Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Luận văn Thạc sĩ Nghiên cứu thành phần hóa học vỏ quả măng cụt xanh (studying the compositon of green fruit hulls of garcinia mangostana L )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.24 MB, 82 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
--------------------Đỗ Văn Đăng
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN HÓA HỌC VỎ QUẢ MĂNG CỤT XANH

(Garcinia Mangostana L.)
Chuyên ngành
Mã số

:
:

Hóa học hữu cơ
60 44 27

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN VĂN ĐẬU

Hà Nội

i


Lời cảm ơn
Tôi vô cùng cám ơn PGS. TS. Nguyễn Văn Đậu đã
giao đề tài hay và hướng dẫn tôi tận tình trong suốt
thời gian làm luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong
phòng Hóa học các hợp chất thiên nhiên, trong Khoa
Hóa học cũng như các anh chị bạn bè trong khoa Hóa
học đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong thời gian làm luận


văn.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn các thành viên trong
phòng Hóa học các hợp chất thiên nhiên đã giúp đỡ
tôi nhiều trong quá trình hoàn thành luận văn.

DANH MỤC BẢNG BIỂU

TÊN BẢNG BIỂU

TRANG

Bảng 1.1

Các xanthon được tách từ vỏ quả măng cụt

09

Bảng 4.

Hiệu suất các phần chiết từ vỏ quả măng

STT
1
2

1

cụt

ii


36


3

4

5

6

7

8

9

Bảng 4.
2
Bảng 4.
3

Bảng 4.4

Bảng 4.
5
Bảng 4.
6
Bảng 4.


Kết quả phân tích cặn chiết điclometan
bằng TLC

Quá trình phân tách cặn chiết điclometan
(GMD) bằng CC

Kết quả phân tích cặn chiết n- BuOH bằng
TLC

Quá trình phân tách cặn chiết n- butanol
(GMB) bằng CC

Các dữ liệu phổ 1H- và 13C NMR của các hợp

chất (D1-4)

39

41

41

50

Kết quả thử hoạt tính chống oxy hóa DPPH

52

Kết quả thử hoạt tính kháng sinh


52

7
Bảng 4.
8

38

DANH MỤC HÌNH VẼ

STT

TÊN HÌNH VẼ

iii

TRANG


Hình ảnh cây măng cụt ( Garcinia

1

Hình 1.1

2

Hình 1.2


3

Hình 1. 3

Khung cơ bản của xanthon

08

4

Hình 2. 1

Sắc ký lớp mỏng

24

5

Hình 2. 2

Sắc ký cột

25

6

Hình 4. 1

Phổ 1H- NMR của D1


44

7

Hình 4. 2

Phổ 1H- NMR của D3

47

8

Hình 4. 3

Phổ 1H- NMR của D4

49

Mangostana L.)

Hình ảnh quả măng cụt ( Garcinia
Mangostana L.)

DANH MỤC SƠ ĐỒ

iv

05

06



ST

TÊN SƠ ĐỒ

T

Quy trình chiết các lớp chất trong vỏ quả

TRANG

1

Sơ đồ 4. 1

2

Sơ đồ 4. 2

Quá trình phân tách cặn GMD

40

3

Sơ đồ 4. 3

Quá trình phân tách cặn GMB


42

măng cụt xanh

v

37


LỜI MỞ ĐẦU

Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, mức sống của
con người ngày càng được nâng cao hơn. Đặc biệt, trong lĩnh vực y – dược học, từ
những năm đầu của thế kỉ XIX, việc kết hợp giữa các phương pháp khoa học kỹ
thuật và các loại thực vật xuất phát từ thiên nhiên đã đưa con người tiến một bước
lớn trong việc phát minh ra nhiều loại thuốc, có khả năng chữa nhiều căn bệnh
được cho là nan y ở các thế kỉ trước đó.
Xanthon là một trong những khám phá mang tính tích cực của con người.
Giới khoa học đang tiếp tục nghiên cứu sâu về các xanthon vì những lợi ích bất
ngờ cho cơ thể con người và khả năng tham gia vào nhiều vấn đề sức khỏe. Trong
công nghệ thực phẩm thì xanthon là thành phần tốt nhất từ trước đến nay mà
chúng ta có được. Nó được ví như một dưỡng chất thực vật đa năng trong lĩnh vực
dinh dưỡng. Bên cạnh đó, xanthon còn mang lại nhiều hoạt tính sinh học, nổi bật
là hoạt tính chống oxy hóa.
Theo như nhiều nguồn thông tin thu thập trên thế giới cũng như trong
nước, thì măng cụt là một trong “mười siêu trái cây”, mệnh danh là ‘’ nữ hoàng
trái cây’’, được xếp vào nhóm thực phẩm chức năng, chứa một lượng lớn các loại
xanthon. Điều này giải thích vì sao từ hàng nghìn năm nay, các chất pha chế từ
quả măng cụt được sử dụng rộng khắp trên toàn thế giới như một phương thuốc
chữa bệnh hay một loại thuốc bổ, có tính chống oxy hóa, kháng khuẩn, kháng

viêm, giảm đau, kháng nấm, giúp hệ tiêu hóa tốt...vv. Gần đây, người ta còn khám
phá ra khả năng chữa bệnh tim, tác dụng bảo vệ gan, mật, hay hơn nữa là chống

