Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Vai trò của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở xã yên lập, huyện vĩnh tường, tỉnh vĩnh phúc trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (919.08 KB, 59 trang )

LỜI CẢM ƠN
Khóa luận được hồn thành, em xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới các thầy
giáo, cơ giáo trong Khoa Lý luận chính trị, các Phịng ban của nhà trường và
Đảng bộ - UBND xã Yên Lập, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, cùng các cá
nhân đã nhiệt tình giúp đỡ em trong việc sưu tầm, chọn lọc tài liệu, cung cấp
thông tin, những số liệu cần thiết trong q trình nghiên cứu và hồn thiện khóa
luận của mình.
Trong q trình thực hiện khóa luận, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo
hướng dẫn khóa luận – Thạc sĩ Hồng Văn Viện, thầy đã rất nhiệt tình giúp đỡ
em, chỉ bảo tận tình, chu đáo, đóng góp nhiều ý kiến q báu cho khóa luận của
em hồn thành đúng thời hạn.
Do điều kiện thời gian sưu tầm, nghiên cứu tài liệu, cùng khả năng nắm bắt
tình hình của bản thân cịn hạn chế nên thiếu xót trong khóa luận là điều khơng
thể tránh khỏi. Vì vậy, khóa luận rất mong được sự ủng hộ, chỉ bảo và đóng góp
ý kiến của Hội đồng khoa học Nhà trường, của các thầy giáo, cô giáo và các bạn
sinh viên.

Sơn La, tháng 05 năm 2015
Tác giả

Bùi Trọng Đại


DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT
CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

KHKT

: Khoa học kỹ thuật



TTCN

: Tiểu thủ công nghiệp

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

WTO

: Tổ chức thương mại thế giới


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với xu hướng hội nhập của khu vực và thế giới, Việt Nam đã và
đang tích cực phấn đấu để đi kịp cùng các nước trong khu vực và trên thế
giới. Đặc biệt từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 - 1986), với
đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mà trước hết là đổi mới sâu sắc trong
lĩnh vực kinh tế. Gần 30 năm đổi mới với những thành tựu đã đạt được trên
tất cả các lĩnh vực, đã đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Qua thực tiễn phát triển của đất nước đã chứng minh được rằng những
chủ trương, biện pháp để phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng ta đưa ra tại
Đại hội VI là hoàn toàn đúng đắn, những thành tựu mà chúng ta đã đạt được
trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước khơng thể khơng kể đến vai

trị to lớn của nền kinh tế nhiều thành phần.
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, ở nước ta đã cho duy trì 2 khu vực kinh tế với 7
thành phần kinh tế khác nhau:
Khu vực kinh tế XHCN bao gồm các thành phần kinh tế: Kinh tế quốc
doanh, kinh tế tập thể, kinh tế gia đình.
Các thành phần kinh tế khác bao gồm: Kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế
tư bản tư nhân, kinh tế cá thể, kinh tế tự nhiên.
Nền kinh tế nhiều thành phần ở đây khơng những là khách quan mà cịn
là động lực thúc đẩy, kích thích sự phát triển kinh tế - xã hội. Phát huy tinh
thần nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, các Đại hội sau đó: Đại hội Đảng
lần thứ VII (tháng 6 - 1991), Đại hội Đảng lần thứ VIII (tháng 7 - 1996), Đại
hội Đảng lần thứ IX (tháng 4 - 2001), Đại hội Đảng lần thứ X (tháng 4 2006), và đặc biệt là tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI lại một lần nữa
khẳng định việc duy trì nền kinh tế nhiều thành phần là đúng đắn và hợp lý.


Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định nền kinh tế nước ta
tồn tại 4 thành phần kinh tế:
+ Kinh tế Nhà nước
+ Kinh tế tập thể
+ Kinh tế tư nhân ( gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân)
+ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi
Mỗi thành phần kinh tế đều dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về
tư liệu sản xuất và biểu hiện lợi ích của mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp xã hội
nhất định. Các thành phần kinh tế không tồn tại độc lập tách rời nhau mà tồn
tại đan xen, tác động qua lại lẫn nhau.
Có thể nói sự thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá
độ lên CNXH ở Việt Nam là hợp quy luật khách quan, có chiến lược lâu dài
và đóng vai trị to lớn về mọi mặt. Đặc biệt là động lực thúc đẩy, kích thích
sự phát triển sản xuất. Trong các thành phần kinh tế đó thì thành phần kinh

tế tư nhân chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng:
Đảm bảo cho mọi người phát triển sản xuất kinh doanh trên cơ sở quy
định của pháp luật.
Thúc đẩy quá trình hội nhập mở cửa.
Giải quyết việc làm cho người lao động – một vấn đề bức bách hiện
nay của đời sống kinh tế - xã hội.
Thực hiện chủ trương xóa đói giảm nghèo, từng bước cải thiện nâng
cao đời sống của nhân dân.
Quan tâm đến lợi ích của người lao động.
Cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực như: vốn, lao
động, tài nguyên, khoa học và công nghệ.


