Tải bản đầy đủ (.docx) (134 trang)

Quản lý hoạt động giáo an toàn giao thông tại các trường tiểu học quận hai bà trưng thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 134 trang )

Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ LAN ANH

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
AN TOÀN GIAO THÔNG TẠI CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC
QUẬN HAI BÀ TRƯNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VÃN THẠC sĩ KHOA HQC GIÁO DỤC

HÀ NỘI - NĂM 2016


QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
AN TOÀN GIAO THÔNG TAI CÁC TRƯỜNG TIỂU HOC
• •

QUẬN HAI BÀ TRƯNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VÃN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 60 14 01.14

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS.BÙI MINH HIỀN

HÀ NỘI-NĂM 2016


LỜI CÁM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu, hoàn thiện luận văn này, tác giả đã nhận được sự
động viên, khuyến khích và tạo điều kiện giúp đỡ nhiệt tình từ thầy cô, đồng nghiệp và bạn


bè.
Trước hết, tác giả xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS - TS Bùi

Minh Hiền, người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo, định hướng, giúp đỡ tác giả
trong suốt quá hình nghiên cứu, thực hiện luận văn này.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với các Giáo sư, Tiến sĩ, các thày giáo
cô giáo trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2; các thày cô trong Hội đồng khoa học đã trực
tiếp giảng dạy, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu!
Tác giả xin chân thành cảm ơn các đồng chí trong ban lãnh đạo, cán bộ chuyên viên
Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội; Phòng Giáo dục và Đào tạo quận Hai Bà Trưng; xin cảm ơn
Ban giám hiệu, giáo viên, các em học sinh một số trường tiểu học quận Hai Bà Trưng và bạn
bè, đồng nghiệp đã động viên giúp đỡ, tạo mọi điều kiện, cung cấp và chia sẻ những tư liệu
cần thiết cho tác giả trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Tuy đã rất cố gắng, song luận văn vẫn không tránh khỏi những hạn chế, rất mong các
thày cô giáo, các nhà khoa học, các anh chị em đồng nghiệp đóng góp ý kiến để tác giả hoàn
thiện hơn nữa trong những nghiên cứu tiếp theo.
Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Thị Lan Anh
Tôi XŨ1 cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thục


LỜI CÁM ƠN
và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc
thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ
rõ nguồn gốc
Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2016
Tác giả


Nguyễn Thị Lan Anh


1.

ATGT

An toàn giao thông

CB

Cán bộ

3.

CBQL

Cán bộ quản lý

4.

CSYC

Cơ sở vật chất

5.

GD

Giáo dục


GD ATGT

Giáo dục an toàn giao thông

GD & ĐT

Giáo dục và đào tạo

GT

Giao thông

GV

Giáo viên

GVCN

Giáo viên chủ nhiệm

GS.TS KH

Giáo sư. Tiến sĩ khoa học

HS

Học sinh

13.


HT

Hiệu trưởng

14.

HĐGDATGT

Hoạt động giáo dục an toàn giao thông

15.

PHT

Phó hiệu trưởng

16.

TNGT

Tai nạn giao thông

2.

6.
7.
8.
9.
10.

11.
12.


MỤC LỤC

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Bảng 2.1. Các trường Tiểu học được khảo sát trên địa bàn quận Hai Bà Trưng ...46

Bảng3.2. Đánh giá kết quả đánh giá sự càn thiết, tính khả thi của các biện pháp... 108


7
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trên phạm vi toàn cầu, tai nạn giao thông (TNGT) là một trong những nguyên nhân
gây tử vong nhiều nhất cho con nguời. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và
Ngân hàng thế giới (WB) thì mỗi năm, thế giới có hơn 1,2 triệu người chết vì tai nạn giao
thông đường bộ và khoảng 50 triệu người khác bị thương trong các tai nạn đó. Theo WHO, “ở
các quốc gia đang phát triển, tình trạng an toàn giao thông ngày càng trở nên tồi tệ hơn do đô
thị hóa diễn ra nhanh chóng và không có kế hoạch. Cơ sở hạ tầng yếu kém, hệ thống quy
phạm pháp luật còn nhiều thiếu sót khiến các vụ tai nạn giao thông tăng lên theo cấp số nhân”.
Hai cơ quan này cảnh báo, nếu chính phủ các nước không có biện pháp ngăn chặn tình trạng
này thì đến năm 2020, tai nạn giao thông sẽ đứng thứ ba trong các nguyên nhân gây tử vong ở
người. Cùng với đó là những thiệt hại khổng lồ về kinh tế, bao gồm: chi phí giải quyết hậu
quả cho người mất, chi phí y tế cho người bị thương, thiệt hại về phương tiện giao thông, về
hạ tầng, chi phí khắc phục, điều tra vụ TNGT đó cùng với thiệt hại do hao phí thời gian lao
động của chính người bị tai nạn và cả của những người chăm sóc người bị nạn. Mặt khác

TNGT gây nên những tác động tâm lý cả trước mắt cũng như về lâu dài đối với mọi người, nó
để lại nhũng di chứng về tâm lý hết sức nặng nề cho người bị tai nạn, người thân của họ và
nếu như trong một địa phương, một quốc gia xảy ra TNGT quá nhiều sẽ gây nên hiện tượng
bất an cho cư dân ở đó.
Tại nước ta, theo số liệu của Tổng cục thống kê, năm 2012 có 36.376 vụ tai nạn giao
thông, năm 2013 có 29.385 vụ tai nạn, năm 2014 có 25.322 vụ tai nạn và gần 9000 người
chết. Năm 2015, tính đến hết tháng 8, ừên địa bàn cả nước đã xảy ra 14.622 vụ tai nạn giao
thông, bao gồm 6702 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 7920 vụ va chạm giao
thông, làm 5821 người chết, 3823 người bị thương và 9411 người bị thương nhẹ. Riêng về trẻ
em lứa tuổi tiểu học, theo thống kê của Bộ Y Tế, mỗi năm có khoảng 1900 em tử vong vì tai
nạn giao thông, chiếm 24-26% tổng số trẻ em tử vong do tai nạn thương tích. Trong đó, tai
nạn tại nội thành các thành phố chiếm 68% trên cả nước. Theo ông Jeffery Kobza, Quyền
Trưởng Đại Diện của WHO tại Việt Nam cho biết: “Thương tích và tử vong do tai nạn giao
thông đường bộ là một vấn đềy tế ngày càng đáng quan tâm. Tai nạn giao thông đường bộ là


