Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tình hình thị trường gạo việt nam từ 1995 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.65 KB, 20 trang )

Tự do hóa thị trường nông nghiệp đã trở thành chủ đề của nhiều nghiên cứu bởi IFPRI và các tổ chức nghiên
cứu khác. Gần đây và sắp tới IFPRI lại báo cáo tìm kiếm trên chủ đề này bao gồm các nghiên cứu về thị trường
ngô tại Philippin Meyra Mendoza và Mark Rosegrant, Hiệp định Thương mại tự do ASEAN Dean DeRosa, tự
do hóa thị trường lạc ở Senegal bởi Ousmane Badiane et al., và cải cách thị trường lúa mì Ai Cập của Mylène
Kherallah et al.
Trường hợp của tự do hóa thị trường lúa gạo ở Việt Nam khá thú vị và khác biệt theo ba cách. Thứ nhất, Việt
Nam đang trong giai đoạn của một quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế định hướng thị
trường. Sự thành công của quá trình này trong việc kích thích tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu gạo đã tạo ra
một tình huống trong đó các nhà hoạch định chính sách và nghiên cứu chỉ có hình ảnh một phần của hệ thống
thị trường lúa mới. Thứ hai, gạo vừa là nông sản xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam vừa chiếm ưu thế
lương thực. Vai trò kép của gạo trong nền kinh tế tạo ra một sự mâu thuẫn rõ ràng giữa các mục tiêu an ninh
lương thực và mong muốn thúc đẩy xuất khẩu. Sự nhạy cảm của chính trị trong chính sách xuất khẩu gạo được
nâng cao bởi số liệu xuất khẩu gạo trong nửa đầu thế kỷ 20 mà trùng với những thời kỳ thiếu thốn và thậm chí
nạn đói. Thứ ba, sự đa dạng khí hậu nông nghiệp của Việt Nam và khoảng cách lớn làm cho những tác động của
chính sách gạo khác nhau theo vùng. Sự đa dạng này làm phức tạp thêm nhiệm vụ dự đoán tác động của những
thay đổi trong chính sách lúa gạo đối với các hộ nghèo.

Sản xuất lúa gạo Việt Nam vẫn có xu hướng tăng lên, trong khi diện tích thu hoạch được duy trì ở mức gần như
nhau trong cả năm. Xu hướng sản xuất lúa gạo tăng là do giống mới, năng suất cao. Hầu hết các giống mới
được sản xuất tại địa phương thông qua việc hợp tác với các viện nghiên cứu thuộc Chính phủ và các nhà nuôi
giống tư nhân. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hiện đang khuyến khích nông dân thực hiện các mô
hình trang trại quy mô lớn, nơi mà nông dân tập trung các trang trại nhỏ của cá nhân thành trang trại lớn hơn,
qua đó giảm chi phí sản xuất cho mỗi hécta làm đất, tưới tiêu, trồng, thu hoạch; vận dụng cơ giới hóa tốt hơn
trong sản xuất lúa; bảo vệ môi trường; và xây dựng năng lực cạnh tranh mạnh hơn. Việt Nam đã xuất khẩu
7.720.000 tấn, trong tổng sản lượng 27.150.000 tấn gạo trong MY2011 / 12, duy trì vị trí nước xuất khẩu gạo
lớn thứ hai thế giới sau Ấn Độ. Để tồn tại trong thị trường gạo quốc tế, Việt Nam đã nỗ lực tiếp cận thị trường
mới. Ví dụ, trong thời gian qua, Việt Nam đã xuất khẩu gạo tới Chile và Haiti, và hy vọng thị trường phương
Tây sẽ là điểm đến trong tương lai

Gạo ở Việt Nam
Gạo đã đóng một vai trò trung tâm trong cuộc sống của người dân Việt Nam hang ngàn năm qua. Các vương


triều Trung Quốc và Việt Nam cai trị khu vực được đánh giá bởi khả năng của đảm bảo gạo cho dân một cách


ổn định. Thời kỳ thịnh vượng, như những năm đầu của Triều đại nhà Lý (1009-1225), đã được ghi nhận với các
khoản đầu tư vào thủy lợi và đê điều, trong khi sự suy giảm của các vương quốc thường được báo trước bằng sự
sụp đổ của hệ thống thủ lợi, dẫn đến tình trạng thiếu lương thực và bất ổn định (Vien 1993). Xuất khẩu gạo quy
mô lớn bắt đầu vào những năm đầu thế kỷ 20 với sự ra đời của công trình thủy lợi lớn ở đồng bằng sông Cửu
Long dưới quyền thực dân Pháp. Nông dân ở Mekong sản xuất thặng dư, cho phép Việt Nam xuất khẩu 1-2
triệu tấn trong những năm 1920 và đầu những năm 1930. Dưới sự chiếm đóng của Nhật Bản trong chiến tranh
thế giới thứ II, Việt Nam đã bắt buộc phải cung cấp cho Nhật Bản 0,9-1,0 triệu tấn gạo mỗi năm. Cùng với thời
kỳ thiếu thốn cùng cực nhọc, đã dẫn tới đỉnh cao là nạn đói 1945-1946, trong đó có đến 600.000 người thiệt
mạng (Vien 1993, 227). Kinh nghiệm này giải thích sự nhạy cảm của các nhà hoạch định chính sách ngày nay
tới an ninh lương thực trong xuất khẩu gạo.
Gạo tiếp tục đóng một vai trò trung tâm trong sản xuất nông nghiệp Việt Nam và tiêu thụ thực phẩm. Ruộng lúa
được trồng trên 53% đất nông nghiệp ở Việt Nam, chiếm 64% diện tích gieo trồng các loại cây trồng. Lúa gần
đây đã trở thành mặt hang xuất khẩu lớn thứ hai, chiếm hơn 10% tổng giá trị. Theo các khảo sát 1992-1993 Việt
Nam Living Standards (VLSS), 69,9% hộ gia đình Việt trồng lúa và 99,9% tiêu thụ gạo. Như đã nói, gạo chiếm
ba phần tư lượng tiêu thụ calo trung binh của các hộ gia đình Việt Nam. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi các
hoạt động của ngành lúa gạo luôn là một tiêu chí quan trọng trong pháp luật Việt Nam. Sự trì trệ trong sản xuất
lúa gạo và thiếu hụt thực phẩm trong thập kỷ đầu tiên sau khi thống nhất đất nước (1976- 86) có lẽ là chất xúc
tác quan trọng nhất đối với câu hỏi về tính ưu việt của hình thức sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa. Dưới
chính sách cải cách được công bố vào tháng 12/1986, Chính phủ đã khiến thị trường đóng vai trò lớn hơn trong
việc phân bổ các nguồn lực kinh tế. Cuộc cải cách đầu tiên được thực hiện vào năm 1988 trong nông nghiệp,
phân cấp quản lý nông nghiệp từ trung ương tới từng hộ nông dân. Những cải cách này được theo dõi bằng các
biện pháp khác để thúc đẩy xuất khẩu, khuyến khích tiết kiệm, và mở cửa nền kinh tế. Sự thành công của những
cải cách trong lĩnh vực gạo khá bất ngờ: trong vòng một vài năm, Việt Nam đã chuyển mình từ một nước nhập
khẩu gạo đến một trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Sự thành công ấn tượng của các cuộc cải cách
trong phát triển sản xuất và xuất khẩu gạo khiến việc cải cách theo hướng thị trường trong các lĩnh vực khác trở
nên dễ dàng hơn. Chính sách lúa gạo tiếp tục là chủ đề tranh luận ở Việt Nam, cũng như ở nhiều quốc gia châu
Á. Các nhà làm luật ưu tiên trong việc đảm bảo thu nhập cho nông dân trồng lúa đòng thời bán gạo với giá phải

chăng cho người tiêu dùng. Các chính sách đối với Việt Nam thay đổi là kết quả của việc trở thành nước xuất
khẩu gạo lớn. Mặc dù tình trạng thiếu lương thực ngăn cản sự phát triển của đất nước trong những năm 1980
không còn, chính phủ vẫn phải đối mặt với việc đánh đổi giữa tăng lợi nhuận từ xuất khẩu gạo đồng thời duy trì
giá thấp cho người tiêu dùng trong nước. Tuy Chính phủ nới lỏng kiểm soát với sản xuất lúa gạo, trong thời gian
gần đây, những hạn chế trong xuất khẩu và tiêu dùng trong nước luôn xuất hiện. Điều quan trọng nhất trong
những hạn chế này là sự ràng buộc hạn ngạch xuất khẩu trên gạo và những hạn chế khác về thị trường gạo giữa
các vùng. Ngoài ra, các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước tiếp tục được hưởng độc quyền về xuất khẩu gạo.