1


được các bệnh như ung thư, HIV... Tuy nhiên, điều đặc biệt ở chỗ, các hoạt tính
đó của trái măng cụt xuất phát chủ yếu từ vỏ quả măng cụt – phần mà chúng ta
thường loại bỏ sau khi lấy phần thịt quả.
Cùng với yếu tố Việt Nam là một trong những nước có nguồn măng cụt với
số lượng lớn, phong phú trên thế giới, việc tập trung nghiên cứu, tìm hiểu hóa
dược của trái măng cụt là cần thiết, có lợi, tận dụng được nguồn nguyên liệu sẵn
có. Xuất pháp từ những lý do đó chúng tôi tiến hành nhiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu thành phần hóa học vỏ quả măng cụt xanh (Studying the
compositon of Green fruit hulls of Garcinia Mangostana L.)”
Để góp phần nghiên cứu thành phần hóa học của vỏ quả măng cụt xanh các
nhiệm vụ được đặt ra:
- Xây dựng phương pháp chiết hiệu quả với vỏ quả măng cụt xanh.
- Khảo sát định tính và phân tách các chất từ vỏ quả măng cụt xanh.
- Xác định cấu trúc các chất phân lập được từ vỏ quả măng cụt xanh
- Thử hoạt tính chống oxi hóa và kháng sinh đối với một số chất phân lập
được.

2


CH ƯƠNG 1. TỔNG QUAN

1.1. Vài nét về họ bứa (Clusiaceae) .
1.1.1. Đặc điểm thực vật

Họ Bứa hay họ măng cụt có danh pháp khoa học: Clusiaceae (còn gọi là
Guttiferae, được Antoine Laurent de Jussieu đưa ra năm 1789), là một họ thực vật
có hoa bao gồm khoảng 27-28 chi và 1050 loài các cây thân gỗ hay cây bụi, thông
thường có nhựa trắng như sữa và quả hay quả nang để lấy hạt[3].
Đặc điểm thực vật: cây gỗ hay cây bụi thường xanh, cành thường mọc
ngang. Trong thân và lá có ống tiết nhựa mủ màu vàng. Lá mọc đối đơn, nguyên,
không có lá kèm. Gân cấp hai thường gần thẳng góc với gân chính. Hoa đều, nhỏ,
thường đơn tính hoặc vừa đực vừa hoa lưỡng tính trên cùng một cây. Mọc đơn độc
hay họp thành cụm hoa. Đài 2-6 tồn tại dưới quả. Tràng 2-6 cánh dễ rụng nhị
nhiều, tự do hay dính lại thành bó. Bộ nhụy gồm 3-5 lá, noãn tạo thành bầu trên.
Quả khô mở vách hay quả thịt.
Họ bứa được phân bố đều trên toàn thế giới, tập trung chủ yếu ở các vùng
có khí hậu nhiệt đới, ngoại trừ 2 chi Hypericum và Triadenum phân bố ở Trung
Quốc. Nhiều loài trong số đó đã mang lại nhiều lợi ích cho các quốc gia. Ví dụ
như làm vật liệu xây dựng, dược phẩm, thuốc nhuộm, nhựa, mỹ phẩm (lấy tinh
dầu), đặc biệt có những loài là trái cây bổ dưỡng cho con người (măng cụt, táo

3


mammey) và được coi là một loại thuốc cổ truyền.
1.1.2. Một số chi trong họ bứa (Clusiaceae)
Họ Bứa có 4 chi quan trọng sau:
Thứ nhất, chi bứa (Garcinia) có nguồn gốc ở Châu Á, Australia, vùng nhiệt
đới và miền nam Châu Phi và Polynesia. Chi này có khoảng 50–300 loài cây thân
gỗ hay cây bụi thường xanh, hoa khác gốc và một vài loài có thể sinh sản vô tính.
Tên gọi garcinia lấy theo tên của nhà thực vật học Laurence Garcia, người đã sưu
tập các mẫu cây cỏ và sống tại Ấn Độ vào thế kỷ 18.
Thứ hai, chi Calophyllum (theo tiếng Hy Lạp nghĩa là lá đẹp) có khoảng
180–200 loài. Chi này có nguồn gốc từ Madagascar, Đông Phi, phía Nam và Đông

Nam Á (từ hướng Đông Pakistan cho tới Việt Nam và Indonesia), những hòn đảo
Thái Bình Dương và Mỹ La Tinh.
Thứ ba, chi Clusia gồm có khoảng 140–150 loài, phân bố chủ yếu ở các
vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, thường là các cây bụi hay cây leo (bò), có chiều
cao từ trung bình lên tới 20m, với tán lá xanh. Một số loài bắt đầu cuộc sống như
những thực vật biểu sinh, rồi phát triển những gốc dài mà đi xuống tới nền, dần
dần làm nghẹt và giết chết cây chủ, rất giống với cây đa.
Thứ tư, chi Mammea gồm khoảng 50 loài, được phân bố rải rác trên thế
giới. Chúng được tìm thấy ở vùng nhiệt đới của Mỹ và Tây Ấn Độ, Châu Phi,
Madagascar; Indonexia, Malaysia và Thái Bình Dương. Quả chỉ có một hạt, ăn
được.
1.2. Cây măng cụt (Garcinia mangostana L.)
Măng cụt có tên tiếng Anh, Mỹ là mangosteen; Pháp: Mangoustanier;
Trung Quốc: Sơn trúc tử; Thái Lan: Mankhut[2- 4].
1.2.1. Đặc điểm thực vật
Cây cao 6-25m, thân lớn, đường kính có thể lên đến 25-35cm, có nhựa