8
nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trẻ em từ 10 đến 19 tuổi ở Việt Nam, lẩy đi khoảng 2,000
mạng sống mỗi năm ”
Trước tình hình thực tế tai nạn giao thông ngày càng gia tăng, Chính phủ đã ban hành
nghị quyết số 32/2007/NQ-CP về một số giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế tai nạn giao
thông và ùn tắc giao thông đề ra nhiều việc làm thiết thực nhằm hạn chế tối đa hoặc có thể
giảm đi những đau thương và mất mát thiệt hại về người cũng như tài sản làm ảnh hưởng đến
sự phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên, việc thực hiện ATGT hiện nay vẫn còn gặp
nhiều khó khăn và thách thức như: tiến độ xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng giao thông
còn rất chậm so với tốc độ gia tăng số lượng phương tiện giao thông cá nhân; việc quản lý
phương tiện giao thông cá nhân chưa thật hiệu quả; Sự kiểm soát về gia tăng phương tiện giao
thông cá nhân vẫn còn nhiều gian nan vì nhu cầu sử dụng ngày càng cao trong khi hạ tầng
giao thông chưa đồng bộ; đặc biệt, việc thực hiện các quy định, quy chế giao thông của người
dân vẫn chưa thật sự tự giác, nghiêm túc, việc tuyên truyền, giáo dục ý thức giao thông rất

khó cập nhật đến từng người dân trong khu vực, địa bàn,...
Từ hiện trạng trên, tác giả xác định thấy một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu
để góp phần thực hiện ATGT là giáo dục ý thức cho người tham gia giao thông ngay từ khi
còn ngồi trên ghế nhà trường. Từ nhiều năm nay, Bộ giáo dục và Đào tạo phối họp với Bộ
Công an, ủy ban an toàn giao thông quốc gia đã chỉ đạo việc giảng dạy giáo dục an toàn giao
thông lồng ghép trong các tiết học chính khóa và tổ chức các buổi ngoại khóa nhằm đưa nội
dung chương trình giáo dục an toàn giao thông, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền
phổ biến giáo dục pháp luật ưật tự an toàn giao thông học đường cho tất cả học sinh sinh viên
các bậc học nói chung và bậc tiểu học nói riêng, nhằm góp phần nâng cao ý thức tôn trọng,
chấp hành nghiêm về luật giao thông, biết tự bảo vệ tính mạng, tài sản kinh tế cho chính các
em, gia đình và xã hội. Việc giáo dục cho trẻ em thiếu niên nhi đồng hiểu rõ về luật giao
thông, xây dựng thói quen có ý thức tốt trong việc chấp hành luật giao thông là hết sức cần
thiết. Ngay từ khi còn nhỏ, ở lứa tuổi tiểu học, các em được học một số kiến thức về luật giao
thông sơ khởi, giúp các em tham gia giao thông cùng gia đình hay tự bản thân tham gia giao
thông bằng phương tiện thô sơ (xe đạp) hoặc đi bộ, hiểu rõ về các chỉ dẫn của biển báo để
thực hiện cho đúng và không bị ảnh hưởng bởi tai nạn giao thông. Tuy nhiên, thách thức mức


9
độ cao nhất trong việc giáo dục an toàn giao thông hiện nay là vấn đề thực thi an toàn giao
thông theo luật pháp và sự kêu gọi ý thức giao thông của nhà nước đối với toàn xã hội. Yí dụ
nhức nhối là việc tự đội mũ bảo hiểm và đội mũ bảo hiểm cho trẻ em, việc đơn giản mà rất
phức tạp này còn phụ thuộc vào văn hóa gia đình, sự giáo dục của gia đình đối với học sinh.
Thành phố Hà Nội nói chung và địa bàn quận Hai Bà Trưng nói riêng hiện nay, dưới
tác động của sự phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch tổng thể đô thị vẫn chưa đáp ứng được
vấn đề nhu cầu giao thông... Nhìn tổng thể, cơ sở hạ tầng của giao thông Thủ đô còn kém,
diện tích dành cho giao thông chỉ chiếm 4%, ý thức của người dân khi tham gia giao thông
chưa cao dẫn đến số vụ tai nạn giao thông còn khá lón. Theo số liệu mới nhất của Cục thống
kê thành phố Hà Nội, tính đến hết tháng 8/2015, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 1.144 vụ tại
nạn giao thông, làm 392 người chết và 940 người bị thưong.

Thực tế trong những năm gần đây, Hà Nội và quận Hai Bà Trưng đã có nhiều biện
pháp nhằm hạn chế tình trạng tai nạn giao thông như: đẩy mạnh công tác tuyên huyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật về trật tự, an toàn giao thông; quản lý lòng đường, vỉa hè, bán hàng
rong, bảo đảm mỹ quan đô thị, mở rộng đường, hạn chế xe mô tô, tăng cường tuyên truyền và
bắt buộc mọi người thực hiện đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông, tổ chức đi làm lệch
ca, tăng cường di chuyển bằng phương tiện xe buýt, cầu vượt; tuyên huyền thực hiện “văn hóa
giao thông”, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh cho các tàng lớp nhân dân... Tuy
nhiên, tai nạn giao thông vẫn là một vấn đề gây nhức nhối cho toàn xã hội. Tình hạng phóng
nhanh, vượt ẩu vẫn tăng, lạng lách vẫn nhiều, các điểm ùn tắc giao thông vẫn chưa giảm, thực
hiện đội mũ bảo hiểm cũng chỉ nhằm đối phó với cảnh sát giao thông... Bên cạnh đó, các hoạt
động bảo đảm ATGT thường chỉ tập trung vào các đợt cao điểm; nội dung tuyên truyền phổ
biến giáo dục pháp luật về ATGT chưa sát với thực tế, hình thức còn thiếu sáng tạo...
ATGT cũng đã được đưa vào hoạt động giáo dục, song song và trở thành môn học của
chung ở các trường Tiểu học quận Hai Bà Trưng. Nhà trường cũng theo chỉ thị các cấp và
thực hiện việc tuyên truyền GDATGT trong nội bộ cũng như tới các lực lượng giáo dục khác.
Các hoạt động ngoại khóa cũng được quan tâm kết hợp với giáo dục ATGT để góp phần giáo
dục ý thức cho các em học sinh. Tuy nhiên, việc GDATGT và quản lý hoạt động GD ATGT
trong nhà trường còn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức, các hoạt động triển khai c cn


