhân lãnh đạo. Đảng Cộng sản Việt Nam với sự vững vàng về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong suốt lịch sử của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã thể hiện là một Đảng mác - xít thực sự, chân chính lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Việc Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và tồn xã hội là sự đảm bảo sự chắc chắn
nhất để nhân dân bảo vệ và phát huy quyền làm chủ xã hội của mình, chống lại mọi biểu
hiện đi ngược lại nguyện vọng, quyền lợi của nhân dân.
Hệ thống chính trị nước ta do duy nhất một Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
là một đặc điểm vừa mang tính phổ biến đối với hệ thống chính trị các nước xã hội chủ
nghĩa, vừa mang tính đặc thù Việt Nam. Tính đặc thù đó do vai trị, vị trí, uy tín của
Đảng Cộng sản Việt Nam quy định.
Thứ hai, hệ thống chính trị mang tính nhân dân rộng rãi.
Tính nhân dân rộng rãi của hệ thống chính trị thể hiện chủ yếu ở mục tiêu,
phương thức, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị:
Nhân dân là gốc của quyền lực, là chủ của xã hội. Tổ chức của Nhà nước do
nhân dân lập ra, hoạt động của các cơ quan và công chức nhà nước là đầy tớ của dân
chịu sự giám sát tối cao và thường xun của dân.
Hệ thống chính trị bằng mọi hình thức khác nhau để tập hợp, tổ chức mọi người
dân thuộc các dân tộc, tơn giáo, giai cấp, nghề nghiệp, chính kiến…, ở trong và ngoài
nước để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ ba, tính quá độ của hệ thống chính trị Việt Nam.
Hệ thống chính trị hiện nay ở nước ta đã và đang chuyển sang phạm trù hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa nhưng đang ở bước đầu xây dựng. Nó là bước phát
triển nối tiếp tự nhiên và liên tục từ hệ thống chính trị dân chủ nhân dân trước đây, đó

cũng là sự chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân chủ lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Như trên đã phân tích, trung tâm của hệ thống chính trị là Nhà nước. Nhà nước thể
hiện bản chất chính trị của hệ thống chính trị và chế độ xã hội. Các Đảng chính trị
cũng phải giành lấy quyền lực Nhà nước, thông qua Nhà nước và bằng Nhà nước để
12


thực hiện các mục tiêu chính trị của mình. Nhà nước mà một bộ phận quan trọng là
nền hành chính nước ta còn rất non trẻ nhưng ảnh hưởng của chế độ tập trung quan
liêu, bao cấp còn khá nặng nề. Tính chất quá độ đan xen giữa cái cũ và cái mới còn khá
đậm nét trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta.
Thứ tư, hệ thống chính trị nước ta được tổ chức chặt chẽ, có sự phân định chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của mỗi tổ chức và cơ chế hoạt động của từng tổ chức
cũng như của cả hệ thống. Hệ thống chính trị ở Việt Nam được tổ chức hết sức rộng
rãi, chặt chẽ, các mối quan hệ trong đó ngày càng được xác định rõ ràng hơn. Trong
phạm vi hoạt động của mình, cùng một lúc mỗi một thành viên phải thực hiện các
quan hệ có tính chất khác nhau với các đối tượng khác nhau của hệ thống chính trị:
quan hệ lãnh đạo, quan hệ chỉ đạo, hướng dẫn, quan hệ phối hợp, cộng tác, liên kết.
Tất cả tạo thành một mạng lưới chằng chịt, gắn kết chặt chẽ.
Thứ năm, hệ thống chính trị nước ta có thuộc tính bản chất là sự thống nhất
giữa tính giai cấp và tính dân tộc.
Ở nước ta, vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc ln gắn bó, quyện chặt lẫn nhau.
Nghiên cứu quá trình dân tộc và quá trình chính trị của nước ta sẽ đi tới khẳng định sự
nổi trội của tính dân tộc trong suốt lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Nhận rõ đặc trưng về sự nổi trội của tính dân tộc khơng phải là coi nhẹ tính giai cấp,
mà là khắc phục quan niệm tuyệt đối hoá giai cấp để thấy rõ sự thống nhất giữa tính
dân tộc và tính giai cấp trong hoàn cảnh đặc thù của nước ta.
Những đặc điểm trên vừa quy định kết cấu, tổ chức, vận hành và các mối quan
hệ vừa quy định tính thống nhất của hệ thống chính trị duy nhất trong cả nước. Các
khái niệm trung ương - địa phương - cơ sở chỉ là những cấp độ khác nhau của hệ thống