4


vàng. Lá dày cứng, mọc đối, không lông, mặt dưới có màu nhạt hơn mặt trên. Hoa
đa tính, thường có hoa cái và hoa lưỡng tính. Hoa lưỡng tính có cuống có đốt, 4 lá
đài, 4 cánh hoa màu trắng, 16-17 nhị và bầu 5-8 ô. Quả tròn mang đài tồn tại có vỏ
quả rất dai, xốp, màu đỏ như rượu vang chứa 5-8 hạt, quanh hạt có lớp áo hạt
trắng, ngọt ngon. [4]
1.2.2. Nguồn gốc và phân bố
Măng cụt được khai hóa đầu tiên ở Thái Lan hoặc My-an-mar, cách đây ít
nhất 2000 năm, và sau đó được mở rộng sang những vùng nhiệt đới khác. Hiện có
khoảng 10 loài khác nhau được trồng để lấy quả. Cây măng cụt ưa khí hậu nóng
ấm. Ở Việt Nam loài cây này được trồng phổ biến ở đồng bằng Sông Cửu Long và

Đông Nam Bộ, nhiều nhất ở Lái Thiêu, Thủ-Dầu-Một. Ở các nước Đông Nam Á,
măng cụt được trồng nhiều tại Thái Lan, Cam-pu-chia, My-an-mar, Sri Lanka và
Phi-lip-pin.
Măng cụt cho trái sau 10–15 năm trồng nhưng cây có thể sống trên 50
năm. Cây tốt có thể cho trái sau 7–8 năm trồng (vùng Lái Thiêu, Thủ-Dầu-Một,
Việt Nam). Tại miền nam nước ta, măng cụt trổ hoa vào tháng 1 – 2 dương lịch và
bắt đầu thu trái từ tháng 5 đến tháng 8 dương lịch[4].

5


Hình 1.1 Hình ảnh cây măng cụt ( Garcinia Mangostana L.)

6


Hình 1.2 Hình ảnh quả măng cụt ( Garcinia Mangostana L.)
1.2.3. Hóa thực vật của cây măng cụt
1.2.3.1. Tinh dầu [2, 3]
Hương thơm của trái măng cụt có được là do nó có chứa một số lớn các
chất dễ bay hơi. Điều này được xác định thông qua GC-MS sử dụng EI-MS.
Sắc ký lỏng hiệu năng cao(HPLC) phát hiện trong tinh dầu măng cụt có 52

7


chất chính, trong đó khoảng 28 chất đã được xác định. Thành phần thơm quan
trọng nhất là hexyl acetate (7,80 %), cis-hex-3-enyl acetate (1,40%) và cis-hex-3en-1-ol (27,27 %). Các chất còn lại tuy chiếm thành phần ít hơn nhưng cũng đóng
góp tạo nên hương vị của trái măng cụt, phức tạp và thoảng qua: mùi trái cây
(hexenal, hexanol, α-bisabolen), mùi xoài (α-copaen), mùi hoa nhài (furfuryl

methylceton), mùi huệ dạ hương (phenyl axetaldehit), mùi cỏ (hexenol, hexanal),
mùi cỏ héo (pyridin), mùi lá ướt (xylen), mùi hoa khô (benzaldehit), mùi hồ đào
(δ-cadinen)... Axeton, ethyl xyclohexan đóng góp tính chất dịu ngọt trong lúc
toluen, α-terpinol đem lại mùi đường thắng, methyl butenol, guaien mùi dầu,
valenxen đặc biệt mùi mứt cam.
1.2.3.2. Các axit phenolic được tách ra từ quả măng cụt
Theo các nghiên cứu trước đây, đã có khoảng 10 axit phenolic (chủ yếu là
các dẫn xuất của axit hydroxybenzoic) được xác định trong cây măng cụt thông qua
GC-MS. Ngoài một số axit như vanillic, veratric, caffeic, p-coumaric, ferulic, phydroxyphenylaxetic, benzoic, cinnamic, mandelic... thì nổi trội lên là một số axit
phenolic có hàm lượng lớn hơn hẳn ở các bộ phận khác nhau của cây măng cụt như:
axit protocatechuic (vỏ quả và vỏ cây); axit p-hydroxybenzoic (áo hạt); axit mhydroxybenzoic (vỏ quả); 3,4–dihydroxymandelic (vỏ cây) [8, 28,37,49].
3,4
dihydroxymandelic
axit protocacheuic



O

OHOH
OH

HO
O

HO

OH

O


OH

axit p-hydroxybenzoic

OH

axit m-hydroxybenzoic
HO

1.2.3.3. Các xanthon được tách ra từ vỏ quả măng cụt
Trái măng cụt đã được chỉ ra là có chứa một lượng lớn các chất chuyển hóa
thứ cấp như là prenyl xanthon và oxygen xanthon[13,14, 28, 49].

8

OH


Xanthon hay xanthen-9H-one là chất chuyển hóa thứ cấp được tìm thấy
trong một số họ thực vật lớn, nấm và địa y. Chúng là một trong những ngành quan
trọng của hợp chất dị vòng được oxy hóa. Khung cơ bản của xanthon được biết
đến như 9-xanthenone hay dibenzo-γ-pyron và được sắp xếp một cách cân đối
(hình 3). Các nguyên tử cacbon được đánh số theo sự thuận tiện của tổng hợp sinh
học. Các nguyên tử cacbon ở vị trí từ 1-4 được đánh số theo vòng B có nguồn gốc
từ shikimate, và cacbon từ 5-8 được đánh số theo vòng A có nguồn gốc từ axetat.
[15, 27].