Một phần, những hạn định đó phản ánh mong muốn duy trì nguồn cấp đầy đủ cho tiêu dùng gạo trong nước, đặc
biệt là người nghèo. Những hạn định này cũng phản ánh sự nghi ngờ với doanh nghiệp tư nhân và khả năng
phục vụ nhu cầu người sản xuất và tiêu dùng của thị trường. Cuối cùng, có một động lực tài chính để duy trì hệ
thống hiện tại khi mà doanh nghiệp xuất khẩu gạo của nhà nước đóng góp một phần lợi nhuận vào chính phủ.

Thông tin chung
Việt Nam nằm dọc theo rìa phía đông của bán đảo Đông Dương trong khu vực Đông Nam Á, có diện tích
331.051 km2, được bao bọc bởi Campuchia, Lào, Trung Quốc và Biển Đông.
Hơn 30% diện tích cả nước là rừng và khoảng 17% được cây trồng theo mùa, 5% cây trồng lâu dài. Khí hậu
thay đổi từ nhiệt đới ẩm ướt ở vùng đất thấp phía nam tới ôn hoà ở vùng cao nguyên phía Bắc. Có hai mùa gió
mùa: gió mùa đông bắc và gió mùa Tây Nam vào mùa hè. Bão thường hình thành trên vùng biển Nam Trung
Quốc vào mùa khô. Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 27 ° C ở phía nam tới 21 ° C ở miền bắc.
Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.300 đến 2.300 mm. Lượng mưa thường được phân bố đều từ tháng sáu tới
tháng mười hoặc tháng mười một. Ở đồng bằng sông Cửu Long, Gió mùa hè mang đến 5-6 tháng với lượng
mưa trên 100 mm / tháng. Tháng Mười là tháng ẩm nhất trong năm.
Dân số của Việt Nam là khoảng 87 triệu trong năm 2010, với mật độ trung bình 263 người trên một km 2. Dân số
tăng trưởng ở mức 1,1% mỗi năm trong thời gian 2005-10. 70% dân số sống ở khu vực nông thôn, chủ yếu ở
hai vùng đồng bằng trồng lúa: Đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc và Đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam.
Mật độ dân số đồng bằng sông Hồng (939 / km2) cao hơn so với đồng bằng sông Cửu Long (426 / km 2) và các
nơi khác thuộc Mekong. Tổng số lực lượng lao động của cả nước là trên 47 triệu, với hơn một nửa tham gia vào
sản xuất nông nghiệp.

Nền kinh tế tiếp tục được cải thiện, mặc dù tỷ trọng nông nghiệp trong sản lượng kinh tế (GDP) đã giảm từ
khoảng 25% năm 2000 xuống gần 21% trong năm 2010, với tỉ trọng ngành công nghiệp đã tăng lên 41% và khu
vực dịch vụ chiếm 38% GDP cùng kỳ.
Sản phẩm chính của Việt Nam là gạo, cà phê, cao su, bông, chè, hạt tiêu, đậu nành, hạt điều, mía, đậu phộng,
chuối, cá, hải sản, gia cầm.
Phát triển gần đây trong lĩnh vực gạo
Việt Nam là quốc gia sản xuất lúa gạo lớn thứ năm trên thế giới. Sản xuất lúa gạo liên tục tăng, từ 25 triệu tấn
năm 1995 lên gần 40 triệu tấn trong năm 2010. Năng suất lúa được cải thiện lên 5,3 t / ha trong năm 2010 từ 3,7
t / ha trong năm 1995. Việc sử dụng các giống đầu vào hiện đại, phân bón đầy đủ, và sự gia tăng tỷ lệ diện tích


lúa (93,4%) là lí do cho năng suất cao trong những năm gần đây. Mặc dù diện tích lúa thu hoạch tăng từ 6,8
triệu ha năm 1995 lên 7,5 triệu ha trong năm 2010, tốc độ tăng trưởng hàng năm chỉ là 0,5% 2005-2010.
Gạo vẫn là lương thực chủ yếu. Tiêu thụ bình quân đầu người hàng năm đã tăng đến 141,2 kg trong năm 2009
từ 138,8 kg năm 1995. Tuy nhiên, thị phần của tổng số calo mỗi người lấy từ gạo giảm xuống còn 51,7% (1.390
kcal) mỗi ngày trong năm 2009 từ 66,6% (1.407 kcal) mỗi ngày trong năm 1995. Tương tự như vậy, bình quân
đầu người tiêu thụ protein từ gạo giảm xuống còn 38% (28,3 g) mỗi ngày trong năm 2009 từ 56,7% (28,7 g)
mỗi ngày vào năm 1995. Sự giảm sút là do sự gia tăng trong tiêu thụ các nguồn khác như lúa mỳ và thịt.
Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Xuất khẩu gạo của cả nước đạt 5,3 triệu tấn
trong năm 2005 và gần 6,9 triệu tấn trong năm 2010. Sự sụt giảm trong xuất khẩu xuống còn 4,7 triệu tấn trong
2006-08 khiến Bộ trưởng Bộ Trồng trọt trong năm 2009 nâng cao mối quan tâm về việc chuyển đổi đất nông
nghiệp thành đất thương mại: rất nhiều đất trồng lúa đã được chuyển cho các dự án nhà ở và sân golf. Ông lập
luận rằng, nếu điều này tiếp tục, cùng với dân số tăng nhanh, đất nước sẽ gặp khó khăn trong việc đáp ứng nhu
cầu xuất khẩu gạo vào năm 2020.
Việt Nam đã thay đổi từ một nền kinh tế kế hoạch tập trung cao độ sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Với cam kết tự do hóa và hội nhập quốc tế, việc cải cách cơ cấu cần hiện đại hóa nền kinh tế và
tạo ngành công nghiệp định hướng xuất khẩu cạnh tranh hơn. Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
vào tháng Giêng năm 2007, bảo đảm liên kết của nước này đối với thị trường toàn cầu và tăng cường quá trình
cải cách kinh tế trong nước.
Hơn nữa, Việt Nam đã trở thành đối tác chính thức trong việc phát triển các hiệp định thương mại đối tác xuyên

Thái Bình Dương vào năm 2010. Thỏa thuận này tập hợp một số lượng đáng kể hợp tác kinh tế châu Á Thái
Bình Dương (APEC) nền kinh tế theo một thỏa thuận thương mại tự do duy nhất.
Chính sách lúa gạo hiện nay ở Việt Nam là một sự cân bằng giữa việc duy trì an ninh lương thực trong nước và
đẩy mạnh xuất khẩu. Sự can thiệp của Chính phủ được giới hạn ở thị trường trong nước và một phần lớn lượng
gạo xuất khẩu được thực hiện thông qua các doanh nghiệp nhà nước (50% cổ phần), đặc biệt là Hiệp hội Lương
thực Việt Nam (VFA). VFA mua gạo từ nông dân để giữ giá gạo ổn định và cũng để ngăn chặn nhà nhập khẩu
gạo trả giá quá thấp trong mùa thu hoạch.
Môi trường gạo
Đồng bằng sông Cửu Long sản xuất hầu hết gạo của Việt Nam. Các vùng trồng lúa khác là Đồng bằng sông
Hồng, phía đông bắc, và các bờ biển phía bắc miền trung. Đồng bằng sông Cửu Long có ba mùa thu hoạch
chính: mùa xuân, mùa thu, và mùa đông. Diện tích lúa lớn nhất được thu hoạch trong mùa thu theo sau là vụ
xuân; chỉ một lượng nhỏ được thu hoạch trong mùa đông. Nông dân ở đây sử dụng phương pháp gieo hạt trực
tiếp để tiết kiệm chi phí lao động.