1
0
mang tính hh nh thức, chưa thể hiện tính liên tục, dài hơi và quyết liệt; việc phối kết họp với các
lực lượng giáo dục còn thiếu đồng bộ,... Chính vì vậy, hiệu quả đạt được trong công tác GD
ATGT trong các nhả trường chưa cao.
Từ những vấn đề thực tiễn trên cho thấy, Giáo dục an toàn giao thông và quản lý hoạt
động GD ATGT trong nhà trường tiểu học là một công việc hết sức quan trọng, hết sức thiết
thực và lâu dài, nhằm giáo dục thế hệ trẻ trở thành những người có ý thức chấp hành nghiêm
túc Luật giao thông ngay từ lúc tuổi ấu thơ. Bản thân là một giáo viên và là cán bộ quản lý
nhà trường tiểu học, tác giả nhận thấy cần phải chuyên tâm tích cực nghiên cứu để tìm ra

những biện pháp quản lý cụ thể nhằm góp phần thực hiện giáo dục ATGT và quản lý giáo dục
ATGT đạt kết quả tốt. Mong muốn của tác giả là các em học sinh tiểu học được giáo dục triệt
để về ATGT, trong tâm trí các em luôn ý thức sâu sắc được sự cần thiết phải thực hiện nghiêm
túc luật giao thông, từ đó bản thân các em luôn thực hiện tốt các quy định về an toàn giao
thông, trở thành những người tham gia giao thông văn minh. Chính vì những lý do ữên tác giả
quyết định chọn đề tài: “QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC AN TOÀN GIAO THÔNG Ở
CÁC TRƯỜNG TIÊU HỌC QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI” làm luận văn
nghiên cứu trình độ Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục.

2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích đánh giá thực trạng quản lý hoạt động giáo
dục an toàn giao thông đường bộ trong các trường Tiểu học quận Hai Bà Trưng, đề xuất một
số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục ATGT, nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục ATGT ở các trường tiểu học trong địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành
phố Hà Nội.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý giáo dục an toàn giao thông trong trường
Tiểu học
- Khảo sát, đánh giá thực trạng giáo dục ATGT và quản lý giáo dục ATGT đường bộ
cho học sinh các trường tiểu học trên địa bàn quận Hai Bà Trưng
- Đồ xuất biện pháp quản lý giáo dục ATGT cho học sinh tiểu học ữên địa bàn quận
Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội


1
1
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiền cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu: Quản lý hoạt động GD ATGT ở các trường Tiểu học
4.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý giáo dục ATGT ở các trường tiểu

học quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
4.3. Phạm vi nghiên cứu:
- Khách thể điều tra: Cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh, CMHS tại các trường Tiểu
học trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
- Giới hạn: Giáo dục an toàn giao thông đường bộ
- Địa bàn nghiên cứu: 5 trường Tiểu học thuộc Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
- Thời gian nghiên cứu thực trạng: năm 2016
- Chủ thể biện pháp quản lý: Hiệu trưởng trường Tiểu học.

5. Giả thuyết khoa học
Quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh ở các trường Tiểu học
quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội hiện nay chưa thực sự đồng bộ và hiệu quả. Nghiên cứu
mức độ và nguyên nhân của thực trạng này sẽ đưa ra được những biện pháp quản lý hữu hiệu
góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục an toàn giao thông cho học sinh trong các trường Tiểu
học, từ đó bước đầu giáo dục cho học sinh có ý thức tự giác thực hiện tốt Luật giao thông
đường bộ và ứng xử văn hóa khi tham gia giao thông.

6. Phương pháp nghiền cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu các tài liệu khoa học có liên quan đến đề tài, các văn bản quản lý giáo
dục có liên quan đến trường Tiểu học, các văn bản hướng dẫn giáo dục ATGT, Nghị định của
Chính phủ, Luật giao thông đường bộ,...
- Tìm hiểu các tài liệu giáo dục an toàn giao thông và các giải pháp giáo dục an toàn
giao thông của các nước phát triển có hình thái giao thông gần giống nước ta.
- Nghiên cứu tài liệu bao gồm nghiên cứu lý thuyết liên quan đến vấn đề quản lý
giáo dục an toàn giao thông, cụ thể như: Khái niệm, vai trò, các thành phần và các bước giáo
dục an toàn giao thông; Các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề giáo dục giao thông.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn



1
2
6.2.1. Phương pháp thong kê
- Thu thập thông tin từ các thống kê, sao lưu của sở GTYT và các phòng ban An
toàn giao thông quận Hai Bà Trưng.
6.2.2. Phương pháp quan sát
- Quan sát hành vi giao thông của học sinh và CMHS tại các trưởng tiểu học trong
quận Hai Bà Trưng tại những địa điểm có phưomg tiện tham gia giao thông nhiều nhất và ít
nhất.
- Quan sát trực tiếp các tiết học và các hoạt động GD ATGT của lớp 1 đến
lớp 5.
6.2.3. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
- Lập các mẫu phiếu hỏi để điều ưa cán bộ quản lý, giáo viên, phụ huynh học sinh,
học sinh các trường Tiểu học quận Hai Bà Trưng.
6.2.4. Phương pháp phỏng vẩn
- Phỏng vấn trực tiếp một số Hiệu trưởng, giáo viên và CMHS trưởng tiểu học ưên
địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
6.2.5. Phương pháp chuyên gia
- Xin ý kiến chuyên gia, các nhà giáo có kinh nghiệm thực tế về các biện pháp đề
xuất.
6.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ
- Sử dụng phương pháp thống kê toán học và phần mềm SPSS để xử lý số liệu, lập
các biểu bảng,..

7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
chính của luận văn trình bày thành 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý giáo dục an toàn giao thông ở trường Tiểu học
Chương 2\ Thực trạng quản lý giáo dục an toàn giao thông ở các trường Tiểu học
thuộc quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội

Chương 3 : Biện pháp quản lý giáo dục an toàn giao thông tại các trường Tiểu

học trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội


NỘI DUNG
Chương 1. Cơ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC AN TOÀN GIAO THÔNG TRƯỜNG TIỂU HỌC

1.1.

Tổng quan nghiên cứu vấn đề

1.1.1.

Ở nước ngoài

Giáo dục có vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách học sinh. Các hoạt
động giáo dục diễn ra trong nhà trường có ý nghĩa và vai trò lớn lao trong việc định hình tư tưởng,
xây dựng lý tưởng, đạo đức, văn hóa, lối sống, pháp luật cơ bản cho trẻ. Chính vì vậy, việc giáo dục
an toàn giao thông ngay từ khi trẻ còn ngồi trên ghế nhà trường là việc làm vô cùng cần thiết, mang
lại hiệu quả cao.
Tại Hội nghị cấp cao toàn cầu về ATGT đường bộ lần thứ 2, 130 quốc gia thành viên Liên
Hiệp Quốc vừa thông qua Tuyên bố Brazil về An toàn giao thông (ATGT) đường bộ trên thế giới.
Tuyên bố Brazil đặc biệt nhấn mạnh đến việc giáo dục, nâng cao nhận thức của người dân khi tham
gia GT như việc tuân thủ quy định pháp luật của nước sở tại, giáo dục ý thức bảo vệ cá nhân khi
tham gia giao thông.
Nhật Bản: Đe có ngày hôm nay thì Nhật Bản cũng đã từng có tình trạng giao thông rất lộn
xộn. Và một trong những giải pháp được Nhật Bản rất chú trọng đó là công tác giáo dục an toàn giao
thông. Chính quyền Nhật Bản xác định đây là nhiệm vụ của toàn xã hội, đòi hỏi người dân phải