Hình 1.3 Khung
cơ bản của

xanthon
Xanthon
được

phân

thành năm nhóm: xanthon oxy hóa đơn giản, xanthon glycosid, prenyl xanthon,
xanthonolignoid và xanthon miscellaneous. Trong đó, các xanthon oxy hóa đơn
giản lại được chia nhỏ thành 6 nhóm theo mức độ oxy hóa[9, 15, 23, 30, 38].
Năm mươi xanthon đã được tách ra từ vỏ quả măng cụt. Hợp chất đầu tiên
trong số chúng được đặt tên là mangostin (1) (sau được đổi thành α-mangostin),
được tách ra vào năm 1855 (Schmid, 1855). Chất này mang màu vàng, thu được
từ vỏ hoặc nhựa khô của cây măng cụt (Dragendorff, 1930).
Sau này, Dragendorff (1930) và Murakami (1932) đã làm sáng tỏ cấu trúc
của mangostin. Yates và Stout (1958) đã đưa ra công thức phân tử, phân loại và vị
trí của các nhóm thế của α-mangostin. Hơn thế nữa, Dragendorff (1930) cũng đã
tách được β-mangostin (2), cấu trúc của hợp chất này vẫn chưa được làm sáng tỏ
cho đến năm 1968 (Yates và Bhat, 1968). Jefferson (1970) và Govindachari và
Muthukumar-aswamy (1971) cũng tách được α và β-mangostin.

9


Một

số

xanthon khác được
tách ra từ vỏ quả
măng


cụt

được

trình

bày

trong

bảng 1.
Bảng 1.1 Các xanthon được tách từ vỏ quả măng cụt.
STT

Tên hợp chất

Công thức cấu
tạo

Tài liệu tham
khảo

1

γ-mangostin

(3)

[5]


2

Gartanin

(4)

[16]

3

8-deoxy gartanin

(5)

[16]

4

garcinone A

(6)

[17]

5

garcinone B

(7)


[17]

6

garcinone C

(8)

[17]

7

garcinone D

( 9)

[19]

8

garcinone E

( 10)

[19]

9

BR-xanthon A


(11)

[25]

10

BR-xanthon B

(12)

[25]

11

Mangostingone

(13)

[32]

12

garcimangosones B

(14)

[39]

13


tovophyllin A

(15)

[39]

14

Mangostenone C

(16)

[40]

15

Mangostenone D

(17)

[40]

16

Mangostenone E

(18)

[40]


17

Thwaitesixanthon

(19)

[40]

18

Demethylcalabaxanthon

(20)

[40]

19

Mangostanol

(21)

[40]

10


20


Mangostanin

(22)

[40]

21

11-hydroxy-1-isomangostin

(23)

[40]

22

tovophyllin B

(24)

[42]

23

Trapezifolixanthon

(25)

[42]


24

cudraxanthon G

(26)

[47]

25

8-hydroxycudraxanthon G

(27)

[47]

26

1-isomangostin

(28)

[47]

27

Smeathxanthon A

(29)


[47]

Theo nhiều báo cáo, α, β và γ-mangostin, gartanin, 8-deoxy gartanin,
garcinone E là những xanthon được nghiên cứu nhiều nhất do mang nhiều hoạt tính
sinh học.

11


12


1.3. Công dụng và các hoạt chất sinh học
1.3.1. Ứng dụng trong y học dân gian
Trái măng cụt thơm ngon cũng còn cống hiến nhiều môn thuốc. Từ lâu, ở
Á châu, bên Ấn Độ, hệ thống y học ayurvedic đã kê nó vào nhiều thang thuốc cổ
truyền, đặc biệt chống viêm, chữa tiêu chảy, ức chế dị ứng, làm giãn phế quản
trong cuộc điều trị hen suyễn. Nó cũng được xem như là thuốc chống dịch tả, bệnh
lỵ, kháng vi khuẩn, kháng vi sinh vật, chống suy giảm miễn dịch. Người Thái

dùng nó để chữa vết thương ngoài da. Người Malaysia, Philipin dùng nước sắc
vỏ chữa lỵ, đau bụng, đi tiêu lỏng, bệnh vàng da. Ngoài ra, người ta còn dùng lá
và vỏ cây măng cụt sắc lấy nước làm thuốc hạ nhiệt, điều trị bệnh tưa miệng ở trẻ
em, nấm candida ở phụ nữ và rối loạn đường tiết niệu. Rễ cây măng cụt sắc lấy
nước uống giúp điều hòa kinh nguyệt. Nước sắc vỏ quả cũng được dùng làm nước
rửa âm đạo trong trường hợp bị bệnh bạch đới, khí hư[3].
Tinh dầu trích từ vỏ măng cụt được dùng để chữa bệnh eczema (chàm bội
nhiễm) và các rối loạn về da khác.
Vỏ măng cụt đem sắc lấy nước uống còn chữa được viêm bàng quang, và
dùng ngoài da để chữa bệnh lậu, ung nhọt.