Đất ở đồng bằng sông Cửu Long rất khác nhau, nhưng phù sa, acid sulfate, và đất mặn chiếm ưu thế. Đất phù sa
chiếm ưu thế với 30% đất đồng bằng sông Cửu Long, chủ yếu dọc theo các bờ sông Tiền và sông Hậu. Đây là
đất đồng bằng tốt nhất, với 2-3 mùa vụ được trồng mỗi năm. Đồng bằng sông Hồng, đông dân cư, sở hữu đất
đai rất nhỏ và từ lâu đã thực hành canh tác lúa hai vụ chuyên sâu.
Hạn chế trong sản xuất lúa gạo
Sản xuất lúa gạo ở Việt Nam phải đối mặt với những khó khăn sau đây:
• Độ co trong diện tích đất trồng lúa do chuyển đổi đất sang thương mại, dẫn đến giảm tổng sản lượng lúa gạo.
• Thiếu cơ sở tín dụng, dẫn tới sự hạn chế vốn đầu vào của nông dân do không đủ.
• Hạn chế các yếu tố đầu vào.
• Thiếu nước trong vụ hè thu.
• Suy thoái đất do cường độ trồng lúa cao, làm suy giảm độ phì của đất.
• Tỷ lệ lạm phát cao (khoảng 11%), làm tăng chi phí đầu vào.
• Diện tích đất trồng nhỏ, từ đó giới hạn khả năng sản xuất gạo xuất khẩu của nông dân.
Cơ hội sản xuất lúa gạo
Mặc dù có những hạn chế sản xuất, có những cơ hội tuyệt vời để vượt qua chúng. Ví dụ, tăng phát triển và triển

khai các giống năng suất cao có thể bù đắp sự suy giảm diện tích lúa do đô thị hóa; cải tiến công nghệ quản lý
cây trồng có thể có thể ngăn chặn suy thoái đất đai.
Năm

1995

2000

2005

2006

2007

2008

2009

Diện tích đất trồng (*103
ha)

5,403

6,200

6,358

6,348

6,310


6,283

6,280

Diện tích đất trồng lúa
gạo (*103 ha)

6,765.6

7,666.3

7,329.2

7,324.8

7,207.4

7,400.2

7,437.2

Diện tích đất tưới tiêu
(%)

64

85
(2002)


93.4

Share of rice area under
MVs (%)

76

94.2
(2002)

2010

7,513.
7


Năng suất (t/ha)

3.69

4.24

4.89

4.89

4.99

Paddy production (*103
t)


24,963.7

32,529.5

35,832.
9

35,849.5

Milled production (*103
t)

16,651

21,697

23,901

Nhập khẩu (*103 t)

11.0

0.0

Xuất khẩu (*103 t)

1,988.0

Tổng luọng gạo tiêu thụ

(x103 t)
Phân bón sử dụng (NPK)
(kg/ha)

5.23

5.24

5.32

35,942.7 38,729.8

38,950.2

39,988
.9

23,912

23,974

25,830

25,943

26,659

0.3

0.6


2.1

0.7

0.8

1.0

3,477.0

5,250.0

4,642.0

4,558.0

4,735.2

5,968.8

6,886.
2

14,221

16,647

17,837


17,857

18,106

20,691

19,934

226

366

292

300

353

306

402

Giải pháp:
• Bảo vệ và quản lý đất chặt chẽ
- Điều tra và lập bản đồ các vùng trồng lúa gạo
- Tạo ra một "đường đỏ" biên giới trên thực tế cho diện tích trồng lúa.
• Chính sách:
+ Chính sách đầu tư
- Chính sách quản lý đất nông nghiệp (đất trồng lúa trồng trọt)
- Tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong khu vực sản xuất lúa gạo chính; hệ thống thủy lợi nhỏ, cơ sở

cất trữ.
- Khuyến khích việc áp dụng các cơ giới hóa trong sản xuất lúa, thu hoạch, chế biến và lưu trữ


- Đầu tư phát triển các giống lúa mới có năng suất cao, chất lượng tốt, thích ứng với biến đổi khí hậu, (đặc biệt
là gạo Hybrid); công nghệ sau thu hoạch; các tiện ích.
+ Chính sách cho nông dân trồng lúa
- Hỗ trợ cho người sản xuất lúa gạo trong khu vực có hoàn cảnh khó khăn, thiếu thực phẩm
- Áp dụng miễn giảm lệ phí vay vốn, sử dụng đất,…
- Chính sách bảo hiểm cho nông dân sản xuất thực phẩm
+ Chính sách đối với các tỉnh nằm trong vùng chuyên trồng lúa
- Tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế-kinh tế
trong sản xuất lúa địa phương chuyên ngành.
- Bổ sung ngân sách cho các tỉnh ..
Thống kê
Vietnam’s Production, Supply and Demand for Rice

Gạo đã xay

2011/2012

2012/2013

2013/2014

Market Year Begin: Market Year Begin: Market Year Begin: Jan
Jan 2012
USDA

New


Jan 2013
USDA

2014
New

USDA
Official

New Post

Official

Post

Official

Post

Area Harvested

7.740

7.740

7.840

7.820


7.820

Beginning Stocks

1.941

1.941

1.749

1.826

2.075

Milled Production

27.075

27.152

27.710

27.649

27.839

Rough Production

43.320


43.443

44.336

44.238

44.542

Milling Rate (.9999)

6.250

6.250

6.250

6.250

6.250

MY Imports

100

100

200

100


100

TY Imports

100

100

200

100

100

TY Imp. from U.S.

0

0

0

0

0

Total Supply

29.116


29.193

29.659

29.575

30.014

MY Exports

7.717

7.717

7.400

7.400

7.500


TY Exports

7.717

7.717

7.400

7.400


7.500

Consumption and Residual

19.650

19.650

20.100

20.100

20.600

Ending Stocks

1.749

1.826

2.159

2.075

1.914

Total Distribution

29.116


29.193

29.659

29.575

30.014

1000 HA, 1000 MT, MT/HA
2011/2012

2012/2013

2013/2014

Revised

Estimate

Forecast

Old

New

Old

New


Winter1

1,770

1,770

1,770

1,770

1,770

Spring2

3,120

3,120

3,220

3,150

3,150

Autumn3

2,850

2,850


2,850

2,900

2,900

TOTAL

7,740

7,740

7,840

7,820

7,820

Winter

4.68

4.75

4.70

4.75

4.75


Spring

6.39

6.39

6.45

6.45

6.50

Autumn

5.29

5.29

5.35

5.35

5.40

AVERAGE

5.60

5.61


5.65

5.66

5.69

Winter

8,284

8,407

8,319

8,407

8,407

Spring

19,960

19,960

20,769

20,317

20,475


Autumn

15,076

15,076

15,248

15,515

15,660

TOTAL

43,320

43,443

44,336

44,238

44,542

Marketing
Year
Harvested
Area (tha)

Old


New

Yield (mt/ha)

Production
(tmt)