Phát triển khu vực kinh tế tư nhân cũng có nghĩa là bảo tồn tính đa
dạng phong phú của đời sống kinh tế, xem nó như là nguồn gốc cho mọi sự
phát triển. Việt Nam đã gia nhập WTO (11/1/2007), đây là sự hội nhập toàn
diện, và khu vực kinh tế tư nhân là khu vực mà cuộc hội nhập tác động
trên diện rộng và đa dạng. Cho nên, nếu những yếu kém, hạn chế của khu
vực này không được khắc phục, chậm được giải quyết thì sẽ có tác động
khơng nhỏ đến nền kinh tế nói chung. Vì vậy kinh tế tư nhân cần được
quan tâm và cần có những giải pháp cụ thể để nó phát huy được sức mạnh
của mình trên bình diện cả nước và ở mỗi địa phương.
Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là xu hướng
phát triển của nước ta nói chung và của xã Yên Lập, huyện Vĩnh Tường, tỉnh
Vĩnh Phúc nói riêng.
Thực hiện chủ trương đường lối của Đảng, xã Yên Lập trong những
năm gần đây đã có nhiều bước tiến đáng kể, đăc biệt là bộ mặt kinh tế. Cùng
với các thành phần kinh tế khác, kinh tế tư nhân đã góp phần khơng nhỏ
trong việc làm thay đổi bộ mặt kinh tế của xã. Góp phần quan trọng bổ xung

nguồn vốn cho đầu tư phát triển tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu sản
xuất, mở rộng thị trường cũng như góp phần cải thiện đáng kể đời sống của
nhân dân với vai trò là một thành phần kinh tế giàu tiền năng và có ưu thế
phát triển, kinh tế tư nhân đòi hỏi cần được quan tâm và đầu tư thỏa đáng.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được hiện nay ở xã, thành
phần kinh tế tư nhân còn còn phát triển chưa tương xứng với tiền năng vốn
có của xã nhà, bộc lộ nhiều yếu kém, hạn chế sự phát triển của nền kinh tế
mà đỏi hỏi phải có biện pháp khắc phục.
Chính vì vậy tơi mạnh dạn chọn đề tài “Vai trò của kinh tế tư nhân
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở xã Yên Lập, huyện Vĩnh Tường,


tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay” để bước đầu nghiên cứu, vận
dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn xã nhà, về tiềm năng cũng như
xu hướng phát triển trong thời gian tới để có thể mạnh dạn đề xuất những
giải pháp tích cực, phù hợp nhằm đẩy mạnh, mở rộng và phát triển thành
phần kinh tế tư nhân nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội xã nhà nói
chung.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hiện nay kinh tế tư nhân chiếm một vị trí rất quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế của nước ta. Trong thực tế đã có khơng ít cơng trình nghiên
cứu, các bài báo, xã luận nói về thành phần kinh tế tư nhân. Tuy nhiên nó
mới chỉ được nghiên cứu, phản ánh ở mức độ, khía cạnh khác nhau. Nhìn
chung mới chỉ là những nhận định chung chung, mặc dù có những tác giả
cũng đã đưa ra những giải pháp nhưng nó lại mang tầm khái quát cao, ở tầm
quốc gia, khu vực như:
Phạm Cao Cường “Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế”. Khóa luận tốt nghiệp sinh viên Khoa kinh tế và kinh doanh
quốc tế - Trường Đại học Ngoại thương. Hà nội – 2009. Tác giả đã tập trung
làm rõ vai trò của kinh tế tư nhân trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

“Một số vấn đề kinh tế xã hội trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt
Nam” của tác giả Vũ Hồng Tiến. Tác giả đã tập chung làm rõ phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN trên cơ sở đa dạng hóa hình thức sở
hữu và vai trị, vị trí của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
Với đề tài “Vai trò của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội ở xã Yên Lập, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện
nay”, tác giả xin đóng góp thêm vào việc nghiên cứu về thành phần kinh tế
tư nhân ở một địa phương cụ thể.


Với ý nghĩa đó thì kết quả nghiên cứu của những bài báo, cơng trình
khoa học của các tác giả đi trước sẽ là tài liệu quý giá để tác giả sưu tầm,
làm tài liệu tham khảo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Làm rõ thực trạng và vai trò của kinh tế tư nhân đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội ở xã Yên Lập, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh
Phúc trong giai đoạn hiện nay, qua đó đưa ra những giải pháp phát triển
thành phần kinh tế này.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Thu thập tài liệu có liên quan đến đề tài.
+ Nghiên cứu nội dung của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
+ Hệ thống lại nội dung lý luận và thực tiễn theo cấu trúc của đề tài.
+ Kết luận và đưa ra những giải pháp cụ thể.
4. Phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phạm vi
Thực trạng, vai trò và những giải pháp phát triển cụ thể của thành
phần kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở xã Yên Lập,
huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu

4.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết
+ Cụ thể là nghiên cứu lý thuyết về khái niệm thành phần kinh tế, cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần, khái niệm, vai trị và vị trí của thành phần kinh
tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.