Theo Đông y, vỏ quả măng cụt có vị chua chát, tính bình, đi vào hai kinh
phế và đại tràng, có công năng thu liễn, sáp trường, chi huyết, dùng trị tiêu chảy,
ngộ độc chất ăn, khi bệnh thuyên giảm thì thôi, dùng lâu sinh táo bón. Sau đây là
một số bài thuốc từ quả măng cụt: chữa tiêu chảy, kiết lỵ, tiêu độc, chữa rối loạn
tiêu hóa.
- Lấy khoảng mười cái vỏ cho vào một nồi đất, đậy thật kín bằng một tàu
lá chuối. Sau đó đun sôi cho đến khi nước có màu thật sẫm, uống mỗi ngày 3-4
chén.
- Ở vùng nóng người ta còn phối hợp với các vị thuốc khác; bài 1: vỏ Măng

13


cụt khô 60g, hạt Mùi 5g hạt thìa là 5g đem sắc với 1200ml nước. Ðun sôi kỹ, còn
lại 600ml chiết ra để uống, ngày hai lần, mỗi lần 120ml. Nếu là người lớn, đau
bụng, có thể thêm thuốc phiện; bài 2: vỏ quả măng cụt (1 quả), rau sam, rau má,
cỏ mực mỗi thứ 20 gam, cỏ sữa lá nhỏ (hoặc lớn), rễ cây mua mỗi thứ 8 g, cam
thảo đất, vỏ quýt, gừng tươi mỗi vị 4 g, thêm 1 lít nước, sắc còn phân nửa, uống
trong ngày.
- Lấy một nắm vỏ khoảng 50g, đem cắt ra từng khoanh, cho vào nồi đất với
hai bát nước, sắc như sắc thuốc, đun nhỏ lửa cho sôi từ 15-30 phút. Sau đó để
nước âm ấm, chiết lấy nước uống làm nhiều lần, mỗi lần độ 1 ly nhỏ. Thuốc sắc
ngày nào thì uống trong ngày đó, có thể thêm đường để uống và đỡ khát.
- Lấy vỏ quả măng cụt thái nhỏ, phơi khô, tẩm rượu, sao thơm rồi tán thành
bột mịn. Khi ăn phải những thức ăn ôi thiu gây rối loạn tiêu hóa, ăn không tiêu, đi
tả, nôn mửa... nên lấy ngay một thìa bột thuốc nói trên hòa với nước đun sôi, cho
thêm ít muối trắng, uống ngay lúc nước còn nóng sẽ thấy đỡ.
1.3.2. Các hoạt tính sinh học của cây măng cụt (Garcinia mangostana L.)
1.3.2.1. Hoạt tính chống oxy hóa [13,22,24, 26, 41]
Năm 1994, Yoshikawa và các cộng sự thực hiện phương pháp dọn gốc 2,2diphenyl-1-picrylhydrazyl (DPPH) đối với phần chiết metanol từ vỏ quả măng cụt.

α và β mangostin đã chỉ ra hoạt tính chống oxy hóa thông qua sử dụng phương
pháp sắt thiocyanat. Năm 1995, Williams và các cộng sự đã phát hiện ra αmangostin làm giảm quá trình oxy hóa LDL (low density lipoproteins) đối với con
người, được cảm ứng bởi đồng hay gốc peroxyl. Họ cũng phát hiện ra rằng αmangostin, thứ nhất là kéo dài thời gian chậm trế của các đien liên hợp ở 234 nm
theo liều lượng, thứ hai là giảm bớt quá trình sản xuất TBARS (thiobarbituric
reactive substances), và thứ ba là làm giảm khả năng tiêu thụ α-tocopherol, được
cảm ứng bởi sự oxi hóa LDL. Sau đấy, năm 2000, Mahabusarakam và các cộng sự
cũng nhận ra rằng α-mangostin và những dẫn xuất tổng hợp từ đó ngăn cản quá

14


trình giảm mức tiêu thụ α-tocopherol, được cảm ứng bởi sự oxy hóa LDL. Những
tác giả này cũng nhận ra rằng sự thay đổi cấu trúc của α-mangostin cũng làm thay
đổi hoạt tính chống oxy hóa. Cụ thể, sự thay thế giữa C-3 và C-6 với dẫn xuất
aminoethyl làm tăng hoạt tính; bất kỳ sự thay thế nào cùng với các nhóm metyl,
axetat, propanediol hay nitrile đều khử hoạt tính chống oxy hóa.
Mặt khác, Leong và Shui (2002) đã so sánh toàn bộ khả năng chống oxy
hóa của 27 loại trái cây có giá trị trên thị trường Singapo, bao gồm cả măng cụt, có
sử dụng phép phân tích ABTS và DPPH; và họ chỉ ra rằng các chất tách ra từ trái
măng cụt có vị trí thứ 8 về hiệu quả chống oxy hóa.
Năm 2006, Weecharangsan và các cộng sự đã nghiên cứu hoạt tính chống
oxy hóa và bảo vệ thần kinh của bốn phần chiết thu được từ vỏ trái măng cụt (bao
gồm: nước, 50 % etanol, 95 % etanol, và etyl axetat). Khả năng chống oxy hóa
được đánh giá dựa vào phương pháp DPPH sử dụng 1, 10, 50 và 100 μg/mL ở mỗi
phần chiết. Phần chiết từ nước và etanol (50 %) chỉ ra khả năng chống oxy hóa
cao (nồng độ ức chế theo thứ tự định sẵn ở 50 % (IC 50) là 34,98 ± 2,24 và 30,76 ±
1,66 μg/mL). Khả năng chống oxy hóa của những phần chiết này được kiểm
nghiệm trên dòng tế bào ung thư ngoài sọ (neuroblastoma – NG108-15) thông qua
H2O2; cả 2 phần chiết đều bộc lộ tính bảo vệ thần kinh khi được sử dụng ở nồng
độ 50 μg/mL. Phần chiết chứa 50 % etanol có tính bảo vệ thần kinh cao hơn phần