nghiêm túc tự giác thực hiện và liên tục duy trì. Công tác giáo dục ATGT còn được Nhật Bản tập
trung ngay từ bậc tiểu học và áp dụng song song với tình hình thực tế. Chẳng hạn, tại thành phố
Kyoto, nơi có mật độ sử dụng xe đạp trong giới học sinh tiểu học tương đối cao, các em học sinh
phải tham gia một khỏa huấn luyện về ATGT mới được cấp chứng chỉ sử dụng xe đạp. Các hoạt
động tuyên truyền về giao thông ở Nhật Bản thu được hiệu quả một phần nhờ gắn liền với thực tiễn.
Giáo dục trong trường học, gia đình, các tổ chức xã hội, thông qua đài phát thanh, truyền hình, báo
chí với nội dung phù họp với từng lứa tuổi. Nhờ vậy, tình trạng giao thông của Nhật Bản đã thay đổi
theo hướng tích cực và trở thành một trong những quốc gia có hệ thống ATGT nhất trên thế giới.
USA: Người dân Mỹ có ý thức rất cao khi tham gia giao thông, họ chấp hành luật rất nghiêm
chỉnh mà không cần đến sự tác động của cảnh sát. Các mục tiêu an toàn đường bộ đã được bao gồm


trong các văn bản chính thức của các Mục tiêu Phát triển bền vững mới được thông qua bởi các quốc
gia thành viên Liên Hợp Quốc tại New York. Ke hoạch giáo dục phổ biến an toàn giao thông mới
(vừa được thông qua tại hội nghị thượng đỉnh Newyork tháng 12/2015) được triển khai đến toàn
người dân. Trong đó, chú ý cao đến sự tham gia giao thông của trẻ em, người cao tuổi và người
khuyết tật.

Russian: (theo CNN) Năm 2015, Hội Chữ thập đỏ Nga (RRC) đã có những tiến bộ đáng kể
trong nỗ lực của họ với chính phủ Nga để tăng cường các quy định về bảo trợ trẻ em tại Liên bang
Nga. Trong tháng tư, ủy ban Nhân quyền của Tổng thống (HRC) đã trở thành một người ủng hộ
quan họng của công việc của RRC. Mối quan hệ này rất quan họng để thúc đẩy mục tiêu của RRC
về quản lý và giáo dục trẻ em & học sinh về ATGT.

Đức: Trường học an toàn giao thông tại Đức được áp dụng nhằm nâng cao hiểu biết cộng
đồng về an toàn giao thông thông qua việc giáo dục trẻ em. Mục đích là dạy trẻ em cách ứng xử giao
thông tốt hơn. Biện pháp này được áp dụng từ năm 1949 với sự hợp tác của công ty Shell Đức, các
nhà chức trách giáo dục và cảnh sát. Giáo dục lý thuyết dựa trên các luật giao thông và các hành vi
ứng xử được bổ sung bằng các bài tập thực hành trong khu vực học tập, thường tại sân trường hoặc
một khu vực gần đấy. Tuy nhiên điều quan trọng được đặt trên hết lại là việc đào tạo và kiểm ừa các

em trong vị trí là những người đi xe đạp. Giáo dục giao thông đường bộ tại Đức là phần chính thức
trong giáo dục trường học, bao gồm trong chương trình giảng dạy của năm thứ ba và năm thứ tư.
Công ty Shell cung cấp xe đạp, mũ bảo hiểm, các biển báo giao thông cho trẻ em tại những trường
giao thông, phối hợp cùng với cảnh sát và các nhà chức trách giáo dục, cùng thúc đẩy chương trình
giáo dục giao thông.

1.1.2.

Ở Việt Nam

Việt Nam là một nước đang phát triển. Xét ừên phương diện ATGT cả nước trong 10 năm
trở lại đây, tai nạn giao thông nói chung và đường bộ nói riêng có tỉ lệ hàng năm giảm dần, nhưng
con số giảm còn rất nhỏ so với số người chết và bị thương. Vừa qua, theo ban ATGT quốc gia, Hội
nghị tổng kết 5 năm công tác bảo đảm TTATGT giai đoạn 2011-2015 và định hướng giai đoạn
2016-2020 tại Hà Nội ngày 8/12/2015 cho thấy, công tác đảm bảo trật tự ATGT đã trở thành phong
trào thi đua của các địa phương, giữa các địa phương, như một hiệu ứng dây chuyền của cả xã hội để
kéo giảm TNGT. Kết luận hội nghị, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch ủy ban


An toàn giao thông Quốc gia đánh giá, năm 2015 dù giảm cả 3 tiêu chí về tai nạn giao thông nhưng
còn nhiều bất cập, phức tạp, nhiều vụ tai nạn giao thông chết người, số người chết vẫn còn lớn.
“Một đất nước mà để chết tới 9.000 người/nãm vì tai nạn giao thông là vẫn còn rất cao. Chúng ta
phải giảm hơn nữa sổ người chết vì tai nạn giao thông, tiếp tục kéo giảm ùn tắc tại các thành phổ
lớn Thành phố Hồ Chỉ Minh và Hà Nội. Bên cạnh giáo dục chỉnh trị tư tưởng trong từng đoàn thể,
gia đình, người dân thì tăng cường xử phạt, xử lý nghiêm vi phạm rất quan trọng răn đe". Ngoài ra,
Phó Thủ tướng cũng đề nghị các địa phương đều phải tổ chức đánh giá tìm biện pháp căn cơ để toàn
quốc kéo giảm số người chết tai nạn giao thông xuống 5.000 người trong giai đoạn 2016-2020.
Như vậy, vấn đề ATGT hiện nay theo mục tiêu đặt ra là vô cùng cấp thiết. Các chiến lược
giáo dục ATGT cần triển khai hàng loạt để giáo dục ý thức đến người tham gia giao thông, đặc biệt
là trong công tác giáo dục ý thức cho thế hệ trẻ trong các nhà trường.