+ Sau khi đã thu thập được tương đối tài liệu tham khảo, tiến hành đọc
và phân tích các nội dung cần thiết có liên quan đến đề tài và tập hợp theo
từng nội dung cụ thể.
- Phương pháp hệ thống hóa lý thuyết
+ Sắp xếp các nội dung đã tổng hợp.
+ Phân tích các nội dung đã sắp xếp, chỉnh sửa và đưa vào hệ thống
theo cấu trúc của đề tài.
4.2.2. Phương pháp điều tra thực tế
- Điều tra thực tế tình hình kinh tế - xã hội ở xã Yên Lập, huyện Vĩnh
Tường, tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.
5. Đóng góp của đề tài
- Thứ nhất: Góp phần làm rõ hơn thực trạng và vai trị của kinh tế tư
nhân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở xã Yên Lập, huyện Vĩnh Tương,
tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
- Thứ hai: Đưa ra những giải pháp cụ thể có tính thực tiễn cao nhằm
thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân tại xã nhà.
6. Ý nghĩa
Đề tài là tài liệu tham khảo cho sinh viên muốn nghiên cứu sâu về một
thành phần kinh tế ở một địa phương cụ thể trong giai đoạn hiện nay.
7. Thời gian nghiên cứu
Tổng thời gian nghiên cứu: Từ tháng 11 – 2014 đến tháng 5 – 2015, cụ thể
là:
- Từ tháng 11 đến tháng 12 năm 2014: Sưu tầm tài liệu liên quan, lập đề

cương tóm tắt.
- Tháng 12 – 2014: Đọc, nghiên cứu tài liệu.
- Từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2015: Xử lý, tổng hợp tài liệu.
- Tháng 4 – 2015: Hoàn thành đề tài.


- Tháng 5 – 2015: Nộp đề tài.
8. Kết cấu:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, đề tài có 3 chương:
- CHƯƠNG 1: Kinh tế tư nhân và vị trí của nó trong cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần hiện nay.
- CHƯƠNG 2: Thực trạng của kinh tế tư nhân ở xã Yên Lập, huyện
Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.
- CHƯƠNG 3: Vai trò của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở xã Yên Lập, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện
nay.
9. Sản phẩm:
- Loại sản phẩm: Tài liệu dự báo.
- Tên sản phẩm: “Vai trò của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển
kinh tế xã hội ở xã Yên Lập, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc trong
giai đoạn hiện nay”.
- Số lượng: 01.
- u cầu khoa học: Trình bày và phân tích vai trò của kinh tế tư nhân
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở xã Yên Lập, huyện Vĩnh Tường, tỉnh
Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.


CHƯƠNG 1
KINH TẾ TƯ NHÂN VÀ VỊ TRÍ CỦA NĨ TRONG CƠ CẤU KINH
TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Khái niệm về kinh tế tư nhân

1.1.1. Khái niệm chung
* Khái quát chung về sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, lực lượng sản xuất phát
triển chưa cao và tồn tại nhiều trình độ khác nhau. Do đó trong nền kinh tế
tồn tại nhiều chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất: Sở hữu tư nhân, sở hữu công
cộng về tư liệu sản xuất và sở hữu hỗn hợp. Trong mỗi chế độ sở hữu về tư
liệu sản xuất lại tồn tại nhiều hình thứ sở hữu khác nhau: Sở hữu nhà nước,
sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản tư nhân, ... Như vậy, nền kinh tế
ở đây là nền kinh tế nhiều thành phần.
* Khái niệm thành phần kinh tế
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế hay kiểu kinh tế dựa trên một
hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất.
Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, có nghĩa là tồn tại nhiều hình thức
quan hệ sản xuất, sẽ phù hợp với thực trạng thấp kém và không đồng đều
của lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay. Sự phù hợp này, đến lượt nó,
lại có tác dụng thúc đẩy tăng năng xuất lao động, tăng trưởng kinh tế, tạo
điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong
toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở nước ta.
Nền kinh tế nhiều thành phần thúc đẩy phát triển kinh tế hồng hóa, góp
phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh, cải thiện và nâng cao đời sống
nhân dân, phát triển các mặt của đời sống kinh tế - xã hội.


Cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các
thành phần kinh tế trong nước như: vốn, lao động, tài nguyên, kinh nghiệm
tổ chức quản lý, khoa học và công nghệ mới trên thế giới…
Tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế q độ, trong
đó có hình thức kinh tế tư bản nhà nước, nó như những “ cầu nối” trạm
“trung gian” cần thiết để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa.

Các thành phần kinh tế tạo tiền đề khắc phục tình trạng độc quyền, tạo
ra quan hệ cạnh tranh, động lực quan trọng thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, phát
triển lực lượng sản xuất.
Sự phân tích trên cho ta thấy, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần có vai trị
to lớn trong thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội. Cơ cấu đó vừa phù hợp với
trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất ở nước ta, vừa phù hợp với lý
luận của Lênin về đặc điểm kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương thực hiện
nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần
kinh tế “cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”.
* Khái niệm kinh tế tư nhân (Kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư
bản tư nhân).
Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất.
Kinh tế tư nhân bao gồm: Kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân:
+ Kinh tế cá thể, tiểu chủ: Là hình thức kinh tế dựa trên chế độ sở hữu
nhỏ về tư liệu sản xuất và sức lao động của bản thân người lao động và gia
đình họ. Thành phần kinh tế này bao gồm những cá thể, thợ thủ công, người
làm thương nghiệp và dịch vụ có thể tồn tại ở cả vùng nông thôn và thành thị


trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm, được giúp đỡ và khuyến
khích phát triển.
+ Kinh tế tư bản tư nhân: Gồm những đơn vị sản xuất kinh doanh dựa
trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động
làm thuê.
Bản thân khu vực kinh tế tư bản tư nhân hiện cũng đang còn nhiều tiềm
năng và trên đà phát triển. Bằng chứng rõ nhất là chỉ trong gần 4 năm thực
hiện Luật doanh nghiệp (2000 – 7/2003), số vốn tư bản tư nhân đã tăng lên