chính trị nói chung chứ khơng phải là có ba hệ thống chính trị: hệ thống chí nh trị
trung ương, hệ thống chính trị địa phương và hệ thống chính trị cơ sở. Khẳng định
điều này có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Với cách hiểu hệ thống
chính trị nói chung có tính tồn vẹn, duy nhất, thống nhất như vậy sẽ là tiền đề, cơ sở
để hiểu đúng vai trị, vị trí của hệ thống chính trị ở cơ sở - cấp cơ sở của hệ thống
chính trị nói chung.
Tóm lại, xuất phát từ mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội, từ bản chất của
chế độ xã hội chủ nghĩa, hệ thống chính trị ở nước ta nhằm xây dựng và phát triển nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện mục tiêu đó, tính đồng bộ trong hoạt động và
13


tính thống nhất về mục tiêu, tính chủ động sáng tạo của các tổ chức trong hệ thống
chính trị và việc giải quyết tốt các mối quan hệ ngang dọc trong toàn bộ hệ thống là
những điều kiện căn bản đảm bảo cho hệ thống chính trị hoạt động có hiệu quả. Hay
nói cách khác, sự hồn thiện của hệ thống chính trị sẽ là phương thức và động lực để
hoàn thành mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
1.2. Hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn
1.2.1. Khái niệm hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn
Muốn đổi mới và hồn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở, đặc biệt là ở cơ sở nơng
thơn nước ta nói chung, nơng thơn huyện Sơng Mã, tỉnh Sơn La nói riêng, vấn đề rất
quan trọng và cần thiết trước tiên là phải nhận thức đúng về cơ sở và vị trí, vai trị của
cơ sở, đặc biệt là cơ sở nông thôn. Lớp đối tượng mà khái niệm cơ sở nơng thơn phản
ánh đó chính là tồn bộ những xã, thị trấn đang tồn tại thực trên đất nước ta với những
tên gọi, địa dư hành chính, pháp lý chính trị đầy đủ của nó. Mặt khác, về mặt nội hàm
tương ứng của khái niệm này phải được hiểu các xã, thị trấn ở nơng thơn là cơ sở xã
hội của chính trị, của chế độ chính trị, là cơ sở của thể chế chính trị, của thể chế nhà
nước. Cơ sở nơng thơn: xã, thị trấn được xét ở đây tồn tại với tư cách là một cấp quản
lý trong hệ thống bốn cấp quản lý hành chính nhà nước hiện hành ở nước ta - cấp cơ
sở. Như vậy, cơ sở nông thôn gồm xã, thị trấn là thuộc về cấp cơ sở của hệ thống quản

lý hành chính bốn cấp. Khi xét hệ thống chính trị ở phần trên với tư cách là một chỉnh
thể thống nhất, duy nhất có bốn cấp độ thì cấp cơ sở là một cấp của hệ thống chính trị
hay cấp độ của hệ thống chính trị. Tuy nhiên cấp độ cơ sở của hệ thống chính trị cịn
bao gồm cả phường. Nhưng ở đây, luận văn chỉ đề cập đối tượng là: xã, thị trấn, tức là
cơ sở nông thôn nước ta hiện nay. Trong đó, đặc biệt khảo sát thị trấn và các xã cơ sở
nông thôn ở huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La từ năm 2010 đến nay.
Dựa vào những nét khái quát chung nhất về hệ thống chính trị như đã nêu trên
theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, có thể hiểu Hệ thống chính trị ở cơ sở nơng
thơn là tồn bộ các thiết chế chính trị cấp cơ sở- xã, thị trấn (tổ chức Đảng, chính
quyền, các đồn thể nhân dân của xã, thị trấn và mối quan hệ giữa chúng) được tổ
chức và hoạt động theo những nguyên tắc xác định, gắn bó hữu cơ, thống nhất với
nhau về mục đích, chức năng, nhiệm vụ nhằm thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở nông thôn.