Đại hội toàn quốc lần XI đã xác định nhiệm vụ của Giáo dục và đào tạo là: ”Nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cẩu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy học. Thực hiện:
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, chẩn hưng nền giáo dục Việt Nam ". Từ đó cho thấy, giáo dục
là truyền thụ kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm và bồi dưỡng năng lực sáng tạo. Và giáo dục về chấp
hành pháp luật là vấn đề xuyên suốt trong quá trình thực hiện giáo dục. Trong đó, giáo dục ý thức
chấp hành an toàn giao thông chính là một phần của việc giáo dục ý thức trách nhiệm đối với bản
thân, gia đình và xã hội của mỗi người. Giáo dục an toàn giao thông trong điều kiện kinh tế xã hội
khoa học kỹ thuật ngày nay cần và rất càn được áp dụng triệt để cho trẻ em từ cấp tiểu học, mục đích
để những ý thức giao thông của các em hình thảnh từ nhỏ, ăn sâu vào tâm trí các em mỗi khi tham
gia giao thông.
Đối với bậc tiểu học là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, việc giáo dục an
toàn giao thông cần được đặc biệt quan tâm và có nhiều ưu thế thuận lợi: học sinh tiểu học dễ dàng
tiếp nhận và hình thành ý thức, thái độ, hành vi tốt về ATGT nếu công tác này tổ chức một cách sinh
động phù họp với đặc điểm lứa tuổi của các em. Yì vậy GDATGT là một nội dung không thể thiếu
trong công tác quản lý nhà trường của người hiệu trưởng trường tiểu học trong bối cảnh hiện đại
hoá, đô thị hoá ngày càng phát triển như hiện nay. Hiện nay chương trình GD ATGT đã được vào
giảng dạy trong nhà trường Tiểu học, tuy nhiên chỉ là một môn học bổ sung vì vậy sự quan tâm của
các nhà trường, của chính các GY chưa đúng mức, dẫn đến việc GD này không đủ để ý thức dần vào


học sinh vì quá trình giáo dục nào cũng phải thường xuyên và đồng bộ. Do vậy những người hiệu
trưởng các trường tiểu học cần phải coi đây là một nội dung quan trọng trong công tác nhà trường để
góp phần giải quyết tận gốc vấn nạn giao thông hiện nay.
Như vậy, việc ra đời chương trình giáo dục an toàn giao thông và tìm những biện pháp có
hiệu quả, khả thi để chương trình này đi vào cuộc sống là một việc làm cấp bách và cần thiết. Trong
những năm gần đây, các Nghị định của Chính phủ, các công văn, văn bản, kế hoạch của Bộ
GD&ĐT, UBND Thành phố Hà Nội, Sở GD&ĐT Hà Nội và một số công trình nghiên cứu đã được
phổ biến rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng nhằm góp phần nâng cao ý thức tham gia giao
thông cho người dân và đặc biệt là thanh niên, học sinh, đó là :
- Nghị định số 32/2007/NQ-CP của Chính phủ về một số giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế

tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông.
- Chỉ thị số 52/2007/CT-BGDĐT ngày 31/8/2007 về tăng cường công tác giáo dục an toàn
giao thông trong các cơ sở giáo dục và đào tạo.
- Kế hoạch liên tịch số 9337/KHLT/BGDĐT-BCA- BGTVT -TWĐTN- ĐTHVN ngày
4/9/2007 giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ
Công an, TW Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Đài Truyền hình Việt Nam về tăng cường công tác tuyên
truyền, giáo dục, xử lý các vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông trong học sinh, sinh viên.
- Tài liệu cuộc vận động: “Học sinh, sinh viên gương mẫu thực hiện và vận động gia đình
chấp hành nghiêm túc luật giao thông” trong toàn ngành giáo dục từ năm học 2007-2008;
- Quy chế học sinh, sinh viên các trường đào tạo tại Quyết định số 42/2007/QĐ-BGDĐT
ngày 13/8/2007, trong đó quy định: đua xe hoặc cổ vũ đua xe trái phép là một trong những hành vi
học sinh, sinh viên không được làm và học sinh, sinh viên vi phạm quy định về trật tự ATGT bị xử
lý từ khiển trách đến buộc thôi học.
- Đề cương tuyên truyền, phổ biến Luật giao thông đường bộ cho HSSV theo chủ đề năm
2009 (QĐ 3442/QĐ-BGDĐT ngày 12/5/2009);
- Nghị quyết 88/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 24 tháng 8 năm 2011 về tăng cường
thực hiện giải pháp trọng tâm bảo đảm ưật tự an toàn giao thông.
- Ke hoạch số 33/KH-BGDĐT ngày 16 tháng 1 năm 2012 của Bộ giáo dục và Đào tạo về
việc thực hiện công tác giáo dục an toàn giao thông trong trường học hưởng ứng Năm an toàn giao


thông 2012.
- Chỉ thị số 14 - CT/TU ngày 12/12/2012 của Thành ủy Hà Nội “về tiếp tục tăng cường,
nâng cao hiệu quả các biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường
thủy và giảm ùn tắc giao thông; quản lý lòng đường, vỉa hè và bán hàng rong trên địa bàn thành phố
Hà Nội”
- Nghị quyết 17/2012/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội về chương
trình mục tiêu chống ùn tắc giao thông trên địa bàn Thành phố giai đoạn 2012-2015
- Hướng dẫn số 66 -HD/BTGTU ngày 27 tháng 2 năm 2013 của Ban tuyên giáo Thành ủy
Hà Nội về việc hướng dẫn tuyên truyền đảm bảo trật tự an toàn giao thông trên địa bàn thành phố Hà

Nội.
- Công văn số 5820/BGDĐT - CTHSSV ngày 23 tháng 8 năm 2013, Bộ Giáo dục và Đào
tạo chỉ đạo các Sở Giáo dục và Đào tạo Tăng cường triển khai
công tác giáo dục an toàn giao thông đầu năm học 2013 - 2014.
- Kế hoạch số 19 KH/BGDĐT, ngày 15 tháng 1 năm 2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo gửi các
Sở Giáo dục và Đào tạo Ke hoạch thực hiện công tác giáo dục an toàn giao thông trong trường học
năm 2014.
- Công vãn số 4339/ BGDĐT-CTHSSY ngày 15 tháng 8 năm 2014 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo về việc tăng cường công tác giáo dục ATGT đầu năm học 2014-2015.
- Kế hoạch số 704/KH-BGDDT ngày 12 tháng 8 năm 2015 của Bộ Giáo dục và Đào tạo
ban hành về việc triển khai công tác giáo dục pháp luật về an toàn giao thông năm học 2015-2016
trong toàn ngành giáo dục.
- Công văn số: 3124/UBND-XDGT về việc rà soát, chấn chỉnh công tác quản lý, giám sát
đảm bảo trật tự ATGT, an toàn lao động, phòng chống cháy nổ và YSMT khi thi công Dự án tuyến
đường sắt đô thị.
- Công văn số 10219/SGD&DT-HSSV về việc nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức- lối
sống thông qua việc thực hiện pháp luật đảm bảo việc trật tự ATGT cho học sinh.
- Công văn số 9417/SGD&DT-HSSV về việc tổ chức chuyên đề giáo dục ATGT cho HSSV
năm học 2015-2016
- Công văn số 5060/SGD&ĐT-HSSV về việc hưởng ứng Tuần lễ an toàn giao thông đường
bộ lần thứ 3 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm 2015
- Công văn số 5356/SGD&ĐT-GDTH Bộ học liệu giáo dục pháp luật trong trường Tiểu


học.
- Văn bản hướng dẫn đầu các năm học và trong các đợt cao điểm về bảo đảm an toàn giao
thông như thi tuyển sinh, Tết Nguyên đán, ...; Chỉ đạo tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn thực
hiện các tiêu chí Văn hóa giao thông đối với từng cấp học; chỉ đạo đưa công tác giáo dục ATGT
lồng lồng ghép trong triển khai thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực”.