chiết nước. Gần đây hơn, năm 2007, Chomnawang và các cộng sự đã chỉ ra là cặn
chiết etanol từ măng cụt sở hữu hoạt tính chống oxy hóa đáng kể, được xác định
thông qua sự ức chế về thông tin của các gốc DPPH là 50 %. Phần tách ra này đã
thể hiện chỉ số IC50 ở 6,13 μg/mL bằng cách so sánh với các cặn etanol của
Houttuynia cordata, Eupatorium odoratum và Senna alata (theo thứ tự IC50 là
32,53, 67,55 và 112,46 μg/mL). Thêm vào đó, phần chiết từ trái măng cụt khử
được đáng kể sản phẩm ROS (reactive oxygen species) của PML
(polymorphonuclear leucocytes) với 77,8 % tỉ lệ ức chế superoxide anion, theo thứ
tự là 62,6 %, 44,9 % và 35,18 %. Cũng trong năm 2007, Haruenkit và các cộng sự
đã chỉ ra tính chống oxy hóa của măng cụt dựa vào phân tích DPPH và ABTS. Họ

15


đã tìm ra chỉ tiêu của các chất tương đương trolox trên 100 g tính theo khối lượng
tươi, theo các phân tích DPPH và ABTS lần lượt là 79,1 và 1268,6 μM. Bên cạnh
đó, với các loài chuột được cho ăn theo khẩu phần ăn kiêng cơ bản bổ sung thêm
1% cholesterol cộng với 5% măng cụt thì sự tăng thể huyết tương và sự giảm tính
chống oxy hóa được thấy rõ với việc ngăn cản mỗi cholesterol.
Năm 2004, Moongkarndi và các cộng sự đã chỉ ra rằng phần chiết từ măng
cụt làm giảm hiệu quả quá trình sản xuất ROS nội bào, thông qua phương pháp
DCFH-DA (2,7-dichlorofluorescein diacetate) trong dòng tế bào SKBR3.
Năm 2008, Chin và các cộng sự đã nghiên cứu khả năng hoạt động loại bỏ
HO. của các xanthon tách ra từ măng cụt. Trong số 16 xanthon được kiểm nghiệm
chỉ có duy nhất γ-mangostin có khả năng này (IC50 0,2 μg/mL). Sau đó, họ cũng
kiểm tra các xanthon tương tự thông qua quá trình cảm ứng của khử quinone ( QR,
phase II drug-metabolizing enzyme), thử nghiệm trên các tế bào murine hepatoma.
Tất cả các xanthon, ngoại trừ α-mangostin đều gây cảm ứng với hoạt động khử
QR. Nồng độ làm gấp đôi giá trị hoạt động cảm ứng QR của các hợp chất trên lần
lượt là: 1,3 μg/mL ( 1,2-dihydro-1,8,10-trihydroxy-2-(2-hydroxypropan-2-yl)-9(3-methylbut-2-enyl)furo[3,2-a]xanthen-11-one),


2,2

μg/mL

(6-deoxy-7-

demethylmangostanin), 0,68 μg/mL (1,3,7-trihydroxy-2,8-di-(3-methylbut-2enyl)xanthon, 0,95 μg/mL (mangostanin).
1.3.2.2. Hoạt tính kháng ung thư
Rất nhiều nghiên cứu cho thấy xanthon trong vỏ măng cụt có hoạt tính
chống ung thư[13,31]. Các loại dòng tế bào như: Dòng tế bào ung thư biểu mô gan,
dòng tế bào ung thư vú ở người SKBR3 và dòng tế bào bạch cầu ở người được sử
dụng.
Năm 2002, Ho và các cộng sự đã nhận ra rằng garcinone E gây hiệu quả
độc tố tế bào rất mạnh mẽ trên dòng tế bào ung thư biểu mô gan. Họ đã nghiên
cứu hiệu quả độc tố tế bào của 6 xanthon được tách ra từ vỏ quả măng cụt và nhận
thấy rằng garcinone E là độc tố tốt nhất. Chính vì vậy, garcinone E được thử

16


nghiệm chống lại các dòng tế bào ung thư gan HCC36, TONG, HA22T, Hep3B,
HepG2 và SK-Hep-1; dòng tế bào ung thư phổi NCI-Hut 125, CH27 LC-1, H2891
và Calu-1; dòng tế bào ung thư dạ dày AZ521, NUGC-3, KATO-III và AGS.
Garcinone E đã tỏ rõ sự phân bố lớn về hiệu quả phụ thuộc liều lượng và thời gian
độc tố tế bào chống lại các dòng tế bào ung thư khác nhau; ngoại trừ tế bào ung
thư phổi CH27 LC-1, tất cả các dòng tế bào được kiểm nghiệm đều bị tiêu diệt.
Chỉ số về liều lượng gây chết người ở garcinone 50% (LD50) chống lại các dòng tế
bào trên là khoảng từ 0,1–5,4 μM. Hiệu quả chống ung thư của garcinone E theo
thứ tự là như sau: SK-hep-1 > HA22T > HepG2 > Hep3B > HCC36.