14


1.2.2. Đặc điểm của hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn
Hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn là một bộ phận cấu thành của hệ thống
chính trị Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nên nó cũng mang những đặc điểm chung của
toàn bộ hệ thống.
Ngoài những đặc điểm chung đó, xét khía cạnh địa vị pháp lý và thực tế thì
HTCT ở cơ sở nơng thơn cịn mang đặc trưng riêng.
Thứ nhất, hệ thống chính trị cơ sở là cấp thấp nhất trong hệ thống chính trị nước
ta hiện nay. Đây là đặc điểm xét theo khía cạnh quan hệ thứ bậc mang tính pháp lý của
chỉnh thể hệ thống chính trị duy nhất thống nhất ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên cấp
thấp nhất không phải là cấp kém quan trọng nhất. Mà thậm chí, xét theo khía cạnh
thực thi mọi đường lối chính sách của Đảng và nhà nước thì đây lại là cấp quan trọng
nhất. Bởi vì, mọi đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước cuối cùng có thực hiện
được hay khơng lại là ở cơ sở.

Thứ hai, hệ thống chính trị ở cơ sở có bộ máy đơn giản nhất và cán bộ biên chế
được hưởng sinh hoạt phí thấp nhất.
Theo các quy định hiện hành thì hệ thống chính trị ở cơ sở xã, thị trấn được
biên chế và hưởng sinh hoạt phí khơng q 25 người. Bộ máy đơn giản nhất nhưng
không phải là đơn giản nhất trong vận hành bộ máy. Các mối quan hệ ở đây khơng
phải là khơng phức tạp. Tính phức tạp ở đây được quy định bởi các yếu tố dân tộc, gia
tộc, dịng họ, tơn giáo, văn hố, truyền thống…
Thứ ba, hệ thống chính trị ở cơ sở là cấp có đội ngũ cán bộ biến động nhất, ít
chun nghiệp nhất, trình độ học vấn và văn hố, trình độ lý luận và chuyên môn
thấp nhất.
Đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị ở cơ sở biến động nhất là vì do cơ chế họ
không được biên chế cố định mà chủ yếu lệ thuộc vào lá phiếu bầu chọn trong các
cuộc bầu cử nên thời gian này làm cán bộ, thời gian sau làm dân thường. Tâm lý
không ổn định, số phận bấp bênh chi phối rất lớn đến từng người ở từng thời kỳ khác
nhau. Dẫn đến việc họ ít được chun mơn hố, ít được đào tạo cơ bản và họ cũng còn
nặng tâm lý ngại học tập lý luận và chuyên môn nghiệp vụ theo xu hướng tâm lý
“quan nhất thời, dân vạn đại”. Phần lớn những người được đào tạo cơ bản cả về lý luận
và chun mơn nghiệp vụ thì họ tìm cách thốt ly khỏi xã, thị trấn để lại hệ thống
chính trị ở cơ sở với đội ngũ cán bộ nổi bật đặc điểm này.
15


Thứ tư, hệ thống chính trị ở cơ sở là cấp trực tiếp nhất chịu sự chi phối của
nhân dân.
Mọi đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước quán triệt, triển khai đến dân
đều qua cấp cơ sở. Vì vậy, nó là cấp gần dân nhất và thể hiện tính nhân dân một cách
rõ ràng, trực tiếp nhất. Song đây là cấp đầu tiên đối mặt với những yêu cầu bức xúc
của dân chúng với những mâu thuẫn, thậm chí cả những xung đột nảy sinh trong đời
sống dân cư. Vì vậy, tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở mang tính tự
quản cao.