145.000 tỉ đồng, cao hơn vốn đầu tư nước ngoài cùng kỳ và tăng gấp 4 lần số
vốn đăng ký của khu vực tư bản tư nhân giai đoạn 1991 – 1999 và tăng gấp
đôi về số doanh nghiệp đăng ký (Bộ kế hoạch và Đầu tư, 2003). Tiền năng
này cịn lớn hơn khi nhìn vào khu vực kinh tế cá thể khá đồ sộ mà rất có khả
năng sẽ chuyển thành kinh tế tư bản tư nhân nếu có mơi trường kinh doanh
thuận lợi. Tuy nhiên, sự phát triển của kinh tế tư bản tư nhân hiện nay còn bị
cản trở và hạn chế bởi những nhận thức chưa rõ ràng về vai trò của kinh tế tư
bản tư nhân nói riêng và khu vực tư nhân nói chung trong phát triển kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Những vấn đề lý luận chưa được sáng tỏ về
kinh tế thị trường định hướng XHCN dẫn đến tâm lý chưa yên tâm để tư bản
tư nhân phát triển hết tiền năng.
Có nghiên cứu cho rằng, trong tương lai thành phần kinh tế tư bản tư
nhân sẽ phát triển mạnh hơn do:
Các thành phần kinh tế khác muốn liên doanh với kinh tế nhà nước để
tìm chỗ dựa cho phát triển để yên tâm phát triển lâu dài.
Nhà nước có thể định hướng phát triển khu vực tư nhân thông qua liên
doanh và liên kết với khu vực này. Trong trường hợp này rất có thể xảy ra
nhất là trong bối cảnh kinh tế nhà nước được hưởng nhiều ưu đãi và là thành
phần được nhà nước chăm sóc và ni dưỡng nhiều nhất. Hơn thế nữa, hiện


nay chúng ta đang có chính sách thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi sẽ tiếp tục giữ vị trí quan
trọng trong nền kinh tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế, khu vực này sẽ hòa quyện dần với các khu vực kinh tế khác trong
nước khi Nhà nước đang có chủ trương xây dựng mặt bằng pháp luật chung
cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Thuật ngữ “Kinh tế tư nhân” gắn liền với vấn đề sở hữu. Sở hữu là
quan hệ giữa con người và con người trong sản xuất, phản ánh quá trình

chiếm hữu của cải vật chất. Sự phát triển lịch sử cho thấy, quan hệ
sở hữu được hình thành và hồn thiện dần từng bước. Khi nhà nước xuất
hiện, các quan hệ sở hữu được thể chế hóa bằng luật pháp hình thành chế
độ sở hữu. Quan hệ sở hữu chứa đựng những nội dung kinh tế, đồng thời
cũng được xác định về mặt pháp lý. Quyền sở hữu xác định quyền của
người chủ sở hữu trong việc sử dụng và hưởng lợi từ việc khai thác các
đối tượng sở hữu. Sự phát triển của lực lượng sản xuất chi phối sự phát
triển của các quan hệ sản xuất, trong đó có các quan hệ sở hữu. Quan hệ sở
hữu nguyên thủy trong lịch sử loài người là sở hữu tập thể. Sự phát triển
của lực lượng sản xuất đã phá vỡ hình thức sở hữu sơ khai đó để thay thế
nó bằng quan hệ sở hữu tư nhân.[8, 5].
Cùng với sự phát triển của lịch sử, đặc biệt với sự tồn tại của
hai hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, các quan hệ
sở hữu lại càng trở nên đa dạng và phức tạp hơn, chế độ sở hữu được
coi là tiêu chí cơ bản để phân biệt hai phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Lịch sử phát triển kinh tế của các nước
trên thế giới cũng chỉ ra rằng, ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển, sở
hữu nhà nước vẫn tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Nó thể hiện sự


can thiệp của nhà nước vào thị trường, với tư cách là phương thức cho
những thất bại của thị trường, giúp nền kinh tế phát triển ổn định và bền
vững hơn.
Trải qua nhiều thời kỳ phát triển khác nhau, vị trí kinh tế tư nhân
được nhìn nhận rất khác nhau trong các hình thái kinh tế xã hội khác nhau.
Ở các nền kinh tế phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa trước đây,
cũng như trong thời kỳ chuyển đổi hiện nay, sự nhìn nhận vai trị
của kinh tế tư nhân cũng được thay đổi nhiều qua các thời kỳ khác
nhau của tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, sở hữu tư nhân là quan hệ sở hữu xác nhận quyền hợp