- Các luận văn nghiên cứu:
Nguyễn Thị Thanh Vân: Biện pháp quản lý giáo dục an toàn giao thông của Hiệu trưởng các
trưởng tiểu học quận Đống Đa thành phố Hà Nội, năm 2008.
Cao Thanh Nga: Quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông ở các trường
THPT nội thành Hà Nội, năm 2010.
Nguyễn Văn Hùng: Biện pháp quản lý giáo dục pháp luật cho sinh viên tại trường Đại học
Tây Bắc, năm 2010.
Với cương vị là hiệu trưởng - người quản lý trường tiểu học, tác giả nhận thấy rất rõ tầm
quan trọng của việc giáo dục an toàn giao thông ừong nhà trường Tiểu học. Vì vậy, để nâng cao chất
lượng của việc giáo dục an toàn giao thông và hiệu quả giáo dục toàn diện cho học sinh, người quản
lý cần có những biện pháp quản lý giáo dục an toàn giao thông sâu sát và phù hợp với t ình hình kinh
tế xã hội quy hoạch đô thị và ý thức giao thông của người tham gia giao thông trong khu vực. Nếu
quản lý tốt hoạt động giáo dục an toàn giao thông thì cũng là góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện, đây là vấn đề mang tính tương tác của những biện pháp mà trong đó giáo dục an toàn giao
thông là một mảng không thể tách rời.

1.2.

Các khái niệm Cff bản

1.2.1.

Quản lý

Thuật ngữ "Quản lý" lột tả bản chất hoạt động điều khiển các hoạt động của một tổ chức
nhằm đạt tới mục tiêu. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Quản lý là trông coi, giữ gìn theo những yêu cầu
nhất định” hoặc “Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định.”
[35].
Trong thực tiễn, đã có nhiều cách hiểu và biểu đạt về khái niệm quản lý, tuỳ theo mục đích
tiếp cận khác nhau của mỗi tác giả.

Theo sự phân tích của K.Mác thì "Bất cứ nơi nào cỏ lao động, nơi đó có quản lý" . Trong
tác phẩm: "Những vẩn đề cốt yểu của quản ỉý" tác giả Harold Kontz viết "Quản lý là một hoạt động


thiết yểu, nó đảm bảo phổi hợp những nỗ lực cá nhãn nhằm đạt được các mục đích của nhóm về
thời gian, tiền bạc và sự bất mãn cá nhân ử nhất" [22].
Hard Koont: "Quản lý là xây dựng và duy trì một môi trường tốt giúp con người hoàn thành
một cách hiệu quả mục tiêu đã định". Paul Hersey và Ken Blanc Hard: “Quản lý là quá trì nh cùng
làm việc và thông qua các cá nhân, các nhỏm cũng như các nguồn lực khác để hình thành các mục
đích tổ chức”.
Khái quát hơn các tác giả ở khoa Sư phạm - ĐHQGHN là Nguyễn Quốc Chí,
Nguyễn Thị Mỹ Lộc đưa ra quan niệm: "Quản lý là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý đến
đối tượng quản lỷ nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức".
Theo tác giả Trần Kiểm: "Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy
động phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phổi các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực)
trong và ngoài nước (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của to chức với hiệu
quả cao nhất".
Tóm lại, các định nghĩa trên tuy khác nhau về cách diễn đạt, về góc độ, tiếp cận nhưng đều
gặp nhau ở những nội dung cơ bản của khái niệm quản lý: Quản lý là hành động đưa các cá nhân
trong tổ chức làm việc cùng nhau để thực hiện, hoàn thành mục tiêu chung. Đó là quá trình tác động
có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý bằng việc vận dụng các chức
năng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng và cơ hội của tổ chức để đạt được mục
tiêu đặt ra. Theo những quan điểm phổ biến hiện nay, quản lí là một quá trình với các chức năng sau.
- Kế hoạch hóa: Kế hoạch hóa có nghĩa là xác định mục tiêu, mục đích của tổ chức và các
con đường, biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu, mục đích đó. Đây là chức năng đầu tiên của
hoạt động quản lí.
Sơ đồ 1.1. Quá trình quản lý


- Tổ chức: Tổ chức là quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ

phận trong tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng
thể của tổ chức.
- Lãnh đạo (chỉ đạo): Lãnh đạo bao hàm việc liên kết, liên hệ với người khác và động viên
họ hoàn thành nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức. Đây là chức năng kết nối hai
chức năng trên.
- Kiểm tra: Kiểm tra là hoạt động theo dõi, giám sát các thành quả hoạt động và tiến hành
những hoạt động sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết của cá nhân, nhóm hoặc một tổ chức.
Như vậy, quản lý bao giờ cũng có tính định hướng, có mục tiêu, có tổ chức, có tác động
tương ứng phù họp nhằm hướng dẫn điều khiển đối tượng quản lý để đạt đựoc những mục tiêu đề ra
một cách tối ưu nhất.
Từ đó có thể khái quát: “Quản lí là một dạng lao động đặc biệt nhằm gây ảnh hưởng, điều
khiển, phổi hợp lao động của người khác hoặc của nhiều người khác trong cùng tổ chức hoặc cùng
công việc nhằm thay đổi hành vi và ỷ thức của họ, định hướng và tăng hiệu quả lao động của họ, để
đạt mục tiêu của tổ chức hoặc lợi ích của công việc cùng sự thỏa mãn của những người tham gia