Xuất khẩu gạo:
Việt Nam xuất khẩu các loại gạo sau: 5% gạo cám xay một lần, 5% gạo cám đánh bóng hai lần, 10%, 15%, 20%
và gạo 100% cám. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng xuất khẩu gạo nếp, gạo tẻ thường, gạo parboiling và gạo thơm.
Gạo xuất khẩu Việt Nam được thực hiện từ năm giống lúa chính bao gồm OM1490, MTL250, OM2031,
VND95-20 và IR64.
Chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng được cải thiện hơn, nhưng gạo chất lượng cao, bao gồm 5%
hoặc ít hơn tỷ lệ gạo đã xát chỉ chiếm 40% tổng khối lượng gạo xuất khẩu. Việc còn lại là gạo chất lượng trung
bình bao gồm gạo 10% đến 25% và gạo chất lượng thấp, bao gồm 35% hoặc cao hơn tỷ lệ gạo xát.
Trong cơ cấu xuất khẩu hiện nay, gạo trắng vẫn chiếm ưu thế. Gạo trắng Việt là đối thủ cạnh tranh của gạo Thái
trung bình và chất lượng cao. Gạo chất lượng thấp Việt tốt hơn nhiều và đôi khi được bán với giá tương đương
hoặc cao hơn so với gạo Thái Lan cùng chất lượng.
Hiện nay, một số loại gạo thơm Việt cũng được xuất khẩu nhưng vì các tiêu chuẩn chất lượng của họ không
được công nhận quốc tế và đã không có thương hiệu cụ thể nên giá xuất khẩu không cao hơn nhiều so với gạo
thông thường.

Thương hiệu nổi tiếng trong và ngoài nước
Việt Nam đã có rất nhiều thương hiệu gạo nổi tiếng trong nước và quốc tế, đặc biệt là với các cộng đồng Việt ở
nước ngoài như Nàng Thơm Chợ Đào, gạo thơm Hải Hậu, Xén Tóc Hà Giang và gần đây là gạo đỏ Sóc Trăng,
Phú Tân gạo nếp An tỉnh Giang, loại gạo nếp dùng làm bánh chưng xuất khẩu sang Mỹ. Sau đây là chi tiết về
một số thương hiệu gạo nổi tiếng gắn liền với địa điểm sản xuất của họ:
• Gạo thơm Hải Hậu: có hạt nhỏ và dài, nấu chín nhanh. Cơm trắng, mềm và thơm. Giống lúa này được trồng

trong bùn và cát hỗn hợp gần bờ sông để đảm bảo không bị ngập úng hoặc hạn hán. Hiệp hội Gạo thơm Hải
Hậu được thành lập vào tháng 10/2004 để kiểm soát chất lượng gạo và thúc đẩy việc sản xuất lúa đặc biệt này.
Kể từ tháng 3 năm 2005, Hội đã được đăng ký thương hiệu và bảo vệ tên gốc của gạo thơm Hải Hậu.
• Gạo Nàng Thơm Chợ Đào: Chợ Đào là một thị trường nhỏ bên cạnh một con kênh đi qua kênh Xóm Bo chảy
qua xã Mỹ Lệ, huyện Cần Đước. Gạo Nàng Thơm Chợ Đào trắng đục bên ngoài và hồng ở giữa, được người
dân gọi là hạt lựu.
Chỉ gạo Nàng Thơm được trồng ở các khu vực trên mới có "hạt lựu". Nó có hàm lượng amylose trung bình là
24% đến 25%, năng suất tối đa khoảng 3 tấn mỗi ha và hạt cứng. 1.000 hạt của nó có trọng lượng từ 19 g đến


29 g, hoặc 22 g ở mức trung bình. Có 2.600 ha lúa Nàng Thơm Chợ Đào (hoặc gạo hạt lựu) tập trung ở tỉnh
Long An và một số tỉnh lân cận như Tiền Giang và Đồng Tháp. Tuy nhiên, chỉ có 400 ha lúa Nàng Thơm Chợ
Đào trồng ở xã Mỹ Lệ, huyện Long An là thích hợp nhất cho loại gạo này.
Sự nổi tiếng của gạo Nàng Thơm Chợ Đào không chỉ được biết đến trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long
mà còn ở Hà Nội và nhiều vùng khác trên cả nước. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người Việt đều đã được
nến loại gạo này. Hầu hết các giống lúa thơm không mang lại năng suất cao và thời gian trồng lâu hơn các giống
lúa khác nên người nông dân không được khuyến khích trong phát triển chúng.
Gạo Nàng Thơm Chợ Đào chỉ được trồng vào mùa đông - xuân. Một số giống lúa khác rất khắt khe về điều kiện
đất đai và khí hậu vì vậy nếu chúng được trồng ở các vùng khác, chất lượng sẽ không cao hơn so với các giống
lúa thông thường.
• Gạo Kim Kê của Công ty TNHH Minh Cát Tân: gạo được lựa chọn bởi giám đốc của công ty cá nhân. Sau khi
được xay, gạo nguyên liệu được đưa đến nhà máy của công ty có trụ sở tại huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí
Minh để loại bỏ các tạp chất, khử trùng, đóng gói và kiểm tra độ ẩm, vv… Gạo được phân loại rõ ràng, chất
lượng gạo của từng loại được đảm bảo và bán với giá khác nhau. Hướng dẫn về bảo quản và sử dụng được in
trên bao bì để khách hàng có thể xác định các loại gạo một cách dễ dàng. Với 50-60 nhân viên tiếp thị tiếp cận
từng hộ gia đình để giới thiệu thương hiệu gạo Kim Kê, chỉ trong một thời gian ngắn, một lượng lớn khách hàng
tại thành phố Hồ Chí Minh trở thành quen thuộc với gạo này và sử dụng nó trong các bữa ăn hàng ngày. Từ 30
đến 40 tấn mỗi tháng, Công ty TNHH Minh Cát Tấn nay có thể bán được trung bình 100 tấn mỗi tháng. Đến
nay, gạo Kim Kê đã có mặt tại nhiều siêu thị trên cả nước.
• Gạo nếp Phú Tân: được trồng ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Diện tích sản xuất lúa này đã được ban đầu

2.500 ha với hai loại chính bao gồm CK2003 và CK92. Gạo được chủ yếu được bán tại thị trường trong nước để
sử dụng làm nguyên liệu làm bánh xèo. Các nhà khoa học đã giúp nông dân ở huyện Phú Tân để tạo giống lai
mới bao gồm CK2003, CK92, NK1, NK, mềm và có hương vị đặc biệt. Những giống lúa nếp Phú Tân mới đã
được xuất khẩu sang Malaysia, Indonesia, Philippines, Trung Quốc, Đài Loan, Trung Đông nhờ năng suất và
chất lượng cao. Do đó, các khu vực sản xuất các giống lúa nếp Phú Tân đã phát triển rất nhanh, từ 27.000 ha
năm 2006 lên gần 34.000 ha vào năm 2007. Rất nhiều các công ty Campuchia đã mua giống lúa nếp Phú Tân,
đóng gói và ghi nhãn như gạo Thái Lan để bán tại các thị trường khác.