pháp của tư nhân trong việc chiếm hữu, quyết định cách thức tổ chức sản
xuất, chi phối và hưởng lợi từ kết quả của quá trình sản xuất đó. Sở hữu tư
nhân về q trình sản xuất là cơ sở ra đời khu vực kinh tế tư nhân.
Khu vực kinh tế tư nhân có thể hiểu là một thuật ngữ phản ánh một
bộ phận kinh tế của các chủ thể trong xã hội, hoạt động dựa trên quyền sở
hữu tư nhân về các điều kiện cơ bản của sản xuất. Thuật ngữ Khu vực
kinh tế cần được hiểu rộng hơn là khái niệm thành phần kinh tế. Thành phần
kinh tế là khái niệm thể hiện cấu trúc của một xã hội, trong đó bao gồm
nhiều mảng đại diện cho các phương thức sản xuất khác nhau đang cùng tồn
tại. Như vậy, thuộc về thành phần kinh tế là những bộ phận của các phương
thức sản xuất khác nhau cùng tồn tại ở một xã hội, trong đó, giữ vai trị chủ
đạo là phương thức sản xuất của giai cấp thống trị. Các phương thức sản
xuất khác đan xen với nhau để hình thành một thể thống nhất, vừa đấu
tranh vừa hợp tác cùng phát triển.
Trong khi đó, khu vực kinh tế có thể bao hàm các loại hình kinh doanh
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Chẳng hạn, thuộc về khu vực kinh
tế tư nhân có thể bao hàm các loại hình kinh doanh thuộc các thành phần


kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, như thành phần kinh tế
cá thể, tiểu chủ và thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Các cơ sở sản xuất
này hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh
nghiệp của tư nhân. Xét về mặt quan hệ sở hữu, kinh tế cá thể, tiểu chủ và
kinh tế tư bản tư nhân đều thuộc loại hình sở hữu tư nhân, khác với sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể. Nhưng, nếu xét về phương diện thành phần kinh
tế thì kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân là hai thành phần
kinh tế khác nhau, khác về trình độ phát triển lực lượng sản xuất và về bản
chất quan hệ sản xuất.
1.1.2 Các đặc điểm của kinh tế tư nhân
* Về hình thức

- Kinh tế tư nhân thể hiện dưới nhiều hình thức phong phú đa dạng:
+ Kinh tế cá thể, tiểu chủ thể hiện dưới nhiều lĩnh vực:
Trồng trọt.
Chăn nuôi.
Lâm nghiệp.
Ngư nghiệp, Tiểu thủ công nghiệp.
Thương nghiệp, dịch vụ.
+ Kinh tế tư bản tư nhân thể hiện ở một số lĩnh vực:
Tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp.
Thương mại, dịch vụ.
* Các thành viên trong kinh tế tư nhân
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ: Bản thân người lao động và gia đình họ đảm
nhận tất cả các chức năng là người điều khiển quá trình sản xuất, vừa là
người bỏ vốn, bỏ sức lao động và vừa tự lo nơi tiêu thụ, phân phối sản phẩm
lao động, lợi nhuận thu được do họ nắm giữ.


- Kinh tế tư bản tư nhân: Là bản thân người lao động vừa là người điểu
khiển toàn bộ quá trình sản xuất, vừa là người bỏ vốn đầu tư cho q trình
sản xuất, nhưng họ khơng trực tiếp bỏ sức lao động.
* Mơ hình kinh tế tư bản tư nhân
- Về hình thức kinh tế cá thể, tiểu chủ bao gồm:
+ Hộ gia đình trồng rau sạch cung ứng cho thị trường.
+ Hộ gia đình trồng cây ăn quả cung ứng cho thị trường.
+ Hộ gia đình chăn ni gia súc, gia cầm (Trâu, bò, gà, vịt, ngan,
ngỗng...).
+ Hộ gia đình mở cửa hàng bn bán nhỏ.
+ ...
- Về hình thức kinh tế tư bản tư nhân bao gồm:
+ Các doanh nghiệp công nghiệp chế biến.

+ Các doanh nghiệp nông nghiệp.
+ Các công ty tư nhân, công ty cổ phần.
+ Các công ty trách nhiệm hữu hạn.
* Về cơ sở trong kinh tế tư nhân
Sở hữu tư nhân: là sở hữu của mỗi cá nhân lao động, đối tượng của nó
là phần tài sản hợp pháp của mình do q trình tích lũy của mỗi cá nhân hay
đóng góp vốn của những người lao động tạo nên.
* Về phân phối trong kinh tế tư nhân
Do các doanh nghiệp, các cơng ty tư nhân hay các hộ gia đình có những
cách phân phối tùy theo đặc điểm điều kiện của cơng ty, doanh nghiệp hay
gia đình mình.
* Về ngun tắc hoạt động của kinh tế tư nhân
- Nguyên tắc tự chủ: Tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự chủ về tài
chính, tự chủ về ngành lĩnh vực kinh doanh.
- Nguyên tắc tự chịu trách nhiệm: Về kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh, lời ăn lỗ chịu, tự quyết định về phân phối và thu nhập.


- Nguyên tắc tự nguyện: Bản thân người lao động đứng ra thành lập
công ty doanh nghiệp, bản thân người lao động và gia đình họ tự tham gia vì
lợi ích thiết thực của họ, không ai ngăn cấm, ép buộc.
* Cơ chế quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân
Trong văn kiện Đại hội X, đã chỉ rõ: “Tiếp tục phát triển mạnh các hộ
kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân. Tạo điều kiện
thuận lợi cho các loại hình kinh tế tư nhân đầu tư theo quy định của pháp
luật, khơng hạn chế quy mơ, lĩnh vực, địa bàn. Xóa bỏ mọi hình thức phân
biệt đối xử, đảm bảo sự bình đẳng... Khuyến khích các doanh nghiệp lớn của
tư nhân, các tập đồn kinh tế có nhiều chủ sở hữu với hình thức cơng ty cổ
phần...”[10, 236 – 237].
Để tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, văn kiện Đại hội Đảng XI nêu

rõ: “Hồn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành
một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình kinh tế
tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và quy định của
pháp luật. Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân
góp vốn vào các tập đồn kinh tế Nhà nước”.