Thứ năm, hệ thống chính trị ở cơ sở nhất là ở cơ sở nơng thơn là cấp mà quan hệ
dịng họ, văn hố làng xã, quan hệ dân tộc, tơn giáo tác động mạnh nhất.
Hệ thống chính trị ở cơ sở là cấp mà quan hệ dịng họ, văn hố làng xã có thể
tác động mạnh nhất có ảnh hưởng đáng kể đến quan hệ nội bộ trong tổ chức và hiệu
quả hoạt động của HTCT ở cơ sở nông thôn. Trong quan hệ với dân, cán bộ ở cơ sở
nơng thơn có thể bị chi phối, ràng buộc rất lớn bởi quan hệ họ hàng, thân tộc, bởi các
truyền thống, phong tục, tập quán, lối sống làng xã. Do đó, phải hết sức chú ý khắc
phục tư tưởng dịng họ, bè phái, lợi dụng chức quyền theo kiểu “một người làm quan
cả họ được nhờ” hoặc “chi bộ ta”…
Những đặc điểm trên của hệ thống chính trị ở cơ sở, phản ánh, một mặt ở sự
thống nhất, duy nhất của cả hệ thống chính trị được tổ chức và hoạt động theo tính
thống nhất về mục tiêu và nguyên tắc. Mặt khác nó cũng phản ánh nhiều mâu thuẫn,
có loại mâu thuẫn biện chứng của sự phát triển, có loại mâu thuẫn hình thức triệt tiêu
sự phát triển. Vấn đề là phát hiện mâu thuẫn và phải có những giải pháp cụ thể xử lý
những mâu thuẫn một cách cụ thể để đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở
đáp ứng vị trí, vai trị quan trọng cần phải có của nó trong giai đoạn cách mạng mới
hiện nay.
1.3. Vị trí, vai trị của cơ sở nơng thơn và hệ thống chính trị nơng thơn ở nước ta
hiện nay
1.3.1. Vị trí, vai trị của cơ sở nông thôn (xã, phường, thị trấn)
Trước đổi mới, trong nền kinh tế hiện vật và kinh tế kế hoạch hóa với phương
thức quản lý hành chính mệnh lệnh theo cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chúng ta
chỉ nhìn nhận cơ sở như một cấp quản lý hành chính thấp nhất, cuối cùng trong hệ
thống bốn cấp. Theo cách nhìn này, cơ sở khơng chỉ thấp nhất mà còn là nhỏ nhất, nên
16


nói tới cơ sở thường chỉ thấy đó là một vi mơ, trong khi cấp Trung ương, tồn quốc
mới là cái vĩ mô.
Nếu xét theo cấp độ quản lý và nhìn về lượng (quy mơ diện tích, quy mơ dân số