Phương pháp sản xuất và công nghệ
Sản xuất lúa gạo ở Việt Nam chủ yếu dựa trên quy mô nhỏ với các phương pháp canh tác thủ công truyền thống.
Hiện nay nó vẫn còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết; thông thường có thể bị ảnh hưởng trong thời gian rất lạnh ở
đầu và ở cuối năm ở miền Bắc và những trận mưa kéo dài ở trung tâm hoặc bị đe dọa bởi dịch bệnh. Tuy nhiên,


để nâng cao năng suất lúa, Việt Nam đang từng bước áp dụng công nghệ tiên tiến trong từng giai đoạn sản xuất.
Các giai đoạn cơ khí trong sản xuất lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long ngày càng tốt hơn.
Đến nay, công tác thủy lợi và đất đai đã được cơ khí hóa. Máy tuốt lúa, máy xay xát đã tương đối đáp ứng nhu
cầu của nông dân. Trong những năm gần đây, Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) đã chuyển giao cho Việt
Nam công nghệ sử dụng máy móc để làm phẳng các bề mặt của các đồng lúa được kiểm soát bởi các chùm tia
laser. Khi trồng, nông dân làm việc ra một cách cẩn thận để ngăn gạo rơi khi đang được thu hoạch bằng tay
hoặc nông cụ. Một số loại máy của Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc - Hàn Quốc liên doanh đã được nhập
khẩu và sử dụng phổ biến ở Việt Nam.
Các giai đoạn gieo trồng, chăm sóc, thu thập và gặt, vv… gần như được thực hiện bằng tay bởi thiếu máy gặt,
máy sấy khô. Hầu hết nông dân Việt gặt lúa bằng tay. Tuy nhiên, hiện nay các gặt đập liên hợp đã được chọn để
sử dụng bởi người nông dân bởi một máy điều hành với ba nhân công có thể thay thế một trăm người lao động
không có tay nghề. Sự phát triển của gặt đập liên hợp đã không chỉ là chìa khóa cho việc thu hoạch lúa mà còn
là động lực để đẩy mạnh quá trình cơ khí hóa sản xuất lúa gạo. Công ty cơ khí tại Việt Nam đã tạo ra nhiều mô
hình thích hợp và hiệu quả với giá cả hợp lý và dịch vụ bảo hành được nông dân chấp nhận.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long đã có khoảng 480 máy gặt đập vào tháng Tám năm 2007. Trong vòng 10 năm
tới, các đồng bằng cần khoảng 6.000 đến 7.000 gặt đập liên hợp để phục vụ cho một phần ba tổng diện tích sản

xuất lúa gạo. Các Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long đã được triển khai phối hợp với một số tỉnh để bắt đầu
dự án trên các thí nghiệm mô hình trồng lúa tập thể mà dự kiến sẽ là phù hợp với việc tăng cường các cơ khí
hóa sản xuất lúa gạo.
Hầu hết nông dân Việt làm khô gạo bằng cách phơi chúng dưới nắng. Chỉ có một số lúa được sấy bằng máy.
Gần đây, các ứng dụng của công nghệ sấy lúa đã được sử dụng nhiều hơn ở đồng bằng sông Cửu Long.
Đối với chế biến gạo, trình độ công nghệ được áp dụng trong chế biến lúa gạo ở Việt Nam đã dần dần được cải
thiện. Các đơn vị chế biến gạo tư nhân khác nhau đã có khả năng xử lý hơn 10.000 tấn mỗi năm. Các doanh
nghiệp quy mô lớn hơn đã có một khả năng xử lý trung bình từ 50.000 tấn đến 60.000 tấn mỗi năm. Một số
doanh nghiệp đã có công suất chế biến hơn 100.000 tấn mỗi năm. Rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
đang tiếp tục đổi mới công nghệ, trang bị dây chuyền xay xát với công suất 8 tấn mỗi giờ nhằm cải thiện chất
lượng gạo của họ để cạnh tranh với nước ngoài.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã được trang bị dây chuyền sản xuất lúa tiên tiến và đồng bộ được thực hiện bởi
các hãng nổi tiếng như Sinco, Satake, Bùi Văn Ngọ, vv…, trong đó có nhiều dây chuyền hoàn toàn được vận
hành tự động. Một số doanh nghiệp cũng đã có máy tách màu điện tử để xử lý lúa chất lượng cao phục vụ cho
các thị trường khó tính.


Dây chuyền xay xát gạo và máy sấy cám có dung lượng lớn. Hệ thống tiêu chuẩn cao được đặt tại khu vực trung
tâm và trang bị dây chuyền tiên tiến cho việc nhập khẩu và xuất khẩu gạo. Các phòng thí nghiệm và kiểm định
gạo được trang bị nhiều máy móc hiện đại, chuyên dụng như: máy đo độ trắng, máy đo độ amylose, máy tách
màu điện tử, phân loại độ dày trống, máy xay xát, kiểm soát chất lượng, cân phân tích điện tử, máy đo độ ẩm
nhanh, kính hiển vi, vv… phương pháp chế biến được thực hiện với mức độ tự động cao và ít phụ thuộc vào
nhân công. Dây chuyền sản xuất hoạt động ổn định và hiệu quả.
Quy trình vệ sinh và kiểm soát chất lượng đã được cải thiện và đạt hiệu quả cao. Sau khi trải qua các quá trình
này, gạo đã được lựa chọn ký càng, tỷ lệ hạt gạo không vỡ là cao và chất lượng bề mặt gạo là tốt. Hệ thống gia
công là sạch, không chiếm đất và dễ dàng được vận hành nhờ các hệ thống điều khiển tự động. Bụi và tiếng ồn
được xử lý ngay lập tức bên trong máy và không gây ô nhiễm môi trường.

Sản xuất lúa chất lượng quốc tế
Nhiều khu vực sản xuất lúa gạo ở Việt Nam hiện nay đã bắt đầu trồng lúa theo tiêu chuẩn chất lượng quốc tế; Ví

dụ, trên 12.000 ha ở Vĩnh Hưng và Tân Hưng huyện của tỉnh Long An trong vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ
được sử dụng cho các dự án lớn nhất hiện nay trong lúa thơm xuất khẩu. Đây là một dự án phức tạp trong đó
thành công có nghĩa là một kỳ vọng lớn mang định hướng mới về sản xuất lúa gạo ở Việt Nam. Dự án được đầu
tư bởi ITA - Công ty Cổ phần Nghiên cứu và xuất khẩu (ITA), được thành lập với số vốn góp của Tập đoàn Tân
Tạo, Công ty Cổ phần Đầu tư Tân Đức, Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Tân Đông Phương. Ngoài hai trang
trại với tổng diện tích 12.000 ha trồng lúa theo quy trình GAP của Mỹ và châu Âu, còn có nhà máy chế biến đạt
tiêu chuẩn HACCP, với công suất xay xát và đóng gói khoảng 50.000 tấn mỗi năm cùng với một hệ thống cảng
có khả năng phục vụ tàu chở 1.000 tấn; khu nhà ở cho chuyên gia, khu biệt thự với cơ sở hạ tầng đầy đủ (trạm y
tế, cơ sở thương mại, trường học từ tiểu học đến trung học, sân chơi) và một nhà máy nước công suất 10,00020,000 m3 mỗi ngày và đêm. Tổng mức đầu tư cho toàn dự án khoảng 4.414 tỷ đồng, trong đó khoảng 1.668 tỷ
đồng được sử dụng cho 12.000 ha của dự án sản xuất gạo thơm; hơn 692 tỷ đồng để xây dựng cảng, nhà máy
chế biến và kho bãi; hơn 1.938 tỷ đồng cho khu đô thị, nhà ở và công trình công cộng được sử dụng cho các
chuyên gia và nhân viên. Tất cả các hạng mục được đầu tư trong giai đoạn khác nhau trong vòng 5 năm.

Xu hướng sản xuất
Việc đầu tư chiều sâu, ứng dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học trong
sản xuất lúa gạo sẽ làm cho năng suất lúa và tăng chất lượng, cùng với chi phí trung bình thấp, nâng cao khả
năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trong cả hai thị trường trong và ngoài nước.


Công trình thủy lợi sẽ được đổi mới hoặc nâng cấp để phòng chống chống bão, lũ lụt và hạn hán có hiệu quả,
dần dần có thể tưới tiêu cho tất cả các vùng trồng lúa gạo trong nước. Điều này sẽ tạo tiền đề cho thâm canh hai
vụ lúa trong một năm với năng suất tốt và ổn định.
Nguồn điện từ cả nhà nước và người dân sẽ được tập hợp để phát triển mạnh mẽ lúa chất lượng cao trong hai
khu vực sản xuất lúa gạo lớn là đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng để đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của thị trường trong nước và nước ngoài.