1.2. Vị trí và xu hướng vận động của thành phần kinh tế tư nhân trong
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần hiện nay
Kinh tế tư nhân có vị trí rất quan trọng trong cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần hiện nay.
“Kinh tế tư nhân phát triển rất nhanh, hoạt động có hiệu quả triên
nhiều lĩnh vực, đóng góp quan trọng cho kinh tế - xã hội nhất là giải quyết
việc làm và cải thiện đời sống nhân dân” [7, 8 – 9].
Trong những năm gần đây khu vực kinh tế tư nhân phát triển rất nhanh
về mặt số lượng, nhiều doanh nghiệp được hình thành vì thế việc sản xuất
hàng hóa với nhiều mặt hàng trở nên rất phong phú và đa dạng. Việc tiêu
dùng của người dân cũng như của các doanh nghiệp tăng lên rõ rệt, doanh
nghiệp thì cần sử dụng nhiều nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất, người


tiêu dùng thì mức sống ngày càng cao, kèm theo mặt hàng trở nên phong
phú và đa dạng cho nên mức tiêu dùng của toàn xã hội tăng lên rất nhanh, vì
thế xét trên góc độ tổng quan thì khu vực kinh tế tư nhân có vai trị rất quan
trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trong kinh tế tư nhân có hai hình thức kinh tế là kinh tế cá thể, tiểu chủ
và kinh tế tư bản tư nhân. Cả hai hình thức kinh tế này đều đang phát huy tốt
vai trị, tiềm năng của mình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.1 Đối với hình thức kinh tế cá thể, tiểu chủ
* Kinh tế hộ nông dân.
* Các hộ trang trại.

* Các hộ sản xuất kinh doanh.
Với tư cách là một đơn vị kinh tế tự chủ dựa trên nền tảng quyền sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chủ yếu (trừ đất đai) đã và đang phát triển
đúng hướng ở nhiều lĩnh vực: Nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, công
nghiệp xây dựng và dịch vụ.
* Đối với kinh tế hộ nông dân
Theo điều tra của Bộ Nông nghiệp và phát triển nơng thơn về nơng
nghiệp và thủy sản thì tính đến thời điểm tháng 7 năm 2011 có khoảng 16,15
triệu hộ tăng gần 3 triệu triệu hộ so với năm 2006.
Chúng ta có thể thấy rõ được số lượng và cơ cấu hộ nông thôn phân theo
vùng trong bảng số liệu sau:
Bảng số lượng và hộ nông thôn phân theo vùng
Phân theo vùng

Năm 2006

Năm 2011

Hộ

Tỉ lệ (%)

Hộ

Tỉ lệ(%)

Cả nước

13.785.379


100,0

16.169.580

100,0

Nông – Lâm nghiệp –

9.776.674

71,0%

8.730.263

68,7%

Ngư nghiệp


Công nghiệp – xây

1.374.174

10%

2.069.459

12,5%

Dịch vụ


2.040.973

14,8%

2.250.327

13%

Hộ Khác

584.437

4,2%

657.836

4,8%

dựng

Nguồn: Tổng cục thống kê
Qua bảng điều tra trên cho ta thấy số hộ nông dân hộ nông dân
Nông – Lâm nghiệp và Thủy sản đã giảm từ gần 10 triệu (2006) xuống
còn 8,73 triệu hộ (2011). Trong khi đó số hộ Cơng nghiệp – Xây dựng và
Dịch vụ tăng lên đáng kể.
Đây là một sự chuyển dịch tích cực, sự thay đổi này cho thấy kinh tế
hộ gia đình đã có sự phát triển.
Điều đó nói lên các hộ nơng dân đều có sự tích lũy bình qn tương
đối cao và tăng nhanh. Cụ thể:

+ Tích lũy bình qn một hộ là 6,5 triệu đồng, tăng 3,7 triệu đồng và
gấp 2,4 lần so với năm 2006.
+ Vốn tích lũy cao nhất là trong các hộ vận tải đạt 16,3 triệu đồng,
tiếp là hộ thương nghiệp 13,8 triệu đồng, hộ thủy sản 11,5 triệu đồng ... thấp
nhất là hộ nơng nghiệp 5,2 triệu đồng.
+ Tính đến năm 2011, tích lũy trung bình 1 năm là 18 triệu đồng/ 1 hộ
gia đình.
Vào thời điểm đầu năm 2011 tổng số vốn tích lũy của các hộ nơng
thơn là 98,5 tỉ đồng.
Nhờ vào kinh tế hộ nông thôn mà tỉ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn đã
giảm mạnh, tới hơn một nửa trong khoảng thời gian 5 năm, năm 2001 –
2006 từ 63,7% xuống còn 25,3%. Ba năm gần đây, tỉ lệ hộ nghèo của cả