1.2.2. Quản lý giáo dục
Cũng như quản lí nói chung, quản lí giáo dục là hoạt động có ý thức của con người nhằm
theo đuổi những mục đích của mình, về thuật ngữ “quản lý giáo dục” cũng có nhiều quan niệm khác
nhau. Sự thực, thuật ngữ này có 2 cấp độ chủ yếu: cấp vĩ mô và cấp vi mô. Quản lý cấp vĩ mô tương
ứng với việc quản lý một hoặc một loạt đối tượng có quy mô lớn, bao quát toàn bộ hệ thống. Nhưng


trong hệ thống này lại có nhiều hệ thống con, và tương ứng với hệ thống con này có hoạt động quản
lý, đó là quản lý vi mô. Tuy việc phân chia quản lý vĩ mô và quản lý vi mô chỉ là tương đối nhưng
giới nghiên cứu khoa học quản lý giáo dục thống nhất quy ước: quản lý giáo dục cấp vĩ mô là quản
lý một nền/ hệ thống giáo dục; còn quản lý giáo dục cấp vi mô xem như quản lý trường học hay tổ
chức giáo dục cơ sở.
* Đổi với cấp vĩ mô:
M.L.Kônzacôv cho rằng: “QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ỷ thức và hướng
đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đển tất cả các mắt xích của hệ thống nhằn mục đích

bảo đảm việc hình thành nhãn cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật
chưng của xã hội cũng như những qui luật của quá trình giáo dục, của sựphát triển thể lực và tâm lỷ
trẻ em” [23].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang thì: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có
mục đích, có kế hoạch, hợp quỵ luật của chủ thể quản lỷ (hệ giáo dục) nhằm làm cho hệ vận hành
theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tinh chất của nhà trường xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quả trình dạy học - giáo dục thể hệ trẻ, đưa hệ giáo dục
tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mói về chất”.
Theo tác giả Trần Kiểm, khái niệm quản lý giáo dục đối với cấp vĩ mô là: "QLGD được hiểu
là hệ thống những tác động tự giác, có ỷ thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật
của chủ quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, CMHS và các lực lượng XH
trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu GD của nhà trường"
[19].
Từ đây ta có thể khái quát QLGD là sự tác động chủ đích, có căn cứ khoa học, họp quy luật
và phù họp các điều kiện khách quan... của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm phát huy sức
mạnh các nguồn giáo dục, từ đó đảm bảo các hoạt động của tổ chức hệ thống giáo dục đạt được các
mục tiêu giáo dục đã đề ra với chất lượng, hiệu quả cao nhất.
Đổi với cấp vỉ mô, trong phạm vi nhà trưởng, hoạt động quản lý bao gồm nhiều loại, như
quản lý các hoạt động giáo dục: hoạt động dạy học, hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp), hoạt động
xã hội, hoạt động văn thể, hoạt động ngoại khóa,...; quản lý các đối tượng khác nhau: quản lý giáo
viên, học sinh, quản lý tài chính, quản lý cơ sở vật chất,...; quản lý (thực ra là tác động đến) nhiều


khách thể khác nhau: quản lý thực hiện xã hội hóa giáo dục, điều tiết và điều chỉnh ảnh hưởng từ bên
ngoài nhà trường, tham mưu với Hội Cha mẹ học sinh,...
Như vậy, ở góc độ vi mô, có thể hiểu quản lỷ giáo dục là hệ thống những tác động có mục
đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý vào hệ thống tổ chức giáo dục của nhà trường nhằm điều
khiển các thành tổ trong hệ thống phổi hợp hoạt động
theo đúng chức năng, đúng kế hoạch, đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt được mục đích,
mục tiêu đã xác định với hiệu quả cao nhất.

Từ những quan niệm trên, dù ở cấp vĩ mô hay vi mô, ta có thể thấy rõ các yếu tố của
quản lý giáo dục, đó là: chủ thể quản lý, phưomg pháp quản lý, công cụ quản lý, đối tượng bị
quản lý, khách thể quản lý và mục tiêu quản lý.
Các yếu tố này được thể hiện trong sơ đồ sau:

giáo dục là một phân hệ trong toàn bộ hệ thống xã hội. Chính vì thế mà QLGD cũng có các
chức năng như kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra. Đặc điểm khác biệt của QLGD là quản lí
con người với những đặc điểm tâm sinh lí, năng lực, phẩm chất, nhân cách đa dạng phức tạp.
Kết quả giáo dục không hoàn toàn phụ thuộc vào nhà giáo mà phục thuộc cả vào người học,
vào nhận thức và thái độ học tập của họ. Bởi người học vừa là đối tượng vừa là chủ thể của
hoạt động giáo dục. Sản phẩm của giáo dục là nhân cách con người, vì vậy không được phép
tạo ra phế phẩm. Ngoài ra QLGD phải phối kết hợp đồng bộ, chặt chẽ ba môi trưởng giáo
dục: gia đình -nhà trường - cộng đồng xã hội. Trong đó nhà trường giữ vai trò trung tâm và
có tính quyết định tới chất lượng GD.


1.2.3.

Quản lý nhà trường
Trường học là đơn vị cơ sở của tổ chức và hệ thống giáo dục, đồng thời là một dạng

của tổ chức trong xã hội. Yì vậy có thể hiểu quản lí trường học theo hai nghĩa cơ bản sau:
1. Đó là quản lí giáo dục tại cơ sở.
2. Đó là quản lí một tổ chức trong xã hội, và cụ thể là tổ chức giáo dục.
Theo nghĩa đầu, quản lí trường học lại có hai khía canh khác nhau nhưng
thống nhất với nhau mật thiết đến mức đôi khi khó phân biệt. Khía canh thứ nhất liên quan
đến các cấp quản lí chính quyền và chuyên môn thuộc các cấp trên của trường. Mỗi trường
học thực chất vẫn do các cấp nhà nước từ địa phương đến trung ương quản lí. Thủ tướng, bộ
trưởng, chủ tịch tỉnh, thành phố, chủ tịch huyện, quận, xã, phường đều là những chủ thể quản
lí trường học. Khi đó quản lí trường học do các cấp trên trường thực hiện. Yà đó là lí do ra

đời mô hình quản lí dựa vào trường học (School-based management).
Khi nói quản lí dựa vào trường học chính là bàn đến quản lí của các cấp trên trường,
chứ không phải bàn về chuyện quản lí nội bộ hay tự quản ở trường. Nhưng trường học còn
được quản lí bởi bộ máy bên trong trường do hiệu trưởng đứng đầu. Đó là quản lí trường học
tại cấp trường, hay quản lí bên trong trường. Thông thường quản lí trường học chỉ được hiểu
theo nghĩa này, mà khía cạnh thứ nhất hay bị lãng quên. Trên thực tế, quản lí trường học tại
cấp trường vừa có tính chủ động, độc lập tương đối tùy theo cơ chế phân cấp cụ thể, song
chính nó vẫn chịu sự chi phối và tác động quản lí của các cấp trên trường. Cả bộ máy quản lí
cấp trường hoàn toàn do các cấp trên trường bổ nhiệm hoặc bãi miễn.
Trên bình diện vi mô, quản lý giáo dục trong phạm vi nhà trường có thể xem là đồng
nghĩa với quản lý nhà trường. Quản lí giáo dục thực chất chỉ có giá trị khi đến được trường
học, cho dù nói về cấp quản lí nào. Quá trình giáo dục chỉ diễn ra ở trường, các hoạt động
giáo dục theo chương trình giáo dục chỉ diễn ra ở trường, chứ không phải ở bộ, tỉnh, huyện...
Quản lí giáo dục là quản lí hệ thống các trường học nằm ừong phạm vi quyền hạn của cấp
quản lí nhất định. Đồng thời quản lí trường học chính là quản lí giáo dục diễn ra tại cấp cơ
sở. Cho nên nội dung quản lí giáo dục nói chung và nội dung quản lí trường học đều như
nhau, chỉ khác nhau về qui mô mà thôi, bao gồm:
1. Quản lí tài chính giáo dục.