Tiêu thụ trong nước
1. Thị trường và xu hướng tiêu dùng
Việt Nam đã có một thị trường nội địa tiêu thụ lúa gạo dồi dào với hơn 86 triệu người. Việt Nam không thể
thiếu gạo trong bữa ăn hàng. Bên cạnh việc nấu chín, gạo có thể được xử lý để được các loại như bún, phở, mỳ,


Thị trường gạo nội địa Việt khá đa dạng. Người ta ăn các loại gạo chất lượng khác nhau.
2. Tiêu thụ năng lượng
So với các nước khác trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Việt Nam đã có sản lượng gạo cao nhưng xuất
khẩu lại ít hơn. Người Thái chỉ tiêu thụ 55% tổng số gạo sản xuất trong khi người Việt sử dụng đến 90%. Điều
này chứng tỏ người Việt ăn khá nhiều gạo.
Theo số liệu thống kê năm 2003, năng lượng tiêu thụ trung bình của các quốc gia tiêu thụ gạo lớn là 83 kg trên
đầu người mỗi năm. Myanmar là nước mà tiêu thụ cao nhất, 237 kg trên đầu người mỗi năm. Việt Nam tiêu thụ
211 kg trên đầu người mỗi năm, không bao gồm các sản phẩm được làm từ tinh bột gạo như mì và miến.
Theo một cuộc khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2006 được thực hiện bởi Tổng cục Thống kê Việt Nam,
năng lượng tiêu thụ bình quân đầu người mỗi năm Việt Nam có xu hướng giảm và đứng ở mức 109 kg cho
những người sống ở các thành phố và 142 kg cho những người ở khu vực nông thôn .
Tại thị trường trong nước có khoảng 30 loại gạo nhưng chỉ một vài trong số đó có thể được liệt kê với tên chính
thức bao gồm Nàng Thơm Chợ Đào, gạo Tài Nguyên Chợ Đào, gạo Tai Nguyễn Minh Hải, gạo Jasmine, gạo
thơm Đài Loan, vv… Các giống lúa mà gần đây đã được quảng cáo như gạo thơm Nhật, gạo hữu cơ, gạo Nàng
Hương mới cho xuất khẩu, vv… hoàn toàn không tồn tại trong thực tế. Các giống lúa trên được tạo bởi việc trộn
các giống lúa khác nhau thành một. Một số người bán trộn gạo chất lượng cao Việt với gạo giá rẻ của Trung
Quốc, thêm gia vị và đặt tên cho gạo để lừa người tiêu dùng. Việc này luôn mang lại lợi nhuận lớn cho người
bán.


Sức tiêu dùng nội địa của Việt Nam là khoảng 28 triệu tấn trong năm 2008. Theo số liệu thống kê của Việt Nam
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số lượng tiêu thụ trong nước sẽ tăng từ 27,6 triệu tấn năm 2007 lên
33,2 triệu tấn vào năm 2020.
3. Xu hướng tiêu thụ
Tại thị trường trong nước, người tiêu dùng đang ngày càng quan tâm hơn đến chất lượng gạo. Theo sự quan tâm
của nhiều doanh nghiệp, thị trường gạo trong nước đang trở nên rất tiềm năng đối với các giống lúa chất lượng
cao. Siêu thị Co.op Mart Cần Thơ cho biết trong hai năm gần đây, doanh thu bán gạo thu được của các siêu thị
tăng 30% trung bình mỗi năm. Các siêu thị đang bán gần 3 tấn các loại gạo khác nhau mỗi tháng. Các
showroom của trang trại Cờ Đỏ ở thành phố Hồ Chí Minh chủ yếu chỉ giới thiệu các giống lúa khi mới thành

lập, nhưng nhờ vào việc ổn định về số lượng và chất lượng gạo của các showroom, ngày càng nhiều khách hàng
biết về showroom này và mua gạo ở đây. Hiện tại các showroom bán 17-18 tấn gạo mỗi tháng.
4. Các kênh phân phối
Lúa cho chế biến chủ yếu bán cho các đại lý tại vùng sản xuất lúa hoặc bán trực tiếp cho các nhà máy xay xát
gạo tư nhân. Chỉ có một số lượng nhỏ được bán trực tiếp cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Theo số liệu thống kê
không chính thức, chỉ 0,9% số hộ trròng bán lúa trực tiếp cho các doanh nghiệp nhà nước xuất khẩu gạo.
Gạo được cung cấp cho người tiêu dùng thông qua các kênh phân phối khác nhau. Nó được bán trực tiếp từ
nông dân đến các đại lý hoặc người sử dụng các nhà phân phối. Đại lý sau đó phân phối gạo cho thị trường, các
nhà bán lẻ, cửa hàng tạp hóa tư nhân và siêu thị trên toàn quốc.
Nhà cung cấp gạo chủ yếu bán gạo chất lượng thấp hoặc trung bình. Chợ, các cửa hàng bán lẻ và cửa hàng tạp
hóa tư nhân là nơi chào bán tất cả các loại gạo bằng kilogram từ chất lượng thấp đến cao. Gạo được bán theo
từng gói 5 kg hoặc 10 kg hoặc hơn. Siêu thị cung cấp khoảng 10% lượng tiêu thụ gạo trong nước; các kênh
phân phối khác cung cấp 90% còn lại.
Đó là truyền thống của người Việt, khu vực nông thôn mua gạo qua nông dân và người dân ở các khu vực đô thị
mua gạo tại các điểm phân phối chính là chợ mở, các cửa hàng bán lẻ, cửa hàng tạp hóa tư nhân hoặc các nhà
cung cấp gạo sẽ được giao tận tay người mua. Tuy nhiên, số lượng gạo bán ra của siêu thị thời gian gần đây
ngày càng tăng.
Lượng gạo cung cấp bởi mỗi điểm phân phối: Giao thông ở Việt Nam đang ngày càng trở nên thuận tiện hơn,
bên cạnh việc các kho thóc lớn thường nằm gần các khu đô thị và dân Việt Nam không có thói quen dự trữ gạo
nên các công ty bán gạo cho các hộ gia đình và tập thể chỉ có được các cửa hàng với công suất tối đa 10 tấn
hàng ngày. Cửa hàng tạp hóa và cửa hàng bán lẻ dự trữ một số gạo được bán ra trong vòng 1-2 ngày. Chỉ có một
lượng nhỏ gạo được bán ở siêu thị hay cửa hàng tự phục vụ và phòng trưng bày của công ty. Ví dụ, hệ thống 29
siêu thị Co.op Mart chỉ có thể bán 150 tấn mỗi tháng ở mức trung bình. Siêu thị nhỏ như Hà Nội, Fivimart,


Citimart ... chỉ có thể bán một số tấn mỗi tháng. Như vậy, khối lượng gạo của các điểm phân phối này chỉ đủ để
mua bán trong vòng 1-2 tháng.