và dân cư, mức độ làm ra của cải vật chất, tính chất và lĩnh vực hoạt động) thì cách
hiểu về cơ sở như đã nêu trên là khơng có gì sai. Song đó mới chỉ là một phương diện
của vấn đề cần bàn nhưng chưa đầy đủ.
Hơn nữa, cách nhìn từ trên xuống, lâu dần theo thói quen, tiền lệ khó thay đổi
hình thành trong tư duy quản lý là tính chất hành chính quan liêu, như: quen dùng chỉ
thị, mệnh lệnh từ trên đã áp đặt xuống cơ sở, biến cơ sở trở thành thụ động, trì trệ làm
mất đi tính năng động, sinh động và đa dạng phong phú ở cơ sở, Vì cơ sở vốn là nơi
diễn ra mọi hoạt động đời sống của dân, việc làm của dân, là thái độ và hành vi ứng xử
của dân chúng đối với cấp chính quyền, mọi quan hệ xã hội. Cách nhìn từ trên xuống
một cách quan liêu - hành chính như vậy, đã tạo ra khoảng cách biệt rất lớn giữa Trung
ương với cơ sở, nếu có đi cơ sở cũng chỉ mang hình thức và chiếu lệ, tuỳ thuộc vào
trách nhiệm công việc hay phong cách dân chủ, thái độ và tình cảm đạo đức với dân
của cán bộ cấp trên chứ khơng mang tính pháp lý bắt buộc được bảo đảm bởi chế tài,
bởi kiểm tra và giám sát.
Cách biệt với cơ sở lại càng trở nên nghiêm trọng hơn khi hệ thống thể chế
hành chính quan liêu bị xơ cứng bởi các tầng nấc, giấy tờ, công văn, chỉ thị của các
cấp trên, bởi cả những khó khăn, trở ngại về giao thơng đi lại do hạ tầng cơ sở kém
phát triển, bởi thiếu thơng tin, khơng có thói quen cập nhật thơng tin từ cơ sở của đội
ngũ công chức, viên chức quan liêu. Cơ sở nông thôn miền núi, với những làng bản xa
xơi gần như cách biệt, thậm chí khơng ít nơi bị bỏ quên, bị lãng quên, không được đầu
tư, chăm sóc, khơng được quan tâm để nó diễn ra một cách tự phát. Những cơ sở loại
đó vốn đã lạc hậu, khó khăn, chậm phát triển lại càng trở nên khu vực đặc biệt khó
khăn hơn.
“Cái thấp nhất, nhỏ nhất trong quản lý không bao giờ được đồng nghĩa với cái
ít quan trọng hơn” [1;183], ít quan trọng hơn so với những cái cao hơn, lớn hơn. Tư
duy so sánh hình thức ở đây đem áp dụng cho vị trí, vị thế của cơ sở là một sai lầm đã
từng xảy ra khi nhận thức về cơ sở và ứng xử với cơ sở. Do đó, nhận thức trước đây về
cơ sở còn nhiều điểm chưa đúng và chưa chính xác về đặc điểm, vai trị của cơ sở
trong đời sống xã hội cũng như trong hoạt động lãnh đạo và quản lý ở cơ sở. Tồn tại
17



này cần sớm được khắc phục để vị trí và tầm quan trọng của cơ sở được khẳng định
trong thực tế đúng như bản thân nó vốn có. Chính thực tiễn đổi mới, nhất là khi đi vào
kinh tế thị trường và vận động dân chủ hoá ngày nay đã mở ra nhiều vấn đề về cơ sở,
đòi hỏi phải đổi mới nhận thức về nó.
Về phương diện nhận thức quản lý, khơng phải vì cơ sở là cấp thấp nhất nên đội
ngũ cán bộ cơ sở bố trí thế nào cũng được. Hiện trạng đội ngũ cán bộ cơ sở nông thôn
(xã) hiện nay, đang yếu kém, bất cập, phần lớn khơng được đào tạo, khơng có chính
sách, chế độ ổn định, hợp lý là hậu quả của nhận thức khơng đúng vì cách tổ chức, bố
trí cán bộ nêu trên. Mỗi cấp trong hệ thống quản lý có vị trí, vai trị, chức năng riêng
của nó. Nhận thức và giải quyết không đúng vấn đề này chẳng những gây trở ngại tới
hoạt động và hiệu quả của cả hệ thống mà còn làm tổn hại trực tiếp tới cơ sở và cả
nước vì mấu chốt của vấn đề là dân và tổ chức cuộc sống của dân sao cho phát triển
sức dân, có lực lượng của dân, tài trí của dân góp sức vào thì mới thực hiện được
những kế hoạch, mục tiêu phát triển xã hội, mới có động lực và nội lực để xây dựng
kinh tế, phát triển văn hoá, đảm bảo sự bền vững của chế độ.
Cấp vĩ mơ - tồn quốc và Trung ương lẽ dĩ nhiên là hết sức quan trọng, bởi đó
là cấp hoạch định đường lối, chiến lược phát triển quốc gia, ảnh hưởng tới toàn bộ sự
phát triển của dân tộc và xã hội. Nhưng cấp cơ sở nông thôn cũng có tầm quan trọng
của riêng nó. Mỗi làng, xã như là mỗi tế bào góp thành cái vĩ mơ của tồn xã hội, như
Hồ Chí Minh nói: Kết cấu nhà - làng - nước là một kết cấu bền vững, định hình từ lâu
trong lịch sử tạo thành sức sống của dân tộc, truyền thống, bản sắc của một nền văn
hoá. Hơn nữa, mỗi một làng xã là một hình ảnh thu nhỏ của xã hội, ở đó diễn ra toàn
bộ hoạt động của đời sống xã hội, liên quan hàng ngày, hàng giờ tới cuộc sống của
người dân. Theo đó, làng xã thực sự là một thực thể kinh tế - xã hội, chính trị và văn
hóa đóng vai trò nền tảng của cả xã hội, là động lực trực tiếp của phát triển xã hội. Nếu
quan tâm tới đời sống của dân, nếu thấm nhuần và nhất quán quan điểm dân là gốc của
nước thì cơ sở thực sự mang nội dung và tính chất vĩ mơ. Thể chế quan liêu trong khi
cách biệt với cơ sở thì nó dẫn đến xa dân nên khơng thấu hiểu cuộc sống của dân, tâm