nước đã giảm từ 13,59% (năm 2008) xuống còn 11,52% (năm 2011), vượt
kế hoạch đề ra 7,9%.
* Đối với kinh tế trang trại
Theo điều tra của bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn hiện nay
kinh tế trang trại đang phát triển nhanh về số lượng ở tất cả các vùng trong
cả nước. Đến thời điểm tháng 7 năm 2011 cả nước có 158.372 trang trại so
với năm 2006 tăng khoảng 4.739 trang trại.
Kinh tế trang trại đã thu hút được 683,6 nghìn lao động thường xuyên
gấp 2,5 lần so với năm 2006. Trong đó, lao động của chủ hộ trang trại là
318,2 nghìn người chiếm 63,8% cịn lại là lao động thuê mướn. Bên cạnh
đó, kinh tế trang trại hộ nơng thơn cịn tạo ra gần 8 triệu ngày cơng lao động
theo thời vụ.
Thu nhập bình qn của lao động làm việc tại trang trại đạt 23,6 triệu / 1
người/ năm.
Tổng số vốn của các trang trại là 41,529 tỉ đồng, trung bình là 429,3
triệu đồng/ 1 trang trại, tăng 153,8 triệu đồng so với năm 2006.

Tổng doanh thu sản xuất kinh doanh của các trang trại năm 2011 đạt
32,519 tỉ đồng, gấp 4,2 lần năm 2006. Bình quân đạt 254,1 triệu đồng / 1
trang trại, gấp 2,5 lần so với năm 2006.
Mặc dù thành quả tương đối cao, nhưng kinh tế trang trại cịn gặp
nhiều khó khăn. Được hình thành theo lối phổ thơng, hầu hết lao động chưa
qua đào tạo, chưa có vốn đầu tư cũng như kỹ thuật cịn yếu kém. Chính vì
vậy đặt ra một yêu cầu cấp bách đó là Nhà nước phải tạo điều kiện về vốn,
cũng như tạo nguồn nhân lực có trình độ chun mơn kỹ thuật nhằm hộ trợ
cho khu vực nơng nghiệp nơng thơn nói chung và hoạt động trang trại nói
riêng để đạt được hiệu quả thiết thực tương xứng với tiềm năng.
* Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh


Trong nhiều năm gần đây các cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động
ngày càng hiệu quả và có sự tăng lên về số lượng cũng như doanh thu của
các cơ sở và mức đóng góp vào nguồn thuế của Nhà nước. Cụ thể là:
Năm 2005: Cả nước có 3,053 triệu cơ sở thu hút gần 5,9 lao động với
tổng số vốn là 143 nghìn tỉ đồng. Đạt doanh thu 439 nghìn tỉ đồng, trung
bình 143 triệu đồng trên một cơ sở. Thu nhập của lao động cũng tăng cao,
đạt 78,7 triệu đồng/ người/ năm.
Năm 2008, số cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể là 3,9 triệu cơ sở, tăng
44,7%. Quy mô lao động ở cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể nhìn chung đã
thay đổi ở mức từ 3 – 5 lao động/ 1 cơ sở. Đến năm 2011 số cơ sở sản xuất
kinh doanh cá thể là 5,2 triệu cơ sở. Sự phát triển của các cơ sở sản xuất
kinh doanh cá thể vốn dĩ có tính tự phát, là khu vực tạo cơng ăn việc làm cho
một bộ phận lao động lớn(khoảng 9 triệu lao động), có kỹ năng lao động
giản đơn, đóng góp chủ yếu vào thu nhập kinh tế gia đình.
Với những kết quả đã đạt được, các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể
đã đóng góp vào nguồn thuế Nhà nước đạt tỉ lệ khá cao trong những năm
gần đây.

Như vậy có thể nói sự ra đời của kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại
và các cơ sở sản xuất kinh doanh các thể là một giải pháp cho phép lực
lượng sản xuất trong nông nghiệp, cũng như trong các lĩnh vực khác: công
nghiệp – xây dựng, thương mại – dịch vụ, đây là yếu tố quyết định để tăng
sản lượng hàng hóa phục vụ cho xuất khẩu và tiêu thụ, tạo thế ổn định và
từng bước thay đổi bộ mặt đất nước nói chung, đặc biệt là bộ mặt nơng thơn
Việt Nam.
Thực hiện tốt các chính sách phúc lợi cơng cộng, các hộ gia đình, các
cơ sở sản xuất tham gia vào chương trình phát triển kinh tế - xã hội, góp


phần tích cực từng bước giải quyết có hiệu quả các vấn đề nông thôn, nông
dân, nông nghiệp ở nước ta.
1.2.2. Đối với hình thức kinh tế tư bản tư nhân
Những thay đổi pháp lý, chính sách và cải cách hành chính liên quan
đã thúc đẩy sự chấp nhận khu vực kinh tế tư nhân về xã hội và chính trị, làm
tăng lòng tin trong khu vực tư bản tư nhân. Tạo điều kiện và động lực để
thành phần kinh tế tư bản tư nhân phát triển.
Trong những năm qua, chính việc thay đổi các chính sách đối với kinh
tế tư nhân “... đã xóa bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh
doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân phát triển
không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả lĩnh vực sản
xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm”. [11,
86 – 87].
Các doang nghiệp tư bản tư nhân trong nước những năm qua đã có
nhiều bước phát triển nhanh chóng. Hiện nay số lượng các doanh nghiệp tư
nhân đã tăng lên rất nhanh và ngày càng hoạt động có hiệu quả, dần khẳng
định được vị trí quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân, cũng
như góp phần vào việc giải quyết các vấn đề xã hội như: việc làm, thu nhập
cho người lao động của cả nước, đây là một vai trò hết sức quan trọng trong

giai đoạn hiện nay khi giải quyết những vấn đề có tính cấp bách như việc
làm, thu nhập.
Số lượng các doanh nghiệp đang tăng lên đáng kể trong những năm
gần đây và chủ yếu là tăng số lượng các doanh nghiệp tư nhân. Bên cạnh đó,
các doanh nghiệp Nhà nước lại có xu thế giảm dần qua các năm.
Thành phần kinh tế này đã tạo công ăn việc làm, đảm bảo đời sống
cho khoảng hơn 40% tổng số lao động trong các doanh nghiệp ở Việt Nam
(khoảng trên 5 triệu người) và đến nay thành phần kinh tế này vẫn thu hút