2. Quản lí cơ sở vật chất, hạ tầng kĩ thuật (tài sản vật chất).
3. Quản lí nhân sự (cán bộ, công chức, nhân viên, giáo viên, học sinh - tài nguyên con
người).
4. Quản lí chuyên môn (chương trình, hoạt động giảng dạy, hoạt động học tập, phát triển
nguồn nhân lực giảng dạy và quản lí, các hoạt động nghiên cứu và phát triển khác).
5. Quản lí môi trường (tự nhiên và văn hóa).
6. Quản lí các quan hệ giáo dục của ngành giáo dục với các thiết chế xã hội khác (Đoàn,
Đội, Công đoàn, các hội nghề nghiệp, các hội chính trị-xã hội, gia đình học sinh, cộng
đồng dân cư)
Trong mỗi nội dung quản lí này đều luôn có 2 mặt gắn liền với nhau là quản lí hành

chính sự vụ (Administration) và quản lí chất lượng (Quality Management).
Theo nghĩa một tổ chức, trường học được quản lí giống như mọi tổ chức khác, nhưng
có đặc điểm chuyên môn của mình là giáo dục. Bản chất của quản lí trường học lúc này là
gây ảnh hưởng, định hướng và phát triển tổ chức trường theo mục tiêu và giá trị đã định, dựa
trên việc xác định tầm nhìn, sứ mạng, nhiệm vụ chiến lược, huy động và sử dụng các nguồn
lực, tạo dựng tên tuổi (thương hiệu) và quản lí vãn hóa nhà trường.
Theo tác giả Trần Kiểm, quản lý nhà trường có thể xem là đồng nghĩa với QLGD ở
cấp vi mô. Quản lý nhà trường là một quá trình vận động của các thành tố tổ chức của nhà
trường. Hệ thống đó bao gồm các thành tố cơ bản là: Chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, nội
dung-phương pháp quản lý, mục tiêu quản lý. Các thành tố đó luôn vận động trong mối
tương tác lẫn nhau, đồng thời diễn ra trong sự chi phối, tác động qua lại với môi trường kinh
tế, chính trị, xã hội chung quanh mình. Tác động bên ngoài nhà trường gồm các cơ quan
QLGD cấp ừên, nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện giáo dục, dạy học nhà trường. Tác động
bên trong nhà trường là hoạt động của các chủ thể quản lý của chính nhà trường nhằm huy
động điều phối giám sát các lực lượng giáo dục của nhà trường thực hiện có chiến lược có
hiệu quả các nhiệm vụ dạy học và giáo dục đã đặt ra.
Theo tác giả Trịnh Thị Hồng Hà: “Quản lỷ nhà trường là quản lí giáo dục tại cấp cơ
sở trong đó chủ thể quản lí là các cấp chinh quyền và chuyên môn trên trường, các nhà quản
lỉ trong trường do hiệu trưởng đứng đầu, đổi tượng quản lí chỉnh là nhà trường như một tổ


chức chuyên môn-nghiệp vụ, nguồn lực quản lỉ là con người, cơ sở vật chẩt-ìã thuật, tài
chính, đầu tư khoa học-công nghệ và thông tin bên trong trường và được huy động từ bên
ngoài trường dựa vào luật, chỉnh sách, cơ chế và chuẩn hiện có. [13]
Theo tác giả Bùi Minh Hiền “Quản lý nhà trường là quá trình tác động mục đích, có
định hướng, có tính kế hoạch của các chủ thể quản lý (đứng đầu là hiệu trưởng nhà trường)
đến các đối tượng quản lý (giáo viên, cán bộ, nhân viên, người học và các bên liên quan) và
huy động sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả các nguồn lực nhằm thực hiện sứ mệnh của
nhà trường đổi với hệ thống giáo dục và đào tạo, với cộng đồng và xã hội nhằm thực hiện
mục tiêu giảo dục đẫ xác định trong một môi trường luôn luôn biển động.”[ 15.31]

Quản lý nhà trường ở Việt Nam là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm
vi trách nhiệm, đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo
dục, mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ .
Như vậy quản lý nhả trường là việc người hiệu trưởng xây dựng mục tiêu, kế hoạch,
tổ chức chỉ đạo thực hiện và kiểm tra đánh giá các kết quả đạt được so với yêu cầu và chuẩn
mực đề ra trong chưorng trình giáo dục và nhiệm vụ năm học về chất lượng, phát triển toàn
diện nhân cách học sinh.
Vì vậy có thể định nghĩa khái niệm quản lí trường học như sau: quản lí trường học là
quản lí giảo dục tại cấp cơ sở trong đỏ chủ thế quản lí là các cấp chinh quyền và chuyên
môn trên trường, các nhà quản lí trong rường do hiệu trưởng đứng đầu, đối tượng quản lí
chính là nhà trường như một tổ chức chuyên môn-nghiệp vụ, nguồn lực quản lí là con người,
cơ sở vật chẩt-lã thuật, tài chính, đầu tư khoa học-công nghệ và thông tin bên trong trường
và được huy động từ bên ngoài trường dựa vào luật, chinh sách, cơ chế và chuẩn hiện có.

1.2.4.

An toàn giao thông
Theo từ điển Tiếng Việt: “An toàn là đảm bảo tốt, không gây thiệt hại dù lớn hay nhỏ

về vật chất và tỉnh mạng của con người” [36]. An toàn giao thông là khái niệm luôn gắn liền
với hoạt động của con người trong lĩnh vực giao thông. Theo tác giả Đỗ Đình Hoà (Học viện
cảnh sát nhân dân) thì: “An toàn giao thông là sự việc đảm bảo không có những việc xảy ra
ngoài ỷ muốn chủ quan của con người. Khi các đối tượng tham gia giao thông, đang hoạt
động trên địa bàn giao thông công cộng tuân thủ các quy tắc an toàn giao thông, không có


×