tư, nguyện vọng của dân với biết bao lợi ích và nhu cầu chính đáng hàng ngày của họ.
Chỉ có thể xây dựng thể chế dân chủ thì cán bộ, cơng chức mới trở thành “cơng bộc
của dân”, gần dân, hiểu dân, học dân, hỏi dân, lãnh đạo và tận tuỵ phục vụ dân trong
sự giúp đỡ, ủng hộ của dân, trong sự kiểm tra giám sát của dân, dân chủ mới không
biến thành “quan chủ”, “quan cách mạng” theo cách nói của Hồ Chí Minh.

18


Trọng dân, tín dân và vì dân đã làm thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá về vị trí,
vai trị của cơ sở khi mà dân và cuộc sống của dân vừa là điểm xuất phát, vừa là mục
tiêu của mọi hoạt động lãnh đạo và quản lý, của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của
HTCT. Do đó, đổi mới nhận thức về vai trò của cơ sở, chúng ta đặc biệt lưu ý tới
những điểm dưới đây:
Cơ sở nông thôn không chỉ là địa bàn cư trú của dân, mà còn là nơi diễn ra mọi
hoạt động sinh sống và làm ăn của nhân dân lao động của đời sống xã hội. Đó vừa là
địa bàn diễn ra các hoạt động sản xuất - kinh doanh của người lao động, của các cơ sở
doanh nghiệp theo các thành phần kinh tế..., vừa là nơi diễn ra trao đổi, lưu thơng hàng
hố, là đầu mối của thị trường, nơi hình thành các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản
xuất và tiêu dùng. Do đó, nói tới cơ sở là nói tới người dân (các chủ thể) và hình thức
tổ chức các hoạt động sống của cộng đồng, các mối quan hệ xã hội. Mỗi cơ sở là một
cộng đồng xã hội, ở đó có hoạt động kinh tế, có giao lưu văn hố và đồng thời tất yếu
phải hình thành nên cộng đồng xã hội - chính trị, bởi có vai trị của quản lý hành chính
của Nhà nước theo pháp luật, nhằm đảm bảo an ninh, trật tự xã hội và tổ chức đời sống
chính trị của các công dân.
Cấp cơ sở nông thôn, không chỉ là cấp thực hiện chức năng quản lý của nhà
nước mà còn là nơi diễn ra các hoạt động tự quản của cộng đồng xã hội. Đây là nét đặc
trưng của nước ta, do đặc điểm và truyền thống lịch sử nên tính cố kết cộng đồng đặc
biệt nổi bật ở cơ sở. Tính chất vừa quản lý, vừa tự quản ở cơ sở thể hiện trong mối
quan hệ giữa xã và bản. Đây là mối quan hệ tác động qua lại, phân công, phối hợp chứ

không phải là sự tách bạch cứng nhắc, siêu hình. Về nguyên tắc, cấp cơ sở có chức
năng quản lý hành chính nhà nước. Nhưng để quản lý trên địa bàn xã thì phải xuống
tận bản làng - đơn vị tự quản cộng đồng. Trưởng bản có thể được UBND xã uỷ nhiệm
cho một số công việc của xã được tổ chức thực hiện trong cộng đồng dân cư ở bản.
Song điều chủ yếu của bản là tự quản. Việc tự quản các hoạt động cũng khơng khép
kín, biệt lập trong từng bản, càng khơng được đối lập với quản lý. Có những công việc
và hoạt động tự quản diễn ra trên quy mơ xã. Do đó, quản lý và tự quản, xã và bản
không được cản trở nhau mà phải phối hợp nhịp nhàng, với một chuẩn mực là tuân thủ
đúng pháp luật. Đây chính là điểm đặc trưng về sự kết hợp và đan xen giữa quản lý với
tự quản, nên cơ sở tuy là một cấp quản lý hành chính nhà nước nhưng lại là một cấp
khơng hồn chỉnh, rõ nhất là ở chỗ, cán bộ cơ sở không phải tất cả đều là công chức
19