Năm 2003, Matsumoto và các cộng sự đã nghiên cứu ảnh hưởng của 6
xanthon (α, β và γ-mangostin, mangostinone, garcinone E và 2-isoprenyl-1,7dihydroxyl-3-methoxy xanthon) được tách ra từ vỏ quả măng cụt với khả năng ức
chế sự phát triển tế bào của dòng tế bào mắc bệnh bạch cầu ở người HL60. Họ đã
khảo sát hiệu quả độc tố tế bào 72h tính từ sau khi ủ bệnh với các xanthon ở 5 hay
40 μM. Tất cả các xanthon đã chỉ ra hiệu quả ức chế hoàn toàn, nhưng α, β và γmangostin hiệu quả hoàn toàn từ 10 μM trở đi. Hợp chất có hàm lượng lớn nhất
trong cặn là α-mangostin, đó cũng là chất có hoạt tính ức chế cao nhất (IC 50 10
μM). Sau này, α- mangostin được phát hiện ra là có cả hiệu quả đối với các dòng
tế bào mắc bệnh bạch cầu khác: K562, NB4 và U937. Những dòng tế bào này
thường bị α- mangostin ức chế ở 5–10 μM.
Năm 2005, Matsumoto và các cộng sự đã nghiên cứu khả năng chống tăng
trưởng của 4 prenyl xanthon (α, β, γ-mangostin và methoxyl-β- mangostin) trên tế
bào ung thư ruột người DLD-1. Ngoại trừ methoxyl-β- mangostin, 3 xanthon còn
lại ức chế mạnh mẽ sự phát triển tế bào ở 20 μM và 72h; khả năng chống ung thư
của chúng phụ thuộc vào số nhóm hydroxy.
Năm 2006, Suksamrarn và các cộng sự đã tách được 3 prenyl xanthon mới
từ vỏ quả măng cụt (mangostenones C, D và E), cùng với 16 xanthon được biết
đến trước đó. Khả năng gây độc tố tế bào của các xanthon này được kiểm nghiệm

17


chống lại 3 dòng tế bào ung thư khác nhau: ung thư biểu bì mồm (KB), ung thư vú
(BC-1), và ung thư phổi (NCI-H187). Mangostenone C đã được chứng minh hiệu
quả độc tố tế bào chống lại 3 dòng tế bào này, với IC 50 theo thứ tự là 2,8, 3,53,
3,72 μg/mL. Tuy nhiên, α-mangostin hiệu quả nhất với tế bào BC-1 (IC 50 0,92
μg/mL), tốt hơn thuốc ellipticine (IC50 1,46 μg/mL); α-mangostin cũng có hiệu quả
độc tố tế bào chống lại tế bào KB (IC 50 2,08 μg/mL); và gartanin cũng có thể ức
chế sự tăng trưởng của NCI-H187 (IC50 1,08 μg/mL).
Năm 2007, Nakagawa và các cộng sự đánh giá hoạt tính của α-mangostin
thông qua thí nghiệm với các tế bào DLD-1. Kết quả là số lượng tế bào quan sát

được bị giảm đi nhờ xử lý với mangostin 20 μM. Hiệu quả càng rõ rệt hơn khi xử
lý kết hợp giữa mangostin 2,5 μM với 5-fluorouracil 2,5 μM (5-FU).
Tóm lại, các kết quả chỉ ra rằng α-mangostin và các chất tương tự có thể sẽ
là những “ ứng cử viên” trong việc chữa và điều trị ung thư.
1.3.2.3. Hoạt tính chống viêm và chống dị ứng
Có những bằng chứng về khả năng chống viêm và chống dị ứng của măng cụt
trên những mẫu thí nghiệm khác nhau, ví dụ như tế bào RBL-2H3 (2002) và tế bào u
thần kinh đệm ở chuột (2002, 2004, 2006), động mạch chủ ở ngực loài thỏ và khí
quản ở chuột lang (1996) và vài mẫu thí nghiêm trên loài gặm nhấm (1979, 2004)
[11- 13,18,20,21,33-36, 43-48].
Năm 1979, Shankaranarayan và các cộng sự đã tạo ra các dẫn xuất tổng
hợp từ xanthon (3-O-methyl mangostin, 3,6-di-O-methyl mangostin, mangostin
triaxetat,

1-isomangostin,

mangostin-3,6-di-O-(tetra

axetyl)-glucosid



mangostin-3,6-di-O-glucosid) từ α-mangostin, được sử dụng trong nghiên cứu
dược lý, cũng giống như α-mangostin. Khả năng hoạt động trong miệng và bụng
(50 mg/kg) của α-mangostin, 1-isomangostin và mangostin triaxetat đã thể hiện
hoạt tính chống viêm trên các loài gặm nhấm, được kiểm nghiệm khi dùng chích
qua màng phúc mô hay khi cho uống nơi chuột bị gây phù chân bằng carrageenan,