được số lượng lao động đông đảo trong các doanh nghiệp và cơng ty tư
nhân.
Nhìn chung, đến thời điểm này kinh tế tư nhân vẫn đang ngày càng
phát huy được những tiềm năng to lớn của mình. Vai trị quan trọng là duy
trì thành phần này đã thực sự là một trong những giải pháp hiệu quả nhất
trong việc giải phóng lực lượng sản xuất. Khơng những thế, hoạt động hiệu
quả của kinh tế tư nhân đã góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống
nhân dân, góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế và phúc lợi xã hội.
Riêng về hình thức kinh tế tư nhân, việc thay đổi những chính sách
của Đảng và Nhà nước ta đối với thành phần kinh tế này đã tạo ra môi
trường thực sự thuận lợi để các doanh nghiệp, các cơng ty tư nhân có điều
kiện phát triển tốt nhất. Góp phần vào tăng trưởng GDP ngày càng cao của
kinh tế nước nhà.
* Vấn đề Đảng viên làm kinh tế tư nhân
Từ Hội nghị Trung ương lần thứ 12, khóa IX, dự thảo báo cáo chính
trị có nêu đến vấn đề “Đảng viên làm kinh tế tư nhân không giới hạn về quy
mô”. Tại Đại hội Đảng lần thứ X, Đảng ta đã chủ trương xây dựng các quy
định về vấn đề Đảng viên làm kinh tế tư nhân. Ngày 28 – 08 – 2006, Trung
ương đã chính thức ban hành quy định số 15/ QĐ/ TW về Đảng viên làm
kinh tế tư nhân.

Từ việc cho phép Đảng viên làm kinh tế tư nhân tại Đại hội lần thứ X,
đến Đại hội XI, Đảng ta cho phép “thực hiện thí điểm việc kết nạp những
người là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng” [12, 266].
Với những quy định mới như trên, có thể thấy, kinh tế tư nhân đang
có thêm nhiều hướng mở để phát huy tính năng động của mình. Tuy nhiên,
để chủ trương này thực sự mang lại hiệu quả và phù hợp với lý luận của Chủ
nghĩa Mác – Lênin thì địi hỏi Đảng và Nhà nước ta cần có hướng đi thích


hợp và cần được thực hiện trên những điều kiện, những chính sách cụ thể về:
vốn, đất đai, thuế, đào tạo nguồn nhân lực…
Hiện nay, Việt Nam đã chính thức ra nhập tổ chức thương mại thế
giới – WTO (tháng 1 năm 2007). Đây là một cơ hội cũng như là một thách
thức lớn để thành phần kinh tế tư nhân có thể khẳng định được vị thế của
mình. Chính vì vậy, địi hỏi Đảng và Nhà nước ta cần phải quan tâm và có
những chính sách thích hợp để hoạt động của thành phần kinh tế này thực sự
mang lại hiệu quả và có hướng đi đúng đắn.


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG KINH TẾ TƯ NHÂN Ở XÃ YÊN LẬP, HUYỆN VĨNH
TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Khái quát về đặc điểm, điều kiện tự nhiên xã Yên Lập
2.1.1. Vị trí địa lý
Xã Yên Lập là một trong những xã thuộc phía Bắc của huyện Vĩnh
Tường. Có vị trí địa lý:
- Phía Bắc giáp xã Kim Xá thuộc huyện Vĩnh Tường;
- Phía Đơng giáp xã Tân Tiến, Nghĩa Hưng thuộc huyện Vĩnh Tường;
- Phía Nam giáp xã Lũng Hồ thuộc huyện Vĩnh Tường;
- Phía Tây giáp xã Việt Xuân thuộc huyện Vĩnh Tường và xã Sơn

Đông huyện Lập Thạch.
Là xã nằm trên trục đường quốc lộ 2A và có tuyến đường sắt Hà Nội Lào Cai chạy qua đã tạo nên khả năng giao lưu, đi lại thuận tiện với các địa bàn
bên ngồi.
Với vị trí quan trọng như vậy, Yên Lập có điều kiện thuận lợi để giao lưu
văn hóa, đặc biệt là trao đổi buôn bán với nhiều địa phương, vùng miền khác rất
thuận lợi. Chính vì vậy trong giai đoạn hiện nay n Lập có những thuận lợi to
lớn trong cơng cuộc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phịng.
2.1.2. Địa hình, khí hậu
* Địa hình:
Xã n Lập có địa hình khá bằng phẳng, có độ cao trung bình tự nhiên
là 12,5m. Thấp dần về phía Nam (khu vực ven sông), hướng thấp dần từ Bắc
xuống Nam, độ dốc nền tự nhiên trung bình.
* Khí hậu


×