nhà nước, theo đúng thể thức bổ nhiệm, điều động, thuyên chuyển của Nhà nước. Ở
nông thôn làng xã, chỉ một số ít chức danh gắn trực tiếp với chuyên mơn như tài chính,
địa chính, thống kê, văn phịng trong UBND xã là cơ quan hành chính của cơ sở mới
xếp theo ngạch cơng chức, cịn đa số là cán bộ dân cử, dân bầu. Cán bộ ở cơ sở là
người sở tại, làm việc tại cơ sở, hàng ngày sinh sống, làm việc và quan hệ trực tiếp với
dân. Trong quan hệ với dân, họ có bị chi phối, ràng buộc rất mạnh mẽ bởi quan hệ họ
hàng, thân tộc, bởi các truyền thống, phong tục, tập quán, lối sống làng xã.
Cơ sở nông thôn vừa là cấp cuối cùng trong quản lý xét theo chức năng và thẩm
quyền, nhưng nó lại vừa là cấp đầu tiên và trực tiếp nhất, là nền tảng xây dựng chế độ
dân chủ của tồn bộ hệ thống chính trị ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH... Vì
cơ sở là nơi diễn ra mọi hoạt động của quần chúng, nơi tổ chức các phong trào xã hội
của quần chúng để triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhằm đưa đường lối, chính sách vào cuộc sống.
Đặc điểm này nói lên vai trị quan trọng đặc biệt của cơ sở. Mọi đường lối, chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước có trở thành hiện thực hay khơng đều tuỳ thuộc vào
việc tổ chức triển khai thực hiện ở cơ sở có chu đáo, cụ thể, có tập hợp được lực lượng

dân chúng hay khơng. Nó liên quan trực tiếp tới HTCT ở cơ sở, tới chất lượng đội ngũ
cán bộ ở cơ sở. Có cán bộ tốt thì mới có phong trào mạnh mẽ, sơi nổi. Từ các phong
trào của quần chúng ở cơ sở mà nảy sinh rất nhiều sáng kiến của dân, xuất hiện những
điển hình tiên tiến của xã hội ở ngay cơ sở, làm cho cán bộ trưởng thành, phát huy
được phẩm chất và năng lực trong cơng tác thực tế, nhờ đó làm tăng uy tín, ảnh hưởng
của Đảng, Nhà nước trong quần chúng. Cơ sở nông thôn chẳng những cung cấp cán bộ
cho phong trào, cho cơ sở và cấp trên, mà cịn là nơi quần chúng chứng thực tính đúng
đắn của đường lối, chủ trương, chính sách hoặc từ thực tiễn cơ sở mà kiểm nghiệm,
phát hiện, điều chỉnh, sửa chữa, làm cho đường lối, chính sách ngày càng phù hợp với
thực tiễn, càng hợp với lòng dân và được lòng dân hơn.
Cơ sở nông thôn là tầng sâu nhất mà sự vận hành của thể chế chính trị từ cấp vĩ
mơ phải tác động tới. Vì cơ sở gắn liền với dân, có quy mơ dân số và diện tích. Do
đó, cơ sở tuy là cấp thấp nhất trong cấp quản lý nhưng lại là tầng sâu nhất trong
quản lý và lãnh đạo, là địa chỉ quan trọng nhất mà mọi chỉ thị, nghị quyết, chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phải tìm đến, phải bằng mọi
cách tổ chức, tuyên truyền, vận động làm cho dân hiểu, dân tin và dân làm.
20


×