18



hay bằng cách cấy cục bông gòn dưới da. Các chất này không có hiệu ứng ổn định
màng tế bào. Trong phần tác dụng lên hệ trung ương, chúng ta thấy mangostin ức
chế tổng hợp COX-2, đó cũng là một cơ chế chống viêm.
Năm 2002, Nakatani và các cộng sự sử dụng dịch chiết etanol 100 %, 70
%, 40 % và nước, tìm thấy dung dịch etanol 40% ức chế phóng thích histamin qua
trung gian IgE. Dung dịch này cũng ức chế tổng hợp prostaglandin E-2 (PGE-2).
Phản ứng phản về qua da thụ động bị ức chế đáng kể bởi dịch chiết 40%. Tác
dụng chống dị ứng của dung dịch này mạnh hơn dung dịch một loại cây ngấy
(Rubus suavissimus) thường dùng ở Nhật.
Gần đây, năm 2008, Chen và các cộng sự đã chứng minh rằng α và γmangostin ức chế hiệu quả quá trình sản xuất NO . và độc tố tế bào đến các tế bào
RAW 264,7. Số lượng sản xuất NO . ở 3 đến 25 μM được xác định liên lục, chỉ số
IC50 đối với α và γ-mangostin là 12,4 và 10,1 μM. Hai hợp chất là α và γmangostin cũng khử một cách hiệu quả quá trình tổng hợp PGE 2 (IC50 11,08 và
4,5 μM). Hiệu quả của những xanthon này được thông qua bằng cách xác định sự
cảm ứng của iNOS (nitric oxide synthase) và enzym COX.
Cơ quan cảm nhận IgE gây hoạt động truyền tính trạng tín hiệu trong tế
bào, dẫn tới sự giải phóng chất trung gian gây bị viêm, ví dụ như histamin. Đây
chính là khả năng quan trọng nhất trong vài giả thiết về dị ứng. Dựa trên những
thông tin đó, Itoh và các cộng sự (2008) đã giải thích rằng các xanthon được tách
ra từ quả măng cụt (α, β và γ- mangostin), ngăn cản quá trình mất hạt nhỏ của
bạch cầu trong hoạt động Ag gián tiếp của IgE trên tế bào bạch cầu RBL-2H3 ở
chuột. Các tác giả này cũng giải thích rằng cơ chế ức chế của quá trình mất hạt
nhỏ nhờ xanthon là do sự ngăn cản của đường chạy SYK/PLCγs/PKC.
Tất cả những dữ liệu kể trên chỉ ra rằng các xanthon được tách ra từ quả
măng cụt có thể là một mục tiêu mới về các hợp chất chống viêm và chống dị ứng.

19


1.3.2.4. Hoạt tính chống khuẩn, chống nấm và chống virut [13,18]

Năm 1983, Sundaram và các cộng sự đã nghiên cứu hoạt tính chống vi
khuẩn và chống nấm của α–mangostin và 4 dẫn xuất của nó. Họ nhận thấy rằng vi
khuẩn S. aureus, P. aeruginosa, Salmonella typhimurium và Bacillus subtilis dễ bị
tổn thương cao đối với các xanthon này; ngược lại các vi khuẩn Pro-teus sp,
Klebsiella sp và Escherichia coli chỉ bị tổn thương ở một mức độ nào đấy. Về
nấm, α–mangostin và 4 dẫn xuất của nó có tác dụng ức chế mạnh mẽ với các loại
Epidermophyton floccosum, Alternaria solani, Mucor sp., Rhizupus sp. và
Cunninghamella

echinulata,

ngược

lại

Trichophyton

mentagrophytes,

Microsporum canis, Aspergillus niger, Aspergillus flavus, Penicillium sp.,
Fusarium roseum và Curvularia lunata chỉ bị tổn thương nhẹ. Nồng độ ức chế tối
thiểu (MIC, nồng độ thấp nhất của hợp chất chống vi khuẩn gây ức chế sự tăng
trưởng có thể quan sát được của vi sinh vật sau giai đoạn ủ bệnh) của α–mangostin
là giữa 12,5 và 50 μg/mL đối với vi khuẩn, giữa 1 và 5 μg/mL đối với nấm. Sự
sắp xếp về khả năng kháng khuẩn và kháng nấm như sau: α–mangostin >
isomangostin > 3-O-metyl mangostin > 3,6-di-O-metyl mangostin. Mangostin
triaxetat không có hoạt tính.
Năm 1986, Mahabusarakam và các cộng sự đã điều tra về hoạt tính chống
khuẩn của mangostin, gartanin, γ-mangostin, 1-isomangostin và 3-isomangostin
được tách từ trái măng cụt chống lại S. aureus, cả chủng bình thường lẫn chủng

kháng penicillin. Chỉ số MIC (μg/mL) của các hợp chất được sắp xếp theo thứ tự
sau: đối với các chủng bình thường là methicillin (3,9) > α–mangostin (15,6) > γmangostin (31,2) > 1-isomangostin (62,5) > 3-isomangostin (125) > gartanin
(250); đối với các chủng kháng penicillin là α–mangostin (1,56-12,5) > methicillin
(1,56-12,5) > 1-isomangostin (125) > 3-isomangostin (250), γ-mangostin (250) và
gartanin (250). Thêm vào đó, hoạt tính của mangostin, gartanin và γ-mangostin
chống lại Candida albicans, Cryptococcus neoformans, T. mentagrophytes và
Microsporum gypseum cũng được kiểm nghiệm; kết quả là có hoạt tính trung bình
chống lại T. mentagrophytes, Microsporum gypseum nhưng lại không thể hiện

20


×