Xuất khẩu
1. Khối lượng và giá trị xuất khẩu

Trong những năm gần đây, gạo như là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã mang lại hơn 1 tỷ USD mỗi năm. Nó
cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực trên toàn thế giới. Trong năm 2007,
Việt Nam đứng thứ 3 trong việc xuất khẩu gạo.
Bởi Việt Nam đã chuyển dịch đầu tư thâm canh, nâng cao chất lượng lúa gạo, do đó chất lượng, số lượng và giá
cả gạo xuất khẩu đã tăng lên nhanh chóng. Số lượng xuất khẩu gạo là 3,81 triệu tấn vào năm 2003 và 4.060.000
tấn vào năm 2004. Trong năm 2005, nó là số lượng xuất khẩu gạo thời gian đầu năm đạt 5,25 triệu tấn, mang về
1,4 tỷ USD cho đất nước. Đây là kết quả cao nhất Việt ở cả 3 tiêu chí: số lượng, giá trị xuất khẩu và giá kể từ
khi Việt Nam chính thức gia nhập vào thị trường gạo thế giới. So với năm 2003, số lượng gạo xuất khẩu trong
năm 2005 tăng 1,44 triệu tấn (38%), giá trị xuất khẩu tăng gần gấp đôi (95%). 2005 là năm thứ 17 liên tiếp Việt
Nam xuất khẩu gạo, năm thứ 3 số lượng gạo xuất khẩu trên 4 triệu tấn, năm thứ 2 giá trị xuất khẩu gạo của Việt
Nam đạt trên 1 tỷ USD; và duy trì vị trí thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo vượt qua Ấn Độ. Lý do cho thành công
này là gạo Việt đáp ứng 579 tiêu chuẩn nghiêm ngặt thay vì 250 như trước đó.
Điểm quan trọng đánh dấu sự phát triển và tăng trưởng của xuất khẩu gạo Việt Nam trong năm 2003-2005 là sự
ổn định cao của nó trong thị trường thế giới cạnh tranh khốc liệt. Giá trị xuất khẩu năm sau cao hơn so với trước
đó. Số lượng xuất khẩu gạo bình quân trong giai đoạn này là 3,71 triệu tấn mỗi năm, trong khi ở các đoạn 19911995, và 1996-2000 chỉ là 1,73 và 3,66 triệu tấn mỗi năm. So sánh 2005-1989, số lượng gạo xuất khẩu tăng
3,57 lần và giá trị xuất khẩu tăng 7 lần (1.340 USD / 189 triệu USD). Kết quả đó đã được đánh giá cao bởi các
tổ chức và khách hàng quốc tế. Khác với các nước khác trong khu vực, sản xuất nông nghiệp Việt Nam nói
chung và sản xuất lúa gạo nói riêng phát triển ổn định và nhanh chóng. Sản xuất và xuất khẩu gạo giúp làm tăng
thu nhập của nông dân trồng lúa nhờ vào sự tăng cao của giá lúa gạo trong nước.
So với năm 2005, trong năm 2006, xuất khẩu gạo Việt Nam giảm cả về số lượng và giá trị; Tuy nhiên, nói
chung nó vẫn còn tốt.
Mặc dù Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn trong nguồn cung do các thảm họa tự nhiên và sâu bệnh, năm 2007
vẫn được coi là năm thành công của đất nước trong xuất khẩu gạo nhờ giá tăng và nhu cầu cao trên thị trường
thế giới. Trong năm 2007, Việt Nam xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo (đạt kế hoạch), tổng giá trị xuất khẩu đạt trên
1,48 tỷ USD, chỉ sau Thái Lan và Ấn Độ. Tuy nhiên, con số này giảm so với xuất khẩu kỷ lục trong năm 2005
(5,2 triệu tấn).


Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, so với năm 2006, mặc dù sản lượng xuất khẩu gạo giảm nhẹ
(khoảng 2%), giá trị xuất khẩu năm 2007 tăng 15%. Lý do chính là nhu cầu tăng cao về gạo trên toàn thế giới,

nguồn cung hạn chế, do đó giá xuất khẩu tăng mạnh.
2. Thị trường xuất khẩu chính
Gạo Việt Nam không chỉ tồn tại ở các thị trường truyền thống như Philippines, Cuba, Indonesia, nó cũng được
mở rộng sang các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Nam Mỹ, và Trung Đông.
10 leading export markets of Vietnamese rice in 2007
No

Export
Export volume (ton)

Export value (USD)

market

Percentage out of total
export value (USD)

1

Philippines

1,464,136

468,044,523

44.24%

2

Indonesia


1,169,429

378,979,955

35.82%

3

Malaysia

379,513

116,683,893

11.03%

4

Singapore

82,389

25,911,742

2.45%

5

Japan


64,640

18,718,676

1.77%

6

China

42,720

15,936,649

1.51%

7

Russia

38,594

13,406,442

1.27%

8

South Africa


36,980

10,908,910

1.03%

9

Taiwan

19,521

7,855,138

0.74%

10

UAE

4,561

1,525,849

0.14%

Total

3,302,483


1,057,971,777

100.00%

3. Đối thủ cạnh tranh
Theo thống kê của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO), khoảng 147.500.000 ha đất
trên thế giới được sử dụng để trồng lúa, và 90% của các khu vực này thuộc về các nước châu Á. Các nước châu
Á cũng sản xuất khoảng 92% tổng sản lượng gạo của thế giới. Tăng sản lượng gạo toàn cầu khoảng từ 200 triệu
tấn trong năm 1960 lên đến hơn 600 triệu tấn vào năm 2007. Ba nhà sản xuất lớn bao gồm Trung Quốc (31%),
Ấn Độ (20%) và Indonesia (9%). Ba nước xuất khẩu hàng đầu thế giới là Thái Lan (26%), Việt Nam (15%) và
Mỹ (11%). Trong khi đó ba nước nhập khẩu gạo chính là Indonesia (14%), Bangladesh (4%) và Brazil (3%).
Theo FAO, ngoài Thái Lan, Trung Quốc và Ấn Độ cũng cạnh tranh mạnh mẽ với Việt Nam trong xuất khẩu gạo


Thái Lan là nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới, bán 7-8 triệu tấn gạo hàng năm trên tổng số sản lượng trong
nước là 26 triệu tấn. Năm 2007, Thái Lan xuất khẩu 9,5 triệu tấn gạo. Đất nước này cũng được biết đến như là
quê hương của hoa nhài gạo thơm. Gạo Thái Lan có khả năng cạnh tranh cao hơn nhờ chất lượng tốt. Ví dụ, gạo
tấm 5% của Thái Lan chắc hơn, nhẹ và chỉ số tạp chất rất thấp. Do đó, Thái Lan không chỉ bán mà còn mở rộng
thị trường xuất khẩu gạo sang các thị trường truyền thống của Việt Nam như Iraq. Khu vực sản xuất lúa gạo
Thái rộng hàng trăm ha và đất nước này chỉ trồng một loại hạt giống. Ngược lại, Việt Nam có 70 triệu đồng lúa
rời rạc và "linh tinh" mà có thể ảnh hưởng đến chất lượng gạo.

4.Thế mạnh và cơ hội xuất khẩu
4.1. Thế mạnh
- Hiện nay, gạo là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong các mặt hàng xuất khẩu cạnh tranh cao của Việt Nam.
- Sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam là khá dồi dào và ổn định:
• Việt Nam có lợi thế tự nhiên và đất sản xuất lúa gạo. Diện tích lúa ở đồng bằng sông Cửu Long được củng cố
bởi phù sa hàng năm, sản xuất lúa gạo và các sản phẩm liên quan khác với các chi phí đầu vào thấp nhất. Chi
phí để sản xuất một kg gạo vào mùa xuân năm 2007 - vụ đông là 1.351 đồng.

• Nông dân khu vực rất quen thuộc với việc trồng lúa, có kinh nghiệm và cần cù.
• Nhiều vùng trồng lúa lớn với hệ thống thủy lợi có vốn đầu tư có nguồn cung cấp nước dồi dào cho việc tưới
tiêu. Những vùng này cũng thuận tiện đường bộ và giao thông đường thuỷ trong vận chuyển gạo.
• Chất lượng gạo xuất khẩu đã được cải thiện nhiều trong những năm gần đây nhờ vào tốc độ cơ giới hóa cao
trong sản xuất nông nghiệp.
- Gạo thường xuyên được trồng ở nhiều nơi với chất lượng khác nhau trong suốt cả năm nên lượng luôn đủ cho
xuất khẩu.
- Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam cùng loại thấp hơn so với gạo Thái Lan nên Việt Nam có thể thu hút sự chú ý
nghiêm ngặt của các nhà nhập khẩu nước ngoài.
- Việt Nam hoàn toàn có khả năng trồng lúa chất lượng tương đương như Thái Lan.
- Việt Nam luôn đứng ở vị trí cao về trồng lúa, nuôi trồng và kỹ thuật hạt giống.
- Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là một điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu gạo. Việt
Nam sẽ mở rộng thị trường của mình và sở hữu các sản phẩm mang nhãn hiệu sẽ được bảo vệ trong phạm vi
toàn cầu. Các nhà đầu tư và các công ty có sự an tâm trong việc xây dựng thương hiệu riêng của họ.


- Gạo Việt Nam và uy tín xuất khẩu gạo của Việt Nam đang được khẳng định trong kinh doanh quốc tế.
- Doanh nhân Việt Nam có động lực và sự tinh tế trong việc tiếp cận và phát triển thị trường xuất khẩu.
4.2. Cơ hội xuất khẩu
Trong tình hình trên thế giới lo lắng về thực phẩm khan hiếm, giá gạo cao, là thời gian thuận lợi cho Việt Nam
để xuất khẩu gạo khi đất nước có thể được hưởng lợi từ gi. Giá gạo thế giới được ước tính sẽ tiếp tục tăng và
đây là cơ hội cho các nước xuất khẩu gạo bao gồm cả Việt Nam.
Gia tăng đột biến về nhu cầu gạo trên thế giới tạo điều kiện tốt hơn cho Việt Nam để tăng giá trị xuất khẩu gạo.
Nhu cầu của người tiêu dùng gạo trên thế giới đang ngày càng cao, trong khi nguồn cung luôn thấp hơn nhiều
so với nhu cầu.
Bên cạnh đó, một số nước trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương đã bãi bỏ lệnh trên Nghiêm cấm nhập khẩu
gạo. Đây là một trong nhiều cơ hội tốt cho xuất khẩu gạo Việt Nam.
Đối với thị trường châu Phi, theo Hiệp hội Phát triển Lúa gạo Tây Phi, nhu cầu tiêu thụ gạo ở Tây Phi và Trung
Phi là khoảng 4 triệu tấn mỗi năm, tương đương 1 tỷ USD, trong đó 3 triệu tấn phải nhập khẩu. Nam Phi không
sản xuất lúa, gạo cho tất cả tiêu dùng phải nhập khẩu với số lượng từ 500 đến 600 nghìn tấn mỗi năm. Những

thị trường này thường đã có nhu cầu về gạo chất lượng trung bình và gạo giá rẻ mà Việt Nam cũng có thể cạnh
tranh với Thái Lan và Pakistan.

Nhập khẩu
Mặc dù xuất khẩu một số lượng rất lớn gạo mỗi năm, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu nhiều gạo. Có rất ít người
biết rằng mỗi năm, Việt Nam vẫn nhập khẩu hơn 3.000 tấn lúa chất lượng cao để phục vụ nhu cầu của các nhà
hàng sang trọng và các công ty chế biến thực phẩm. Bên cạnh đó, gạo Việt Nam đang chịu sức ép cạnh tranh
trong sân nhà với gạo từ Thái Lan, Mỹ, Trung Quốc, Pakistan và Campuchia.
Lý do để nhập khẩu gạo lớn là mức sống của người Việt ngày càng tốt tốt hơn. Họ có nhu cầu cao hơn về chất
lượng gạo, đặc biệt là gạo từ Trung Quốc, Thái Lan và Mỹ. Hơn nữa, Việt Nam đôi khi nhu cầu nhập khẩu gạo
Campuchia vì nó cần thiết để giảm tình trạng khan hiếm lúa gạo ở ĐBSCL trong thời gian giữa các vụ. lúa gạo
từ Campuchia thường được nhập khẩu qua biên giới Tây Nam nhưng số lượng không phải là tốt; Tuy nhiên nó
thường được nhập khẩu với số lượng lớn sau Tết.

Chính sách, định hướng sản xuất; và dự báo về phát triển xuất khẩu trong những năm tới


Bên cạnh việc đảm bảo an ninh lương thực, Việt Nam luôn dành một số lượng nhất định cho xuất khẩu gạo.
Chính sách và định hướng sản xuất lúa gạo của Việt Nam như sau:
Về sản xuất:
- Nâng cao năng suất sản xuất gạo. Để làm điều này, cần thiết phải giải quyết các vấn đề liên quan đến hạt
giống, cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng và phương tiện nông nghiệp, khuyến khích các dịch vụ nông nghiệp.
Mặc dù khả năng tăng năng suất lúa ở các vùng đồng bằng (tại khá cao năng suất trung bình mức độ) không
phải là quá nhiều, vẫn còn cơ hội để nâng cao năng suất lúa tại vùng sâu và vùng cao.
- Xem xét các khả năng đặc biệt để xuất khẩu gạo và lúa chất lượng cao. Khu vực tư nhân được khuyến khích
tham gia trong việc phát triển thị trường gạo đặc biệt có giá trị kinh tế cao, mang lại lợi ích cho người nông dân
có khả năng cung cấp giống lúa chất lượng cao. Tăng sản lượng và năng suất của các giống lúa phổ biến khác.
- Ưu tiên sử dụng kỹ thuật để nâng cao chất lượng chế biến lúa gạo, giảm thiệt hại khi thu hoạch lúa.
Về thông tin liên lạc, giao thông vận tải, và quá trình thị trường:
Nhà nước cần phổ biến các thông tin về tình hình lưu trữ thực phẩm cho nông dân thông qua các hiệp hội sản

xuất lúa gạo bao gồm cả hợp tác xã để các bên liên quan có thể được tạo điều kiện trong việc điều chỉnh kế
hoạch xuất khẩu gạo của họ.
Hệ thống thông tin thị trường gạo do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý nên được phổ biến cho
địa phương để nông dân có thể tiếp cận các thông tin cập nhật về an ninh lương thực. Đó là một hành động quan
trọng và Nhà nước cần đầu tư đúng mức trong cả đào tạo nhân lực và thiết bị liên quan.
Để đạt được giá trị xuất khẩu gạo cao, chất lượng hạt giống lúa Việt Nam cần phải được cải thiện. Bên cạnh đó,
thương hiệu gạo Việt mạnh nên được xây dựng mạnh mẽ lên và quảng bá tại thị trường thế giới. Các nhà khoa
học, nông dân và các doanh nhân nên hợp tác để sản xuất lúa chất lượng cao.
Đối với hoạt động xuất khẩu gạo, cần thiết có các chính sách giảm lãi suất cho các doanh nhân trong một số giai
đoạn không cần thiết. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần phải xem xét cho phép các doanh nhân vay ngoại tệ.
Hơn nữa, thị trường xuất khẩu gạo phải được mở rộng với chính sách lâu dài và ổn định bằng cách tăng khả
năng cạnh tranh gạo Việt Nam cả về chất lượng và giá cả. Nước xuất khẩu gạo, đặc biệt là Thái Lan, cần phải
tăng cường phối hợp chiến lược trong việc kiểm soát thị trường gạo thế giới.

Sách tham khảo:
Cổng thông tin phát triển điện tử (www.xttm.agroviet.gov.vn).


Danh sách các nhà xuất khẩu đáng tin cậy Việt Nam của Bộ Công nghiệp và Thương mại.
IRRI - Rice Almanac, 4th edition.
Kế hoạch phát triển xuất khẩu quốc gia giai đoạn 2006-2010 của Chính phủ Việt Nam.
Michael Ward – Vietnam Grain and Feed Annual.
Nicholas Minot, Francesco Goletti - Rice Market Liberalization and Poverty in Viet Nam.
Tin tức và bài viết về gạo từ Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV).
Tin tức và các báo cáo liên quan đến gạo từ Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA).
Trang web www.moit.gov.vn.
Trang web www.vietnamtradefair.com
Trang web www.vnexpress.net




×